Friday 10 August 2012

XE THỔ MỘ LÀ XE MỘT NGỰA (Cao Tự thanh)

XE THỔ MỘ LÀ XE MỘT NGỰA

Mình vốn hiếu kỳ (tò mò nói cho sang vậy mà), lang thang thấy thiên hạ bàn về chuyện nguồn gốc tên gọi “xe thổ mộ”, thấy nói chuyện văn chương mà chửi người khác phát … chướng, bèn nổi cơn … hiếu kỳ, hỏi bác Cao vốn từ lâu kính như huynh trưởng, đã được khai sáng thêm, nay góp thêm cho rộng đường dư luận về chuyện thổ mộ. Còn những chuyện bí mật về ông AC thì ông CTT không nói, nên không biết có gì bí mật trong cái tên An Chi không.
 May N mến,
Chuyện bạn hỏi thì buồn cười nhưng hơi zic zac, đại khái là thế này.
Cái entry ấy tôi viết hồi trước trên blog, lười tra từ điển nên viết qua loa không giải thích rõ ràng như viết báo viết sách. Đúng là độc mã Việt Hán phải thành Tục mã Hoa Hán giọng Quảng Đông chứ không phải T’ủ mỏ như tôi đã viết. AC nắm riết lấy chỗ hở ấy chê tôi không biết tiếng Quảng Đông thì kệ y, những kẻ nghiệp dư rất cần có những cái sai loại ấy để phô trương cái sai mà họ nghĩ là đúng. Bởi vì thổ mộ trong xe thổ mộ mà giải thích là là cái mộ đất như AC nếu không phải ngu dốt cũng là tào lao.
Thứ nhất, không phải bất cứ từ Hoa Hán nào được du nhập vào tiếng Việt cũng còn giống hệt như người Hoa đọc, ví dụ món giải khát mà người Triều Châu nói là xiên xáo (tiên thảo – cỏ tiên) qua tiếng Việt bị nói trại thành sương sáo, món thịt muối nhồi ruột heo mà người Quảng Đông nói là lạp xường qua tiếng Việt bị nói trại thành lạp xưởng vân vân. Thứ hai, không biết cái xe ngựa được gọi là xe thổ mộ ở Nam Kỳ đã xuất hiện từ bao giờ, nhưng chắc chắn là dưới thời Pháp thuộc từ 1862 đến 1945 và cả 1954 nó là một phương tiện kinh doanh vận chuyển phải đóng thuế, do đó phải được ghi nhận bởi người Pháp, tức bị đọc và viết trại qua tiếng Pháp và chữ latin. Bản thân chữ tục trong tục mã đọc theo giọng Quảng Đông cũng không hẳn như người Việt đọc, vì nó mang âm sắc kiểu giọng mũi. Tóm lại ở đây đã xuất hiện quá trình tôộc mã Quảng Đông chuyển thành T’ủ mỏ (hay một cái gì đó tương tự) trong tiếng Pháp rồi mới thành thổ mộ trong tiếng Việt, việc nó trùng âm với thổ mộ (mộ đất) trong từ Việt Hán hoàn toàn là ngẫu nhiên. Không phải bất cứ từ thổ nào trong tiếng Việt hiện nay cũng có ý nghĩa là thổ (đất) hay thổ (nôn mửa) trong từ Việt Hán, gái nhà thổ không thể hiểu là gái nhà đất hay gái nhà nôn mửa được, là ví dụ thế. Xã hội vốn phức tạp hơn ngôn ngữ, không thể truy nguyên từ ngữ đơn thuần theo con đường ngôn ngữ mà còn đầy sự suy diễn chủ quan như ông AC.
Tôi có vài tư liệu về việc thu thuế xe thổ mộ ở Sài Gòn – Chợ Lớn bằng tiếng Pháp trước 1945 trong đó xe thổ mộ được giải thích là xe một ngựa kéo nhưng nhất thời chưa thể tìm lại ngay được, khi nào có dịp viết sách viết báo sẽ đưa ra. Ở đây chỉ tạm đưa ra một chứng cứ mà bạn có thể kiểm tra.
Trong quyển Dictionnaire Vietnamien Chinois Francais, Saigon, 1957 của Eugène Gouin (Hội Truyền giáo Hải ngoại Paris) có vài từ liên quan tới vụ xe thổ mộ này được giải thích như sau:
Thổ mộ: Voiture trainée par un cheval (Saigon).
Xe độc mã: Voiture à cheval.
Xe ngựa: Voiture à cheval.
Xe song mã: Voiture à deux chevaux.
Xe thổ mộ: Coupé (voiture).
Tạm dịch:
Thổ mộ: Xe được kéo bằng một con ngựa (ở Sài Gòn).
Xe độc mã: Xe một ngựa.
Xe ngựa: Xe một ngựa.
Xe song mã: Xe hai ngựa,
Xe thổ mộ: Xe bốn bánh có mui kín (xe bốn bánh).
            Tóm lại đây là một trong những chứng cứ rõ ràng về việc xe thổ mộ là xe một ngựa, tức thổ mộ có liên quan với độc mã. Dĩ nhiên để cẩn thận thì còn phải tìm thêm trong ba phương ngữ Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam xem họ đọc từ độc mã này ra sao, nhưng tôi vẫn cho rằng nó là giọng Quảng Đông bị lệch đi qua tiếng Pháp và chữ viết latin.
Riêng chuyện ông AC ra sức chửi bới mỉa mai tôi không hề gì, tôi là dân chuyên nghiệp, không thèm hạ mình cãi cọ với đám người học hành không tới nơi tới chốn mà còn làm phách như y, với lại tôi không chơi blog lâu rồi. Hơn mười năm trước y đã hứng thú với chuyện mồ mả thì hiện nay nhiều tuổi hơn có hứng thú hơn cũng không phải lạ, chỉ là vụ xe thổ mộ = xe giống như cái mả đất của y quả là thuộc trường phái từ nguyên học dân gian bá láp, đúng là có tác dụng phi thường trong chuyện làm cho em cháu ngu đi.
CTT.

Bác ngữ học gia Phan Ngọc đã nâng cấp công trình của học giả Đào Duy Anh như thế nào? (Huệ Thiên / An Chi)

Bác ngữ học gia Phan Ngọc đã nâng cấp công trình của học giả Đào Duy Anh như thế nào?

