Sunday 6 January 2013

Từ “ tê giác ” đến “ trâu Tây Tạng” – An Chi ( Từ chữ đến nghĩa – Đương Thời số 7-2009).

      Trong bài“ Con trâu, tuổi Sửu và chữ Ngưu” trên Đương thời số 1 (Xuân Kỷ Sửu, 2009), chúng tôi có viết rằng “tê giác” là một cách gọi tên kỳ quặc dành cho con , mà tên trong tiếng Hán là tê ngưu犀 牛.Không kỳ quặc sao được vì hai tiếng tê giác 犀 角 có nghĩa là sừng (của con) tê, chứ đâu phải dùng để chỉ đích thân con vật ( là con tê ). Trước đây, ở trong Nam, người ta gọi con vật này là tây, còn ngoài Bắc là . Cho đến giữa thập kỷ 1950, ở trong Nam, người ta vẫn còn gọi con tê là con tây. Chỉ sau 1954 ở Miền Bắc, rồi sau 1975 trong cả nước, người ta mới đổi tên “cúng cơm” của con vật này từ /tây thành “tê giác”. Còn vào thời xưa thì cả ở miền Bắc, người ta cũng gọi nó là contây.                                
      Chứng cứ là cách đây gần 130 năm, Dictionarium Latino-Annamiticum (Từ điển La Tinh - An Nam) của M.H.Ravier (Ninh Phú,1880) có ghi hai mục từ sau: 
       “ Rhinoceros (…) 1. Con tây; tê ngưu (…) 3. Bình bằng tây giác (…)”.                                                                                      
       “Rhinoceroticus (…). (sự gì) Thuộc về con tây.”                     
       Chữ nghĩa của M.H.Ravier rất rõ ràng: tây là biến thể ngữ âm của , đồng nghĩa với tê ngưu(đương nhiên có nghĩa là con tê) ; tây giác là biến thể ngữ âm của tê giác và có nghĩa là sừng tê. Vậy “ bình bằng tây giác” là bình làm bằng sừng tê; chứ nếu hiểu tây giác (hoặc tê giác) theo tiếng Việt toàn dân hiện đại thì đó sẽ là “bình làm bằng nguyên cả thân thể của con tây, tức con  tê”.                                 Xa hơn Ravier, từ giữa thế kỷ XVII, Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum ( Từ điển Việt Bồ La –  Roma,1651) của A. de Rhodes chỉ ghi nhận có âm tây:                           
       “Tâycon tây : bada (tiếng Bồ), rhinoceros (tiếng La) ”. Bada là tiếng Bồ Đào Nha thời A. de Rhodes ( nay là rinoceronte), bắt nguồn từ tiếng Mã Lai badak, có nghĩa là tê/tây , đồng nghĩa vớirhinoceros trong tiếng La Tinh.                
       Nhưng đến gần cuối thế kỷ XVIII thì Dictionarium Annamitico Latinum của Pierre Pigneaux de Béhaine (1772-73), biên soạn ở trong Nam, đã ghi nhận cả tây lẫn . Rồi đến 1931 thì Việt-Nam Tự-Điển do Hội Khai-Trí Tiến-Đức ở Hà Nội khởi thảo (Imprimerie Trung-Bac Tân-Van, 1931) chỉ ghi nhận có mà không còn thấy tây nữa.  
       Cứ như trên thì, trong một thời gian dài, cả trong Nam lẫn ngoài Bắc đều gọi con vật đang xét làtây. Rồi về sau, trong cả nước, tây đã chuyển thành  nhưng trong sự giằng co giữa hai biến thể ngữ âm này, người Nam vẫn tiếp tục giữ âm tây còn ngoài Bắc thì đã chọn . Nhưng cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài trước đây, cũng như cả trong Nam lẫn ngoài Bắc về sau, không ở đâu gọi con vật đó là “tây giác” hoặc “tê giác” cả. Lý do: như đã nói, tê giác/tây giác là sừng (của con) tê, mà trong Nam còn gọi là u tâyĐại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của giảng u tây là “Cái sừng ở trước mũi con tây, người khách lấy làm một vật quí báu, cũng là vị thuốc mát.” Cho đến gần cuối thập kỷ 1960 ở Miền Bắc, Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1967) cũng còn lưỡng lự giữa  và tê giác (bị xem là hai đơn vị đồng nghĩa) nên mới có hai mục từ: 
      “ Tê .– Cg. Tê giác, tê ngưu. Loài thú có guốc lẻ, da dày, trên mũi có một hoặc hai sừng.” 
      “ Tê giác .– Nh. Tê (loài thú). ”
      Cách trình bày hai mục từ trên đây cho thấy tuy lưỡng lự nhưng tập thể tác giả đã nghiêng hẳn về tính chính xác của ngôn ngữ. Vì thế nên họ mới lấy  làm mục từ chính, chứ Tê giác thì chỉ được “chuyển chú ” về mục . Còn bây giờ thì toàn quốc đều nhất tề xài cái cách gọi kỳ quặc là tê giác. Vìtê giác là u tây (Nam), tức sừng tê (Bắc) cho nên gọi con vật có cái u, cái sừng này là “tê giác” thì cũng vô duyên như gọi con cọp là “hổ cốt” (xương cọp), con rồng là “long tu” (râu rồng), con gấu là “hùng chưởng” (bàn tay gấu), con hươu là “lộc nhung” (sừng non của hươu), v.v.. Đây là hậu quả hiển nhiên của sự thiếu hiểu biết về các yếu tố Hán Việt, mà tiếc thay, lại còn là những yếu tố thông dụng nữa! Nó gợi ý cho sự cấp thiết của việc dạy từ, ngữ Hán Việt thành giờ riêng ở bậc tiểu học. 
      Trở lên là chuyện tên con “tê giác”. Bây giờ xin nói đến “trâu Tây Tạng”.  Đây là ba tiếng mà tác giả Tôn Nữ Thanh Thuỷ “sáng tác”  để dịch hai tiếng “Tây ngưu” trên Kiến Thức Ngày Nay, số tân niên để giới thiệu món ngon vật lạ nhân Xuân Kỷ Sửu (2009). Dưới đây là lời của  tác giả đó nói về con vật “mới lạ” này: 
      “Trước khi tìm hiểu món ngon này (món “da Tây ngưu” – AC), hãy xem qua lý lịch của giống trâu Tây Tạng. Tây ngưu chuyên sống dưới chân những ngọn núi cao ở phía Tây Trung Quốc có khí hậu ẩm thấp, rừng cây thưa thớt. Loài thú giống trâu này được gọi là Tây ngưu (Seaigan) hay Tây ngu hoặc Tê ngưu. Chúng rất hung dữ và mạnh mẽ như voi, thân hình to lớn, cao tới 2 thước, dài khoảng 3 thước rưỡi, nặng từ 2 tới 3 tấn. Khác với trâu, Tây ngưu chỉ có một sừng ngay trên sống mũi dài từ 60 đến 70 phân ( … ). Tây ngưu là giống đa tình cũng như con người; những con đực thường húc nhau để giành con cái, và chúng cũng đánh ghen với nhau khi con cái “léng phéng” với con đực khác ( … ) Có 3 loại Tây ngưu: giống có một sừng, lông màu đen gọi là “Hắc Tây ngưu”, giống có hai sừng, lông trắng gọi là “Bạch Tây ngưu”, còn một giống nữa chỉ sống trên đỉnh núi, không bao giờ xuống triền núi, chân núi hay thung lũng, gọi là “Sơn Tây ngưu” ( … ) Da Tây ngưu rất dày ( … ) Sau khi hạ được Tây ngưu, người ta chỉ cắt lấy sừng và mấy miếng da nách ( … ) ”. 
