Monday 22 October 2012

Dân dã hay dân giả?



Từ dân dã chỉ những sự quê mùa, thô sơ, chất phác (Nguyễn Kim Thản, 2005:445).

Dân giảhạng dân không chức phận của nhà nước ban cho (Lê Văn Đức, 1970a:357). Từ này cũ rồi, xem phim Tàu may ra còn nghe được chứ từ điển hiện nay không ghi nhận nữa. Và nói gì thì nói dân dã dân giả là hai từ khác nhau.


 Có người chê  trình độ tiếng Việt của các phóng viên bây giờ nghèo nàn quá (Thuật ngữ dễ hiểu hơn và dân giả hơn có lẽ là “knock-out” (nốc-ao, quật ngã), hay một cách khoa học hơn là “homologous recombination” (tái hợp tương đồng). Công nghệ nốc-ao có mục đích là “quật ngả” một gien hiện hành và thay thế nó bằng một gien mới để đánh giá xem gien bị quật ngả có thật sự ảnh hưởng đến bệnh tật.nhưng sự thật là không có ai viết dân dã thành dân giả mà được tuyển làm phóng viên. Những người trong cùng một bài viết sai 4, 5 lần dấu hỏi ngã, chắc chắn không được tuyển làm phóng viên, càng không thể mơ tới việc trở thành người nhặt sạn cho kẻ khác.

Sunday 21 October 2012

Địa danh Việt Nam có thành tố "Bà" (Lê Trung Hoa)

Địa danh Việt Nam có thành tố "Bà"

