Friday 28 March 2014

Niềm tin của "sát thủ" từng ám sát Ngô Đình Diệm (Đại Dương - Dân Việt)


Niềm tin của "sát thủ" từng ám sát Ngô Đình Diệm

 - Từng được giới truyền thông thế giới chú ý đặc biệt sau sự kiện ám sát Tổng thống Ngô Đình Diệm thời Ngụy quyền, ông Hà Minh Trí khi ấy được coi là một tín đồ cuồng giáo của đạo Cao Đài, bị kết án tử hình...

Nhưng thực chất, ít ai biết rằng ông chính là một chiến sĩ cách mạng “nằm vùng” với nhiệm vụ, phải giết bằng được kẻ bán nước họ Ngô kia.
Ông Hà Minh Trí, người ám sát Ngô Đình Diệm nhưng bất thành.
Ông Hà Minh Trí, người ám sát hụt Ngô Đình Diệm.

Dù cuộc ám sát không thành công nhưng cuộc đời của người chiến sĩ Công an nhân dân Việt Nam này cũng có một vị trí đặc biệt quan trọng trong giai đoạn lịch sử đất nước sau hiệp định Giơ-Ne-Vơ. Và, phát súng của ông tuy không giết được Ngô Đình Diệm, nhưng cũng gây nên những chia rẽ nội bộ, nghi kỵ lẫn nhau trong giới chóp bu của chế độ Ngụy quyền, dẫn đến việc các thuộc cấp đảo chính, giết chết anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu không lâu sau đó. 

Tuổi thơ lang bạt 

Chúng tôi tìm tới nhà ông Hà Minh Trí vào một ngày cuối năm ngập tràn nắng ở khu phố Thái Ninh (phường 1, thị xã Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh) sau khi vượt quãng đường chừng 100 cây số từ trung tâm TP.HCM. Trong căn nhà cấp 4 nhỏ, có trồng nhiều cây xanh, đón tiếp chúng tôi là một người đàn ông với dáng người mảnh khảnh, thoạt nhìn giống một ông giáo quê về hưu hơn là một “sát thủ” từng gây chấn động khắp thế giới sau phát súng ám sát Ngô Đình Diệm cách đây hơn nửa thế kỷ. 

Nhưng, nếu nhìn kỹ vào đôi mắt, vẫn thấy những nét tinh anh của ông. 

Vừa mời khách uống nước, ông vừa kể. Tôi sinh năm 1935, tên thật là Phan Văn Điền, quê ở Nghi Thiết (Nghi Lộc, Nghệ An), nhưng từ nhỏ, ba tôi đã tham gia kháng chiến chống Pháp và hy sinh, mẹ đi bước nữa nên phải ở cùng ông bà nội. Khi nạn đói năm 1945 diễn ra, ông bà dắt tôi lên thành phố Vinh (Nghệ An) để ăn xin thì chẳng may bị thất lạc nhau. Còn tôi, trong những lần đi mót bông, đay đã lạc vào một trang trại lính Nhật đang đóng ở đó. 

Mặc dù là những kẻ giết người không ghê tay nhưng không hiểu sao, mỗi lần gặp tôi, một cậu bé chưa tới mười tuổi gầy gò, đen nhẻm, một số lính Nhật đã rất có cảm tình. Có lẽ, ở quê nhà phía bên kia đại dương, những người lính ấy cũng có gia đình, có một vài đứa con, như tôi chẳng hạn, nên họ quý mến mình. Ngoài việc được cho ăn cơm và cho đi chơi, những người lính ấy còn đem tôi từ Vinh vào một vùng đất vô cùng xa lạ, là tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu trong những lần di chuyển của họ. 

Ở Bà Rịa-Vũng Tàu một thời gian ngắn thì quân Nhật thua quân đồng minh nên tất cả tan rã, phải rút về nước. Sau đó, tôi được một cặp vợ chồng tốt bụng nhận làm con nuôi và đặt tên là Đinh Vạn Phú, vì bố nuôi tôi mang họ Đinh, cũng tham gia cách mạng. 

Có thể nói, bước ngoặt cuộc đời tôi chính là việc được tham gia cách mạng theo sự dẫn dắt của người cha nuôi. Lúc ấy, tôi mang bí danh Đinh Dũng, tham gia “Đội biệt động N2” ở Bà Rịa-Vũng Tàu với nhiệm vụ ám sát, bạo động, thủ tiêu những kẻ là tay sai, bè lũ thân Pháp trong vùng.
Khẩu súng cùng loại với súng mà ôngTrí đã bắn Ngô Đình Diệm.
Khẩu súng cùng loại với súng mà ôngTrí đã bắn Ngô Đình Diệm.

Đến năm 1948, được sự bố trí của tổ chức, tôi rời Bà Rịa-Vũng Tàu để ngược lên mạn biên giới Tây Ninh, tham gia vào đạo Cao Đài với những kế hoạch lâu dài dưới cái tên Triệu Thiên Hương. Tại đây, tôi đã kết thân được với một viên thiếu úy, là đồn trưởng đồn Cao Đài để thu giữ những bí mật, báo lại cho phía Việt Minh lên kế hoạch tấn công. Tuy nhiên, tôi đã bị bại lộ và bị bắt nhưng lại được anh trai của viên thiếu úy này cứu thoát. Sau đó, do tình hình bất lợi nên phải rút về căn cứ, hoạt động bí mật một thời gian.

Niềm tin của một sát thủ

Cần phải nhắc lại, trong thời gian này, tình hình đất nước đang vô cùng rối ren bởi sau khi Nhật đầu hàng, thực dân Pháp lập tức quay lại Việt Nam, dù trước đó chúng đã bị quân Nhật hất cẳng. Và, mặc dù đã bị thua tan tác ở chiến dịch Điện Biên Phủ và buộc phải ký kết hiệp định Giơ-Ne-Vơ, xóa bỏ chế độ Pháp thuộc ở Việt Nam, duy trì sự tự do, để toàn thể nhân dân Việt Nam được tự do bầu cử, tự mình quyết định lập chính phủ cho riêng dân tộc Việt Nam. Thế nhưng, với mưu đồ cực kỳ thâm độc, mặc dù rút hết quân khỏi Việt Nam nhưng quân Pháp lại hậu thuẫn lập lên một chính phủ bù nhìn ở miền Nam Việt Nam với quốc trưởng Bảo Đại và phó trưởng là Ngô Đình Diệm. 

Nhưng, cũng chỉ ít thời gian sau, chính Diệm, dưới sự hậu thuẫn của người Mỹ đã bất ngờ hất cẳng, đảo chính Bảo Đại để lên nắm quyền, tiến hành tổng tuyển cử ở miền Nam, thành lập chính phủ, tự phong mình là tổng thống. 

Với xuất thân là một người theo đạo Thiên Chúa giáo nên chủ trương của họ Ngô là duy trì, phát huy vai trò của đạo Thiên Chúa như một tôn giáo chính dưới thời mình cầm quyền, đồng thời hạn chế các tôn giáo khác như đạo Phật (khiến hòa thượng Thích Quảng Đức phải tự thiêu để phản đối), đạo Cao Đài, … Chính vì vậy, ngoài việc luôn là mục tiêu hàng đầu trong những cuộc ám sát của các chiến sĩ cách mạng, Ngô Đình Diệm cũng là kẻ thù của nhiều tín đồ tôn giáo khác. 