      Trên đây là những gì mà tác giả Tôn Nữ Thanh Thuỷ cung cấp cho độc giả của Kiến Thức Ngày Nay. Nhưng ai có chút kiến thức phổ thông cũng biết rằng cái con vật mà tác giả này không biết tên bằng tiếng Việt nên mới gọi là “trâu Tây Tạng” chẳng qua là con tê. /tây là một cái tên chắc chắn đã có từ thời Bắc thuộc còn bây giờ thì toàn quốc đã cải thành “tê giác”. Nhưng chẳng thà cứ gọi nó bằng cái tên tê giác vô duyên sẵn có – sự vô duyên này , rủi thay, dù sao cũng đã thành lệ – còn hơn là gọi bằng cái tên vô duyên mới toanh và quái đãn là “trâu Tây Tạng”! Mà con “trâu ” này (Tây ngưu) nào có sống ở Tây Tạng cho cam! Tác giả đó cứ đoán mò rằng tây ở đây là “Tây Tạng” nhưng nào có phải! Chữ tây trong tây ngưu là  còn chữ tây trong Tây Tạng là 西; hai chữ (và cả hai nghĩa) hoàn toàn khác nhau. Đoạn “lý lịch của giống trâu Tây Tạng” trên đây còn cho thấy tác giả Tôn Nữ Thanh Thuỷ chỉ căn cứ vào tài liệu không được cập nhật, chẳng những không được cập nhật mà còn quá lạc hậu nữa, không hợp với “kiến thức ngày nay”. Chẳng hạn như việc phân thành ba giống trong đó có giống “sơn tây ngưu”. Đây là một khái niệm mơ hồ, mặc dù nó có được nhắc đến trong tác phẩm danh tiếng, chẳng hạn Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân (1518-1593) đời Minh. Ngày nay, người ta chia 4 giống tê (Ceratotherium, Diceros, DicerorhinusRhinoceros) thành 5 loài:  
      – Tê trắng hai sừng, thân dài 4m, cao 1,80m, nặng 1400 – 3500kg, tên khoa học là Ceratotherium simum, sống ở miền Nam và miền Trung châu Phi, một số ít ở miền Tây châu Phi;
      – Tê đen hai sừng, thân dài 3,50m, cao 1,60m, nặng 800–1500kg, tên khoa học là Diceros bicornis, sống ở miền Nam châu Phi, Kenya và một số rất ít ở Senegal;
        Tê Sumatra hai sừng, thân dài 2–3m, cao 1–1,50m, nặng 600–950kg, tên khoa học làDicerorhinus sumatrensis, sống ở Sumatra, Borneo và bán đảo Mã Lai;
      – Tê Java một sừng ngắn, thân dài 2–4m, cao 1,50–1,70m, nặng 900–2300kg, tên khoa học làRhinoceros sondaicus, sống ở Java, Việt Nam (người miền Nam thấy sừng nó ngắn nên mới gọi là cáiu); 
      – Tê Ấn Độ một sừng dài, thân dài 3–3,80m, cao 1,75–2m, nặng 800–2700kg, tên khoa học làRhinoceros unicornis, sống ở Nepal và miền Bắc Ấn Độ.  
       Ta chẳng thấy có loài nào sống ở Tây Tạng cả. Ngay cả khi sao chép cách phiên âm tây ngưuthành “seaigan”, tác giả Tôn Nữ Thanh Thuỷ cũng đã nhầm chữ cái cuối cùng của hình thức phiên âm từ “u” thành “n”. Đúng ra – nếu tác giả chép đúng sáu chữ cái trước – phải là seaigau vì phải là gau thì mới ứng được với ngưu . Hình thức phiên âm này chỉ có thể là một thổ ngữ của tiếng Hán ở miền Đông Nam Trung Quốc vì các phương ngữ khác không còn “g” . Và đây có nhiều khả năng là tiếng Triều Châu (còn giữ được “g”). Hai chữ Hán mà tác giả đó chép hình thức phiên âm thành “seaigan” chính là犀 牛 mà Triều Châu âm tự điển của Đạt Phủ   và Trương Liên Hàng    phiên âm làsai¹ghu5. Nhưng dùng một thổ ngữ như thế này để phiên âm thì không hợp lý vì từ lâu, người ta đã dùng âm Bắc Kinh (Quan thoại) và theo lối pīnyīn. Vậy hình thức phiên âm sẽ là xīniú. Đây mới thật sự là cập nhật.  
         Cũng cần nói thêm rằng vì tác giả chỉ nói về “miếng ăn” nên mới viết “ người ta chỉ cắt lấy mấy miếng da nách” chứ thực ra, để phục vụ cho cả “miếng võ” thì người ta phải lấy nguyên bộ da (bỏ cả bộ da thì chẳng thậm lãng phí ư ?). Để làm gì? Thưa để làm áo giáp cho binh lính. Chính tác giả chẳng đã viết “Da Tây ngưu rất dày, dai như gân và cứng như sắt, vũ khí rất khó xuyên thủng” là gì? Vì thế nên người ta mới lấy da nó mà làm áo giáp, gọi là tê giáp 犀甲.Và số lượng tê giáp được dùng thời xưa thì không ít. “Câu Tiễn phạt Ngô ngoại truyện” trong Ngô Việt Xuân Thu chép rằng binh lính của Ngô Phù Ta mặc tê giáp có đến mấy vạn người (dĩ nhiên là kể cả tê giáp dỏm làm bằng da trâu (thuỷ ngưu)). Chính vì lý do này nên danh ngữ tê giáp cũng còn được dùng theo hoán dụ để chỉ quân đội nữa. Và chính việc “sưu tầm” da tê vì miếng võ ( chứ không chỉ vì miếng ăn) mới là một trong những nguyên nhân làm cho loài tê sớm tuyệt chủng ở cái nôi của nền văn minh Trung Hoa chứ vào đời Thương thì nó cũng đã từng sinh sống ngang dọc tại lưu vực Hoàng Hà cùng với  trâu, voi, v.v., như cứ liệu khảo cổ học và vật hậu học đã khẳng định (Xin x. bđd). Thậm chí ta còn có thể khẳng định một cách cụ thể rằng trong ba loài của châu Á thì tê Sumatra hai sừng lúc bấy giờ vẫn còn sống ở Trung Quốc nên mới làm nguyên mẫu cho những chiếc bình đựng hình con tê bằng đồng xanh  đời Thương.
        Nhưng có lẽ còn thảm thương hơn cả sự tuyệt chủng kia là việc tác giả Tôn Nữ Thanh Thuỷ so sánh con tê với con người về mặt … “đa tình” mà lại còn có cả … việc “những con đực húc nhau để giành con cái” và “việc đánh ghen”! Thật là chẳng đẹp mặt cho loài người tí ti nào! Xin thưa với bà(?) rằng “giành cái” là chuyện bản năng của toàn loài (tê) chứ “giành gái” thì chỉ là chuyện bản tính của cá thể (người) mà thôi. Dù là để mua vui cho độc giả thì cũng chẳng nên so sánh như thế, có phải không, thưa bà tôn nữ ?