EmailIn
1.Trong địa danh Việt Nam có hằng trăm tên đất mang thành tố chung Bà ở trước. Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ khảo sát một số địa danh tiêu biểu cho mỗi loại. Ở mỗi địa danh, chúng tôi tìm hiểu nguồn gốc và ý nghĩa căn cứ vào các tài liệu đã được công bố.
            2.1.Trước hết là địa danh mang từ Bà với nghĩa phổ biến nhất. Đây là từ gốc Hán Việt chỉ người phụ nữ  đã có con và đã được Việt hoá từ xa xưa nên có thể xem như là một từ thuần Việt.
2.1.1.Bà Tư là tên một cồn cát ở xã Thới Thuận, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Ban đầu mang tên cồn Trẹt. Bà Tư  là bà Võ Thị Phò, thường gọi Tư Phò, vì đầu thế kỷ 20, bà đến lập nghiệp nơi đây. Bà kiên trì bám trụ, ủng hộ kháng chiến, có chồng và hai con là liệt sĩ, được phong danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng [18].
Bà Đồ là xóm thuộc vùng Bình Thuỷ xưa, nay thuộc xã Long Tuyền, cách thành phố Cần Thơ 5km về phía Long Xuyên. Đây là nơi các văn nhân tụ hội xướng hoạ. Bà Đồ có chồng dạy học. Chồng qua đời, bà tiếp tục dạy nên dân làng gọi là xóm Bà Đồ [7, 110].
Bà Mụ là cầu nằm trên đường Nguyễn Huệ, thuộc phường Phú Khương, thị xã Bến Tre. Vì cầu do dân góp tiền xây, giúp mộtbà mụ vườn tiện qua lại khi đi hộ sản nên mang tên trên [18].
2.1.2.Bà cũng chỉ những người đàn bà của các dân tộc anh em.
Bà Đen là núi ở phía tây tỉnh Ninh Thuận, là tên dịch địa danh gốc Chăm Chơk Juk “núi đen” – tên bà mẹ xứ sở, có vương hiệu là Po Inư Nagar [16].
 Bà Đen cũng là tên  núi gần thị xã Tây Ninh, cao 986m, cách thị xã 15km, một điểm du lịch nổi tiếng. Cũng gọi tắt là núi Bà. Có 5 giả thuyết để lý giải: 1. Nàng Đênh quyết chí đi tu ở núi; cha mẹ ép duyên; nàng trốn biệt tích; tên núi Bà Đênh nói chệch thành Bà Đen [7]. 2. Cô Lý Thị Thiên Hương yêu và định lấy một trí thức tên Lê Sĩ Triệt, nhưng bị tên công tử bắt cóc; nàng tuẫn tiết; vua phong cho nàng là Linh Sơn Thánh mẫu [3]. 3. Nàng Rê Đeng cùng chàng trai đắp núi thi; cuối cùng nàng thắng, núi nàng đắp trở thành  núi Bà Đen; 4. Nữ Oa và Tứ Tượng thi đắp núi; nếu Tứ Tượng thắng thì thành vợ chồng; cuối cùng nàng thắng; núi nàng đắp trở thành núi Bà Đen. 5. Có một nữ thần được người Khmer thờ, gọi là “Mẹ Đen” (Néang Khmau), và hòn núi là bàn chân của bà nên trước đây thường gọi là Phnom Chơn Bà Đen ; hiện trên núi còn dấu chân này [20]. Chúng tôi vừa đến thăm núi và thấy dấu chân này khắc trên đá, lớn hơn dấu chân người một chút [4]. Thuyết thứ 5 có lý nhất.
Bà Tó là hóc (rạch nhỏ) ở xã Khánh Tiến, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau. Bà Tó có lẽ là một người Khmer. Vì ngày xưa hóc (= hói) ở giữa rừng vắng, xa xôi nên từ tổ hóc Bà Tó chỉ nơi xa xôi, vắng vẻ [4].
2.1.3.Bà cũng dùng để chỉ một nữ thần nào đó. Hòn  ở  huyện Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà, cao 1.356m và hòn  ở giữa hai huyện Diên Khánh và Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hoà, cao 1.285m - còn gọi là Bích Sơn (“núi vách”) – là hai thí dụ. Bà ở đây chính làThiên Y A Na [13].
Bà Rén là tên cầu trên quốc lộ 1A, bắc qua sông Bà Rén, thuộc xã Duy An, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, dài 250,5m. Bà Rén bắt nguồn từ Bà Rắn vì nơi đây, người ta đã đào được một tượng nữ thần có hình con rắn Naga nhiều đầu và nói chệch theo ngữ âm địa phương [19].