Lợi dụng tình hình này, các cán bộ đã quyết định giao nhiệm vụ ám sát Ngô Đình Diệm cho ông Hà Minh Trí, lúc ấy vẫn có nhiều mối quan hệ thân thiết với các tín đồ Cao Đài trong cái tên Mười Thương. 

Vừa nhìn ra những giỏ lan màu tím man mác treo lủng liểng trước cửa nhà, vừa nhấp ngụm nước trà, ông lão đã bước vào cái tuổi xưa nay hiếm trầm ngâm nhớ lại. Những ngày ấy, an ninh trật tự ở miền Nam hết sức phức tạp. 

Bên cạnh những cuộc chiến tranh giành quyền lực của các phe nhóm, giáo phái khiến chính quyền tổng thống Diệm luôn hết sức đề phòng thì an ninh ở tổng nha cảnh sát cũng luôn đặt ở mức báo động. 

Chính vì vậy, để lên kế hoạch ám sát một người đang là đương kim tổng thống là hết sức khó khăn. Nhưng bằng quyết tâm, phải giết bằng được Ngô Đình Diệm mới mong xóa bỏ được chế độ Ngụy quyền, tôi đã dày công nghiên cứu, tìm hiểu về những kinh nghiệm ám sát của những "sát thủ", cả trong sách lẫn trong cuộc sống hiện thực. 

Đầu tiên là việc luyện bắn súng. Có lẽ, để đạt được mục tiêu hạ thủ “con mồi” thì không có gì khác ngoài việc phải nhắm trúng mục tiêu, bắn nhanh và chuẩn xác, có thể chỉ là trong 1 hay 2 viên đạn. Với trình độ khoa học kỹ thuật thời đó, khẩu súng được tôi chọn lựa là khẩu MAT 49 với khả năng sát thương cao, có thể bắn liên tiếp nhiều viên đạn (khoảng 900 viên/phút) để tăng cao khả năng thành công. 

Tuy nhiên, do đặc điểm của khẩu súng MAT 49 của Pháp chế tạo là có nòng súng dài, báng súng và hộp đạn khá lớn, nặng nên gây khó khăn trong việc giấu vũ khí và ra tay khi có thời cơ. Thế là, sau một thời gian mày mò nghiên cứu, tôi đã quyết định tự cưa nòng súng ngắn lại theo phương pháp thủ công với mục đích có thể giấu súng vào trong áo khoát cho gọn gàng. Tiếp đến là phải tập bắn với khẩu súng đã cưa nòng này ở những cự ly, góc độ khác nhau. 

Thú thực, khi ấy, tôi đã nghĩ rằng, nếu có cơ hội tiếp cận Ngô Đình Diệm để thực hiện cuộc ám sát thì tôi có thể dùng nhiều loại vũ khí khác mà xác suất thành công hơn rất nhiều, như lựu đạn hoặc thuốc nổ, bom tự chế chẳng hạn. Tuy nhiên, lãnh đạo tổ chức đã quyết định không sử dụng các loại vật liệu nổ vì như vậy sẽ gây sát thương cho nhiều người, đó là điều nên tránh bởi mục tiêu chỉ là một mình Ngô Đình Diệm. 

Thứ 2, quan trọng không kém là vấn đề tự trấn an… chính bản thân mình bởi ai cũng biết, hậu quả của việc ám sát tổng thống, dù thành công hay thất bại thì kết cục chỉ có một, gần như nắm chắc cái chết chứ khó mà chạy thoát. Khi ấy, tôi cũng như nhiều thanh niên khác, đã có một người con gái để mình “thề non hẹn biển” nên mình cũng ít nhiều đắn đo, nếu chẳng may mình một đi không trở về, cô ấy sẽ sống ra sao. 

Tuy nhiên, bằng quyết tâm và ý chí sắt đá, tất cả vì một mục tiêu duy nhất mà cách mạng đã giao phó, tôi đã gạt bỏ tình riêng bởi nếu để Ngô Đình Diệm sống càng lâu thì càng có nhiều những cặp đôi lứa khác phải chia lìa. Có thể, bản thân mình chia lìa nhưng sẽ góp phần cho hàng ngàn những đôi lứa khác được sum họp, thì đó cũng là một điều đáng làm.

Thế nên, sau một thời gian chuẩn bị, thời cơ đã đến khi tình báo của Việt Minh xác định, Ngô Đình Diệm và đám thân tín sẽ xuất hiện tại Ban Mê Thuột vào thời điểm cuối tháng 10.1956 nên ông cùng các cộng sự đã sắp xếp, chuẩn bị bố trí để đón lõng Diệm với nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, giết chết vị tổng thống của chế độ Ngụy quyền miền Nam Việt Nam. 

***

Người chấn động Sài Gòn và phát súng định mệnh trên cao nguyên

 - Bằng nghị lực, quyết tâm và ý chí sắt đá, Hà Minh Trí dưới vai trò "một giáo sĩ đạo" vẫn quyết tâm thực hiện nhiệm vụ ám sát Ngô Đình Diệm. Nhưng tiếc rằng, cả 3 lần đều không giết được tổng thống họ Ngô này.

Mặc dù rất tích cực thu thập các tin tức tình báo nhưng những thông tin về hành trình của Ngô Đình Diệm luôn rất bí ẩn. Cụ thể, ông Trí và các cộng sự của mình chỉ biết được chắc chắn Diệm sẽ xuất hiện ở trên địa bàn tỉnh Tây Ninh trong tháng 10.1956 mà thôi chứ không thể biết thêm được chính xác ngày giờ cụ thể. 

Người “thợ săn” kiên trì 

Thế nên, ông và các đồng đội quyết tâm đeo bám, mai phục bằng được để có thể thực hiện thành công dự định của mình. Những ngày tháng cứ nặng nề trôi qua, những chiến sĩ cách mạng được cử đi đón lõng, mai phục đoàn xe chở tổng thống ở dưới vùng Củ Chi, Gò Dầu…những tuyến đường mà bắt buộc Diệm cùng đoàn tùy tùng sẽ phải đi qua nếu muốn từ dưới trung tâm Sài Gòn lên thị xã Tây Ninh. Mặc dù những ngày tháng 10 ấy lực lượng cảnh sát, mật thám liên tục tuần tra ráo riết nhưng bóng dáng Diệm và người em Ngô Đình Nhu vẫn chưa thấy đâu.
Ông Trí bị khống chế ngay sau khi nổ hai phát súng vào Tổng thống Ngô Đình Diệm
Ông Trí bị khống chế ngay sau khi nổ hai phát súng vào Tổng thống Ngô Đình Diệm

Mặt khác, theo sự phán đoán của ông Trí cùng những người đồng đội của mình thì Diệm sẽ xuất hiện ở Tây Ninh trong thời gian này do quân đội của anh em Diệm, Nhu vừa mới chiến thắng các cánh quân của giáo phái Cao Đài trong cuộc càn quét diễn ra nửa tháng trước khiến Giáo chủ Phạm Công Tắc thua trận, phải bỏ chạy sang bên phía Campuchia nên Diệm sẽ xuất hiện để động viên quân sĩ cũng như dằn mặt những kẻ chống đối y. 