by An Chi on Tuesday, July 10, 2012 at 1:26am ·
Huệ Thiên

Để «Khoa học hóa và hiện đại hóa công việc của thế hệ trước mà nâng công trình của Đào Duy Anh lên hàng từ điển ngữ văn theo quan điểm của ngôn ngữ học» (lời của Phan Ngọc), đến tết Bính Dần 1986 thì Phan Ngọc đã sửa chữa xong Từ điển Truyện Kiều theo giấy ủy nhiệm của tác giả Đào Duy Anh ký ngày 10 tháng 11 năm 1985. Chỉ tiếc rằng sách được sửa chữa xong trước khi Đào Duy Anh qua đời (1988) mà ở đầu sách lại không có lấy một lời nào của tác giả cho biết ông có hài lòng hay không, hoặc hài lòng đến mức nào về đứa con tinh thần mà mình đã phó thác cho người khác sửa chữa (còn tờ giấy ủy nhiệm nhưng không phải bút tích in ở đầu sách thì độc giả lại chẳng cần đến). Và cũng chỉ tiếc rằng những chỗ mà Phan Ngọc đã sửa chữa hoặc bổ sung thì lắm chỗ lại sai, đặc biệt là phần bổ sung về mặt từ nguyên. Dưới đây là một số dẫn chứng chọn lọc [1].
1. Phan Ngọc viết: «Áo khăn. Nghĩa đen là cái áo và cái khăn chít trên đầu. Nên nhớ người Trung Quốc đội mũ chứ không chít khăn, người Việt chít khăn. Cái khăn (chữ Hán là cân) là của phụ nữ dùng để quàng trên đầu chứ không phải để chít. Nguyễn Du dùng áo khăn để chỉ y phục nam giới là nhìn với con mắt Việt Nam, nói theo giọng Việt Nam» (BPN, tr. 31).
Trong Bg, Đào Duy Anh đã không giảng hai tiếng áo khăn. Toàn bộ lời giảng trên đây là do Phan Ngọc bổ sung. Chỉ tiếc rằng người sửa chữa đã nói oan cho Nguyễn Du khi khẳng định rằng tác giả Truyện Kiều «dùng áo khăn để chỉ nam giới là nhìn với con mắt Việt Nam, nói theo giọng Việt Nam»: Tàu tất đấy, từ «giọng» cho đến «con mắt». Xin hãy đọc Thanh Tâm Tài Nhân qua bản dịch của Nguyễn Khắc Hanh và Nguyễn Đức Vân, đoạn giới thiệu Sở Khanh: «Thúy Kiều nghe ngâm xong, ló đầu nhòm ra, thì thấy một gã thư sinh khăn lượt áo hoa (chúng tôi nhấn mạnh – HT), đương loanh quanh ngâm ngợi ở dưới chân lầu gần đó».[2] Sau đây cũng là đoạn đó, theo bản dịch của Tô Nam Nguyễn Đình Diệm: «Thúy Kiều nghe đoạn, ngoái cổ trông ra chỉ thấy một chàng thư sinh khăn áo dịu dàng (cũng chúng tôi nhấn mạnh – HT), đứng ở trước lầu bên cạnh, ra vẻ tưởng nhớ bâng khuâng» [3].
Vậy thật là sai lầm nếu cho rằng nam giới Trung Hoa không xài khăn. Nếu lại cho rằng Thanh Tâm Tài Nhân tả sai, thì xin hãy đọc những lời sau đây của các nhà nghiên cứu về văn hóa cổ Trung Hoa, đặc biệt là vào đời Minh: «Đời Minh, quan phục vẫn là khăn đầu (chúng tôi nhấn mạnh – HT) và áo bào cổ tròn. Nhưng bấy giờ khăn đầu sơn đen, ngắn và rộng, gọi là ô sa mạo (mũ lụa đen). Bọn thống trị nhà Minh đặt ra loại khăn «bình định bốn phương» và mũ «nhất thống lục hợp» để tỏ ý nền thống trị được củng cố. Loại khăn và mũ này dùng cho thư sinh (cũng chúng tôi nhấn mạnh – HT), nhà buôn và dân đô thị».[4] Còn sau đây là nói về đời Đường và đời Tống: «Người Tống ăn mặc rập khuôn theo người đời Đường, có thay đổi chút ít. Đời Đường quấn khăn trên đầu, khi buộc khăn, hai đầu múi hướng về phía trước buộc chặt tóc, rồi quấn ra sau đầu thắt một vòng, phần còn lại buông xuống tự nhiên(chúng tôi nhấn mạnh – HT)».[5]
Cũng do cách nhìn lệch trên đây, mà đối với cụm từ ăn mặc nâu sồng ở câu 2039, Phan Ngọc đã giảng như sau: «Nên chú ý lối ăn mặc nâu sồng không phải là lối ăn mặc của sư sãi Trung Quốc mà là lối ăn mặc của sư sãi Việt Nam» (BPN, tr. 32). Nhưng rất tiếc rằng ở đây Nguyễn Du chỉ dùng mấy tiếng «ăn mặc nâu sồng» theo hoán dụ để chỉ người tu hành chứ hoàn toàn không phải để miêu tả y phục cụ thể trên người Kiều khi nàng vừa xuất hiện tại am Chiêu Ẩn của vãi Giác Duyên sau khi trốn khỏi gác Quan Âm trong vườn nhà Hoạn Thư.
Vậy không thể nói Nguyễn Du đã mặc quần áo Việt Nam cho các nhân vật của Thanh Tâm Tài Nhân được.
2. Phan Ngọc viết: «Ban ngày. Gốc ở từ Khơme pêl là lúc, thngay là mặt trời. Ban ngày là lúc có mặt trời» (BPN, tr. 41).
Nhưng pêl lại là một từ Khmer (Khm.) gốc Sanskrit (Skt.), bắt nguồn ở danh từ velā, có nghĩa là giờ, khi, lúc, thời kỳ,... Mối quan hệ Khm. pêl < Skt. velā là một hiện tượng mà các tương ứng ngữ âm đập ngay vào mắt. Thứ nhất, giữa Khmer và Sanskrit, nguyên âm chính ở đây là một. Thứ hai, đã thành quy luật hiện tượng Khm. p < Skt. v:
– Khm. piêt (âm nhạc) < Skt. vādya;
– Khm. pianô (con khỉ) < Skt. vānara;
– Khm. pichây (sự chiến thắng) < Skt. vi-jaya;
– Khm. prưk (cây) < Skt. vŗkşa;
– Khm. pêch (lời nói) < Skt. vacas;...
Thứ ba, cũng là hiện tượng bình thường vì đã thành quy luật việc âm tiết thứ hai của từ Sanskrit đã rụng mất khi đi vào tiếng Khmer nhưng phụ âm đầu của nó thì trở thành âm cuối của âm tiết trước trong tiếng Khmer:
– Khm. chial (cái sọt) < Skt. jāla (lưới, phên);
– Khm. đôl (cái cân) < Skt. tulā;
– Khm. tial (cùn, lụt) < Skt. dalita;
– Khm. nil (xanh) < Skt. nīla;
– Khm. phal (diệp cày) < Skt. phāla; v.v... .
Vậy pêl là một từ Khmer gốc Sanskrit nên tất nhiên nó chẳng có liên quan gì đến từ ban trong ban ngàycủa tiếng Việt vì ban là một từ Việt gốc Hán hiển nhiên bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 班 mà âm Hán Việt hiện đại là... ban, có nghĩa là thứ tự trong không gian hoặc thời gian (Từ hải, nghĩa 3: thứ đệ dã; vị thứ dã).
Phan Ngọc còn khẳng định rằng bây trong bây giờ cũng do pêl của tiếng Khmer mà ra (xem BPN, tr. 46). Nhưng cũng như đối với ban, chính nguồn gốc Sanskrit của pêl đã loại trừ mối quan hệ giữa nó với từ bây của tiếng Việt. Cách đây hơn 45 năm, Phan Khôi đã chứng minh rằng bây là kết quả của một sự nói ríu hai tiếng bằng này, cũng như bấy của bằng ấy và bao của bằng nào [6]. Đây là một cách giải thích rất đáng tin vì có căn cứ vững chắc.
3. Phan Ngọc viết: «Bài bây. Từ gốc Khơme pai là cẩu thả, piây là hư hỏng, bài bây do đó có nghĩa là xấu xa» (BPN, tr. 40).
Chính Đào Duy Anh đã giảng rất đúng rằng bài bây là «trò liều lĩnh, trò vô sỉ» (Bg, tr. 25). Vậy câu «Lão kia có giở bài bây» có nghĩa là nếu lão kia (chỉ Mã giám sinh) có giở trò xằng bậy. Trong cấu trúcgiở bài bây thì bài nhất thiết phải là danh từ vì người ta chỉ có thể nói: giở ngón gian lận, giở trò lưu manh, giở mánh xỏ lá, giở thói đê tiện, ... chứ không thể nói «giở gian lận», «giở lưu manh», «giở xỏ lá» «giở đê tiện», v.v... Khẳng định như Phan Ngọc rằng bài bây ở đây là xấu xa (tính từ) là đã không đếm xỉa gì đến đặc điểm cú pháp của cấu trúc đang xét. Bài bây thực chất là một từ tổ danh từ trong đó bài có nghĩa là trò, là ngón, là thói,... còn bây là tính từ và có nghĩa là xằng bậy. Bây là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 非, có nghĩa là sai, trái, mà âm Hán Việt hiện đại là phi còn âm xưa chính là... bây. Vậy bây cũng không liên quan gì đến tiếng Khmer piai – chứ không phải «piây» – có nghĩa là hư hỏng vì đây lại là một từ Khmer gốc Sanskrit bắt nguồn ở từ vy-aya, có nghĩa là hư hỏng, tàn lụi. Còn về âm lý thì Khm. piai < Skt. vy-aya là hiển nhiên mà riêng mối quan hệ Khm. p < Skt. v thì đã được chứng minh ở mục 2.
4. Phan Ngọc viết: «Bàn bạcBạc là gốc từ Khơme piêc là nói, tức là bàn và nói, không phải từ láy âm» (BPN, tr. 41).
Thực ra, piêk (chữ «c» của Phan Ngọc chính là [k]) là một từ Khmer gốc Sanskrit bắt nguồn ở vakti có nghĩa là lời nói. Xin thuyết minh một chút về mối quan hệ Khm. piêk < Skt. vakti. Thứ nhất, việc âm tiết thứ hai (-ti) của vakti bị bỏ hẳn khỏi tiếng Khmer là hiện tượng có thể thấy một cách «đại trà» nên bất tất phải chứng minh. Thứ hai, âm cuối của piêk và của vak(ti) chỉ là một. Thứ ba, mối quan hệ Khm. p < Skt. v đã được chứng minh. Thứ tư, Khm. iê (ia). < Skt. a có thể thấy được qua hàng loạt thí dụ:
– Khm. piathia (sự hành hạ) < Skt. vadha;
– Khm. piêt (tán bẹp) < Skt. vadh;
– Khm. piês (bịt, bọc, tráng... ) < Skt. vas; .
– Khm. chia (là, «to be», «être») < Skt. ja;
– Khm. riêng (hình dáng) < Skt. ran. ga;...
Vậy piêk của tiếng Khmer chẳng có liên quan gì đến bạc trong bàn bạc, còn bàn bạc thì lại là âm cổ Hán Việt của hai chữ 辯白 mà âm Hán Việt hiện đại là biện bạch và âm Quảng Đông hiện đại là pàn pạk. Phan Ngọc đã đúng ở một điểm duy nhất: bàn bạc không phải là một từ láy âm.
5. Phan Ngọc viết: «Bơ vơVơ nghĩa là không chắc chắn (nói vơ), không có căn cứ, cơ sở (nhận vơ). Về cấu tạo, xem bát ngát» (BPN, tr. 60). Còn ở mục bát ngát, tác giả đã viết: «b- là tiền tố để tạo nên những từ láy có nghĩa tình cảm như bỡ ngỡ, bùi ngùi, bảng lảng» (BPN, tr. 44). Ý Phan Ngọc muốn nói rằng trong bơ vơ thì b- cũng là một tiền tố để tạo nên từ láy có nghĩa tình cảm.
Nhưng thật khó mà biết được bơ vơbát ngát và bảng lảng chỉ những tình cảm nào trừ phi nói liều rằngbát ngát, chẳng hạn, là tình cảm của cánh đồng, còn bảng lảng thì là tình cảm của bầu trời, ... Thật ra chỉ vì quá say mê với hiện tượng hình vị nhỏ hơn âm tiết (ở đây là «tiền tố» b-) nên Phan Ngọc đã quên bẵng đi rằng bơ đích thực là một từ có nghĩa như chính ông đã thừa nhận tại mục «bơ thờ» ngay ở trên. Ông đã viết: « là không có gì hết, như ta vẫn nói tỉnh bơ, bơ đi tức là coi như không (...)» (BPN, tr. 60). Xin nói thêm: đây chính cũng là  trong cầu bất cầu bơ mà nghĩa theo mặt chữ là «hai lần cầu cứu vào chỗ trống không» (cầu bất = cầu bơ = kêu cứu vào chỗ không có gì, không có ai) còn nghĩa thông dụng hiện hành là bơ vơ, không nơi nương tựa. Từ  cũng còn được thấy trong khẩu ngữ của phương ngữ Nam Bộ với các từ tổ bơ miệng, bơ mỏ, nghĩa là mỏ không, miệng trống; chẳng có cái chi mà nhét vào... bụng. Vậy bơ vơ cũng không phải là từ láy âm vì đó đích thực là một tổ hợp đẳng lập.
6. Phan Ngọc viết: «Cả. Chữ cả Mường là lớn, đây có nghĩa là to lớn với sắc thái không gì lớn bằng» (BPN, tr. 68).
Chúng tôi xin phụ chú rằng ở đây, từ cả của cả tiếng Mường lẫn tiếng Việt đều là mượn từ tiếng Hán mà nguyên từ (etymon) là một từ ghi bằng chữ 嘏 có nghĩa là to lớn, cao cả, mà âm Hán Việt chính thống hiện đại là giả (Từ hải: giai ả thiết, âm giả, mã vận) còn âm xưa thì lại đúng là... cả (Quảng vận: cổ nhã thiết, thuộc vận bộ ). Các cuốn từ điển Hán Việt thông dụng đã phiên âm nhầm chữ này thành hổ (Nguyễn Quốc Hùng) hoặc hỗ (Đào Duy Anh, Đỗ Văn Đáp, Thiều Chửu). Nhưng một chữ thuộc thanh mẫu kiến và vận bộ mã thì không thể đọc thành «hổ» hoặc «hỗ» được.