2.1.4.Bà kết hợp với một từ gốc Pháp đồng nghĩa dame thành bà đầmBà Đầm  con kinh nối liền Rạch Giá với thành phố Cần Thơ ra sông Hậu, dài 14km, đào năm 1894 – 1895. Cũng gọi kinh Ô Môn. Sở dĩ gọi là kinh Bà Đầm vì lúc đào kinh, các đốc công Pháp đem theo gia đình sống trên một cái nhà bè, chiều chiều một bà đầm thường ra đứng xem công nhân làm việc [12, 412].
2.2.Bên cạnh đó, một số địa danh có thành tố Bà là biến âm của âm tiết hoặc âm tố khác.
2.2.1. Trước hết là nhóm địa danh Bà Bèo, Bà Hói, Bà Môn.
 Bà Bèo là kinh  nối sông Tiền và sông Vàm Cỏ, chảy qua các huyện Cai Lậy, Tân Phước (Tiền Giang) và Châu Thành (Long An), dài 25km. Vương Hồng Sển cho biết âm gốc của địa danh này là Bàu Bèo. Người Khmer cũng gọi kinh Bà Bèo là Cumnik Prêk Cak “kinh rạch bèo” [20]. Bà Hói là rạch ở xã Long Thới, huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh. Trên bản đồ thời Pháp thuộc ghi rạch này là Bàu Hói “rạch ở giữa có chỗ phình rộng”. Bà Môn là rạch ở thị trấn Tân Túc, huyện Bình Chánh, tp.HCM. Nguyễn Văn Trấn [14], người địa phương, cho biết âm gốc của địa  danh này là Bàu Môn, tức “cái bàu có trồng môn nước”.
Dạng gốc của ba địa danh này (Bàu Bèo, Bàu Hói, Bàu Môn) đều là hai âm tiết có vần tròn môi cho nên khó phát âm. Vì vậy, chúng cần dị hoá cho dễ phát âm. Từ đó, chúng tôi nghĩ rằng dạng gốc của các địa danh Bà Hom, Bà Quẹo (tp.HCM) có thể là Bàu Hom (bàu ngâm hom tre), Bàu Quẹo (bàu nằm ở chỗ quẹo của đường Trường Chinh). Ở xã Phạm Văn Hai, huyện Bình Chánh có cống Quẹo, ở xã Cần Thạnh, huyện Cần Giờ ( tp. HCM) có vùng Lộ Quẹo.
2.2.2. Kế đến là các âm tiết vốn không phải Bà biến thành Bà.
Bà Băng là rạch ở xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè, tp. HCM. Bà Băng là địa danh thuần Việt, có âm gốc là Bờ Băng vì tại đây có con đường bờ băng qua cánh đồng của xã nên có tên trên. Cho nên hiện nay, có người còn gọi là Bờ Băng, một số khác gọi Bà Băng [5].
    rạch ở huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Bà Kè vốn là Bờ Kè bị nói chệch [11].
Bà Nà là núi ở huyện Hoà Vang, tỉnh Quảng Nam, cao 1.487m. Tại đây có khu bảo tồn thiên nhiên Bà Nà – núi Chúa, diện tích 43.327ha, là nơi du lịch, nghỉ mát và an dưỡng.
Có người cho rằng do Po Na(gar) mà ra [9]. Tác giả không giải thích tại sao mất âm tiết gar. Chúng tôi nghĩ rằng Bà Nà có lẽ đã bắt nguồn từ tên của dân tộc Ba Na, vì các lý do sau: 1.Dân tộc Ba Na có cư trú ở vùng núi tỉnh Quảng Nam [1]; 2. Bà Nà cũng gọi là Bà Na hay Ba Na [2;8]; 3. Ngôn ngữ Ba Na cũng gọi là Bà Nà [10]; 4. Hai thanh ngang và huyền có quan hệ chuyển đổi: (bao) nhiêu – nhiều, (ngày) nao – nào, (nhà) ngươi – người,…; 5. Nhiều địa danh bắt nguồn từ tên dân tộc, như: (cao nguyên) Mạ, tỉnh Gia Lai, Lào, Bulgaria, Moldova, Paris (thủ đô của Pháp),…Như vậy, Ba chuyển thành Bà là hoàn toàn hợp lý.
Bà Om là ao thuộc xã Nguyệt Hoá, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh. Có 4 truyền thuyết để lý giải nguồn gốc của địa danh này: 1. Bà Om là người Khmer, đứng đầu đội nữ đào ao sâu hơn đội nam. 2. Bà Om là một trong bốn nữ tì canh gác cho hoàng tử tắm trong ao nên ao mang tên bà. 3. Ao mang tên chùa Prah Âng nên bị nói chệch thành Bà Om. 4. Bên ao có loại rau mà ơm (một thứ rau thơm) nên bị nói chệch thành Bà Om [7].Thuyết thứ tư có lý nhất vì có cơ sở thực tế và ngôn ngữ Mà à Bà (hai phụ âm môi – môi M – B chuyển hoá với nhau).