Mặc dù phán đoán và có niềm tin như vậy nhưng chỉ có 3 ngày nữa là hết tháng 10 mà ông Trí vẫn chưa thấy Diệm xuất hiện. Những phương án ám sát gã tổng thống bán nước này đã được đề ra rất chi tiết và tỉ mỉ nhưng “con mồi” vẫn chưa xuất hiện. 

Đang trong lúc chờ đợi thì giữa trưa ngày 28.10.1956, một số anh em ở chợ Hòa Thành (huyện Hòa Thành, Tây Ninh) báo tin về là vừa có một đoàn xe với rất nhiều cảnh sát, mật vụ hộ tống đang chạy theo hướng Tây Ninh về Sài Gòn. Lúc này ông và các đồng chí lãnh đạo mới biết Diệm đã bí mật lên Tây Ninh từ lúc rạng sáng ngày hôm đó, sau khi họp bàn với địa phương rồi đến trưa xong việc là về luôn do hắn đã cảnh giác những nguy hiểm có thể xảy ra trong lúc tình hình đang hỗn loạn như thế này. Biết để “sổng” mất “con mồi” nhưng người thợ săn ấy vẫn không nản chí, kiên quyết đeo bám tới cùng với việc bắt đầu lên lịch cho một kịch bản tiếp theo.

Lúc này, tình hình an ninh xã hội ở miền Nam Việt Nam, đặc biệt là quanh khu vực Sài Gòn đang diễn biến vô cùng phức tạp. Ngoài lực lượng cách mạng đang hoạt động trong lòng nhân dân thì những giáo phái như Phật giáo, Cao Đài, Hòa Hảo… cũng liên tục đứng lên gây áp lực trước những chính sách tàn bạo của anh em nhà Diệm, Nhu. Vì thế, một mặt chúng thẳng tay đàn áp những người yêu nước, một mặt chúng tăng cường an ninh, cực kỳ cảnh giác mỗi khi xuất hiện. Thế nên, để thực hiện được mục đích của mình, ông Trí chỉ còn một cách duy nhất, dời Tây Ninh xuống Sài Gòn để tìm cách thực hiện nhiệm vụ khó khăn này. 

Lúc ấy là thời gian cuối năm 1956, ông Trí đã nhận định rằng, chắc chắn đến đêm ngày 24.12, tức là ngày Giáng sinh, Ngô Đình Diệm, một con chiên ngoan đạo sẽ đi lễ nhà thờ ở một thánh đường nào đấy. Và, nhiều khả năng địa điểm mà Diệm đến sẽ là Nhà thờ Đức Bà, nơi chỉ cách Dinh tổng thống (nay là Dinh Độc Lập) có vài trăm mét. Nhận định này của ông Trí càng có cơ sở khi 2 năm liên tiếp gần đây, Diệm cùng gia đình luôn được bố trí một dãy ghế trang trọng ở Nhà thờ Đức Bà để cầu nguyện cùng các bà con giáo dân khác. Thế nên, đêm Giáng sinh năm 1956 ấy, sau khi chuẩn bị đạn và khẩu súng MAT 49 cẩn thận, ông Trí khoác chiếc áo ngoài cũng đứng làm lễ cầu nguyện như bao người bình thường khác. 

Tại đây, ông được một số đồng đội của mình hỗ trợ để có thể trà trộn, tiến vào sâu trong thánh đường, dù đêm ấy có khá nhiều cảnh sát ở đó. Thời gian chầm chậm qua đi, chuông nhà thờ đã điểm thời khắc Giáng sinh mà vẫn không thấy bóng dáng Diệm đâu mặc dù trong lúc chờ đợi, ông thấy một dãy ghế trước nơi ông đứng khoảng 20m được bỏ trống, có nhiều cảnh sát, mật vụ đứng canh gác.

Sáng sớm hôm sau, xem báo đưa tin tức ông mới vỡ lẽ, Ngô Đình Diệm đã có sẵn kế hoạch cùng gia đình đón lễ Giáng sinh ở Nhà thờ Đức Bà rồi nhưng đúng vào phút cuối cùng, Diệm lại lên xe để đi về vùng biên giới Đức Huệ (tỉnh Hậu Nghĩa, nay là tỉnh Long An) cách trung tâm Sài Gòn hàng trăm cây số để đón Giáng sinh, cũng trong một tòa Thánh đường ở địa phương đó. 

Nguyên nhân được xác định cho sự thay đổi lịch trình vào phút cuối cùng là do ở vùng Đức Huệ lúc đó vừa lập được một số “khu trù mật” đặc biệt nên tình hình an ninh trật tự còn phức tạp. Ngô Đình Diệm đã đích thân công du tới đó dự lễ Giáng sinh cùng giáo dân để xoa dịu tình hình, đồng thời khích lệ một số sĩ quan đồn trú tại Đức Huệ. Và, sự việc vô tình ấy lại nằm ngoài tính toán của ông Trí và các đồng đội khiến cuộc ám sát một lần nữa lại thất bại đúng vào phút chót.

Khi gặp gỡ chúng tôi, ông Trí còn cho biết rằng, nếu đêm Giáng sinh năm đó, Diệm không bất ngờ xuống đón Giáng sinh ở Đức Huệ thì đó có thể là đêm định mệnh của y bởi khả năng ông thực hiện thành công vụ ám sát trong Nhà thờ Đức Bà lúc ấy là rất lớn. Khoảng cách ông tiếp cận cũng rất gần, ngay cả nhà thờ cũng đã dành sẵn 1 chỗ cho Diệm để ngồi, mật vụ cũng được lệnh phong tỏa nhà thờ nhưng y lại không đến như lịch trình đã định sẵn.

Phát súng rung chuyển lịch sử

Sau 2 lần thực hiện hụt kế hoạch của mình khiến ông Trí tuy có nôn nóng vì kẻ bán nước hại dân chưa được trừng trị nhưng vẫn không nản chí, kiên quyết theo đuổi mục tiêu tới cùng. 

Và, cơ hội cuối cùng cũng đã đến khi báo giới Sài Gòn thời bấy giờ loan tin, khoảng đầu tháng 2.1957 Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu sẽ tới dự lễ cắt băng khánh thành và đọc diễn văn khai mạc “Hội chợ kinh tế cao nguyên” tại thành phố Buôn Ma Thuột. Thế nên, ông Hà Minh Trí đã xin với cấp trên, quyết tâm một lần nữa thực hiện kế hoạch ám sát Ngô Đình Diệm của mình. 

Để kế hoạch lần này được hoàn tất, ông Trí đã 3 lần bắt xe đò từ Chợ Lớn đi Buôn Ma Thuột để nắm bắt tình hình cũng như địa hình của nơi diễn ra hội chợ.

Cuối cùng, đúng như dự đoán, Ngô Đình Diệm đã đích thân tuyên bố sẽ tham dự và cắt băng khánh thành Hội chợ kinh tế cao nguyên vào ngày 22.2.1957 tại Buôn Ma Thuột nên từ Sài Gòn, chiều ngày 21.2, ông Trí cùng một đồng chí nữ là Nguyễn Thị Vân, một giao liên trong vai trò một cặp vợ chồng mua vé từ bến xe Chợ Lớn lên Buôn Mê Thuột. 

Chiếc xe đò vun vút lao trong màn đêm đưa hai vị hành khách trắng đêm không ngủ xuyên qua núi rừng Tây nguyên âm u. Đến bến xe Buôn Ma Thuột lúc 6g ngày 22.2, nữ giao liên Vân muốn ở lại để hỗ trợ nhưng ông Hà Minh Trí nhất quyết bảo người đồng chí của mình bắt xe về lại Sài Gòn luôn vì sợ bị liên lụy. Còn lại một mình, ông nhanh chóng tiến về phía lễ hội. 