Vẫn còn chuyện mèo để nói (Đương Thời số 28 (2-2011).

Cứ tưởng hai ẩn dụ trong câu thành ngữ mèo mả, gà đồng đã rõ như ban ngày nhưng sự thật thì lại chẳng đơn giản đến thế. Bằng chứng là trong 1575 thành ngữ tục ngữ cần bàn thêm (Nxb Văn Nghệ, 2009), tác giả Lê Gia đã thay chữ đổi nghĩa của vế trước thành “mèo mã” mà hiểu như sau:
Mèo mã, cũng nói là ‘mèo mỡ’. Do hai chữ miều mã là cô gái lẳng lơ chỉ có bộ mã tốt đẹp bên ngoài. Chữ miều (cũng đọc là miêu, đồng âm với chữ miêu là con mèo), có nghĩa là cô gái lẳng lơ, lãng mạn, gái đĩ, chơi bời, bắt nhân tình với nhiều người. Chữ  là nhãn hiệu dán trên gói hàng. Dáng vẻ đẹp tốt bên ngoài (hàng mã). Mèo mỡ thì chữ mỡ được hiểu thêm theo chữ  là nhìn xéo, liếc mắt, đá lông nheo, và chữ mộ là tìm kiếm, rủ rê (…) Cũng hiểu thêm là con mèo chờn vờn miếng thịt mỡ.”
Những lời giảng “ly kỳ” kiểu như trên có rất nhiều trong quyển 1575 của ông Lê Gia. Nhưng nó chỉ có thể “hấp dẫn” những độc giả thích phiêu lưu mạo hiểm trong rừng chữ nghĩa mà không cần đến nguyên tắc và phương pháp chứ làm sao có thể đứng vững được trước một sự soi rọi chặt chẽ và nghiêm cẩn về ngữ nghĩa và từ nguyên. Từ hình thức gốc là mèo mả (chữ mả dấu hỏi) sang “mèo mã” (chữ “mã” dấu ngã), rồi “mèo mỡ” đã là cả một sự đại nhảy vọt cực kỳ vô lý về chính tả và từ ngữ mà chẳng có tác giả nào nghiêm túc và có kiến thức tối thiểu về ngôn ngữ dám thực hiện. Nhưng cái sai nặng nề nhất của tác giả Lê Gia là ở chỗ ông đã không hề quan tâm rằng mèo trong mèo mả là mèo thú còn mèotrong mèo mỡ thì lại là mèo người. Xin lưu ý là ở đây, ta đang  nói về nghĩa gốc của chữ mèo trong từng danh ngữ đang bàn, chứ không phải nghĩa bóng.
Ngay từ cái câu đầu tiên mà chúng tôi trích thì ông Lê Gia đã nhầm. Ông khẳng định rằng mèo mã cũng nói là “mèo mỡ”. Hoàn toàn sai! Ông không biết hai tiếng “cũng nói” dùng để làm gì. Nó dùng để nói về những biến thể ngữ âm của cùng một đơn vị như: giở chứng cũng nói trở chứnggiở giời cũng nói trở trờidát gái cũng nói nhát gáidáo dác cũng nói nháo nhácbình an cũng nói bình yên; v.v.. Từng cặp thí dụ này chỉ khác nhau về mặt ngữ âm chứ về ngữ nghĩa thì chúng hoàn toàn như nhau vì thực ra chỉ là một. Chúng khác với các đơn vị cận âm cận nghĩa, nhất là có một âm tiết trùng nhau tuyệt đối như:đại diện và đại biểuhoa liễu và da liễuhành động và cử động; v.v.. Tuy đại diện và đại biểu là hai đơn vị đồng nghĩa nhưng ta không thể nói rằng “đại diện cũng nói đại biểu”. Dẫn chứng: đại biểu quốc hội không thể nói thành đại diện quốc hội; đại diện của Liên đoàn Bóng đá Argentina không thể nói thành đại biểu của Liên đoàn Bóng đá Argentina; v.v.. Còn hoa liễu chỉ là một khái niệm hẹp hơn da liễunên ta không thể nói rằng “hoa liễu cũng nói da liễu”. Cũng thế, “mèo mã” (theo cách “sáng tạo” và cách hiểu của ông Lê Gia) và mèo mỡ rất khác nhau về mặt nghĩa nên làm sao có thể nói “mèo mã cũng nói là mèo mỡ”! Ở đây,  đâu có phải là một biến thể ngữ âm của mỡ. Huống chi, “mèo mã” chỉ là một danh ngữ ảo do tác giả Lê Gia sáng tác ra chứ làm gì có trong tiếng Việt.
Rồi đến hai chữ “miều mã”, thì cũng chỉ là một cấu trúc ảo do ông sáng tác. Huống chi nếu miều là một yếu tố Hán Việt thì ông cũng chẳng hề cho ta biết tự dạng của nó ra sao. Và nếu đây có đích thực là một yếu tô Hán Việt thì cũng không thể nói rằng chữ miều cũng đọc thành miêu như ông đã viết. Lý do: “cũng nói”, “cũng đọc” là những tiếng dùng để nói về từng cặp hiện tượng đồng đại. Còn miều và miêuthì lại là những hiện tượng lịch đại, nghĩa là cái sau kế thừa cái trước chứ không tồn tại trong cùng một giai đoạn lịch sử với nó. Ngữ âm học lịch sử về các yếu tố Hán Việt đã chứng minh rằng giữa hai tiếng có cùng phụ âm đầu d-, l-, m-, n-, v.v., cùng gốc mà cùng vận khác thanh, thì tiếng mang thanh 2 (dấu huyền) xưa hơn tiếng mang thanh 1 (không dấu): – dầm trong mưa dầm xưa hơn dâm  trongdâm vũ; – liền trong gắn liền xưa hơn liên  trong liên từ; – màng trong mùa màng xưa hơn mang trong mang nguyệt; v.v.. Khi miêu xuất hiện thì miều chết dần, rồi chết hẳn trong ngôn ngữ hằng ngày mà chỉ còn tồn tại trong thư tịch; trong khi đó thì giở và trởdáo dác và nháo nhácdát và nhát,an và yên, có thể cùng tồn tại song song, thường là ở những địa phương khác nhau. Vì vậy nên mấy tiếng “cũng nói”, “cũng đọc”  mới áp dụng được cho những trường hợp nàymà không áp dụng được cho trường hợp của miều – miêu.
Ông Lê Gia lại giảng rằng “chữ  là nhãn hiệu dán trên gói hàng”. Thì cũng sai. Chữ  này, Hán tự là,có nghĩa là chữ số, phương tiện để thể hiện con số; rồi trong tiếng Việt, nó mới có nghĩa rộng là ký hiệu bằng số dùng để đánh dấu riêng cho từng mặt hàng. Với cái nghĩa rộng này, nó mới có mặt trong danh ngữ đẳng lập mẫu mã đâu phải là nhãn hiệu hàng hóa. Mà cũng chẳng phải là “dáng vẻ đẹp tốt bên ngoài” vì đây chỉ đơn giản là cái dáng vẻ bên ngoài nói chung, không phân biệt đẹp, xấu, như đã được giảng trong Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học do Hoàng Phê chủ biên:
“ : [khẩu ngữ] vẻ bên ngoài, cái hình thức phô ra bên ngoài: – Con gà tốt mã vì lôngRăng đen vì thuốc rượu nồng vì men – (…) từ ngày nghỉ hưu bác ấy xuống mã nhanh quá (..)”.
Ông Lê Gia còn gắn chữ mỡ trong mèo mỡ với chữ “mã” (?) là “nhìn xéo, liếc mắt, đá lông nheo”, và cả chữ “mộ” là “tìm kiếm, rủ rê” (…). Đây là một kiểu liên hệ hoàn toàn không thích hợp, như chúng tôi đã có nhận xét nhiều lần, kể cả trên Đương Thời. Thực ra, ở đây, mèo là một danh từ hoàn toàn độc lập với mèo trong mèo mảmèo chó, v.v.. Nó có nghĩa là bồ, là nhân tình và chỉ dùng  cho phái nữ. Cònmỡ cũng có tính chất giống hệt như chuột trong mèo chuột, nghĩa là một từ bị truất nghĩa để đồng hóa về nghĩa với mèo (chỉ người), nhằm diễn đạt một cách không có thiện cảm cái nghĩa “nhân tình nhân ngãi nhăng nhít”. Vậy về mặt cú pháp - ngữ nghĩa, mèo mỡ là một cấu trúc giống như những phe phẩy,văn nghệ văn gừngchính trị chính em, v.v., những cấu trúc hài hước - chê bai, mà chúng tôi đã nhiều lần đề cập. Và vì nó mang tính chất này, và chỉ tính chất này mà thôi, nên cấu trúc mèo mỡ cũng chẳng dính dáng gì đến chuyện “con mèo chờn vờn miếng thịt mỡ” cả.
Tóm lại, đây chỉ là chuyện mèo mả, với chữ mả (dấu hỏi) trong mồ mả, không liên quan gì đến chữ “mã” (dấu ngã) của ông Lê Gia. Nhưng để chống đỡ cho chữ “mã” của mình, ông Lê Gia biện hộ:“ Và có lẽ do liên tưởng đến cái mả ngoài đồng nên trong dân gian ta lại có câu Mèo mả gà đồng và dùng theo nghĩa: Con mèo bỏ nhà ra sống ở gò mả, nơi có nhiều hang ổ chuột (…) Nhưng thực tế ít có con mèo nào làm như vậy.” Thực ra thì rất nhiều con mèo “thích” làm như vậy, nghĩa là thích ở mả, như có thể thấy trong vô số ảnh ở trên mạng. Chúng còn họp bầy họp đàn nữa ấy chứ! Những con mèo ở các nghĩa trang Montmartre (Pháp), Recoleta (Argentina) hay Guayaquil (Ecuador), v.v., là mèo mả chứ không phải mèo nhà. Đó là những con mèo hoang, không còn “thường trú” tại nhà chủ nữa. Ở Paris chẳng hạn, nơi mà mèo là con vật yêu, tây đầm ôm chum chủm. thậm chí còn cho ngủ chung giường thì chẳng con mèo nhà nào lại thỉnh thoảng vào nghĩa trang chơi rồi về. Sống ở nghĩa trang chỉ là những con mèo bỏ nhà chủ, “nhất khứ bất phục hoàn” mà thôi. Huống chi, một nghĩa trang như Père-Lachaise ở Paris rộng hơn 43ha thì mèo vào đấy chỉ để sống chung với  Molière, Honoré de Balzac, La Fontaine, Colette và những danh nhân khác chứ làm gì có chuyện vào chơi rồi về. Lạ một điều là nhiều con rất tốt mã. Ở một số nước, người ta phải lập kế hoạch triệt sản những con mèo này; nếu không thì đội quân của chúng sẽ càng ngày càng đông.
Vậy mèo trong mèo mả là mèo thú còn mèo trong mèo mỡ là mèo người, hoàn toàn khác nhau cả về ngữ nghĩa lẫn từ nguyên. Đồng thời mả ở đây đồng nghĩa với mồ và đi chung với danh từ này để tạo thành danh ngữ đẳng lập mồ mả. Góp phần khẳng định cho cách hiểu này về từ mả là vế trước của câu tục ngữ Mèo lành chẳng ở mảả lành chẳng ở hàng cơm. Với sự tồn tại của từ mả trong câu tục ngữ này thì toàn bộ lập luận có vẻ như rất bác học của ông Lê Gia cũng đã bị lật đổ.
Mèo mả ở Nghĩa trang Guayaquil (Ecuador).