Bà Rịa là thị xã của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, diện tích 90,6km2, dân số 78.800 người (2006), gồm 7 phường và 2 xã. Có hai cách lý giải: 1. Một bà tên Rịa có công với vùng này trong thế kỷ 19 nên tên bà được đặt cho địa phương. 2.Do phiên âm tên một nữ thần của người Chăm Po Riyak (thần trấn sóng) [15].Thuyết một thiếu tư liệu lịch sử nên không có cơ sở khoa học và địa danh này đã có từ  trước thế kỷ 19 (Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức khắc in khoảng năm 1820  đã nói tới). Thuyết hai có lý hơn vì có cơ sở ngữ âm và lịch sử. Từ địa danh Bà Rịa sinh ra hai địa danh Bà Biên và Bà Chợ.
Bà Biên  tỉnh ở miền Đông Nam Bộ trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 12 – 1963. Bà Biên do ghép tên hai tỉnh Ba Rịa vàBiên Hòa.
Bà Chợ là tỉnh ở miền Đông Nam Bộ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) do phía Cách mạng đặt. Ban đầu gọi là tỉnh Bà Rịa – Chợ Lớn (từ ngày 27 – 6 – 1951), sau đó đổi thành Bà Chợ. Bà Chợ  do ghép tên hai tỉnh  Rịa và Chợ Lớn [4].
2.2.3. Một số địa danh khác vốn không mang từ Bà nhưng khi Việt hoá biến thành Bà. Đó là các địa danh Bà Lý, Bà Nay.
Bà Lý  tên núi ở thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang, một trong ba ngọn của núi Tà Pang, cao 30m. Bà Lý bắt nguồn từ tên gốc Khmer Pang Li: Pang nghĩa là “măng tre”; Li (Hán Việt) tức là “luỹ”. Pang đọc chệch thành Bàn, rồi thành Bà; Li đọc chệch thành Lý [20]. Thuyết này chưa thuyết phục lắm.
Bà Nay là núi ở ấp Việt Nam, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang, cao 117m. Bà Nay gốc Khmer và Thái Pù Nạy, nghĩa là “núi lớn”, nói rút thành P’nay, người Việt đọc thành Bà Nay [20,26]. Kiên Giang không phải địa bàn người Thái sinh sống và trong tiếng Thái từ lớn là láo, chứ không phải nạy nên giả thuyết chưa thuyết phục [4].
2.2.4. Sau cùng là âm tố được âm tiết hoá. Bà Rá là núi ở huyện Phước Long, thuộc tỉnh Bình Phước, cao 726m. Năm 1963, đổi thành Phước Sơn, nhưng tên này không phổ biến. Bà Rá gốc S’tiêng Brah, nghĩa là “thần linh” [6]. B- đã được âm tiết hoá thành ; -Rah biến âm  thành *.
2.3. Người Việt đã dịch ý một số địa danh gốc Khmer và gốc Chăm thành Bà và giữ âm gốc của địa danh. Bà Kè là sông ở tỉnh Vĩnh Long. Bà Kè gốc Khmer Prêk Năk Yây Kè, nghĩa là “rạch đức bà Kè” [21].
Bà Kéc là núi ở tỉnh Đồng Nai. Tên dịch Hán Việt là Thần Mẫu phong. Bà Kéc gốc Khmer Phnom Sèk, nghĩa là “núi con kéc” [21]. Bà Ký là rạch ở tỉnh Đồng Nai. Bà Ký gốc Khmer Kompong Koki, là “bến cây sao đen”, bị nói chệch thành Bà Ký [21].
Bà Râu là xứ xưa ở tỉnh Ninh Thuận. Bà Râu gốc Chăm Po Inư Nưgar Mư Rau, nhưng chưa biết nghĩa [17].
3.Qua hơn hai mươi địa danh mang thành tố Bà ở trước, chúng ta thấy nguồn gốc và ý nghĩa của các địa danh này khá phức tạp, chứ không đơn giản. Vì vậy, công việc nghiên cứu này phải còn tiếp tục lâu dài và cần sự tham gia của nhiều người. Bài báo này xem như bức phác thảo đầu tiên nên chắc chắn còn nhiều ý kiến tán thành hoặc không. Chúng tôi hi vọng sẽ được đọc những ý kiến của các thức giả khác.