Do đã có chuẩn bị từ trước nên mặc dù có đem theo khẩu súng MAT 49 đã cưa nòng cùng 21 viên đạn nhưng ông cũng dễ dàng lọt qua mạng lưới quân cảnh, mật vụ để áp sát lễ đài. Đúng 8 giờ sáng, sau khi đáp chuyến bay từ Tân Sơn Nhất lên, Diệm đã lên thẳng lễ đài đọc diễn văn khai mạc. 

Khi tiếng nhạc và nghi thức chào cờ bắt đầu, ông Trí từ từ nâng khẩu súng, nhằm thẳng đầu Ngô Đình Diệm bóp cò. Do súng đã bị cưa nòng nên mặc dù khoảng cách tiếp cận chỉ khoảng 30 mét nhưng viên đầu tiên bị kẹt đạn. Đến viên thứ 2, tiếng súng nổ vang lên thì Bộ trưởng Bộ Canh nông của chế độ Việt Nam cộng hòa khi ấy là Đỗ Quang Công đã nhích người sang, hứng trọn viên đạn thay cho Ngô Đình Diệm. 

Tiếng nhạc im bặt, cả ngàn người nhốn nháo, hò hét còn Diệm thì lẫn nhanh vào đám đông cùng những tùy tùng của mình. Ông Trí bị khống chế ngay lập tức và được đưa về Sài Gòn, bắt đầu những năm tháng tù đày trong lòng địch.

Mặc dù không giết được Tổng thống Ngô Đình Diệm nhưng sự kiện ấy cũng gây chấn động giới truyền thông Sài Gòn và thế giới. Cái tên Hà Minh Trí bắt đầu nổi tiếng và trở thành niềm khích lệ cổ vũ cho nhiều thế hệ người yêu nước muốn trừ khử kẻ bán nước hại dân Ngô Đình Diệm kia.

Người ám sát hụt Ngô Đình Diệm - Người chiến thắng trở về

 - Sau phát súng định mệnh ấy, tuy không giết chết Ngô Đình Diệm nhưng ông Trí đã bị bắt và nhanh chóng được đưa về Sài Gòn bằng một chuyến xe đặc biệt, bị biệt giam chờ ngày hành quyết.

Trong khoảng thời gian 3 năm sau đó, ông liên tục bị chuyển trại giam, bị tra tấn xét hỏi với mong muốn ông phải khai ra những người chỉ huy, người ra lệnh hoặc giúp đỡ mình. Lúc này, trong mắt nhà cầm quyền Ngô Đình Diệm, ông Trí vẫn là một tín đồ của đạo Cao Đài cuồng giáo đi giết Ngô tổng thống để trả thù cho giáo chủ Cao Đài chứ không ai biết ông là một chiến sĩ cách mạng.
Căn nhà ông Trí ở hiện nay
Căn nhà ông Trí ở hiện nay

Người tử tù không chết

Mặc dù phải chịu nhiều cực hình, tra tấn nhưng bằng quyết tâm và nghị lực phi thường, ông Trí nhất quyết không khai ra những người đồng đội của mình. Tuy nhiên, để những tay mật thám ở nha cảnh sát thực sự tin ông chỉ đơn thuần là tín đồ hành động một cách bột phát, ông Trí đã phải vận dụng hết những kiến thức và hiểu biết của mình về đạo Cao Đài để chiếm được lòng tin của chúng. 

Thế nên, sau nhiều lần tra khảo không đem lại kết quả gì mới mẻ, chúng quyết định tuyên án tử hình ông bằng… miệng mà không cần xét hỏi, tòa án hay phán quyết gì. Đây là một kết cuộc mà bản thân ông cũng như nhiều người đồng chí đã hình dung ra, đã chuẩn bị sẵn tâm lý bởi đơn giản, đã dám ra tay ám sát tổng thống đương nhiệm thì kết cục khó có thể khác được. 

Tuy nhiên Ngô Đình Diệm đã không để ông Trí chết một cách dễ dàng mà tạo ra một kịch bản độc ác có một không ai, ấy là một mặt tuyên bố sẽ đưa ông, cùng với hàng trăm người tù chính trị phản đối mình ra Côn Đảo để giam giữ nhưng lại lén lút đưa một máy bay chở nhiều bom, đạn nhằm nhấn chìm chiếc tàu ấy cùng hàng trăm mạng người kia rồi dựng kịch bản một tai nạn thiên nhiên.

Kể về chuyện này, ông Trí vừa uống thêm ngụm nước, nhìn ra những giỏ lan màu tím trước sân đang đung đưa trong gió, vừa nhớ lại. Đó là những ngày giữa tháng 10.1963, tôi đang bị biệt giam tại khu A1 ở nhà giam Chí Hòa, nơi dành cho những tử tù thì được lệnh chuyển trại, phải di chuyển ra Côn Đảo. 

Cũng trong ngày hôm ấy, tôi bị áp giải đến bến cảng Sài Gòn, nơi có con tàu Hàn Giang 401 đã đậu sẵn ở đấy rồi. Lúc này, tôi mới biết đây chính là chuyến tàu sẽ đưa những người tù bị kết án tử hình ra ngoài Côn Đảo hành quyết. Trong bản danh sách những người chịu án tử là 41 người thì có tới 40 người là thuộc phe đối lập với anh em nhà họ Ngô và một tên cướp. 

Dù không có tên trong danh sách ấy nhưng tôi vẫn bị đẩy lên chuyến tàu này. Sau đó tôi mới biết rằng, không chỉ riêng tôi mà hơn 300 tù nhân khác, là những chiến sĩ cách mạng và những người từng âm mưu lật đổ Ngô Đình Diệm trước đó mấy năm cũng bị đưa lên đây. 

Tổng số tù nhân có mặt trên tàu Hàn Giang 401 này khoảng 400 người. Sau khi khởi hành được nửa ngày, đến đêm hôm đó, khi chiếc chiến hạm đang lênh đênh trên biển khơi mênh mông thì mọi người trên tàu nghe thấy tiếng máy bay vù vù trên đầu. 

Chạy lên khoang, tất cả đều nghĩ rằng đó chỉ đơn giản là chiếc máy bay mà chính quyền dùng để áp giải chiếc chiến hạm với rất nhiều phần tử đối lập mà thôi. Tuy nhiên, khi chiếc máy bay bật đèn xanh, hạ thấp độ cao thì mọi người vô cùng hoảng hốt, la hét và định nhảy xuống biển bởi đó là tín hiệu báo chuẩn bị… bỏ bom. 

Khi ấy, suy nghĩ duy nhất mà ai cũng có thể hình dung ra là Ngô Đình Diệm đã “gom” tất cả những người tù, mà thực ra là những kẻ chống đối lại y rồi “ra tay” một lúc. Tuy nhiên, đột nhiên chiếc máy bay chao mạnh, lắc lư một hồi rồi vút lên không, bay đi mất dạng mà không ai biết vì sao.