Wednesday 2 January 2013

Nhìn kên kên hóa đại bàng (Người Đô Thị,số 95, 25- 4-2011).

Xin chớ lẫn lộn  kên kên với đại bàng.
        Số là, trong bài “Bóng Phật trên núi Hùng”, đăng trên Kiến thức Ngày nay số 744, ngày 10-4-2011, tác giả Huỳnh Ngọc Trảng đã viết:
        “ Thứu Lĩnh/Thứu Sơn hay Linh Thứu Sơn/Linh Sơn là tên gọi chữ Hán của ngọn núi Kênh Kênh [sic] (Phạn: Garuda-kūta; Pali: Gjjha kūta; âm Hán: Kỳ-xà-quật) ở phía đông bắc thành Vương Xá, nước Ma-yết-đà, miền Trung Ấn Độ. Được gọi tên như vậy vì hình dáng núi này giống như đầu con chim thứu và trong núi có loại chim này sinh sống.”
        Rất tiếc là với văn phong đầy chất bác học, đoạn văn ngắn trên lại chứa tới ba cái lỗi không thể bỏ qua. Lỗi thứ nhất thì rất dễ thấy và đã được chúng tôi đánh dấu bằng chữ “sic” trong ngoặc vuông. Đây là lỗi chính tả: kên kên chứ không phải “kênh kênh” (chữ “kênh” này chỉ dùng trong các trường hợp như con kênh xanh xanh, hoặc kênh xì-po, v.v.). Lỗi thứ hai cũng là lỗi chính tả, nhưng của tiếng Pali:gijjha chứ không phải “gjjha”. Nặng nhất là cái lỗi thứ ba mà chúng tôi mạn phép nói kỹ dưới đây.
        Để cho tính chất bác học được hoàn hảo, ông Huỳnh Ngọc Trảng chẳng những đã nêu hai cái tên chữ Hán của ngọn núi mình muốn nói đến, rồi diễn nghĩa tên chữ Hán của nó bằng tiếng Việt, mà còn chăm chút ghi chú cả những hình thức gốc của những cái tên đó trong tiếng Sanskrit và tiếng Pali, rồi cuối cùng là hình thức phiên âm sang tiếng Hán đọc theo âm Hán Việt nữa. Chỉ tiếc có một điều là cái tên  bằng tiếng Sanskrit mà ông Trảng đưa ra thì lại chẳng hề có nghĩa là núi Kên Kên, tức Thứu Sơn hay Thứu Lĩnh. Ông đã nhầm gdhra thành “garuḍa”, nghĩa là ông đã biến con kên kên chuyên ăn xác chết (gdhra) thành con Đại bàng huyền thoại (Garua), chúa tể của loài chim, kẻ thù của loài rắn (vì rất khoái ăn rắn) và là vật cữi của thần Viṣṇu. Ông cứ ngỡ garua là hình thức Sanskrit tương ứng với tiếng Pali gijjha (mà ông viết thiếu mất chữ “i” sau chữ “g”) trong khi tương ứng với Sanskrit garua lại là hình thức Pali garua. Vậy ta có:
–      Sanskrit garua tương ứng với Pali garua; 
còn
       – Sanskrit gdhra thì mới tương ứng với Pali gijjha.
        Có lẽ ông Huỳnh Ngọc Trảng chỉ muốn vận dụng cái vốn Sanskrit – Pali “cây nhà lá vườn” của mình, chứ nếu ông chịu tra cứu thì chẳng thiếu sách để cho ông sử dụng. Và  ông sẽ thấy Kỳ Xà Quật耆闍崛 phải là hình thức phiên âm từ tiếng  Sanskrit gdhra-kūa hoặc tiếng Pali gijjha-kūa.”
Nhưng Kỳ Xà Quật nghĩa là gì? Dĩ nhiên đây chẳng phải là “hang rắn lạ” (kỳ = lạ;  = rắn; quật = hang) vì những chữ hữu quan chỉ là những tiếng dùng để phiên và ghi âm mà thôi. Muốn tìm nghĩa của nó thì phải đi ngược lên tiếng Sanskrit hay tiếng Pali. Quật 崛 dùng để phiên âm a, có nghĩa là đỉnh, chóp còn gdhra(S)/gijjha(P) thì có nghĩa là kên kên nên các nhà sư người Trung Hoa mới dịch gdhra-kūa(S)/gijjha-kūa(P) thành Thứu Sơn 鷲山, hoặc Thứu Phong 鷲峰, nghĩa là núi Kên Kên hay đỉnh Kên Kên. Chính chữ Thứu 鷲 có nghĩa là “kên kên” đấy! Người Triều Tiên đọc ba chữ Kỳ Xà Quật 耆闍崛 thành Kisagul còn người Nhật thì đọc thành Gishakutsu. Người Anh dịch thành Vulture Peak còn người Pháp là  Pic du Vautour.
Còn garua(S)/garua(P) thì được người Trung Quốc phiên âm thành Ca lâu la 迦樓羅. Họ cũng có dịch nghĩa từ này thành Kim xí điểu – chứ không phải “Kim xỉ điểu”, như đã in trong Từ điển Phật học Việt Nam của Thích Minh Châu & Minh Chi –, như chúng tôi đã nhận xét trên Kiến Thức Ngày Nay số 126, ngày 15-12-1993. Về vấn đề này, chúng tôi đã viết:
“  (có sách phiên ) là cánh; vậy kim xí điểu là “chim cánh vàng”. Đây là ba tiếng mà người Trung Hoa đã dùng để chỉ giống chim thần trong huyền thoại Ấn Độ mà tiếng Sanskrit gọi là garua (Pali: garua). Người Trung Hoa cũng phiên âm tên này thành ca lâu la hoặc ca lưu la. Con garuḍa, tức kim xí điểu, có đầu chim – chứ không phải đầu người – mỏ chim, cánh chim, móng chim và chân người, mình người – chứ không phải mình chim. Nó là vật cỡi của thần Viṣṇu bên Ấn giáo, là chúa tể của loài chim và là kẻ thù của loài rắn. Do đặc điểm này mà trong tiếng Sanskrit nó còn được gọi là nāga-damana, nghĩa là kẻ thuần phục loài rắn.”
Vậy thì garua khác gdhra vì một đằng là đại bàng còn một đằng là kên kên. Garua là biểu tượng của đất nước Indonesia (ngay cả sau khi nước này chuyển sang đạo Hồi). Công ty Hàng không Quốc gia của nước này là  Garuda Indonesia. Nó cũng là biểu tượng của Vương quốc Thái Lan, với cái tên phiên âm rút ngắn trong tiếng Thái Lan là Khruth.
Tóm lai, ông Huỳnh Ngọc Trảng đã cách cái mạng của kên kên thành đại bàng. Đây là một kiểu nhìn gà hóa cuốc trong chữ nghĩa.