 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Đặng Nghiêm Vạn, Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia tp. HCM,, 2003.
2.Đinh Xuân Vịnh, Sổ tay địa danh Việt Nam, HN, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2002.
3.Huỳnh Minh, Tây Ninh xưa, HN, Nxb Thanh niên, 2001.
4.Lê Trung Hoa, Từ điển từ nguyên địa danh Việt Nam, bản đánh máy, chưa xuất bản.
5.Lê Trung Hoa (cb) – Nguyễn Đình Tư, Từ điển địa danh thành phố Sài Gòn – Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, 2003.
6.Lorraine Haupers, Ralph Haupers, Stieng – English dictionary, Thailand Group, 1991.
7.Nguyễn Hữu Hiếu, Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam Bộ qua chuyện tích và giả thuyết, HN, Nxb KHXH, 2004.
8.Nguyễn Như Ý (cb), Nguyễn Thanh Chương, Bùi Thiết, Từ điển địa danh văn hóa và thắng cảnh Việt Nam, HN, Nxb KHXH, 2004.
9.Nguyễn Sinh Duy, Khảo về danh xưng Bà Nà, Thế giới mới, số 544, 20 – 9 – 2005.
10.Nguyễn Tài Cẩn, Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (sơ thảo), HN, Nxb Giáo dục, 1995.
11.Nguyễn Thị Kim Phượng, Nghiên cứu địa danh ở tỉnh Bến Tre, Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường ĐHSP, tp.HCM, 2009.
12.Nguyễn Trung Vinh, Huỳnh Thương, Nguyễn Lương Bằng (cb), Địa chí Cần Thơ, Tỉnh uỷ, Uỷ ban Nhân dân tỉnh Cần Thơ xb., 2002.
13.Nguyễn Văn Khánh – Giang Nam (cb), Địa chí Khánh Hoà, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2003.
14.Nguyễn Văn Trấn, Chợ Đệm quê tôi, Nxb Văn Nghệ, tp. HCM, 1985.
15.Phan Đăng Nhật, Bàn về yếu tố sông nước trong nghi lễ Chăm, trong “Văn hoá sông nước miền Trung”, HN, Nxb KHXH, 2006, tr. 411 – 424.
16.Phan Minh Đạo, Địa danh ở tỉnh Bình Thuận, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Sở, 2005.
17.Sử Văn Ngọc, Yếu tố nước trong tâm thức người Chăm, Nguồn sáng dân gian, số 4 – 2006, tr. 51 – 53, 64.
18.Thạch Phương – Đoàn Tứ (cb), Địa chí Bến Tre, Nxb KHXH, 2001.
19.Thạch Phương – Nguyễn Đình An (cb), Địa chí Quảng Nam, bản đánh máy, chưa xuất bản.
20.Trương Minh Đạt, Nhận thức mới về đất Hà Tiên, Tạp chí Xưa và Nay, Nxb Trẻ, 2001.
21.Trương Vĩnh Ký, x. Lê Hương, Người Việt gốc Miên, tr. 253 – 264. TS.Thái Văn Chải dịch phần Địa danh.
22.Vương Hồng Sển, Tự vị tiếng Việt miền Nam, HN, Nxb Văn hoá, 1993.
………………………………………………………
*Tương tự: Brahman thành Bà la môn.