Sau này, khi đã được tự do, tôi mới biết chính xác diễn biến sự việc của đêm hôm đó. Tất cả là do Ngô Đình Nhu, em trai của Diệm đã mật lệnh cho một viên tướng chỉ huy đội bay chở đầy bom xuất phát từ lãnh thổ Campuchia với nhiệm vụ “xóa sổ” chiếc chiến hạm Hàn Giang 401 và mấy trăm con người kia. 

Tuy nhiên, tất cả đều nằm ngoài dự tính của Nhu bởi viên sĩ quan này lại thuộc nhóm thân Mỹ, đang có ý định lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm nên anh ta đã bất tuân thượng lệnh vào đúng giây phút cuối cùng. 

Nhưng, đến ngay cả bây giờ, sau khi tất cả mọi biến cố đi qua, ông Trí cũng không hiểu tại sao anh em Diệm, Nhu lại phải bày ra một kịch bản với nhiều tình tiết có xác suất không thành công cao như vậy trong khi bọn chúng hoàn toàn có thể thủ tiêu tất cả những người tù này bằng nhiều cách khác đơn giản hơn trong lúc giam giữ, bởi mọi người đều đã bị bắt, sống nhiều ngày trong các nhà tù tối tăm rồi. 

Có lẽ, đó là một câu hỏi mà ẩn số của nó vĩnh viễn không ai có thể biết bởi chỉ sau sự kiện ấy ít hôm, 2 người bày ra kịch bản ấy là Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đã bị chính những thủ hạ của mình lật đổ, giết chết, đem theo vô vàn bí ẩn của lịch sử xuống lòng đất sâu.

Những năm tháng yên bình

Ở Côn Đảo, cũng như hàng ngàn tù nhân khác, ông Trí cũng bị nhốt vào những chuồng cọp "danh tiếng" với nhiều cuộc tra tấn tàn bạo và khốc liệt. Tuy nhiên, chỉ ít lâu sau khi ông đặt chân lên hòn đảo này, ở đất liền, tin tức được loan đi, anh em Diệm, Nhu đã bị những tướng tá thuộc hạ của mình đảo chính và giết chết, kết thúc quãng thời gian gần mười năm cầm quyền theo kiểu gia đình trị này.
Ông Hà Minh Trí trong một lần gặp gỡ Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Ông Hà Minh Trí trong một lần gặp gỡ Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Khi ấy, tướng Dương Văn Minh lên làm Quốc trưởng, thay thế Ngô Đình Diệm và ông Hà Minh Trí cùng với nhiều người thuộc phe đối lập anh em họ Ngô trước kia được đưa trở lại đất liền. 

Tuy nhiên, trong khi những tù nhân khác - vì mang tội chống Ngô - đã được thả tự do thì ông Trí vẫn bị giam ở Tổng nha Cảnh sát. Có điều, không như những tháng ngày trước, giờ ông chỉ bị giam lỏng, vẫn có thể đi ra sân mỗi buổi chiều để hít thở khí trời. 

Nhiều lần, bản thân ông đã có những thắc mắc với Tổng nha Cảnh sát mình chỉ đơn thuần là một người chống Diệm, bây giờ Diệm đã chết, mình đương nhiên sẽ hết tội. Tuy nhiên, đáp lại nguyện vọng của ông, cảnh sát trưởng chỉ cho biết đang chờ lệnh từ cấp trên mà thôi.

Những tháng ngày sau khi anh em Diệm, Nhu chết, tình hình chính trị ở Sài Gòn hết sức rối ren bởi các phe cánh luôn muốn tranh giành quyền lực, muốn nắm giữ các chức vụ chủ chốt. Chính vì thế, chỉ một thời gian ngắn sau khi nắm quyền, Dương Văn Minh đã bị tướng Nguyễn Khánh đảo chính. 

Rồi cũng chỉ ít tháng sau, Nguyễn Khánh lại bị phe của Phan Khắc Sửu lật đổ, giành lấy chính quyền vào năm 1964. Sau khi lên nắm quyền, Phan Khắc Sửu - một tín đồ của đạo Cao Đài - đã quyết định thả tự do cho Hà Minh Trí dưới áp lực của dư luận báo chí và luật sư Ngô Bá Thành. 

Đó là những ngày đầu tháng 3.1963, sau hơn 8 năm bị tù đày vì phát súng ám sát Ngô Đình Diệm trên Tây nguyên, ông đã chính thức trở thành người tự do. Và, cũng rất nhanh, sau khi ra tù có 3 ngày, ông đã liên lạc được với những đồng đội cũ của mình và được đưa về công tác ở Khu ủy Sài Gòn-Gia Định nằm tại địa phận huyện Củ Chi, tiếp tục hoạt động phục vụ cho phong trào cách mạng miền Nam thời bấy giờ. 

Tại nơi công tác mới, nhằm đảm bảo tính bí mật của tổ chức, từ đầu năm 1965, ông được đổi tên là Phan Văn Điền, công tác tại Ban an ninh Khu ủy Sài Gòn-Gia Định, chính thức đứng trong hàng ngũ lực lượng Công an nhân dân. Về sau, khi đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, do đặc thù công tác, ông lại được điều chuyển về Tây Ninh với nhiệm vụ là Phó ban Nội chính tỉnh Tây Ninh. 

Đến năm 1992, ông tiếp tục công tác ở vị trí Trưởng ban Tuyên giáo Tây Ninh cho tới năm 1999 thì nghỉ hưu theo chế độ. Từ đó đến nay, ông sống cùng gia đình ở một gian nhà nhỏ nằm trên địa bàn thị xã Tây Ninh với những năm tháng yên bình, bỏ lại đằng sau một quãng đời, cũng là một thời lịch sử hoạt động đầy biến động và bất khuất.

Và vinh dự đã đến với ông vào năm 2005, kỷ niệm 60 năm ngày thành lập lực lượng Công an nhân dân, ông Phan Văn Điền, tức Hà Minh Trí đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân vì những thành tích, vì đã cống hiến gần như cả cuộc đời mình cho nhân dân. 

Ông chia sẻ với chúng tôi, những năm cuối đời này, khi con cháu đều đã trưởng thành và khôn lớn, ông luôn cảm thấy mãn nguyện với cuộc sống hạnh phúc của mình. Ông cũng vừa trải qua một đợt tai biến khá nguy hiểm nhưng đã được các y, bác sĩ tận tình cứu giúp nên sức khỏe đã hồi phục rất nhiều.