Cuốn sách "Bên thắng cuộc" của Huy Đức: Cái nhìn thiên kiến về lịch sử (Đức Hiển - Pháp Luật Thành Phố Hồ Chí Minh)


02/01/2013 - 07:05

(PL)- Chưa bàn đến những chi tiết cụ thể của cuốn sách này, góc tiếp cận của tác giả đã khó vươn tới điều mình muốn: Hiểu đúng về bản chất của cuộc chiến tranh.

Bên thắng cuộc là cuốn sách gồm hai tập của Huy Đức. Phần I với tựa đềGiải phóng đã phát hành trên mạng Internet từ trung tuần tháng 12-2012. Nội dung xoay quanh những diễn biến tại Việt Nam từ sau ngày thống nhất 30-4-1975. Lời đầu sách, tác giả viết “không ai có thể bước tới tương lai một cách vững chắc nếu không hiểu trung thực về quá khứ. Nhất là một quá khứ chúng ta can dự và có phần cộng đồng trách nhiệm”.
Ngày thống nhất
30-4-1975 là ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam. Ngày mà những người anh em miền Nam buông súng đầu hàng miền Bắc. Ngày chấm dứt hơn 20 năm “da thịt tàn nhau, vạ trong tường vách”.
Ngay những dòng đầu tiên của chương đầu tiên, tác giả đã gói cuộc chiến chống ngoại xâm vỏn vẹn vào 20 năm. Song cuộc kháng chiến ấy thật sự bắt đầu từ hơn một thế kỷ trước đó, khi người lính đầu tiên của quân xâm lược Pháp đặt chân lên đất nước Việt Nam. Từ đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp, người Mỹ đã bộc lộ âm mưu can thiệp vào Việt Nam từ trận Điện Biên Phủ. Cuộc kháng chiến giành độc lập vì vậy đã trải qua thêm một chương bi tráng và khốc liệt: chống Mỹ.
Sự thật không thể phủ nhận là người Pháp đã khởi đầu chiến tranh, người Mỹ thay vai chuyển nó sang một giai đoạn khác và cả dân tộc này đã đổ máu xương để kết thúc nó. Không phải chỉ có 20 năm và càng không thể là cuộc chiến“da thịt tàn nhau, vạ trong tường vách” như Huy Đức đã viết.
Lịch sử diễn ra liên tục nhưng trong Bên thắng cuộc, nó bị cắt khúc ra, nhìn nhận như là cuộc chiến ý thức hệ, cuộc nội chiến Nam-Bắc của nội bộ người Việt từ năm 1954 đến ngày 30-4-1975. Cách lập luận này, người Mỹ đã nói từ mấy chục năm trước đó khi muốn có cớ can thiệp vào đất nước ta. Dù vậy, người Mỹ không thể phủ nhận sự thật là người Việt đang chiến đấu vì Tổ quốc mình.