Tóm lại, cả là một từ Việt gốc Hán thuộc loại «lão làng» vì nó rất xưa và theo chúng tôi thì nó đã được mượn muộn nhất cũng vào đời nhà Hán cai trị nước ta.
7. Phan Ngọc viết: «Coi sóc. Sóc là gốc ở từ Khơme xrăs nghĩa là lấy hàng rào rào lại; do đó coi sóc là trông nom cẩn thận» (BPN, tr. 81. )
Thực ra sóc là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 畜, có nghĩa là chăn nuôi, nuôi dưỡng, vun xới, bồi dưỡng [7], mà âm Hán Việt hiện đại là súc còn âm xưa thì lại là... sóc.
8. Phan Ngọc viết: «Cơn. Gốc ở từ Khơme kal với nghĩa đơn thuần là lúc» (BPN, tr. 91).
Vấn đề không «đơn thuần» như thế. Thứ nhất, kal là một từ Khmer gốc Sanskrit, bắt nguồn ở danh từkalā, có nghĩa là phần, bộ phận, phần thời gian,... Thứ hai, vì từ kal có gốc Sanskrit nên tất nhiên nó chẳng liên quan gì đến cơn trong cơn mưa, cơn gió, cơn giận, cơn buồn, v.v... của tiếng Việt, vốn là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 根 có nghĩa là rễ, là nguồn gốc, mà âm Hán Việt thông dụng hiện đại là căn, âm chính thống hiện đại là cân (âm này chỉ tồn tại trên lý thuyết), còn âm Hán Việt cổ đại thì lại chính là... cơnCơn có nghĩa gốc là rễ, là gốc, rồi mới có nghĩa phái sinh là nguồn gốc (như có thể thấy trong nguồn cơn). Với nghĩa là gốc cây, cơn đã được dùng theo hoán dụ để chỉ khái niệm «cây» trong phương ngữ Bắc Trung Bộ (còn cây trong tiếng Việt phổ thông thì bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 荄, cũng có nghĩa là rễ, mà âm Hán Việt hiện đại là cai). Với nghĩa là nguồn gốc của sự việc, cơn lại được dùng theo hoán dụ để chỉ cái diễn tiến của chính sự việc đó như trong cơn mưa, cơn bão, cơn giận, cơn buồn, v.v... . .
9. Phan Ngọc viết: «Can quaCan là cái gậy để đánh, qua là cái giáo, nghĩa rộng là chiến tranh, ở khía cạnh giao chiến» (BPN, tr. 71).
Có lẽ trong khi sửa chữa Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh, Phan Ngọc đã tơ tưởng đến danh từcanne (= cái gậy) của tiếng Pháp (người thông thạo nhiều thứ tiếng đôi khi vẫn bị «ảo ảnh» như thế) nên mới ra nông nỗi chăng. Còn sự thật thì xưa nay ai cũng hiểu can 干 là cái khiên, cái mộc, cái lá chắn. Chính Đào Duy Anh đã giảng rất đúng: «Can là cái mộc để che, qua là cái mũi qua để đâm. Can qua là binh khí; nghĩa rộng là cuộc đánh nhau, cuộc chiến tranh» (Bg, tr. 50). Có lẽ Phan Ngọc muốn chứng minh rằng mình thực sự có sửa Đào Duy Anh nên mới giảng như thế chăng? Thực ra Hán tự cũng có một chữ can 杆 có nghĩa là cái gậy nhưng chữ này chẳng có liên quan gì đến hai chữ can qua.
10. Về câu «Dễ dò rốn bể, khôn lường đáy sông», Phan Ngọc đã theo «ngữ pháp của sự đối xứng» mà giảng rằng ở đây «khôn là không khôn (... ). Khôn cũng có nghĩa như khéo, ta vẫn nói khôn khéo. Tức là dò rốn bể là chuyện khó và lường đáy sông là chuyện dại» (BPN, tr. 138).
Chỉ có Phan Ngọc mới hiểu tính từ khôn như thế – và hiểu sai – chứ ai cũng hiểu một cách bình thường rằng khôn ở đây nghĩa là khó. Và khôn lường đáy sông chỉ rất đơn giản là khó lường đáy sông đó mà thôi.
11. Về hai tiếng dày dày trong câu «Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên», Phan Ngọc đã giảng rằng đó là «mỡ màng», «phốp pháp» (BPN, tr. 128).
Tả thân hình của một người đẹp sắc nước hương trời mà bắt người đọc phải nghĩ đến mấy tiếng «mỡ màng», «phốp pháp» thì nghe... ghê rợn quá. Tòa thiên nhiên Thúy Kiều khoả thân mà toàn những mỡ và thịt như thế thì Thúc Kỳ Tâm chỉ có nước... chạy dài chứ làm sao mà «Sinh càng một tỉnh mười mê» đến nỗi «trăm nghìn đổ một trận cười như không»!
Với mấy tiếng dày dày, Nguyễn Du chẳng qua chỉ muốn nói rằng: Đấy, nó «lồ lộ» ra đấy; nó «nồng nỗng» ra đấy, có nhìn thì nhìn. Thúc Sinh đã nhìn, đã ngắm và đã chấm. Chấm là chấm cái tấm thân «mai cốt cách» kia chứ nếu ưa «phốp pháp», «mỡ màng» thì chẳng thà... ôm đại Tú bà còn hơn. Tóm lại, dày dày và cả câu thơ đang xét chẳng qua chỉ là một hình thức uyển ngữ mà thôi.
12. Phan Ngọc viết: «Dò la. La nghĩa gốc ở chữ las Khơme là rõ ràng, sau này vì không đứng một mình nên mất nghĩa. Do đó nó có nghĩa là tìm tòi cặn kẽ» (BPN, tr. 140).
Thực ra, tiếng Khmer las chẳng có liên quan gì đến từ la trong dò la của tiếng Việt vì đó là một từ Khmer gốc Sanskrit bắt nguồn ở căn tố LAS, có nghĩa là lấp lánh, chói lòa, hiện ra. Còn la thì lại là một từ Việt gốc Hán và chính nó là âm Hán Việt hiện đại của chữ 邏 có nghĩa là đi vòng quanh mà quan sát động tĩnh, nghĩa là đi tuần tra. Còn  là âm xưa của chữ du 遊 và du la 遊邏 là... dò la, nghĩa là hai tiếng này đã nằm trong một cấu trúc tiếng Hán sẵn có. Nhưng  trong dò la (xin ghi là dò1) lại ngẫu nhiên có một từ đồng âm là dò trong thăm dò (xin ghi là dò2), cũng là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ , có nghĩa là rình rập, «dò la», mà âm Hán Việt hiện đại cũng là du. Do không nắm vững từ nguyên mà ngày nay người ta hiểu nghĩa của dò trong dò la bằng nghĩa của dò2 trong khi lẽ ra nó phải là dò1. Vì vậy mà dò la không còn là đi vòng quanh đây đó trong phạm vi trách nhiệm để tuần tra mà lại có nghĩa là dòm ngó, rình rập để thu thập những gì cần biết.
13. Đào Duy Anh đã giảng hai tiếng dùi mài trong câu «Ngẩn ngơ trăm nỗi, dùi mài một thân» là «chỉ cái thân đau khổ như bị dùi bị mài» (Bg, tr. 109). Chúng tôi không cho rằng một lời giảng như thế là đúng nhưng dù sao thì nó cũng chưa «tân kỳ» bằng lời giảng có sửa chữa sau đây của Phan Ngọc: «Chỉ cái thân đau khổ như cái dùi bị mài (chúng tôi nhấn mạnh – HT). Chữ dùi mài ở đây theo nghĩa gốc là cái dùi bị mài để làm thành cái kim. Sau này, khi chuyển thành động từ, nó có nghĩa là làm việc kiên nhẫn, không kể khó khăn, vất vả, còn cái gốc bị quên đi» (BPN, tr. 148).
Thành ngữ Trung Hoa có câu ma chữ thành châm (mài cái chày, cái dùi thành cây kim), đồng nghĩa với câu tiếng Việt có công mài sắt, có ngày nên kim, để nói về tác dụng tích cực của sự kiên nhẫn. Tự cổ chí kim, chẳng có ai hiểu đó là cái chày, cái dùi hoặc cục sắt cảm thấy đau đớn vì bị mài mòn thì làm sao có thể nói như Phan Ngọc rằng đó là cái nghĩa gốc đã bị quên đi? Cái «nghĩa» này chẳng qua là do Phan Ngọc sáng tác ra mà thôi. Do đó mà cũng chẳng có chuyện hai tiếng giùi mài (chúng tôi chủ trương viết giùi với gi-) «trở thành động từ» vì tự chúng đã là động từ ngay trong cái cấu trúc ghép đẳng lập đó rồi. Giùi là biến thể tiền kỳ của giồi trong trau giồi; giùi/giồi là đánh cho bóng, mài là chà cho nhẵn. Hai tiếng giùi mài đi chung với nhau để nói lên sự kiên trì và sự mải mê đến nỗi quên hết mọi sự vật chung quanh nhằm tập trung tinh thần cho công việc. Từ đây mới nảy ra cái ý «trơ trọi», «lẻ loi»... và giùi mài một thân, theo chúng tôi, chỉ là «thui thủi một mình», đúng như Nguyễn Quảng Tuân đã giảng.[8]
14. Chữ đồng trong đồng cốt đã được Đào Duy Anh giảng như sau: «Người đệ tử của thần tiên trong Đạo giáo tự xưng là đồng tử của thần tiên nên ngươi ta thường gọi tắt là ông đồng» (Bg, tr. 136). Phan Ngọc chỉ lược bỏ mấy tiếng mà giữ lại gần như nguyên vẹn lời giảng của Đào Duy Anh (xem BPN, tr. 172), nghĩa là ông đã thừa nhận từ nguyên của từ đồng trong đồng cốt do Đào Duy Anh đưa ra.
Rất tiếc rằng sự thật lại không phải như thế vì đồng trong đồng cốt lại có nghĩa gốc là cái kiếng, cái gương. Thật vậy, A. de Rhodes đã ghi nhận và giảng như sau: «Đồng, cái đồngGương, kiếng.Gương. Cùng một nghĩa. Soi đồng: Nhìn vào gương để làm phù chú. Làm đồng, làm cốt: Bà phù thủy nhìn vào gương để làm phù chú. Thầy đồng: Thầy phù thủy sử dụng gương, chiếu kính. Mời đồng: Mời những thầy phù thủy sử dụng gương, chiếu kính».[9] Cứ như trên thì các ông đồng, bà đồng đã được gọi theo hoán dụ bằng tên của chính cái công cụ có tính chất đặc trưng mà họ sử dụng để hành nghề. Đặc điểm của nghề đồng bóng còn được phản ánh trong thành ngữ ngồi đồng chiếu kính mà Huình-Tịnh Paulus Của đã ghi nhận trong Đại Nam quấc âm tự vị.
Chẳng qua, do đồng (= gương) đã trở thành một từ cổ và do nhiều người cũng không nắm rõ đặc điểm của nghề đồng bóng nên Đào Duy Anh mới đoán rằng đồng là do «đồng tử của thần tiên» mà ra!
15. Phan Ngọc viết: «Gai góc. Góc không phải là cái góc mà do chữ kok Khơme nghĩa là dày đặc, gai dày đặc; vì góc không đứng một mình với nghĩa này nên mất nghĩa, vả lại do hình thức có vẻ như láy âm cho nên gai góc chuyển nghĩa như chông gai» (BPN, tr. 183).
Cách ghi âm của Phan Ngọc về từ có nghĩa là «dày đặc» trong tiếng Khmer (kok) là không thích đáng vì yếu tố cuối âm tiết ở đây là visarga, thể hiện trong văn tự Khmer bằng hai khuyên tròn nhỏ (:). Đó thực chất là một h vô thanh [h]. Nhưng giả sử cách ghi âm của Phan Ngọc có hợp lý thì cái từ có nghĩa là dày đặc đó của tiếng Khmer cũng chẳng có liên quan gì đến từ góc trong gai góc của tiếng Việt như Phan Ngọc đã gán ghép một cách hoàn toàn võ đoán và phi lý.
Góc là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ , có nghĩa là gai hoặc bụi cây gai, mà âm Hán Việt hiện đại là cức. Từ này còn có một nghĩa rộng nữa là góc cạnh (Từ hải: «lăng liêm») và xét theo nghĩa này, chúng tôi ngờ rằng cức có quan hệ về nguồn gốc với giác (= góc) mà âm Hán Việt xưa là góc nhưng âm chính thống hiện đại phải là các/cốc. Nhưng dù sự thật có như thế nào thì gai tronggai góc cũng chỉ có quan hệ từ nguyên với cức chứ không liên quan gì đến cái từ có nghĩa là «dày đặc» kia của tiếng Khmer.
16. Phan Ngọc viết: «Lăn lóc. Lăn là chạy bằng cách chuyển động tròn thân mình, lóc là chữ láy với hậu tố -óc để chỉ sự kéo dài như trằn trọc» (BPN, tr. 258).