Chuyện về người 3 lần ám sát Ngô Đình Diệm (Quang Sang - Công An Thành Phố Đà Nẵng)

Chuyện về người 3 lần ám sát Ngô Đình DiệmCập nhật: Thứ tư, 17/6/2009 - 0h0'

Bài 1:  Phát súng trên cao nguyên
(Cadn.com.vn) - Nhiều người xem bộ phim truyện Việt Nam nổi tiếng “Ván bài lật ngửa” hẳn không bao giờ quên hình ảnh ấn tượng về chàng thanh niên tuổi đôi mươi dũng cảm lọt qua giữa rừng địch, giương súng nhắm vào Tổng thống Ngô Đình Diệm bóp cò khi ông ta đang đọc diễn văn khai mạc “Hội chợ kinh tế cao nguyên” diễn ra ngày 22-2-1957 tại TP Buôn Ma Thuột (Đắc Lắc). Thế nhưng, rất ít người biết rằng nhân vật trong bộ phim ấy được lấy từ hình mẫu ngoài đời của đồng chí Mười Thương (1935 - tức Phan Văn Điền, Hà Minh Trí...) - Anh hùng LLVTND, nguyên thành viên Ban An ninh T.Ư Cục miền Nam, Trưởng ban Điệp báo Ban An ninh tỉnh Tây Ninh.
Ngôi nhà ngói ba gian kiểu truyền thống miền Tây Nam Bộ của gia đình ông nép mình dưới vườn cây trái sum suê, thanh bình ở P. 1, TX Tây Ninh (Tây Ninh). Thoáng chút ngạc nhiên khi nghe tôi giới thiệu từ Đà Nẵng vào, ông nhanh chóng sôi nổi bắt chuyện, xua đi cảm giác áy náy của khách lạ bởi tìm đến nhà ông không phải lúc trong một hoàn cảnh khá đặc biệt: Hai vợ chồng ông vừa chẳng may gặp phải vụ tai nạn khá nghiêm trọng. Thật lạ, ở người đàn ông có dáng người mảnh mai, gương mặt hiền, đôi mắt sáng vẫn toát lên sức sống mãnh liệt của ý chí, sự cương nghị và niềm kiêu hãnh. Ông kể về cuộc đời hoạt động cách mạng của mình một cách rành rọt, chi tiết xen với những bình luận, nhận xét về dòng lịch sử thời cuộc sắc sảo.
Anh hùng LLVTND Mười Thương trò chuyện cùng tác giả. 

Ông bảo, Tây Ninh chỉ là quê hương thứ hai, thực ra quê gốc của ông ở Cửa Lò, Nghi Thiết (Nghi Lộc, Nghệ An). Năm 9 tuổi, cha ông hy sinh trong cuộc binh biến Đô Lương. Mẹ bỏ nhà đi, ông và bà nội mù lòa phải bấu víu vào nhau. Lúc này, vợ chồng người bác ruột mới đón hai bà cháu lên trú trong một lò gạch ở khu cầu Bùn ở sông Cửa Lò chạy trốn nạn đói này. Lúc này, Nhật hất cẳng Pháp và đồng minh tại Đông Dương. Quá nhỏ để hiểu hết thời cuộc, lúc đầu ông lại có “cảm tình” với lính Nhật bởi chúng cho ông ăn, bắc lại cây cầu bị đánh sập để bà cháu đi lại. Một hôm, bọn Nhật rủ ông đi chơi.
Ông chạy về nhà xin bà nội cho đi mà không ngờ đó là chuyến từ biệt cuối cùng người thân và sau này đưa ông đến với cách mạng ở miền Nam. Lính Nhật đưa ông vào tận Thủ Đức (Sài Gòn) rồi Bà Rịa - Vũng Tàu (BR-VT)để chăn ngựa cho chúng. Nhưng cũng chính tại đây, ông đã được người cha nuôi tên Đinh Văn Châm - người trong cơ sở cách mạng và Châu Văn Viễn - Trưởng ban Công tác biệt động thành BR-VT đã dìu dắt, bắt liên lạc với thiếu úy Phạm Ngọc Chẩn - Trưởng đồn bờ đập Cao Đài để nắm tình hình quân báo các đồn địch đóng quanh vùng căn cứ kháng chiến, phục vụ cho việc tấn công tiêu diệt các đồn này. Ông đã hoàn thành xuất sắc vai trò của mình, kể cả lúc bị địch nghi ngờ bắt, tra tấn nhưng ông vẫn một mực không khai báo, buộc chúng phải thả ông ra tiếp tục hoạt động cho cơ sở cách mạng tại vùng Châu Thành (Tây Ninh).    
 Nhưng sự kiện đưa ông trở thành nhân vật gây chấn động dư luận chính trị trong và ngoài nước cách đây hơn nửa thế kỷ chính là việc 3 lần ám sát Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông nhớ lại, tháng 5-1955, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tây Ninh chỉ đạo Ban Địch tình tổ chức đội vũ trang diệt ác, mà mục tiêu hàng đầu chính là tiêu diệt tên đầu sỏ bộ máy chính quyền ngụy quyền Sài Gòn, tay sai của Mỹ này. Đích thân đồng chí Lâm Kiểm Xếp - Trưởng Ban địch tình giao nhiệm vụ cho ông tổ chức diệt bằng được Tổng thống Diệm. Lần đầu vào tháng 10-1956, khi anh em Diệm - Nhu (Ngô Đình Nhu) lên Tòa thánh Tây Ninh để ký thỏa thuận ước Bính Thân với tôn giáo Cao Đài.
Năm 2005 ông Mười Thương nhận danh hiệu Anh hùng LLVTND do Nhà nước trao tặng. 
Thời gian quá gấp rút mà các cơ sở cũng không biết chính xác ngày, giờ Diệm sẽ lên Tây Ninh, phần vì lực lượng an ninh, cảnh sát lùng sục, bố ráp khắp vùng để dọn đường cho Diệm nên cuộc mưu sát Diệm không thực hiện được. Ông lại chủ động đề xuất tổ chức ám sát Diệm lần thứ hai vào đêm Giáng sinh 1956 tại Nhà thờ Đức Bà (Sài Gòn). Đêm Noel, ông giấu khẩu súng colt 9 ly và quả lựu đạn trong người lọt qua hàng rào an ninh vào bên trong nhà thờ Đức Bà, ngồi sau hàng ghế của bọn bộ trưởng, thứ trưởng chỉ chờ Diệm đến là hành động. Thế nhưng, đến 14 giờ, khi Tổng Giám mục gióng chuông hành lễ, anh em Diệm - Nhu vẫn không thấy xuất hiện. Đến sáng 25-12-1956, báo chí đưa tin, ông mới biết đêm qua, Diệm đến dự lễ cầu nguyện cùng với giáo dân miền Bắc tại tỉnh Long An.
Ông kể, qua kênh báo chí Sài Gòn, tôi biết được anh em Diệm - Nhu sẽ lên Buôn Ma Thuột dự lễ cắt băng khánh thành và đọc diễn văn khai mạc “Hội chợ kinh tế cao nguyên” diễn ra ngày 22-2-1957. Tôi chủ động đề xuất tổ chức cho phép lên Buôn Ma Thuột ám sát Diệm lần thứ ba với phương án dùng lựu đạn ám sát Diệm. Thế nhưng, BTV Tỉnh ủy Tây Ninh chỉ cho phép ám sát Diệm với phương án: “Nổ súng diệt Diệm vào lúc chúng bắt đầu chào cờ, không được dùng lựu đạn vì có thể gây thương vong cho người dân”. Biết Diệm dự Hội chợ kinh tế cao nguyên là nguy hiểm, Nhu cho giăng một mạng lưới bảo vệ dày đặc gồm: quân đội, cảnh sát, tình báo, an ninh quân đội, quân cảnh và cả lực lượng bảo an bên ngoài lẫn bên trong hội chợ. Sáng 22-2, sau khi điều nghiên địa hình, ông giấu khẩu tiểu liên 3 tấc gắn hộp đạn 50 viên sau chiếc áo ấm chui vào lỗ hàng rào chọn vị trí thuận lợi nhất chờ giờ hành động.
Đúng giờ khai mạc, khi Diệm-Nhu và bộ máy chính quyền họ Ngô đứng dậy làm lễ, ông đưa tay lấy khẩu tiểu liên nhằm mục tiêu là Diệm nổ súng. Viên đạn thứ nhất nổ đoàng, tên Bộ trưởng Bộ Canh nông vô tình đưa lưng đỡ đạn cho Diệm, chết ngay tại chỗ. Bọn cảnh vệ, mật vụ vội cõng Diệm bỏ chạy tán loạn, trong khi ống kính máy ảnh, truyền hình trong và ngoài nước không bỏ lỡ cơ hội thu nhanh hình ảnh hoảng loạn. Tiếp tục bóp cò nhưng chẳng may khẩu súng kẹt đạn, ông đang lên nòng chuẩn bị bắn tiếp thì mười mấy tay cảnh vệ ập đến đè ông xuống, đấm đá túi bụi rồi bắt giữ ông. Kể đến đây, ông bảo: “May cho tên họ Ngô không trúng đạn. Nếu là lựu đạn thì y chết chắc. Sau này tôi mới hiểu vì sao Tỉnh ủy Tây Ninh chỉ cho phép dùng súng diệt Diệm là vì lúc đó có một cán bộ cao cấp của ta cài vào bộ máy chính quyền Diệm và luôn theo sát Diệm - là sĩ quan biệt bộ Phủ Tổng thống Phạm Ngọc Thảo - nhân vật chính trong bộ phim “Ván bài lật ngửa” (Phạm Thành Luân)...
Quang Sang (còn nữa)