Bìa cuốn sách Bên thắng cuộc do Huy Đức xuất bản với tư cách cá nhân và phát hành trên mạng Internet tháng 12-2012.
Cuộc chiến giành độc lập của người Việt Nam thực sự đã nổ ra từ trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào năm 1930 với rất nhiều cuộc khởi nghĩa và những phong trào đấu tranh, dù bị đàn áp, thất bại nhưng chưa bao giờ quy phục. Những người cộng sản chỉ nối tiếp sứ mệnh mà lịch sử giao phó. Vì thế, nó là cuộc chiến không của một chính thể mà của cả dân tộc. Càng không là cuộc chiến của miền Bắc XHCN với nửa nước còn lại. Vì thế, 30-4-1975 là ngày đất nước thống nhất sau hơn một thế kỷ bị xâm lược, đô hộ và chia cắt, không phải “Ngày mà những người anh em miền Nam buông súng đầu hàng miền Bắc”. Đó không phải là chiến thắng của một “bên thắng cuộc” hạn hẹp mà là chiến thắng của mọi người Việt Nam, trong đó cả những người từng ở phía bên kia.
Một nhân vật trong cuốn Bên thắng cuộc sau khi đọc sách đã nói rằng nếu không vì lòng yêu nước và tinh thần dân tộc mà chỉ là cuộc chiến Bắc-Nam thì sẽ không có những người ở Lạng Sơn, Thái Bình xung phong lên đường ra trận và chết ở Cà Mau. Và đâu phải chỉ có bộ đội miền Bắc vào Nam đánh Mỹ, chính nhân dân cả miền Nam đã làm nên Nam Bộ kháng chiến thời kháng Pháp rồi cùng nổi dậy Đồng khởi từ khi chính quyền Ngô Đình Diệm phá hủy hiệp định đình chiến và truy sát những người kháng chiến. Người Việt ở cả hai miền đã cùng cầm súng chống ngoại xâm.
Viết về chiến tranh không thể không nói đến mục đích, ý nghĩa, đối tượng, quy mô, thời gian và các bên tham chiến. Khi mục đích chống xâm lược giành độc lập và thống nhất nước nhà bị bỏ qua, sẽ không thể lý giải thỏa đáng nguyên nhân và ý nghĩa của chiến thắng, còn bóp méo sự thật lịch sử dù với bất cứ lý do gì thì đều là tệ hại.
Ngày cuối chiến tranh và “tù cải tạo”
Huy Đức viết: “Cuốn sách này bắt đầu từ những câu chuyện xảy ra trong ngày 30-4-1975. Ngày mà tôi, một cậu bé 13, trước giờ học chiều, đang vật nhau ven đồi thì nghe loa phóng thanh truyền tin “Sài Gòn giải phóng”.
Tác giả đòi hỏi “hiểu trung thực về quá khứ” nhưng lại nói về “bên thắng cuộc” bằng cách ghi nhận chỉ một phần những gì diễn ra với một số ít người ở phía bên kia. Nhiều trang sách đề cập những tướng lĩnh quân đội Sài Gòn tự sát trong ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh, mà tác giả gọi là “tuẫn tiết”. Sự tuyệt vọng dẫn đến cái chết ấy ở đây xin không bình luận. Nhưng tác giả từng là lính, không thể không biết những đồng đội thế hệ trước mình đã làm gì trong những ngày ấy. Hình ảnh ngày cuối chiến tranh không đơn giản chỉ là những chiến xa bánh xích hiền lành với những anh bộ đội miền Bắc lạ lẫm ở Dinh Độc lập sáng 30-4-1975.
Hơn 10 năm trước, một đoàn làm phim của hãng BBC qua Việt Nam, họ muốn làm một bộ phim về ngày cuối chiến tranh từ trận đánh cầu Rạch Chiếc. Nơi đó, trong ba ngày cuối cùng, một đơn vị bộ đội biệt động đã quần nhau với hai tiểu đoàn Trâu Điên giữ cầu và nhà máy điện Thủ Đức cùng với lực lượng chi viện hùng hậu. Nhiều người lính đã hy sinh trên cầu để chiếc cầu, nhà máy điện được giữ nguyên, cửa ngõ ấy mở ra cho những đoàn tăng T.54 vào giải phóng và góp phần giữ nguyên vẹn Sài Gòn cho hôm nay. Và trong những ngày ấy, có rất nhiều sự hy sinh như thế của những người lính giải phóng.
Bên thắng cuộc hướng suy nghĩ của người đọc rằng chế độ mới thiếu nhân văn khi nói về điều kiện sống của những sĩ quan chế độ Sài Gòn bị đưa đi học tập. Thật ra cái khó khăn mà những sĩ quan cao cấp đó gánh chịu chỉ bằng một phần rất nhỏ những gì mà quân và dân Việt Nam chịu đựng suốt trong hai cuộc kháng chiến, không lẽ tác giả không biết? Nhấn mạnh “chế độ hà khắc” của các trại cải tạo nhưng cuốn sách lại không nhắc đến những trại tù và cách ứng xử của chế độ Sài Gòn cũ đối với những người yêu nước. Không nhắc đến một thực tế là đã không có người tù cải tạo nào bị tra tấn bằng vôi bột, bị đóng đinh, gí điện, bị đánh đến tàn phế... như những gì mà nhiều người trong số họ từng đối xử với đối phương của mình ở Phú Lợi, Côn Đảo, Phú Quốc, Chuồng cọp Sở thú và hàng trăm nhà tù khác khắp miền Nam. Cuốn sách cũng đã không nói rằng sau khi tiếp quản, không hề có việc lê máy chém đi khắp miền Nam như chế độ cũ đã làm với cán bộ cách mạng và thân nhân trong Luật 10-1959.
Cần phải đặt trong sự tương quan khi nhận định về sự nhân văn nhưng tác giả cuốn Bên thắng cuộc đã không làm hoặc không muốn làm điều đó.
Để có bản tin giải phóng trên loa phóng thanh mà cậu bé 13 tuổi nghe khi đang vật nhau với bạn ven đồi, phải trả giá bằng trăm ngàn mất mát, đau thương chứ không đơn giản chỉ là việc húc đổ cổng Dinh Độc lập và cắm cờ trên nóc.
Nếu lịch sử được mô tả chỉ từ một hướng với sự sắp đặt thiên kiến thì nó không còn là lịch sử nữa.
Trên đây chỉ là một số nhận xét về cuốn sách. Người viết không có ý định đi sâu vào tính chính xác của từng sự việc, từng chi tiết bởi nó không mới và không hẳn cần thiết. Tuy nhiên, đã có phản hồi bất bình của những nhân vật trong sách, từ cả hai phía, về tính chính xác của các sự kiện và cách trích dẫn cắt cúp, tách bối cảnh ra khỏi sự kiện để gián tiếp giải thích nguyên nhân theo chủ kiến của tác giả.
Công bằng mà nói, lao động và khả năng của Huy Đức đối với việc sưu tập tư liệu cho cuốn sách là điều cần được nhìn nhận. Với ưu thế là phóng viên của nhiều tờ báo lớn như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn, Sài Gòn Tiếp Thị, anh có cơ hội tiếp cận với nhiều thông tin. Rất tiếc những thông tin ấy được cố ý sắp đặt để phục vụ chủ kiến của tác giả, vì vậy nó hoàn toàn không chân thật.
NGUYỄN ĐỨC HIỂN
TP.HCM ngày 31-12-2012
Hợp tác xã và thời bao cấp

Không thể phủ nhận nền kinh tế bao cấp đã không còn phù hợp sau một thời gian áp dụng nhưng cũng không thể chỉ nhìn thời bao cấp ở những trì trệ trong những ngày cuối cùng của nó. Tại một giai đoạn lịch sử nhất định, nhất là tại miền Bắc trước năm 1975, nó đã góp phần quan trọng tạo nên một hậu phương vững chắc để phục vụ kháng chiến chống Mỹ. Vì vậy khi phê phán hay rút kinh nghiệm đều cần phải đặt trong bối cảnh, thời điểm đặc biệt. Một doanh nhân đã nói: Có thể xem nền kinh tế bao cấp như một thai nhi nằm trong bụng mẹ. Thằng anh ra trước không thể chê trách thằng em mày có miệng, có mũi sao không thể tự ăn mà lại ăn qua dây rốn. Nhưng khi đã ra đời, sẽ là vô lý khi thằng em đã thành người mà vẫn phải nuôi sống mình bằng sợi dây rốn ấy. Thời bao cấp cũng cần được nhìn nhận như thế.
Bên thắng cuộc phê phán mô hình hợp tác xã ở miền Bắc trước giải phóng nhưng không nhìn thấy một điều: Nếu thời điểm ấy chia ruộng khoán ngay, những gia đình có con em đi bộ đội sẽ không còn nhân lực lao động. Ai sẽ yên tâm đi chiến đấu khi ở nhà không có người nhận khoán? Hợp tác xã đã giải quyết được vấn đề này và nhiều vấn đề khác vào thời điểm ấy.

Monday 31 December 2012

Đi tìm nguồn gốc địa danh Tư Nghĩa (Lê Hồng Khánh)