Thursday 18 October 2012

Giấu giếm hay dấu diếm?



Có hai từ dấu. Một có nghĩa là yêu (ví dụ: yêu dấu). Từ kia có nghĩa là vết (ví dụ: dấu vết).

Giấugiấu giếm đều có nghĩa là cất kín, giữ kín, không cho ai biết (Bonet, 1999:223 ; Huình Tịnh Của Paulus, 1896a:375, Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:219).


Dấu và dấu diếm   cái dấu, đồ để làm dấu (Huình Tịnh Của Paulus, 1896a: 233).

Thế nào là trịch thượng văn hóa?



Cao Việt Dũng dùng thuật ngữ trịch thượng văn hóa để dịch từ ethnocentrisme của tiếng Pháp (http://vnn.vietnamnet.vn/vanhoa/chuyende/2005/12/526939/). Đỗ Thuận Khiêm dịch là chủ nghĩa dĩ tộc vi trung (http://lichsuphatgiao.wordpress.com/2011/06/22/tri%E1%BA%BFt-ly-ngo%E1%BA%A1i-giao-c%E1%BB%A7a-vi%E1%BB%87t-nam-d%E1%BB%91i-v%E1%BB%9Bi-vatican/): ethnocentrisme culturelchủ nghĩa dĩ tộc vi trung trên trên mặt văn hóa. Từ ethnocentrisme nguyên thủy được dùng để chê bai những người mang đầu óc thực dân coi châu Âu như trung tâm văn hóa nhân loại. Về sau người ta có những từ ngữ chính xác hơn như eurocentrisme (dĩ Âu vi trung), sinocentrisme (dĩ Hoa vi trung)... vì cái thói dòm văn hóa khác qua lăng kính của văn hóa tộc người mình không phải là tội của riêng giống dân nào. Ông bà ta ngày xưa chê Tây mày tao chi tớ với cả cha mẹ, ấy là một biểu hiện của thói trịch thượng văn hóa. Tây chê tiếng Việt nghèo nàn (thiếu từ ngữ trừu tượng, chỉ có những từ ngữ cụ thể), thiếu chính xác (không có thì động từ, không có giống cái, giống đực) thì đó cũng là trịch thượng văn hóa.
Cũng như nhiều nết xấu khác của nhân loại, thói trịch thượng văn hóa sống dai dẳng cùng với xã hội loài người. Sự tăng cường giao lưu giữa các nền văn hóa không giúp người ta hiểu thêm về nhau bao nhiêu nhưng lại tạo ra triệu triệu con người tha hóa, vong bản. Có những người Việt quay ra chê dân mình nói năng, viết lách sao không giống tiếng Anh:
Người Việt cười Tây, Tây có nhột không? Tây cười chê ta, bất tất ta phải đeo cái mặc cảm tư ti mà ngượng ngùng, quýnh quáng làm gì? Nhưng trước hết, người Việt có quyền chê một danh thiếp Tây không có chức vụ, không có danh hiệu nào không? Không, tại vì khi cần nói chuyện bằng tiếng Tây, người Việt không cần phải gọi người Tây bằng chức vụ hay danh hiệu. Tùy mối quan hệ thân sơ mà ở Pháp mình có thể gọi người kia là vous hay tu. Nói tiếng Anh càng dễ: từ tổng thống xuống phó thường dân đều là you hết. Nhưng ở Việt Nam, các thông tin về chức vụ, danh hiệu là hữu quan vì chúng giúp cho người Việt giao tiếp với nhau một cách hiệu quả. Không có danh thiếp, không đọc bìa sách, không đọc tên ký dưới bài báo, người Việt vẫn phải tìm kiếm hoặc trình bày thông tin về chức vụ, danh hiệu bằng cách này hay cách khác để tiện việc xưng hô.
Không thể căn cứ vào việc người Việt phô bày và tìm kiếm thông tin về danh xưng ở mọi nơi, mọi lúc mà bảo là người Việt háo danh và chỉ người Việt háo danh. Mỗi giống dân, mỗi nền văn hóa có cách khoe danh của mình. Không ký giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Văn T ngay trên bài viết nhưng ở một chỗ khác gần đấy lại bảo tôi dạy học và nghiên cứu ở viện G, đại học NSW, ấy cũng là khoe danh giáo sư, tiến sĩ, nhưng theo cách của Tây. Bảo rằng chỉ có người Việt háo danh vì khoe danh không giống ai (hiểu: không giống cách của Tây), ấy chính là trịch thượng văn hóa.