Chuyện về người 3 lần ám sát Ngô Đình Diệm (2)Cập nhật: Thứ năm, 18/6/2009 - 0h0'

Bài cuối: Câu chuyện cảm động của người tử tù
(Cadn.com.vn) - Diệm thoát chết vì không trúng đạn nhưng điều không may cho Mười Thương là đã sa vào tay giặc và bị kết án tử hình. Ông đã phải trải qua các nhà lao Ban Mê Thuột, Sở Thú, Tổng Nha Cảnh sát, Trại giam Chí Hòa và bị lưu đày ra nhà tù được mệnh danh là “địa ngục trần gian” Côn Đảo. Ở đâu ông cũng chết đi sống lại không biết bao lần dưới sự tra tấn dã man tàn bạo của kẻ thù, nhưng luôn giữ vững khí tiết của người chiến sĩ an ninh, lòng kiên trung bất khuất và sự khôn khéo dưới vỏ bọc là người của Cao Đài.
Ngay tại Ban Mê Thuột, đích thân Ngô Đình Nhu tra hỏi ai đã giật dây cho ông ám sát Ngô Đình Diệm và chỉ đạo thuộc hạ hàng tháng trời tra tấn ông bằng mọi thủ đoạn tàn ác, dã man như: Chia ra 4 ca tra tấn ông suốt 24/24 giờ, không cho ăn, không cho uống, không cho nghỉ, ngủ, chúng đánh ông bằng tầm vông, ma trắc, trấn nước, bọt xà phòng, trấn ớt, quy điện, đứng đèn, luồn dây sắt vào lỗ tiểu, thậm chí, ông phải tự uống nước tiểu của mình để sống. Ông vẫn cắn răng chịu đựng và khai theo kế hoạch đã được tính toán từ trước là khai là người của địch nhằm ly gián, gây mất đoàn kết, nghi kỵ lẫn nhau trong nội bộ địch.

Nhiều người đến thăm, nghe ông kể về chiến công ám sát Ngô Đình Diệm. 

Kết quả, từ lời khai của ông, Diệm - Nhu nghi ngờ loại Mai Hữu Xuân khỏi chức Giám đốc Nha An ninh quân đội, Nguyễn Hữu Châu - Bộ trưởng Phủ Tổng thống phải bỏ trốn sang Pháp nhằm giữ mạng sống... Tháng 11-1963, Mai Hữu Xuân câu kết với đối tượng khác quay ngược mũi giáo tổ chức đảo chánh diệt anh em nhà Diệm - Nhu. Ông lại phải rơi vào màn trả thù vô tiền khoáng hậu của Mai Hữu Xuân vì những lời khai đổ tội khi bị bắt. Chúng mở phiên tòa bí mật do chính tên đại tá Khoa - Chánh án Tòa án quân sự đặc biệt - xử ông án tử hình theo Luật 10/1959. Ông bị đưa lên chuyến tàu đày ra Côn Đảo cùng với 330 người tù khác, trong đó có 42 án tử hình, 67 án chung thân hầu hết là tù chính trị cộng sản, các đảng phái đối lập và 10 thành viên quốc gia đảo chính hụt Diệm năm 1960.
Trên đường đi, chúng sai đại úy Huỳnh Minh Đường lái máy bay ra khơi thả bom giết chết cả tàu, song đại úy Đường vì có cảm tình cách mạng đã không thả bom đánh đắm con tàu mà lái luôn chiếc máy bay qua Campuchia lánh nạn. Mãi đến khi chế độ Diệm hoàn toàn sụp đổ vào ngày 10-3-1965, ông mới được trả tự do và được tổ chức phân công tiếp tục công tác tại Ban Điệp báo An ninh T.Ư Cục miền Nam, Trưởng ban Điệp báo An ninh Tây Ninh, sau đó là Trưởng phòng Nghiên cứu Tổng hợp CA tỉnh Tây Ninh, Trưởng ban Nội chính, Trưởng ban Tôn giáo tỉnh Tây Ninh đến năm 1999 nghỉ hưu.
Đến nay, đã non nửa thế kỷ Ngô Đình Diệm và chế độ ngụy quyền tay sai đã xanh mồ, lịch sử đã ghi lại, chứng minh sứ mạng xuất sắc của phát súng ám sát Diệm đối với công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiêu biểu nhất là chiến thắng mùa xuân lịch sử 30-4-1975. Ban Nghiên cứu lịch sử Viện Khoa học CA khẳng định: “Mặc dù viên đạn nóng không giết chết được Diệm ngay lúc ấy, nhưng có tác dụng kích thích phong trào đấu tranh chống chính sách của Mỹ - Diệm. Qua lời khai của Hà Minh Trí đã ly gián nội bộ địch, bộ máy ngụy quân ngụy quyền, giữa gia đình họ Ngô và các tướng lĩnh của ông ta mâu thuẫn, lục đục kéo dài và dẫn đến cuộc đảo chính Diệm - Nhu năm 1963 của các tướng lĩnh dưới trướng.

Anh hùng LLVTND Mười Thương (thứ 3, hàng đầu từ trái sang)
chụp ảnh lưu niệm cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước
tại Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ VII năm 2005. 