Đi tìm nguồn gốc địa danh Tư Nghĩa
TƯ NGHĨA, CHƯƠNG NGHĨA, TƯ NGÃI  
Địa danh Tư Nghĩa xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1471, khi vua Lê Thánh Tông thành lập đạo thừa tuyên Quảng Nam. Đạo thừa tuyên Quảng Nam có 3 phủ là Thăng Hoa (tương đương với tỉnh Quảng Namvà thành phố Đà Nẵng ngày nay), Tư Nghĩa (tương đương với tỉnh Quảng Ngãi), Hoài Nhơn (tương đương với tỉnh Bình Định). Huyện Nghĩa Giang nằm trong phủ Tư Nghĩa lúc bấy giờ chính là địa bàn huyện Tư Nghĩa và thành phố Quảng Ngãi ngày nay.
Tư  là nghĩ, suy nghĩ; nghĩ đến, lo liệu; mến nhớ[1]; Nghĩa (Ngãi) : nghĩa khí. Đặt tên Tư Nghĩa cho vùng đất nầy, người xưa muốn nhắc mình và hậu thế, rằng chữ  “Nghĩa” là điều phải hằng nhớ đến,  bằng cả lý trí và trái tim, trong ứng xử với trời đất và tha nhân.
Tuy nhiên, các địa danh Tư và Nghĩa đã xuất hiện ngay từ đầu thế kỷ XV, cụ thể là vào năm Nhâm Ngọ - 1402 (niên hiệu Thiệu Thành thứ 2, đời Hồ Hán Thương), khi nhà Hồ thực hiện quyền cai quản vùng đất Chiêm động và Cổ Lũy động; chia đất ấy thành 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa; đặt lộ Thăng Hoa thống hạt 4 châu, lập trấn Tân Ninh ở vùng đầu nguồn, cử quan lại cai trị đưa dân Việt vào khai khẩn, lại cấp cho trâu để cày bừa [2].
Chiêm động và Cổ Lũy động của người Chăm hay lộ Thăng Hoa của người Việt, chính là vùng đất về cơ bản thuộc tỉnh Quảng Nam, thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Ngãi ngày nay. Lộ Thăng Hoa có 4 châu:Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, trong đó châu Tư và châu Nghĩa về sau là đất Quảng Nghĩa/ Ngãi.
Thời Lê Trung hưng, xuất hiện địa danh Chương Nghĩa. Đây là một huyện nằm trong địa bàn phủ Tư Nghĩa, bao gồm huyện Tư Nghĩa và phần đất nằm phía tây bắc sông Vệ  của huyện Nghĩa Hành.
Chương  : là sáng r, rực rỡ; rõ rệt, rõ ràng. Chương Nghĩa mang hàm ý về nghĩa khí sáng ngời của những con người sống trên mảnh đất ấy.
Năm 1890 (Thành Thái năm thứ 2), huyện Chương Nghĩa đổi thành phủ Tư Nghĩa, đồng thời vùng đất phía tây bắc sông Vệ hình thành châu Nghĩa Hành (chữ Nghĩa trong địa danh Nghĩa Hành chính là lấy từ chữ Tư Nghĩa). Phủ Tư Nghĩa lúc này có 5 tổng với 67 xã thôn, bao gồm cả vùng đất ngày nay là thành phố Quảng Ngãi.
Cách đây chừng 3, 4 thập kỷ trở về trước, nhiều bậc cao niên thường gọi huyện Tư Nghĩa ngày nay là huyện Chương Nghĩa, vì quen theo cách gọi đã có lịch sử mấy trăm năm, tính đến thời điểm 1890.
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, trong một thời gian ngắn phủ Tư Nghĩa đổi tên là phủ Nguyễn Thuỵ , tên nhà lãnh đạo Việt Nam Quang phục Hội ở Quảng Ngãi. Đầu 1946, cấp tổng được bãi bỏ, các làng xã cũ hợp thành xã mới, phủ đổi thành huyện. Huyện Tư Nghĩa lúc này có 12 xã đều lấy chữ Nghĩa làm đầu: Nghĩa Lâm, Nghĩa Thắng, Nghĩa Điền, Nghĩa Kỳ, Nghĩa Lộ, Nghĩa Trang, Nghĩa Thương, Nghĩa Phương, Nghĩa Dõng, Nghĩa Hiệp, Nghĩa Hòa, Nghĩa Hà.
Sau khi tiếp quản tỉnh Quảng Ngãi, chính quyền Sài Gòn đổi đặt các xã trong huyện Tư Nghĩa, lấy chữ Tư làm đầu thay cho chữ Nghĩa. Thị xã Quảng Ngãi đổi là xã Cẩm Thành (gồm 4 ấp: Bắc Môn, Bắc Lộ,Nam Lộ, Thu Lộ). Cẩm Thành là tên gọi có từ xưa kia, có khi chỉ riêng cho thành, có khi chỉ chung cho toàn tỉnh Quảng Ngãi.
Cuối năm 1975, huyện Tư Nghĩa và thị xã Quảng Ngãi hợp nhất thành thị xã Quảng Nghĩatrực thuộc tỉnh Nghĩa Bình. Đến cuối năm 1981, thị xã Quảng Nghĩa lại tách thành 2 đơn vị huyện, thị xã như cũ, có điều chỉnh về địa giới: xã Nghĩa Dõng (sau tách thành 2 xã Nghĩa Dõng và Nghĩa Dũng) và một phần xã Nghĩa Điền (nay là xã Quảng Phú)  giao về thị xã Quảng Ngãi. Các xã mới dần dần hình thành và đến 2005 huyện Tư Nghĩa có 2 thị trấn, 16 xã[3].
Tiến sỹ nho học Lê Ngải (Ngại) trong cuốn sách bằng chữ Quốc ngữ có tên “Quảng Ngãi nhất thống chí” thì chép tên huyện Tư Nghĩa là “Tư Ngãi”.
Lê Ngải sinh năm Mậu Thìn – 1868, người xã Phổ Minh, huyện Đức Phổ, thi đỗ cử nhân khoa thi hương năm Tân Mão (Thành Thái năm thứ 3 – 1891) tại trường thi Bình Định, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân Năm Tân Sửu (Thành Thái thứ 13 – 1901). Ông từng giữ chức huấn đạo huyện Mộ Đức, chưa rõ mất vào năm nào, phần mộ hiện tọa lạc tại thị trấn Đức Phổ.
“Quảng Ngãi nhất thống chí” (bản chép tay) do Lê Ngải biên soạn, đến nay vẫn chưa có nhiều người được tiếp cận, nhưng là một tác phẩm biên khảo cung cấp nhiều tư liệu quý báu về lịch sử, quá trình diên cách, văn hóa và nhân vật vùng đất Quảng Ngãi, Tư Nghĩa.
 Là người tinh thông cả chữ Hán lẫn chữ Quốc ngữ, từng có thời gian giữ trách vụ đứng đầu việc giáo dục ở một huyện lớn của tỉnh Quảng Ngãi, nên những ghi chép của tiến sỹ Lê Ngải là thông tin nghiêm túc, đáng tin cậy. Rất có khả năng thời bấy giờ giới quan lại, viên chức đọc tên huyện Tư Nghĩa là Tư Ngãi.