Đầy ắp hay đầy ấp?


Ắp nghĩa là đầy quá (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:13). Ấp nghĩa là phủ cho nóng (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:16). Như vậy phải viết đầy ắp, ôm ấp.

Wednesday 17 October 2012

Về hai tiếng ĐỒNG BÓNG (KTNN 115, ngày 01-8-1993)

ĐỘC GIẢ: Tại sao lại gọi là “đồng bóng”? Có phải “đồng” là do “tiên đồng ngọc nữ” mà ra hay không? Nhưng nếu thế thì “bóng” là do đâu?
AN CHI trả lời: Đào Duy Anh đã giảng từ đồng trong đồng bóng như sau: “Người đệ tử của thần tiên trong Đạo giáo tự xưng là đồng tử của thần tiên nên người ta thường gọi là ông đồng” (Từ điển Truyện Kiều, Hà Nội, 1974, tr.136). Đây chỉ là một lối giảng có tính chất suy diễn chủ quan vì đồng là một từ cổ có nghĩa là cái kiếng, cái gương. Thật vậy, A. de Rhodes đã ghi như sau: “Đồng, cái đồng: Gương, kiếng. Gương. Cùng một nghĩa. Soi đồng: Nhìn vào gương để làm phù chú. Làm đồng làm cốt: Bà phù thủy nhìn vào gương để làm phù chú. Thầy đồng: Thầy phù thủy sử dụng gương, chiếu kính” (Từ điển Việt-Bồ-La, Nxb Khoa học xã hội, 1991). Cứ theo những điều trên đây, thì các ông đồng bà đồng đã được gọi bằng tên của chính cái đồ vật mà họ đã sử dụng để hành nghề. Đặc điểm của nghề đồng bóng còn được phản ánh trong thành ngữ ngồi đồng chiếu kính mà Huình-Tịnh Paulus Của đã ghi nhận trong Đại Nam quấc âm tự vị.
Khi đồng đã là cái gương, cái kiếng thì bóng tất nhiên là hình ảnh của cảnh và vật phản chiếu ở trong kiếng, trong gương. Cũng chính A. de Rhodes đã giúp cho chúng ta khẳng định điều này. Ông đã ghi: “Soi gương: Nhìn trong gương. Soi đồng. Cùng một nghĩa; cũng là phù phép mà người Lương dân ngây thơ nghĩ rằng mình có thể nhờ tấm gương để biết sự dữ nào bởi đâu sinh ra cho mình, nghĩa là bởi ma quỷ dối trá bằng những hình ảnh khác nhau trong tấm gương”. “Những hình ảnh khác nhau trong tấm gương” chính là những cái bóng.
Vậy đồng bóng là gương và hình ảnh của cảnh vật phản chiếu ở trong gương. Đó là nghĩa gốc. Còn nghĩa trong ông đồng bà đồnglên đồngđồng cô bóng cậu, v.v... là nghĩa phái sinh.