Có lẽ vì quá say sưa với các «khuôn dẫn xuất» để tạo từ láy mà Phan Ngọc đã quên – hoặc không hề biết – rằng lóc là một từ độc lập, tất nhiên là có nghĩa cụ thể và riêng biệt mà Huình-Tịnh Paulus Của đã ghi nhận trong Đại Nam quấc âm tự vị và giảng như sau: «Lóc. Lần lần đưa mình tới, chuồi tới (...) Lăn lóc. Và lăn và lóc, chịu khó nhọc ghe đàng». Xin nói thêm rằng đây cũng là từ lóc trong khóc lóc, một từ láy giả hiệu rút ngắn từ thành ngữ khóc lăn khóc lóc dùng để miêu tả việc biểu hiện chữ hiếu bằng cách lăn ra trên mặt đường mà khóc trong đám tang ngày xưa.
Vậy lăn lóc – và cả khóc lóc nữa – không phải là từ láy.
17. Phan Ngọc viết: «Hơi. Gốc ở chữ hôi Khơme là bay ra, tức là cái bay ra từ một vật» (BPN, tr. 226). Rõ là khó tin.
Thực ra, hơi là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 氣, có nghĩa là... hơi, mà âm Hán Việt hiện đại là khí.
Về mối quan hệ h - kh, thì hơi khí cũng giống như:
– hang (hốc) ~ khanh 坑 (= hang);
– (hắt) hủi ~ (trừ) khử 去;
– hiếm (hoi) ~ khiếm 欠 (= thiếu);
– (hiểm) hóc ~ khúc 曲 (quanh co);
– (lỗ) hổng khổng 孔 (= lỗ hổng);...
Còn về mối quan hệ ơi i, thì hơi khí cũng giống như:
– dời (nhà) ~ (thiên) di 移;
– lơi (ra) ~ ly 離(= rời);
– (cơ) ngơi ~ nghi 宜;
– gởi (gắm) ~  寄;
- (ca) ngợi - nghị 議; v.v...
Cuối cùng mối quan hệ thanh 1 ~ thanh 5 giữa hơi và khí chẳng phải là điều gì khó chứng minh nên xin miễn nêu dẫn chứng.
18. Phan Ngọc viết: «Lênh đênh. Chỉ việc trôi trên mặt nước, phiêu giạt. Đênh Khơme là đuổi, đánh. Về cấu tạo từ, xem lã chã» (BPN, tr. 264). Phan Ngọc nhắc đến mục «lã chã» để khẳng định rằng tronglênh đênh thì đênh là «chữ chính ở sau» còn lênh là yếu tố láy trong đó l- là tiền tố còn -ênh là hậu tố, điệp vận của chữ sau (của đênh) để đóng vai trò «hình vị nối liền» (Xem BPN, tr. 252).
Từ đênh của tiếng Khmer thực ra chẳng có phận sự gì ở đây cả vì lênh đênh là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ đôi ghi bằng hai chữ 伶仃, có nghĩa là cô đơn, lẻ loi, không nơi nương tựa, mà âm Hán Việt hiện đại là linh đinh. Về mối quan hệ ênh inh, người ta có hàng loạt thí dụ: bềnh bồng bình bồng; bệnh bịnh; kênh rạch kinh rạch; mênh mông minh mông; hoan nghênh hoan nghinh; ...
19. Phan Ngọc viết: «Lượt. Do chữ Khơme lơc là lần» (BPN, tr. 278).
Thực ra, lượt là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 列 mà âm Hán Việt hiện đại làliệt, có nghĩa là thứ tự trên dưới, trước sau trong không gian hoặc trong thời gian. Và mối quan hệ -uơ- - -iê-, người ta cũng có hàng loạt thí dụ:
– (ốc) bươu ~ biêu 贆;
– chườm (nước nóng) ~ triêm 沾;
– chượp (cá ướp để làm nước mắm) ~ triếp 鮿;
– tươm (tất) ~ tiêm (tất) 纖 (悉);
– (đi) tướt ~ tiết 泄;
– trườn (tới) ~ triền 躔 ; ...
20. Phan Ngọc viết: «Ngoài là gốc Bahnar ngoaitrong là gốc Khơme khnong, chứ không phải gốc Hán». (BPN, tr. 335).
Thực ra, ngoai là một từ mà tiếng Bahnar đã mượn của tiếng Việt ngoài, còn ngoài của tiếng Việt chỉ đơn giản là âm xưa của chữ 外 mà âm Hán Việt hiện đại là ngoại. Mối quan hệ ngoài ngoại biểu hiện ở tương ứng thanh 2 - thanh 6, trong đó thanh 2 bao giờ cũng xưa hơn, có thể được chứng minh qua nhiều thí dụ:
– (muôn) loài ~ (chủng) loại;
– (lăng) loàn ~ (lăng) loạn;
– (lõa) lồ ~ (lõa) lộ;
– mồ (mả) ~ mộ (chí);
– (nhu) mì ~ (nhu) mị;
– nề (hà) ~ (câu) nệ;
– (nỗi) niềm ~ (kỷ) niệm;
– (khiêm) nhường ~ (khiêm) nhượng;...
Ngoài ngoại là một tương ứng nằm trong một hệ thống tương ứng chặt chẽ và phong phú như thế thì ta nỡ nào rứt cái từ ngoài ra mà gán cho nó cái nguồn gốc Bahnar.
Còn trong thì cũng không thể nào do tiếng Khmer khnong mà ra được, chỉ đơn giản vì nó là âm xưa của chữ 中 mà âm Hán Việt hiện đại là trung. Mối quan hệ trong ~ trung thể hiện bằng tương ứng -ong -ung cũng có thể được chứng minh bằng hàng loạt thí dụ:
– (hình) dong ~ (hình) dung;
– (lính) dõng ~ (hương) dũng;
– tòng (bách) ~ tùng (bách);
– tòng (thư) ~ tùng (thư);
– (tùy) tòng ~ (tùy) tùng (Trên đây là ba chữ tòng/tùng khác nhau)...
Trong điều kiện của cả một hệ thống tương ứng như trên mà cố tình rứt từ trong ra khỏi đó để gán cho nó cái nguồn gốc Khmer kia thì là hoàn toàn võ đoán.
Trở lên là 20 chỗ sai sót của Phan Ngọc mà chúng tôi đã tạm nhặt ra từ Từ điển truyện Kiều của Đào Duy Anh do ông sửa chữa. Sự lựa chọn của chúng tôi có ý nhắm vào những trường hợp có liên quan đến từ nguyên và từ láy âm, là những lĩnh vực mà trước đây Đào Duy Anh đã không chú ý đến. Ngược lại, Phan Ngọc đã đặc biệt quan tâm đến hai lĩnh vực này nhưng chính tại đây ông đã bộc lộ sở đoản của mình một cách sinh động nhất. Về từ nguyên, BPN có những khuyết điểm như sau:
Một là Phan Ngọc đã không hề quan tâm đến những mối tương ứng ngữ âm có quy luật giữa các từ được so sánh. Thao tác của ông rất đơn giản: ông chỉ cần tìm xem hai từ đồng nghĩa hoặc cận nghĩa trong hai ngôn ngữ được xét có đồng âm hoặc cận âm với nhau hay không. Nếu có thì chúng có quan hệ từ nguyên. Thực ra, đó có thể chỉ là một sự trùng hợp hoàn toàn ngẫu nhiên mà trường hợp của tính từ bad trong tiếng Anh và tính từ bad trong tiếng Iran (đều có nghĩa là xấu) đã trở thành một thí dụ điển hình, mặc dù hai ngôn ngữ này cũng có họ hàng với nhau.
Lại có nhiều trường hợp hai từ đồng nghĩa của hai ngôn ngữ lại cận âm, thậm chí đồng âm với nhau nhưng đó chỉ là do ngôn ngữ này đã vay mượn của ngôn ngữ kia mà thôi. Hiện tượng này rất phổ biến tại Đông Dương là khu vực mà sự đan xen văn hóa và ngôn ngữ rất phức tạp. Ngược lại có nhiều trường hợp mà những từ cùng gốc trong hai ngôn ngữ lại có cách phát âm khác hẳn nhau, chẳng hạn tiếng Pháp évêque và tiếng Bồ Đào Nha bispo đều bắt nguồn từ tiếng La Tinh episcopus (giám mục). Vậy nếu không căn cứ vào những luật đối ứng ngữ âm chặt chẽ khi phân tích về từ nguyên thì kết luận sẽ rất ít có giá trị hoặc hoàn toàn không có.
Hai là Phan Ngọc đã không quan tâm đến lịch sử của ngôn ngữ đang xét – trong đó có lịch sử từ vựng – và lịch sử của tộc người nói ngôn ngữ đó khi tiến hành so sánh nên đã luôn luôn phạm lỗi đem râu ông nọ cắm cằm bà kia như chúng tôi đã phân tích cụ thể ở trên: nhiều từ Khmer gốc Sanskrit đã bị ông cho là cùng gốc với những từ Việt gốc Hán. Chính vì không chú ý đến các lĩnh vực trên đây mà có người đã khẳng định một cách ngộ nghĩnh rằng tiếng Khmer kuj (dương vật) là do tiếng Pháp couille (tinh hoàn) mà ra mặc dù trước lúc tiếp xúc với tiếng Pháp thì người Khmer đã có kuj rồi, vì đây là một từ Khmer gốc Sanskrit bắt nguồn ở từ guhya (còn Pāli là guyha) cũng có nghĩa là... cái đó.
Ba là vì quá hồn nhiên mà Phan Ngọc đã thực hiện «đại trà» cái kiểu khẳng định như sau: «Ai gốc ở từ Brâu côai là người» (BPN, tr. 28); «bạc là gốc từ Khơme piêc là nói» (BPN, tr. 44); «bông từ gốc Mã Lai là bunga» (BPN, tr. 59); «mảng là nghe, gốc ở chữ mảng Mường là nghe» (BPN, tr. 284); «ngoài là gốc Bahnar ngoai» (BPN, tr. 335)... Một cách diễn đạt như thế đã buộc người đọc hiểu rằng ai của tiếng Việt là mượn ở tiếng Brâu; bạc, ở tiếng Khmer; bông, ở tiếng Mã Lai; mảng, ở tiếng Mường còn ngoàithì ở tiếng Bahnar! Điều này trái hẳn với dụng ý của Phan Ngọc là muốn người ta hiểu rằng những cặp từ Việt - Brâu, Việt - Khmer, Việt - Mã Lai, Việt - Mường, Việt - Bahnar trên đây là những cặp từ cùng gốc. Cách diễn đạt đang xét là một cách diễn đạt không được phép vì đó là một lỗi sơ đẳng trong cách diễn đạt từ nguyên học.
Bây giờ xin nói qua về lý thuyết từ láy âm của Phan Ngọc.
Đối với toàn bộ các âm tiết được xem là yếu tố láy, Phan Ngọc đã cho rằng chúng đều gồm có một tiền tố và một hậu tố. Trong từ láy phụ âm đầu, bẽ bàng chẳng hạn, thì bẽ là tiếng chính còn bàng là tiếng láy trong đó b- là tiền tố láy lại âm đầu của tiếng chính và -ang là hậu tố diễn đạt ý nghĩa khái quát chung cho cả khuôn dẫn xuất. Trong tứ láy vần, tần mần chẳng hạn, thì mần là tiếng chính còn tần là tiếng láy trong đó t- là tiền tố diễn đạt ý nghĩa khái quát chung cho cả khuôn dẫn xuất và -ân là hậu tố láy lại vần của tiếng chính. Nhưng nếu đúng như thế thì đâu là thân từ của bàng, của tần, và của toàn bộ những tiếng láy khác? Đã không có thân từ thì căn cứ vào đâu mà phân định tiền tố và hậu tố? Cái lý thuyết Phan Ngọc về tiền tố và hậu tố trong từ láy âm xem ra rất bấp bênh vì chính lý thuyết gia cũng không nắm được những khái niệm mà mình vận dụng. Chúng tôi chưa thấy công trình ngữ học nào mà việc phân định tiền tố và hậu tố lại không lấy thân từ làm căn cứ. Hay là ông Phan Ngọc cũng muốn đi con đường của ông Hồ Lê [10] là lật nhào các khái niệm chuyên môn sẵn có để làm một cuộc đổi đời trong ngữ học?
Đó là điểm thứ nhất.
Điểm thứ hai trong lý thuyết Phan Ngọc về từ láy mà chúng tôi muốn nêu lên là sự khái quát hóa ý nghĩa của các lớp hình thái học được tạo ra bằng phương pháp láy cũng tỏ ra không ổn như chúng tôi đã có lưu ý tại mục 5 ở trên. Phan Ngọc đã nói một cách rất tự tin rằng mỗi lớp hình thái học «có trên 100 từ như thế cùng những nét nghĩa như nhau» (BPN, tr. 49) hoặc «trong tiếng Việt có trên 140 từ như thế và đều được giải thích một cách nhất loạt» (BPN, tr. 22), ... Nhưng mới có năm bảy trường hợp mà Phan Ngọc đã cưỡng ép các từ như bát ngát, bảng lảng phải diễn đạt «tình cảm» rồi thì ai còn dám tin rằng «hàng trăm từ như thế mà lại cùng những nét nghĩa như nhau»! Chúng tôi mạo muội cho rằng phải đi con đường khác nếu muốn phát hiện ra bản chất đích thực của «hiện tượng láy» trong tiếng Việt chứ không thể tiến hành các thao tác mổ xẻ theo kiểu của các ông Tây đối với các «thí vật» bản xứ: tiếng Việt, theo chúng tôi, không có kiểu hình vị nhỏ hơn âm tiết. Người Việt không thể nhìn tiếng Việt bằng con mắt của người châu Âu.
Trở lên là mấy nhận xét tóm tắt về những chỗ yếu của Phan Ngọc trong công việc mà ông đã được nhà văn hóa tên tuổi Đào Duy Anh ủy nhiệm (?) cho thực hiện. Và nếu được phép phát biểu ý kiến cuối cùng thì xin nói thẳng: đối với Từ điển Truyện Kiều, chúng tôi vẫn ái mộ văn bản «chửa sửa» (Bg) chứ không phải văn bản đã «sửa chữa» (BPN).●