NGHĨA VÀ NGÃI
Nghĩa và Ngãi thực ra là hai cách đọc (phát âm)  theo lối hán Việt của cùng một con chữ nói trên.
Nghĩa  biến thành Ngãi ( Quảng Nghĩa thành Quảng Ngãi, Tư Nghĩa thành Tư Ngãi) là do kiêng âm tên thuỵ chúa Nguyễn Phúc Thái (1849 – 1691), con trai Dũng Triết Vương Nguyễn Phúc Tần. Nguyễn Phúc Thái nổi tiếng là nhà chúa khoan hòa, trọng dụng người tài, giảm miễn sưu dịch cho dân, cải bỏ nhiều tập tục hủ lậu của người Đàng Trong. Thời nhà Nguyễn, ông được truy tôn miếu hiệu là Anh Tông, thụy là Thiệu Hư Toản Nghiệp Khoan Hồng Bác Hậu Ôn Huệ Từ Tường Hiếu Nghĩa hoàng đế, tên thường gặp trong sử sách là Hoằng Nghĩa Vương hay Nghĩa Vương.
Có một hiện tượng khá đặc biệt về kỵ huý trong lịch sử nước ta làLệ kiêng âm tên huý và tên thuỵ của các chúa theo đường truyền khẩu mà không ban chính lệnh. Mặc dù tìm mọi cách thoát khỏi chính quyền trung ương (do họ Trịnh thao túng, vua Lê chỉ làm vì), nhưng các chúa Nguyễn chưa bao giờ chối bỏ vai trò chính thống của họ Lê, kể cả khi Nguyễn Phúc Khoát đã xưng vương (1744). Đã thừa nhận vua Lê (dù chỉ trên danh nghĩa) thì việc ban chính lệnh để kỵ huý cho dòng họ mình là điều không hợp lý. Nhưng mặt khác, các chúa Nguyễn lại có quá trình lập nghiệp lâu đời ở Đàng Trong và là người thực tế giữ quyền uy cao nhất của vùng này. Dù thế nào, họ cũng có công đáng kể trong việc khai phá phương Nam. Uy tín và ân nghĩa của chúa Nguyễn trong dân chúng Nam hà là một thực tế không thể phủ nhận.
Lệ kiêng âm tên huý và tên thuỵ một biểu hiện của sự tôn kính bắt đầu từ trong phủ chúa, lan dần ra giới quan lại, rồi trở nên phổ biến trong dân gian, bám chặt vào ngôn ngữ đời thường và cùng những nét riêng khác về ngữ âm, từ vựng,... tạo nên sắc thái riêng của ngôn ngữ phương Nam
Quảng Nghĩa đọc thành Quảng Ngãi; Tư Nghĩa đọc thành TưNgãinhân nghĩa đọc thành nhơn ngãi...
Cũng có ý kiến cho rằng việc đọc chệch Nghĩa thành Ngãi là do kỵ húy tên bà Từ Dụ, mẹ vua Tự Đức, một người có gốc gác Quảng Ngãi. Thuyết nầy cho rằng bà Từ Dụ tên là Nguyễn Thị Ái Nghĩa. Trong một bài viết cách đây khá lâu, chúng tôi (LHK) đã chứng minh điều nầy là không đúng, vì tên thật của đức Từ Dụ là Phạm Thị Hằng
Đại Nam viết truyện (chính biên và tiền biên) có chép chuyện các Hậu phi, nhưng lại theo thể truyện của Minh Sử nghĩa là chỉ ghi họ và thuỵ hiệu còn tên huý thì “không ra khỏi phòng khuê”. Vì vậy, muốn truy tìm tên các bà phải dựa vào những tài liệu đương thời khác. Rất may, Đại Nam thực lục đã giúp chúng ta. Bộ chính sử này chép: Năm Tự Đức thứ 14 (1861) nhà vua sai Quốc sử quán cùng 3 bộ Lại, Lễ, Binh lập một danh sách 47 chữ kỵ huý và “hạ lệnh cho mọi người đều cấm không được đặt tên vào những chữ ấy, nếu ai trót đặt lầm phải thì cho đổi lại”. Trong 47 chữ ấy, chữ 46 là (đọc là Hằng), chữ 47 là (đọc là Thường, hoặc Hằng) được nói rõ là “2 chữ tên huý của Từ Cung”[4]
Đại Nam thực lục chính biên và Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ cho biết bà Từ Dụ còn có tên khác là Hạo, nhưng không được đưa vào qui định kỵ huý, vì theo chúng tôi, Hạo là một biệt âm (đọc chệch) của chữ Cảo - tên huý khác nữa của vua Gia Long.
Có vài ý kiến khác, cho rằng Nghĩa viết thành Ngãi là do người Pháp đọc chệch mà ra.
Suốt 87 năm đô hộ nước ta (1858 – 1945) đặc biệt là sau hiệp ước Patenotre (1884) người Pháp chẳng hề cải tên một tỉnh, thậm chí một huyện nào ở Trung kỳ, vùng đất trên danh nghĩa thuộc vua nước Đại Nam. Quảng Ngãi không nằm ngoài sự thật đó. Còn như nói rằng cải tên như thế cho dễ đọc thì lại càng lầm! Cả Nghĩa lẫn Ngãi đều rất khó phát âm đối với người Pháp; thậm chí tự dạng AI của chữ Ngãi rất dễ khiến họ đọc nhầm thành âm [E].
Để làm rõ hơn, chúng ta thử xem người phương Tây ký âm chữ Ngãi như thế nào trong ngôn ngữ của họ. Điều nầy quả thật khó khăn, nhưng rất may là trong cuốn sách du ký, có tên là “Xứ Đàng Trong năm 1621” nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha Cristopho Borri (1583 – 1632), đã kể ra 5 đơn vị hành chính – quản lý lãnh thổ của xứ Đàng Trong, theo thứ tự từ bắc vào nam mà ông ta đã đến là: Thuận Hóa, Cacciam (Quảng Nam), Quamguia (Quảng Ngãi, LHK nhấn mạnh) và Quingnim (Qui Nhơn).[5] Tiếng Bồ mà Cristopho Borri sử dụng trong cuốn sách của ông ta không phải là tiếng Pháp, nhưng đó là những ngôn ngữ cùng hệ và rất gần nhau, cả về ngữ âm, ngữ pháp và chữ viết.
Vậy đó, sự biến đổi từ Nghĩa sang Ngãi là chuyện của người ViệtNam, chẳng liên quan gì đến mấy ông Tây!
                                      Bến Hà Nhai, mùa thu năm Tân Mão - 2011
                                                                  Lê Hồng Khánh




[1] Nguyễn Văn Khôn; Hán Việt từ điển; Khai Trí; Sài Gòn 1960; Phần chữ Hán trong bài viết, chúng tôi theo cuốn từ điển nầy.
[2] Ngô Sĩ Liên và nhiều người khác – Đại Việt sử ký toàn thư - bản dịch Cao Huy Giu – NXB Khoa học xã hội – HN – 1968, t. III – tr 232 – 235.

[3] UBND tỉnh Quảng Ngãi; Địa chí Quảng ngãi; NXB Từ điển bách khoa. HN; 2008, trang  841 - 842
[4] Quốc sử quán triều Nguyễn - Đại Nam thực lục chính biên. NXB KHXH; HN; 1974.
[5] Cristophoro Borri Xứ Đàng Trong năm 1821. Hồng Duệ, Nguyễn Khắc Xuyên, Nguyễn Đình Nghi dịch và chú thích; NXB TP HCM 1998; trang 13.

Sunday 30 December 2012

Chân Lạp là nước nào?

Trung Quốc nhập khẩu nhựa cánh kiến (tức sen lắc / si lắc / gôm lắc) từ thời nhà Tùy, cuối thế kỷ thứ 7, khi các thuyền buôn Trung Hoa mon men thám hiểm xuống phương Nam. Do ngôn ngữ  bất đồng, các lái buôn Trung Hoa không biết gì về những người bạn hàng của họ. Do trong khi giao dịch hai bên thường nhắc đi nhắc lại từ chegn lak (trong tiếng Khơ me cổ có nghĩa là lấy nhựa si lắc), các lái buôn bèn ký âm chegn lak thành 真臘 để khai báo với quan trên về nguồn gốc hàng hóa. Người Việt phiên âm Hán Việt là Chân Lạp. Chân Lạp Quốc trên mặt chữ Hán được hiểu theo nghĩa là xứ có thứ sáp chính hiệu (the country of genuine wax)
Vương quốc Chân Lạp (tiếng Anh là Chenla Kingdom, tiếng Pháp là Royaume de Chenla) là một nhà nước hùng mạnh của người Khơ-me, tồn tại từ cuối thể kỷ thứ 6 đến đầu thể kỷ thứ 9. Năm 802 vua Jayavarman II lên ngôi xưng là chakravartin (nghĩa là vua của các vua / hoàng đế của thiên hạ) đặt nền móng cho đế chế Khơ-me. 

Thursday 27 December 2012

Cỏ cà ri có phải là hồ lô ba không?

Cỏ cà ri chính là hồ lô ba.
Tiếng Anh gọi cỏ cà ri là fenugreek, tiếng Pháp là fenugrec, tiếng Ý là fieno greco... do tiếng La Tinh là faenum graecum, (faenumcỏ khôgraecum, giống trung của graecus nghĩa là Hy Lạp).
Tên của cỏ này trong tiếng Ả Rập là hulba. Người Trung Quốc phiên thành hu2 lu2 ba1 ( 葫蘆巴), chuyển sang âm HánViệt thành hồ lô ba (Đào Duy Anh, 1950:639; Lê Khả Kế, 1978:78; Lê Khả Kế, 1981:90)