TÂN không chỉ cay (Năng Lượng Mới, só 4 (24-3-2011)

Bạn đọc : Đầu năm Tân Mão, trong bài “Đâu là Việt, đâu là Hoa?”, đăng trên trang mạng Tủ Sách Báo Phương Đông ngày 20-2-2011, tác giả Hà Văn Thuỳ đã viết về chữ Tân: Tân ở đây là cay đắng, tân toan, nhọc nhằn. Điều này dự báo năm nay sẽ chẳng ngọt ngào!” Vậy, năm nay ta sẽ được chia ngọt sẻ bùi hay phải ngậm đắng nuốt cay, thưa ông An Chi? Và có đúng tân là cay đắng hay không?(Huỳnh Hồng Gấm).
An Chi : Ông Hà Văn Thuỳ phát biểu câu mà bạn đã dẫn lại để bài bác ý kiến của GS Nguyễn Thừa Hỷ cho rằng chữ tân trong Tân Mão có nghĩa là mới. Ông Thùy khẳng định rằng, ở đây, tân là “cay đắng, tân toan, nhọc nhằn”. Quả nhiên Hán-Việt từ-điển của Đào Duy Anh giảng tân là: “Vị thứ bảy trong 10 thiên-can – Cay  –  Khổ-sở – Buồn rầu.” Còn Hán-Việt tự-điển của Thiều-Chửu giảng  là: “1. Can tân, can thứ tám trong mười can. 2. Mùi cay. 3. Cay đắng nhọc nhằn. 4. Thương xót, như bi tân, tân toan.” Toàn bộ lời giảng của ông Thuỳ đều có trong từ điển Thiều-Chửu nên nó không thể không đúng được. Tiếc rằng đây chỉ là từ điển cỡ nhỏ nên không thể đầy đủ “để giải mã những vấn đề lớn lao của văn hóa” (chữ của ông Thuỳ) và chính vì không đầy đủ nên nó đã không giúp được cho ông Thuỳ biết thêm rằng chính cái chữ tân 辛 của ông còn có nghĩa là … “mới”!
Vâng, tân 辛 còn có nghĩa là “mới” nữa. Vương Lực cổ Hán ngữ tự điển (Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh, 2002) đã cho chữ này 5 nghĩa, mà nghĩa 5 là  “ Thông tân «新». Dữ cựu «舊» tương đối ”, nghĩa là “dùng như chữ «tân» là mới; đối nghĩa với chữ «cựu» là cũ”. Hán ngữ đại tự điển (Thành Đô, 1993), tập đại thành cả cái kho chữ Hán đồ sộ, còn giảng rằng “tân «辛» là tân «新»”, nghĩa là đã trực tiếp giảng chữ «tân» của ông Thuỳ bằng chữ «tân» là “mới” nữa.
Ấy là ta còn chưa nói đến chuyện, ngoài hai nghĩa “cay” và “mới”, chữ tân 辛 còn có một nghĩa đặc biệt nữa là “tội lỗi” – đây mới thực sự là nghĩa gốc của nó –, mà hai quyển từ điển trên đây không hề nói đến.
Hóa ra GS Nguyễn Thừa Hỷ đã không bị chữ «tân» của ông Thuỳ đánh lừa còn chính ông thì đã bị chơi khăm nên chỉ thấy ở nó có cái nghĩa “cay đắng”! Hóa ra, chính GS Nguyễn Thừa Hỷ mới là người hiểu đúng theo truyền thống cái ý nghĩa của can Tân trong thập can, đã được giảng cách đây hàng ngàn năm cùng với chín can khác, trong sách Thuyết văn giải tự của Hứa Thận đời Hán, như tác giả Phạm Thị Hảo đã ghi lại:
“ Về hàm nghĩa của các tên gọi can, chi, sách Thuyết văn giải tự của Hứa Thận đời Hán giải thích: “Giáplà vỏ, muôn vật sơ sinh, phải phá vỡ vỏ mà ra. Ất là uốn mềm, vạn vật sinh ra, mềm mãi quanh co mà lớn dần lên. Bính là sáng, vạn vật được mặt trời chiếu sáng, ấm nóng mà phát triển. Đinh là mạnh mẽ, vạn vật ngày càng lớn lên mạnh mẽ. Mậu là rậm rạp, cây cỏ ngày càng tốt tươi. Kỷ là ghi nhớ, vạn vật định hình có thể ghi nhớ hình dạng. Canh là thay đổi, vạn vật vừa phát triển vừa đổi thay liên tục. Tânlà cay, lại giống với Tân là mới, vạn vật luôn thay cũ đổi mới. Nhâm là hoài thai, vạn vật lớn lên rồi mang cái nhân mới trong mình. Quý là tiêu đi, vạn vật phát triển cực độ ắt phải tiêu đi thay mới.” (“Năm Mão – Tết con mèo của Việt Nam và Tết con thỏ của Trung Quốc”, Hồn Việt số 43, tr. 33).
Rõ ràng là tự nghìn xưa, người ta đã hiểu như thế. Ở đây, người ta dùng tên (âm) của một vật hoặc khái niệm để chỉ vật hoặc khái niệm khác cùng tên (âm). Đây là một biện pháp tu từ trên cơ sở của hiện tượng đồng âm, tiếng Hán gọi là song quan 双關, tiếng Pháp là calembour, lối chơi chữ mà Cao Xuân Hạo đã cho một thí dụ dí dỏm: “Il n’y a plus de faucons là-haut: on n’y trouvera plus que de vrais cons.” (“Về cương vị ngôn ngữ học của tiếng”, Ngôn ngữ, số 2-1985, tr. 28). Nghĩa của câu này là: “Không còn con chim cắt nào trên đó: người ta chỉ có thể thấy ở đó những thằng ngu thật mà thôi.” Nhưng hiểu như thế này thì  ngớ ngẩn, vì ở đây, người ta đã chơi calembour: faucons (chim cắt) phải được hiểu là faux cons (những thằng ngu giả) thì mới đối với vrais cons (những thằng ngu thật) được. Và cả câu sẽ là: “Không còn thằng ngu giả nào trên đó: người ta chỉ có thể thấy ở đó những thằng ngu thật mà thôi.” Đó là calembour, tức song quan, kiểu như “tân cay” được hiểu thành “tân mới” vậy.
Nhưng điều quan trọng cần nhấn mạnh là có lẽ ông Hà Văn Thuỳ không ngờ rằng ở đây, tân 辛 chỉ là một chữ giả tá nên cứ cố gán cho nó cái nghĩa “cay đắng, nhọc nhằn”. Giả tá, nói nôm na là chữ mượn. Khi người ta cần ghi lại tên của can Tân, thì người ta thấy đã có sẵn chữ tân 辛 , mà nghĩa gốc là “tội” nên mới mượn tự dạng của từ có nghĩa là “tội” này, tức chữ 辛, để ghi âm tên của nó, với tư cách là can thứ tám của thập can. Nếu biết được điều này thì ông Thuỳ sẽ dễ dàng thấy rằng cả “cay” lẫn “mới” đều không trực tiếp dính dáng gì đến nội hàm của khái niệm TÂN với tư cách là can thứ tám của thập can.
Cuối cùng, xin thưa thật với bạn rằng chúng tôi không dám đoán xem năm nay ta sẽ được chia ngọt sẻ bùi hay phải ngậm đắng nuốt cay vì chúng tôi không muốn làm … thầy bói. Còn nếu nói về ước nguyện, và chỉ về ước nguyện mà thôi, thì dù chữ tân 辛 có nghĩa là cay đắng, cay đắng đến cực độ đi nữa, chúng tôi vẫn cứ mạn phép cầu mong cho dân ta được ấm no, hạnh phúc, nước ta được yên bình, ổn định trong cả năm con … “meo meo” này.
Và cũng xin nhân tiện tặng bạn và bạn đọc đôi câu đối cây nhà lá vườn sau đây:
Chung thân ôn bão dân tâm thoả;
Đương chức thanh liêm quốc vận hưng.
終身温飽民心妥;
當職清廉國運興.
(Suốt đời no ấm, lòng dân thoả;
Đương chức thanh liêm, vận nước hưng).