* Đăng lần đầu tiên trên tạp chí Thông tin Khoa học & Công nghệ Thừa Thiên Huế, số 4. 1997.
* In lại trong NHỮNG TIẾNG TRỐNG QUA CỬA CÁC NHÀ SẤM, Nxb TRẺ, 2004, trang 369-390.


[1] Trong dẫn chứng, Bg là ký hiệu chỉ bản gốc Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh (KHXH, Hà Nội, 1974) còn BPN là bản do Phan Ngọc sửa chữa (KHXH, Hà Nội, 1989).

[2] Truyện Kim Vân Kiều, Nxb. Hải Phòng, 1994, tr.146.

[3] Dẫn theo Phạm Đan Quế, Truyện Kiều đối chiếu, Nxb. Hà Nội, 1991, tr.192.

[4] Ngô Vinh Chính, Vương Miện Quý (chủ biên), Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc, bản dịch do Lương Duy Thứ chủ biên, Văn hóa thông tin, 1994, tr.132-133.

[5] Ngô Vinh Chính, Vương Miện Quý (chủ biên), Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc, bản dịch do Lương Duy Thứ chủ biên, Văn hóa thông tin, 1994, tr.132-133.

[6] Việt ngữ nghiên cứu, Văn nghệ, Hà Nội, 1955, tr.130-135 và 142-143.

[7] Xem các nghĩa 1,2,3 của chữ này trong Hán ngữ đại tự điển, Thành Đô, 1993.

[8] Truyện Kiều, khảo đính và chú giải, KHXH, 1995, tr.168.

[9] Bản dịch của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính, KHXH, 1991.

[10] Liên quan đến Hồ Lê, có thể tham khảo: Anh Hoàng, «Giáo trình ngôn ngữ học đại cương ở bậc đại học và cao đẳng - nhận xét và kiến nghị», Thông tin KH & CN TT-H, số 2.1997, tr.84-90.
Nguồn Facebook An Chi (Huệ Thiên)

Kiến thức lịch sử: những sai lầm không đáng có (Lê Nguyên)

Danh tướng Nguyễn Tri Phương 
bị ban tổ chức một cuộc thi sử Việt  “phong” làm Tổng đốc Hà Nội 



 

LÊ NGUYỄN

Thiết tưởng đã đến lúc song song với công tác cải tổ việc dạy và học lịch sử trong nhà trường, thổi luồng sinh khí mới cho học sinh biết yêu sử Việt, xem đó là một lãnh vực không thể thiếu trong kiến thức khi ra đời, cần khơi dậy phong trào tìm hiểu sử Việt, trao đổi, tranh luận về những vấn đề lịch sử như một thứ sinh hoạt thường xuyên trong đời sống cộng đồng…
  
 I.
Kiến thức lịch sử, một câu chuyện dài trong nền học vấn còn nhiều bất cập của ta, tưởng chừng chỉ biểu lộ sự yếu kém trong đầu óc các thư sinh của thế kỷ 21 vốn còn rất lúng túng về lịch sử dân tộc, không ngờ còn hiển hiện cả trong lớp người có chữ nghĩa đã trưởng thành, thậm chí ở các cơ quan truyền thông và văn hoá. Cách đây ít lâu, dư luận râm ran khá nhiều về trường hợp bộ phim Trùng Quang tâm sử, trong đó những người thực hiện đã đồng nhất hoá hai nhân vật lịch sử Nguyễn Suý thời Trùng Quang đế (1409-1413) và Nguyễn Xí trong giai đoạn Lê Lợi khởi nghĩa chống quân Minh (1418-1428).
Vào internet, ta dễ dàng gặp những bài thơ, bản nhạc ca ngợi tiếng sáo khoan thai, dìu dặt của chàng lái đò Trương Chi trong mối tình tuyệt vọng với nàng Mỵ nương thuở nào. Trên thực tế, các nghệ sĩ của chúng ta đã nhầm lẫn giữa Trương Lương, nhân vật lịch sử có tiếng sáo mê hồn thời Hán Sở tranh hùng trong lịch sử Trung Quốc và Trương Chi trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, vốn chỉ có một giọng ca trong trẻo tuyệt vời:
Ngày xưa có anh Trương Chi,
Người thì thậm xấu, hát thì thậm hay
Trong đời thường, nếu chúng ta chịu khó thưởng thức những nhạc phẩm bất hủ của Văn Cao (Trương Chi), Phạm Duy (Khối tình Trương Chi)… thì sự thể chẳng ra nông nỗi.
Cách đây không lâu, chính ban tổ chức cuộc thi sử Việt của một tờ báo lớn đã nhầm lẫn về chức vị của danh tướng Nguyễn Tri Phương trong sự kiện Pháp chiếm thành Hà Nội vào tháng 11 năm 1873, “phong” ông làm Tổng đốc, trên thực tế lại là giáng chức ông, vì khi chỉ huy binh sĩ bảo vệ thành Hà Nội, ông là Khâm mạng Tuyên sát Đổng sức đại thần, thay mặt nhà vua để giám sát, đốc thúc việc bố phòng các cơ sở quân sự ở miền Bắc, cương vị lớn hơn cả Tổng đốc và Thượng thư. Mặt khác, vào thời điểm ấy, không có chức danh “Tổng đốc thành Hà Nội”, chỉ có chức danh Tổng đốc tỉnh Hà Nội do Bùi Thức Kiên đảm trách. Gần đây hơn, tại Festival Huế, như báo Tuổi Trẻ số ra ngày 10.6.2010 đăng tải, trong một màn “tái hiện lịch sử”, ban tổ chức đã khoác cho chúa Nguyễn chiếc hoàng bào, mà quên rằng trong thời kỳ quân chủ phong kiến, chỉ có nhà vua mới mặc trang phục màu vàng. Thực quyền cao nhất nước, lấn át cả vua Lê, nhưng các chúa Trịnh cũng chưa hề mặc hoàng bào, chỉ mặc áo màu tía để phân biệt với các quan lại dưới quyền.
 
II.
Ngày nay, chúng ta phải bằng lòng chấp nhận một số nhầm lẫn do lịch sử để lại, nhất là trong mấy mươi năm đầu Pháp thuộc, do tình trạng ngôn ngữ bất đồng, xin đơn cử một vài trường hợp tiêu biểu trên đất Sài Gòn xưa:
 
1- Từ Chí Hoà ra Kỳ Hoà:
Theo một số sử liệu, Chí Hòa là tên một ngôi làng do những người theo Thiên Chúa giáo thành lập vào những năm đầu triều đại Gia Long (1802-1820). Năm 1860, sau khi Pháp đánh chiếm Sài Gòn lần thứ nhất (1859) rồi mang phần lớn quân trở ra Đà Nẵng (sợ triều đình Huế đánh úp căn cứ Đà Nẵng của họ), chỉ để lại một số ít canh giữ khu vực sông Bến Nghé, danh tướng Nguyễn Tri Phương trở vào Sài Gòn xây dựng một đồn lũy kiên cố để chuẩn bị phản công quân Pháp. Về mặt chính danh, đại đồn này chỉ được chính sử (Đại Nam thực lục chánh biên, Quốc triều chánh biên toát yếu) gọi là “đồn Gia Định”, nhưng do đồn được xây dựng trong khu vực làng Chí Hòa nên người đương thời gọi là đồn Chí Hòa. Tuy nhiên, ngày 25.2.1861, đồn bị quân Pháp chiếm giữ sau một ngày tấn công ác liệt, và hai ngày sau, Tư lệnh quân viễn chinh là Phó đô đốc (Hải quân Trung tướng) Charner đã gửi một báo cáo về Bộ Hải quân và Thuộc địa Pháp, trên báo cáo ghi: Fort de Ki-Hòa, 27 fevrier 1861… (Jean Bouchot - Documents pour servir à l’histoire de Saigon - Saigon 1927, trang 29). Rõ ràng đây là cách phiên âm nhầm lẫn từ Chí Hòa của tiếng Việt ra tiếng Pháp, nhưng đáng tiếc là từ đó, sự nhầm lẫn này được lặp đi lặp lại nhiều lần trong công văn giấy tờ của chính quyền thực dân Pháp và báo chí đương thời, đến nỗi nhiều tác giả Việt vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 sử dụng địa danh Kỳ Hòa như một lẽ đương nhiên (trong đó có cả học giả Trần Trọng Kim, tác giả bộ Việt Nam sử lược).
Cũng còn may là địa danh Chí Hòa vẫn còn tồn tại bên cạnh địa danh biến thể của nó là Kỳ Hòa, chứ không hoàn toàn bị “khai tử” như một vài trường hợp khác.
 
2) Dakao hay Đất Hộ?
Tổ chức hành chánh “hộ” tồn tại ngay từ những năm đầu Pháp thuộc. Trong bản lý lịch của Đỗ Hữu Phương, một trong những người miền Nam cộng tác đắc lực nhất với thực dân Pháp, do chính quyền thực dân thành lập năm 1865, thấy ghi ông ta là “Hộ trưởng” và người Pháp dịch là “Chef du quartier” (Trưởng khu). Như vậy, trong tổ chức hành chánh Việt Nam, ngay từ thập niên 1860 (và có thể trước đó nữa), đã có cấp hành chánh “Hộ”, có thể xem tương đương với cấp Tổng về sau và cấp Phường ngày nay. Ngày 4.4.1867, Thống đốc Nam Kỳ De La Grandière ban hành nghị định thành lập Ủy ban Thành phố Sài Gòn đầu tiên, tổ chức “hộ” mặc nhiên bị bãi bỏ. Ngày 30.8.1905, Hội đồng thành phố Sài Gòn ra quyết nghị tái lập chức danh Hộ trưởng, cả thành phố chia thành 6 hộ, trong đó có hộ Tân Định. Tuy nhiên, chỉ hai năm sau, tổ chức hộ bị bãi bỏ do các hộ trưởng không làm được việc. Cũng xin nhắc lại là thời Pháp thuộc, dất công thường được phân làm hai loại: công thổ xã, gọi nôm na là đất làng, thuộc quyền quản lý của cấp xã; và công thổ quốc gia thuộc chính quyền trung ương. Do đó, vào thời điểm tổ chức “hộ” còn tồn tại, một khu vực thuộc hộ Tân Định có tên “Đất Hộ” (đất của hộ).  Từ này khi xuất hiện trong công văn, giấy tờ của thực dân Pháp, đã bị biến thể thành Dakao, và ngày nay, chúng ta mặc nhiên khai tử từ gốc (Đất Hộ) để sử dụng một từ sai lạc (Dakao) như là từ căn bản của mình.
Dù vậy, từ Đất Hộ đến nay vẫn còn ăn sâu vào ký ức những người sinh trưởng tại Sài Gòn những năm 1940 trở về trước.
 
3) Lăng Tô hay Láng Thọ?
Thời Pháp thuộc, tại khu vực nay thuộc quận 4, có một địa điểm tên Láng Thọ, nơi nam thanh nữ tú thường rủ nhau đi hóng mát chiều chiều, thực dân Pháp in trong công văn, giấy tờ của họ là Langto và từ đó, tên Lăng Tô dần “soán ngôi” từ Láng Thọ ban đầu.
 
4) Thuận Kiều, Tong-keou hay Đông Khẩu?
Thuận Kiều là tên một đồn binh nổi tiếng của vùng đất Sài Gòn xưa trong kháng chiến chống Pháp, nằm trong khu vực gần Tham Lương ngày nay. Tên này đã bị người Pháp phiên âm “méo mó” là Tong-keou và không lâu sau, một vài cây bút Việt Nam, do không nắm vững được nguồn gốc của từ này, đã phiên âm theo tiếng Việt là… Đông Khẩu. May là tên Thuận Kiều còn tiếp tục tồn tại vào thập niên 1950, khi được đặt cho một ấp thuộc xã Bà Điểm, quận Hóc Môn (gần ngả tư An Sương và xa lộ Đại Hàn), và ngày nay còn là tên của một trong những con đường có quán cơm tấm nổi tiếng tại Thành phố Hồ Chí Minh.
 
III.
Những nhầm lẫn do lịch sử để lại là chuyện đã đành, hầu như chúng ta không thể nào cải sửa được, song với những nhầm lẫn do chính chúng ta vô tình tạo ra thì không nên để chúng mãi tồn tại, xin đơn cử mấy trường hợp tại Thành phố Hồ Chí Minh:
 
1) Trần Khắc Chân, Trần Khắc Chung, hay Trần Khát Chân.
Gần khu vực ngả tư Phú Nhuận, có một con đường gần thẳng góc với đường Hoàng Văn Thụ mang tên Trần Khắc Chân. Tìm hết trong sách sử, không thấy một nhân vật nào có tên như thế, chỉ có Ngự sử Đại phu Trần Khắc Chung, thời vua Trần Anh Tông (1293-1314) và Thượng tướng Trần Khát Chân thời vua Trần Thuận Tông (1388-1398), phải chăng do sự liên tưởng mà người đặt tên đường đã “ghép nối” hai từ trên thành Trần Khắc Chân?
 
2) Trương Quốc Dung hay Trương Quốc Dụng?
Trương Quốc Dụng (1797-1864) là một trong những đại thần triều Tự Đức (1847-1883), từng giữ chức Hình Bộ Thượng thư, chủ biên bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sau khi mất, được truy thăng Đông các Đại học sĩ (chánh nhất phẩm). Từ nhiều năm qua, tên ông được đặt cho một con dường trong phạm vi quận Phú Nhuận, nhưng bị đổi thành Trương Quốc Dung. Tuy chỉ thiếu một dấu chấm nhỏ, song Dung và Dụng là hai từ quá đỗi khác nhau.
 
Hanh Thông Tây chứ không phải Hạnh Thông Tây
 
 
 3) Hanh Thông hay Hạnh Thông?
Hanh Thông xã và Hanh Thông Tây là tên những xã cố cựu của vùng đất Gia Định xưa, nằm trong phạm vi quận Gò Vấp- TPHCM ngày nay. Giở quyển Từ điển tiếng Việt của tác giả Phan Canh (NXB Mũi Cà Mau, 1997), ta sẽ thấy từ “hanh thông” có nghĩa là “trôi chảy, thịnh tốt”, tuy nhiên, nếu có dịp đi trên đường Quang Trung, quận Gò Vâp, chúng ta sẽ dễ dàng nhìn thấy một ngôi chợ to, bên trên mặt chợ, người ta đắp nổi các từ “Chợ Hạnh Thông Tây”. Hai từ “hạnh thông” không có nghĩa gì hết, chúng vô tình phủ nhận một địa danh lâu đời có ý nghĩa và từng ăn sâu trong ký ức của người Sài Gòn xưa.
Thiết tưởng đã đến lúc song song với công tác cải tổ việc dạy và học lịch sử trong nhà trường, thổi luồng sinh khí mới cho học sinh biết yêu sử Việt, xem đó là một lãnh vực không thể thiếu trong kiến thức khi ra đời, cần khơi dậy phong trào tìm hiểu sử Việt, trao đổi, tranh luận về những vấn đề lịch sử như một thứ sinh hoạt thường xuyên trong đời sống cộng đồng, mới hy vọng phục hồi được những gì mà chúng ta đã đánh mất trong một thời gian dài. Nếu vẫn điềm nhiên để cho những nhầm lẫn do chính chúng ta tạo ra tiếp tục hiện diện trong đời sống xã hội, thì không biết hàng trăm năm sau, các thế hệ con cháu chúng ta sẽ nghĩ sao về sự tắc trách của cha ông họ?

Thursday 9 August 2012

Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: những chữ vay mượn 3 (Nguyễn Ngọc Chính)

Đây là bài thứ 3 trong loạt bài nghiên cứu về những chữ vay mượn trong ngôn ngữ Sài Gòn xưa. Sau khi bàn về tiếng Tàu, tiếng Pháp, chúng ta chuyển sang tiếng Anh và bước vào một nền văn hóa đã có những ảnh hưởng “tốt” cũng như “xấu” vào đời sống của người Việt trong khoảng 30 năm chiến tranh vừa qua.

Có người gọi cuộc chiến vừa qua là “nội chiến” giữa hai miền Nam-Bắc nhưng, theo báo chí phương Tây, đó là “cuộc chiến tranh Việt Nam” hay nói một cách khác là “cuộc đối đầu giữa hai phe”, một bên là Tự do gồm Việt Nam Cộng hòa, Hoa Kỳ và 5 nước Đồng minh (gồm Australia, New Zealand, Đại Hàn, Thái Lan và Philipin) và một bên là Cộng Sản gồm Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, Liên Xô và Trung Quốc.

Tinh thần của bài viết này không bàn đến việc “đúng” hay “sai” của cuộc chiến mà chỉ xoáy quanh những ảnh hưởng của nền văn hóa Mỹ đối với ngôn ngữ Việt trong suốt 30 năm chiến tranh.

Nước Mỹ còn được gọi là Hoa Kỳ hay Huê Kỳ (cờ hoa). Danh xưng này đã xuất hiện trong văn chương Việt Nam từ cuối thế kỷ thứ 19 qua thuật ngữ “đèn Hoa Kỳ”. Vũ Trọng Phụng trong Vỡ đê, xuất bản năm 1936, có đoạn viết: “…Dung tìm bao diêm ở ô kéo, đốt một cây đèn hoa kỳ lên, tắt phụt ngọn lửa ở đèn dầu xăng. Nhìn ra sân, thấy trời tối om, Dung bèn bỏ bao diêm vào túi…”.

Nguyễn Công Hoan trong Nhớ và ghi về Hà Nội giải thích: “…Đèn Hoa Kỳ là đèn của bọn Mỹ sang ta buôn dầu hoả. Muốn bán được dầu hoả, nó phải làm đèn cho người mua dầu dùng (...). Dầu của Mỹ, viết tắt là Socony (Standard Oil Company of New York), cạnh tranh với dầu của Anh viết tắt là Shell.

Bất cứ ở thành thị hay nông thôn, hễ có đại lý dầu Mỹ, là ở gần đó, có ngay đại lý dầu Anh. Và trái lại. Nhà bán dầu Mỹ có biển sơn màu vàng, nhà bán dầu Anh có biển sơn màu đỏ. Những nơi bán dầu xăng ô tô, Anh Mỹ cũng cạnh tranh như vậy. Ở Hà Nội, còn có xe dầu đi bán ở phố, cũng sơn màu của hãng... Trụ sở của Ủy ban Khoa học Kỹ thuật ở phố Trần Hưng Đạo, số 39, là trụ sở cũ của hãng dầu Shell của Anh, nên quét vôi màu đỏ. Ngày trước ta gọi là nhà dầu Shell (...).

Royal Dutch Shell (người bình dân gọi là hãng dầu “con sò”) đã thực hiện một chiến dịch “tiếp thị” ngoạn mục là “biếu không” đèn Hoa Kỳ cho người Việt vốn chỉ quen dùng dầu lạc hay nến (bạch lạp) để thắp sáng mà không quen dùng dầu hỏa. Dĩ nhiên, khi đèn Hoa Kỳ đi vào đời sống của người Việt thì cũng là lúc mọi người làm quen với việc dùng dầu hỏa để đốt đèn.

Nhãn hiệu Shell lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1891 qua logo “con sò” trên thùng dầu hỏa mà Marcus Samuel và các cộng sự chuyển đến vùng Viễn Đông. Nhất Thanh trong Đất lề quen thói (1968) giải thích thêm: “Cuối thế kỷ XIX người Tây đem dầu lửa, cũng gọi dầu hôi, vào dùng và bán (...). Hãng bán dầu đã chế ra thứ đèn nhỏ, ngọn lửa vừa bằng ngọn đèn dầu chay, đèn được cho không kèm theo mỗi thùng dầu bán ra, để làm quảng cáo; không rõ lúc ấy dầu lửa từ xứ nào nhập cảng, mà cái đèn kia được gọi là đèn Hoa-kỳ; ngày nay tại nhiều nhà nó vẫn là bạn cố tri bên cạnh cái điếu thuốc lào.

Bức tranh Đèn Hoa Kỳ của họa sĩ Bùi Xuân Phái

Như vậy, thuật ngữ “đèn Hoa Kỳ” (còn gọi là đèn “hột vịt” tại miền Nam), đốt bằng dầu hỏa (còn gọi là dầu lửa hay dầu hôi), đã xuất hiện từ rất lâu, trước khi có cuộc Chiến tranh Việt Nam.

Người ta còn dùng từ ngữ dầu Tây để gọi dầu hỏa khi mới du nhập vào Việt Nam. Ngày xưa, loại dầu này được đựng trong thùng sắt tây như trong bức tranh Bán dầu Tây của Henri Oger năm 1909 (1). Loại thùng sắt này sau khi đựng dầu được tái chế thành thùng gánh nước hoặc cắt ra làm các vật dụng khác như đồ chơi cho trẻ em bằng thiếc.

Tranh Bán dầu tây của Henri Oger

Một trường hợp tiếng Anh khác đã du nhập vào Việt Nam từ lâu là trò chơi của trẻ con: “Oẳn tù tì” dịch từ “One, Two, Three”. Hầu như mọi người Việt đều đã từng ra cái búa, cái kéo hoặc cái bao sau khi đọc câu “Oẳn tù tì. Ra cái gì? Ra cái này!”. Hai người chơi và có một trong 3 lựa chọn, cái búa thì đập cái kéo, cái kéo thì cắt cái bao và cái bao lại bao được cái búa.

Về nặt giáo dục, tiếng Anh du nhập miền Nam qua hai thời kỳ, dưới hai dạng ngôn ngữ: tiếng Anh của người Anh (British English) và tiếng Anh của người Mỹ (American English). Thời Đệ nhất Cộng hòa (1955-1963), tiếng Anh song song với tiếng Pháp, được chọn làm sinh ngữ chính và phụ, tùy theo sự lựa chọn của học sinh từ bậc Trung học (lớp Đệ thất trở lên). Tài liệu giảng dậy tiếng Anh vẫn lệ thuộc vào chương trình của người Pháp nên chịu ảnh hưởng của British English (còn gọi là Ăng-lê –Anglais). Một trong những sách học tiếng Anh phổ biến trong thời kỳ này là bộ L’Anglais Vivant của nhà xuất bản Hachette (Pháp).

“L’Anglais Vivant” của nhà xuất bản Hachette

Đệ nhị Cộng hòa (1963-1975) là thời thịnh hành của American English tại miền Nam. Điều này cũng dễ hiểu vì sự có mặt của quân đội Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam (2). Ngôn ngữ Sài Gòn xưa chịu ảnh hưởng sâu đậm của tiếng Mỹ trong thời kỳ này và có những vay mượn rất lý thú.

OK (okay) có lẽ là một từ nổi bật nhất trong tiếng Mỹ được sử dụng rộng rãi tại miền Nam và nhiều quốc gia trên thế giới. Một số người cho rằng từ này bắt nguồn này bộ tộc da đỏ Choctaws ở Châu Mỹ. Chữ “okeh” của người Choctaw có nghĩa tương tự như từ OK của người Mỹ. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều tranh cãi về thuật ngữ này. Theo chuyên gia ngôn ngữ Allen Walker Read,  OK là dạng viết ngắn của cụm từ “all correct”. Những người khác thì cho rằng OK là dạng chữ tắt của các từ Hy Lạp có nghĩa là mọi thứ đều ổn cả. Không phải ai cũng đồng ý với những giải thích này nên kết luận hãy còn bỏ ngỏ.

Tại miền Nam, còn phát sinh từ ngữ OK Salem, một từ ghép thường được dùng bởi giới bình dân, ít học như gái bán ba (bar), dân xích lô hoặc trẻ đánh giày. Một hình ảnh phải nói là rất xấu trên đường phố thời đó: trẻ con thường chạy theo các chú GIs (Government Issues – ám chỉ lính Mỹ vì dùng đồ chính phủ cấp phát) để chìa tay xin thuốc lá hay kẹo chewing-gum (kẹo cao su)… miệng thì OK Salem rối rít.

Thuốc hút Salem có vị bạc hà (menthol), rất thịnh hành khi lính Mỹ đến Việt Nam, họ mua từ PX (Post Exchange – một hình thức Quân tiếp vụ, chỉ bán cho quân nhân Hoa Kỳ) và tuồn hàng ra thị trường chợ đen (black market). Người Sài Gòn chê Salem là loại thuốc dành cho… phụ nữ, thuốc dành cho đàn ông “sành điệu” phải kể đến Pall Mall, Lucky Strike, Philip Morris, Camel, Winston…

Salem được giới ăn chơi Sài Thành “chiết tự” thành Sao Anh Làm Em Mệttrong khi Pall Mall được giới lính tráng biến thành cụm từ Phải Anh Là Lính, Mời Anh Lên Liền… Có điều thuốc Salem tại Mỹ được phát âm là “xê-lầm” nhưng khi sang đến Việt Nam lại biến thành “xa-lem” nên nếu có sang Mỹ mà hỏi mua thuốc “xa-lem” chắc chắn người bán sẽ lắc đầu quầy quậy!  

Thuốc lá Salem

Number one cũng là một cụm từ được dùng thường xuyên tại miền Namvới ngụ ý… số dzách hay số một. Người bình dân dùng number one thay cho good chẳng hạn như trong câu tiếng Anh “bồi”: “You number one GI!”. Phản nghĩa với number one sẽ là number ten, hoặc tệ hơn nữa là “nâm-bờ ten tháo giường” được Việt hóa từ “number ten thousand” (số mười ngàn). Ai dám bảo là dân Việt không có óc khôi hài?

Cao bồi là thuật ngữ đã đi vào ngôn ngữ miền Nam khi hàng loạt các loại “phim miền Tây” (Western movies) hay còn gọi là “phim cao-bồi”, được chiếu tại các rạp xi nê. Cowboys vốn là những chàng trai chăn bò, có người hành động một cách nghĩa hiệp “trừ gian diệt bạo” nhưng cũng có những kẻ “đầu trộm đuôi cướp” trong bối cảnh Miền Tây Hoang dã (the Wild Wild West) tại Hoa Kỳ thời lập quốc. Bên cạnh các cowboys còn có sự hiện diện của sheriff với ngôi sao trên ngực, họ là những cảnh sát do dân trong thị trấn bầu lên để thực thi luật pháp.  

Phim cao bồi đầu tiên tại Mỹ thuộc loại phim câm (silent film) mang tênThe Great Train Robbery được sản xuất vào năm 1903. Những phim cao bồi nổi tiếng thời Sài Gòn xưa phải kể đến Gunfight at the O.K. Corral(năm 1957 với các tài tử Burt Lancaster, Kirk Douglas), Rio Bravo (1959 với John Wayne, Dean Martin, Ricky Nelson), The Misfits (1961 với Clark Gable, Marilyn Monroe, Montgomery Clift), The Good, the Bad and the Ugly (1966 với Clint Eastwood, Lee Van Cleef), Little Big Man (1970 với Dustin Hoffman, Faye Dunaway)…

Cao bồi đeo ngôi sao Sheriff
(ảnh chụp năm 1971 tại Alamo Village, San Antonio, Texas)

Từ ngữ cao bồi sau khi du nhập vào miền Nam lại có những biến thể về ý nghĩa. Người lái xe cao bồi được hiểu là lái ẩu, ăn mặc cao bồi là diện những bộ quần áo lố lăng, khó coi…

Tôi còn nhớ, ngày xưa thường hát Học sinh hành khúc của Lê Thương (nghe bản nhạc này tại http://www.youtube.com/watch?v=f2oYKkPgnFs&feature=related ) với những lời ca tụng một thế hệ học sinh của tương lai đất nước:

Học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau.
Học sinh xây đời niên thiếu trên bao công lao…”

Thế nhưng bài hát này đã được ai đó, chắc là mấy cậu học trò “rắn mắt”, cải biên thành:

Học sinh cao bồi mặc áo sơ mi ca rô
Học sinh là người hủ tiếu ăn hai ba tô…”

Chả là học sinh chỉ có đồng phục quần xanh-áo trắng nên anh nào mặc áo ca rô thì bị “chụp mũ” là học sinh cao bồi. Còn cái vụ hủ tiếu mà ăn tới “hai, ba tô” thì phải “xét lại”, có thể vì “bí vận” nên câu trước “áo sơ mi ca rô” câu sau có vần “hủ tiếu ăn hai ba tô” chứ học sinh làm gì có tiền mà ăn nhiều đến thế.

Tiện đây cũng xin nhắc lại chuyện phim ảnh của Sài Gòn xưa. Để diễn tả một một sự kiện có tính cách kinh dị, người ta còn dùng từ ngữ “hít-cốc”, xuất xứ từ cái tên của đạo diễn Alfred Joseph Hitchcock, “ông vua phim kinh dị” của nền điện ảnh Hoa Kỳ với khoảng 50 bộ phim kéo dài suốt 6 thập kỷ.

Người Sài Gòn đã có dịp xem rất nhiều phim hít-cốc “toát mồ hôi lạnh” như The Man Who Knew Too Much (1956, với James Stewart và Doris Day – trong phin này Doris Day hát bài What Will Be, Will Be – Que Sera, Sera và đoạt giải Oscar âm nhạc hay nhất), Vertigo (1958, với James Stewart, Kim Novak), Psycho (1960, với Anthony Perkins, Janet Leigh), The Birds (1963, với Tippi Hedren, Rod Taylor)… (Xem thêm bài viết về Điện ảnh Sài Gòn tạihttp://nguyenngocchinh.multiply.com/journal/item/10). 

Một trong những tác động xấu của người Mỹ đến miền Nam trong cuộc chiến vừa qua là hiện tượng xì-nách ba (snack bar) mọc lên như nấm sau cơn mưa tại Sài Gòn. Khác hẳn với snack bar nguyên thủy ở Hoa Kỳ, thường được hiểu là nơi bán các loại thức ăn nhẹ (snack) như hot dogs, hamburgers, french fries, potato chips, corn chips… còn kèm theo đồ uống.

Sang đến Việt Nam, xì-nách ba trở thành nơi lui tới của những người lính Mỹ xa nhà để uống rượu giải sầu và được phục vụ bởi các cô gái bản xứ. Họ thường là gái quê, ít học và có chút nhan sắc, ăn mặc “thời thượng” với chiếc mini jupe ngắn cũn cỡn. Gái xì-nách ba, hay còn gọi là gái bán ba, thường chỉ ngồi uống nước ngọt hay nước trà với khách nên lính Mỹ gọi đó là Saigon Tea có giá từ 1 đến 2 đô la một ly. Các cô làm ở xì-nách ba không hẳn là gái điếm vì không phải cô nào cũng “đi khách”.

Cũng từ các cô gái bán ba phát sinh ra loại tiếng Anh “giả cầy” kiểu “broken English”. Người ta nghe loáng thoáng trong câu chuyện giữa các cô “đấu hót” với lính Mỹ “Hello GI, you buy me Saigon tea” (Chào anh lính, anh mua cho em ly Sài Gòn ti nhé) hay còn rùng rợn với câu “No star where”, một cụm từ trấn an mà các cô dịch thẳng từ tiếng Việt Không sao đâu!

Lính Mỹ còn đưa vào Việt Nam một số thuật ngữ được dùng từ hồi chiến tranh Triều Tiên. Để gọi người đà bà lớn tuổi họ dùng mama-san, đàn ông thì gọi là papa-san còn con nít là baby-san. Cũng vì thế, trong câu chuyện ở snack bar người ta thường bắt gặp những từ này khi các cô gái bán ba muốn nói về gia đình mình. Mama-san còn được dùng để chỉ người điều hành snack bar, tương tự như tài-pán, người phụ trách điều động gái nhảy tại các dancing thời Pháp thuộc.

Kinh doanh xì-nách ba là một nghề hái ra tiền tại Sài Gòn bên cạnh những dịch vụ như tắm hơi (steam bath), mát-xa (massage) nhưng cũng chính các nghề này đã khiến cuộc sống trong xã hội mất đi sự lành mạnh, đưa đẩy một số phụ nữ vào con đường tội lỗi. Tuy nhiên, người ta cũng hiểu đó là những hệ quả không thể nào tránh khỏi của một đất nước trong tình trạng chiến tranh.

Sài Gòn và những quán bar, tắm hơi, massage

Xã hội miền Nam bên cạnh nghề thu hút một số người làm việc tại các quán ba còn có một giai cấp cao hơn, họ làm việc cho các hãng thầu tư nhân của Mỹ như hãng RMK được thành lập từ đầu thập niên 60 với các công trình xây dựng xa lộ Biên Hòa, quốc lộ 4 tại Phụng Hiệp… hoặc các cơ quan trực thuộc chính phủ Hoa Kỳ như USAID.

Nói chung, họ là những người đi làm sở Mỹ với mức lương cao nhưng phải đạt một trình độ tiếng Anh khả dĩ trong công việc hàng ngày. Những người có trình độ cao hơn thì làm thông dịch viên, ngay như Trường Sinh ngữ Quân đội cũng có những khóa đào tạo thông dịch viên đồng hóa với cấp bậc trung sỹ để về phục vụ tại các tiểu khu có cố vấn Mỹ.

Năm 2011, tại Little Saigon, đã có một buổi họp mặt “Cựu nhân viên sở Mỹ” nhân dịp Giáng sinh. Gần 400 cựu nhân viên đã đến dự cuộc hội ngộ này, đa số là những người đã từng làm việc tại Tòa đại sứ, Tổng lãnh sự Mỹ, các cơ quan chuyên môn như DAO, CIA, MACV, USAID, USIS cùng những nhân viên hãng thầu RMK của tư nhân.  

Cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70 là thời kỳ Sài Gòn chịu ảnh hưởng từ của phong trào hippy (hippie) của Mỹ. Người ta thấy xuất hiện những từ ngữ có liên quan đến hippy như hoa hippyhippy bụi đờihippy choai choaihippy yaourt… Những kiểu thời trang hippy cũng xuất hiện: váy ngắn (mini jupe, miniskirt), quần ống loe (quần chân voi), áo dài hippy thì ngắn cũn cỡn mặc chung với quần ống loe còn con trai thì tóc dài đến độ nhìn từ xa không thể nào phân biệt được giới tính…

Văn hóa hippy bao gồm từ phong cách ăn mặc “bụi” đến những tư tưởng phóng khoáng, chống lại những quy ước cứng nhắc của xã hội. Có thể nói, phong trào hippy là biến tấu của chủ nghĩa hiện sinh (existentialism) theo kiểu “yêu cuồng, sống vội” với Jean Paul Sarte, Françoise Sagan từ văn hóa Pháp.

Cuối thập niên 60s phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam đã nở rộ tại Mỹ với khẩu hiệu “Make love not war". Biểu tượng của phong trào hippy là hoa không lá (còn gọi là hoa hippy), đó là hình tượng của Power Flower (sức mạnh của hoa) được bắt đầu từ năm 1965 tại khu Berkerly, California. Người ta còn nhớ mãi hình ảnh một cô gái hippy đã gắn hoa trên họng súng của một quân nhân thi hành nhiệm vụ giữ trật tự trong một cuộc biểu tình phản chiến.

“Power Flower” – Hoa Hippy

Ở Sài Gòn, các người đẹp gắn hoa hippy lên tóc, cài lên tai, dán lên mắt kính để làm duyên. Người ta còn vẽ hoa lên xe hơi, lên xe Honda, thậm chí đôi lúc còn thấy hoa hippy xuất hiện trên cyclo, xe ba gác, xe bò. Cô em gái tôi có một chiếc áo khi ủi đồ bị than rớt cháy thủng một lỗ, thế là cô gắn luôn một cái hoa hippy, trước là để ngụy trang sau là chạy theo… thời trang! Có thể nói Sài Gòn khi đó giống như Trăm hoa đua nở, nhại tên một chiến dịch thanh trừng chính trị ở miền Bắc.   

Tôi còn nhớ, Trường Sinh ngữ Quân đội vào cuối thập niên 60 có một Chuẩn úy từ Thủ Đức về. Anh Thịnh là một chuẩn úy trẻ, có học vị cao nhưng lại rất lè phè trong lối sống. Hằng ngày anh đến trường bằng chiếc xe hơi bỏ mui (decapotable) được trang trí bằng những bông hoa hippy. Thế là anh chuẩn úy trẻ có tên “Thịnh Hippy” kể từ đó.

Bức hình này gợi nhớ “Thịnh Hippy” ở trường SNQĐ

Có thể nói, phong trào hippy cũng lan rộng đến người lính qua chuyện về “Thịnh Hippy” nhưng nói chung, những người lính trận mỗi khi có dịp đi phép về thành phố chắc chắn không thể chấp nhận lối sống hippy của các thanh niên, thiếu nữ tại chốn phồn hoa đô hội.

Những người hằng ngày phải đương đầu với súng đạn làm sao có thể “thông cảm” với những người hằng đêm đi “bum” tại các phòng trà, dancing. Một đằng thì phải hy sinh tính mạng để “tham chiến” còn một đằng thì lại ăn chơi để “phản chiến”. Đó là một trong những “mâu thuẫn” trong chiến tranh Việt Nam. Phải chăng đó cũng là một trong những lý do khiến miền Nam sụp đổ?  

===

Chú thích:

(1) Henri Oger (1885-1936?) tên đầy đủ là Henri-Joseph Oger là một người Pháp tình nguyện sang Bắc Kỳ đi lính và được biết đến qua bộ sưu tập tranh mộc bản vẽ các sinh hoạt thường nhật của người Việt vào đầu thế kỷ 20. Trong khoảng 20 tháng làm việc tại Hà Nội (1907-1909), ông là người đã cùng các họa sĩ, thợ khắc mộc bản, thợ in và các nhà Nho cố vấn (tất cả trên ba mươi người) hoàn thành tác phẩm Technique du peuple annamite (Kỹ thuật của người An Nam), một công trình nghiên cứu về văn minh vật chất của vùng Hà Nội vào đầu thế kỷ 20.

Ở nước ngoài, một ít bản hiện lưu giữ dưới dạng vi phim tại các ĐH như Johns Hopkins Baltimore, Southern Illiois Carbondale, California Berkeley, Cornell. Tại Pháp, lưu ở Thư viện nghệ thuật và khảo cổ học - Paris IV Sorbonne. Tại Nhật, lưu ở ĐH Keio, Minato-Ku. Riêng ở Việt Nam là nơi ấn hành hiện cũng chỉ còn biết đến hai bản: một bản (không đầy đủ) lưu giữ tại Thư viện quốc gia Hà Nội, và một bản khác (tương đối tốt) lưu giữ tại Thư viện dưới thời Việt Nam Cộng hòa.

(2) Trên thực tế, tháng 9/1950 Tổng thống Mỹ Harry Truman đã cử một Phái bộ Cố vấn Quân sự (Military Assistance Advisory Group - MAAG) đến Việt Nam để trợ giúp quân viễn chinh Pháp trong cuộc chiến tranh Đông Dương chống lại những người Việt Minh. Phái bộ này không thực hiện nhiệm vụ như những quân nhân chiến đấu mà chỉ giám sát việc sử dụng các trang thiết bị quân sự viện trợ của Mỹ trị giá 10 triệu đô la.

Sau Hiệp định Geneve 1954, quân Pháp rút khỏi Việt Nam. Để giúp những người Việt chống Cộng, chính phủ Mỹ đã quyết định viện trợ quân sự của Mỹ sẽ chuyển trực tiếp cho chính phủ Ngô Đình Diệm, khi đó số cố vấn tại MAAG đã tăng lên đến 740 người.
Viện trợ quân sự của Mỹ tăng nhanh chóng từ 50 triệu đô la (1959) lên đến 144 triệu đô la (1961).

Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (The US Military Assistance Command, Vietnam), viết tắt là MACV, được thành lập vào tháng 2/1962, về danh nghĩa là cơ quan chỉ huy quân sự toàn bộ các lực lượng quân sự Mỹ tại Việt Nam, nhưng trên thực tế, có quyền hạn chỉ huy về mặt quân sự của toàn bộ các lực lượng quân sự của Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh tại Nam Việt Nam.

Văn phòng Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam, tên chính thức là Defense Attaché Office (DAO) được Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ được thành lập tháng 1/1973. Đây là một cơ quan thống nhất phụ trách các tuỳ viên quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam, đồng thời quản lý việc hiện diện của quân đội Mỹ tại Việt Nam sau khi ngừng bắn.

(3) Có thể nói, tại Việt Nam, hippy chỉ là một phong trào có tính cách thời trang trong khi tại Mỹ hippy là cả một chiến dịch phản chiến qua đủ mọi hình thức: ca nhạc, tư tưởng, lối sống… Phong trào Hippy bắt đầu từ năm 1967 với một đại hội nhạc trẻ Summer of Love được tổ chức trong 3 ngày (16, 17 và 18/6/1967) tại Monterey, phía bắc tiểu bang California, cách San Francisco không xa.

San Francisco (Be Sure to Wear Flowers in Your Hair) là bài hát tiêu biểu của đại nhạc hội do John Phillips viết và ca sĩ Scott McKenzie trình diễn với ca từ:

If you're going to San Francisco,
be sure to wear some flowers in your hair...
If you're going to San Francisco,
you're gonna meet some gentle people there

Thành phố San Francisco được xem là cái nôi của Hippy sau đó lan rộng đến các thành phố New York, Los Angeles, Philadelphia, Seattle, Portland, Washington, D.C., Chicago, Miami, Montreal, Toronto, Vancouver, và qua tận Châu Âu.