Trong quá trình bị địch bắt giam, ông còn tiếp cận, khai thác tìm hiểu tập hợp hàng trăm hồ sơ tôn giáo, đảng phái đối lập Diệm, đảng phái phản động nhằm giúp Ban An ninh Sài Gòn-Gia Định có đối sách hợp lý, phục vụ cuộc kháng chiến chống Mỹ đến ngày thắng lợi hoàn toàn”. Với thành tích đặc biệt xuất sắc đó, tại Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ VII năm 2005, ông đã vinh dự được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND. Ngoài ra, ông còn được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý khác như: Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, hạng Ba, Huân chương Quân công hạng Ba, Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương Quyết thắng, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng...
Hòa bình lập lại, ông về công tác, sống bình dị tại Tây Ninh cho đến nay. Ông bảo, cuộc đời ông quả là may mắn kỳ lạ bởi ông đã từng 2 lần mang án tử hình nhưng vẫn không chết. Lần thứ nhất là bị bắt, tuyên án tử hình vì ám sát Ngô Đình Diệm và lần thứ hai vào năm 1967, khi ông đang công tác tại Tiểu ban An ninh T.Ư Cục miền Nam, một trái bom đã rơi đúng chân ông nhưng chỉ khiến ông bị thương cụt chân mà không chết. Vì thế, trong bất cứ hoàn cảnh nào, ông vẫn luôn giữ được sự bình thản, niềm lạc quan.
Ông đưa tôi vào Bệnh viện 30-4 (Bộ CA) thăm người vợ cũng đã từng vào sinh ra tử một thời là Nguyễn Kim Hưng (Triệu Nhã Nam, 1944), là cán bộ trong phong trào sinh viên học sinh cùng với Lê Quang Vinh, Lê Hồng Tự... bị bắt giam vào Tổng Nha Cảnh sát gặp ông rồi bén duyên từ đó. Vụ tai nạn khiến bà bị chấn động não, liệt toàn thân và gần như mất trí nhớ. Ông lặng lẽ đến bên người vợ nắm tay bà tâm sự: “Chẳng sao đâu bà ạ, chỉ cần điều trị ít lâu nữa là bà mạnh khỏe thôi. Bà mau khỏe để về nhà cùng với tôi bà nhé”. Ông quay sang tôi nói cứng: “Những lúc nguy nan nhất là lúc cần phải bình tĩnh nhất. Khi nổ súng vào Ngô Đình Diệm, tôi đã chẳng hề run sợ thì sá gì cuộc chiến đấu cuối cùng này (ý ông nói vụ tai nạn – P.V)”. Ông đúc kết: “Thời cuộc làm nên anh hùng. Không riêng gì tôi mà thời đó người thanh niên yêu nước nào cũng hành động như vậy. Tôi tin dòng máu anh hùng vẫn lưu truyền trong máu thịt của từng thế hệ thanh niên Việt Nam để viết tiếp trang sử hồng ngày mới cho dân tộc”.
Quang Sang

Mấy mươi năm thầm lặng một anh hùng (Ngô Thanh Hằng - Văn Nghệ Công An)


Mấy mươi năm thầm lặng một anh hùng
7:44, 02/08/2005

Ông Phan Văn Điện.
Ngày 22/2/1957, tại lễ khai mạc Hội chợ kinh tế cao nguyên ở Buôn Ma Thuột, Ngô Đình Diệm chưa kịp ngồi yên chỗ trên khán đài để khai cuộc, thì một viên đạn đã nhắm vào ông ta. Người bắn viên đạn đó là một chiến sĩ công an: ông Phan Văn Điện.

Tôi biết ông Điện (tức Hà Minh Trí, Phạm Công Phú, Triệu Thiên Thương - thường gọi là Mười Thương) trước khi ông có mặt trong cuộc giao lưu “Gương công an sáng trong lòng dân” tại Hà Nội tháng 5/2005. Vóc dáng hiền lành của ông không gợi liên tưởng nào tới những chiến tích anh hùng. Ấn tượng về ông chỉ là sự chậm rãi đến cẩn trọng, nối chiếc chân giả bằng những miếng vải đệm cho đỡ đau khi bước, trước khi nói chuyện với tôi.
Sau này, tôi mới biết, chiếc chân giả của ông đã được An ninh miền Nam đề nghị Bộ Công an làm từ miền Bắc gửi vào, khi ông trúng bom trên đường công tác năm 1967. Vậy mà… trong cuộc đời cách mạng, Mười Thương đã hai lần được giao nhiệm vụ đặc biệt và cả hai lần đều bị giặc bắt giam, tra tấn dã man, nhưng ông vẫn một lòng kiên trung với Đảng.
Năm 1948, mới 13 tuổi, ông đã là nhân viên Ban Quân báo Bà Rịa. Trong lần làm liên lạc đặc biệt, ông đã bị sa vào tay giặc. Mưu trí và dũng cảm, ông đã thoát hiểm và được bố trí làm “em nuôi” trong một gia đình sĩ quan cao cấp Cao Đài, để thu thập tin tức về các mối quan hệ giữa Cao Đài với Pháp và ngụy quyền. Vỏ bọc này đã giúp ích cho ông rất nhiều về sau, không chỉ đưa ông ra khỏi nhà tù Mỹ - ngụy mà còn được đồng chí Nguyễn Tài (nguyên Thứ trưởng Bộ Công an) đánh giá là “Bộ từ điển về địch tình tôn giáo, đảng phái phản động ở miền Nam”.
Quân giải phóng đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất.

Năm 1955, Mười Thương cùng một số đồng chí bố trí kế hoạch ám sát Ngô Đình Diệm tại nhà thờ Đức Bà, nhưng đêm đó, Diệm không đến. Không từ bỏ mục tiêu, tháng 2/1957, Đội trưởng Đội diệt ác Mười Thương lại được đồng chí Năm Xếp, Trưởng ban Địch tình Tỉnh ủy Tây Ninh giao nhiệm vụ lập kế hoạch tiêu diệt Ngô Đình Diệm khi hắn lên Buôn Ma Thuột khai mạc Hội chợ kinh tế cao nguyên. Ai cũng hiểu, việc hy sinh hoặc bị bắt khi nổ súng là rất lớn và hầu như không có khả năng chạy thoát, nhưng Mười Thương đã xung phong. Và rồi, chọn vị trí cách Ngô Đình Diệm chỉ 20 mét, ông rút súng nhắm vào Tổng thống Ngụy, nhưng tiếc thay, viên đạn đi chệch.
Mười Thương bị địch bắt giữ và tra tấn rất dã man ngay tại chỗ. Nhưng dù bị giam cầm với đủ mọi đòn roi hiểm ác, tàn bạo nhất, kẻ địch vẫn bất lực. Trước sau, người tù ấy chỉ một lời khai là do tướng Mai Hữu Xuân (phụ trách An ninh quân đội ngụy) và Cao Đài liên minh trao lệnh… Lời khai này khiến Ngô Đình Nhu có mặt giám sát khi đó lập tức ra lệnh phải “tuyệt mật”.
Lời khai của Mười Thương đã gây chia rẽ sâu sắc trong chính quyền ngụy; đồng thời, bảo vệ được các cơ sở cách mạng của ta. Bọn địch thất kinh trước các lời khai của ông, đến nỗi phải thành lập ngay “Hội đồng thẩm vấn của Chính phủ” để điều tra. Mười Thương bị biệt giam và phải nếm đủ mọi ngón đòn tra tấn của kẻ thù: liên tục nhiều ngày liền ông bị đánh bằng dùi cui, tầm vông, đổ nước trộn ớt bột, xà bông cho chết ngộp, bị ghim đinh vào các đầu ngón tay và bắt đứng dưới 2 bóng đèn 500W nóng cháy da mặt… hòng làm lung lay tinh thần mà khai ra đồng đội. Bọn địch liên tục thay nhau hàng tiếng, mỗi ca 5 tên, hành hạ ông cả thể xác lẫn tinh thần suốt ngày đêm...
Cùng bị giam với ông còn có các đồng chí Phạm Văn Thịnh (tức Nguyễn Đức Thuận - người đã viết cuốn hồi ký nổi tiếng “Bất khuất”), Hoàng Duy Khương (Xứ ủy Nam Bộ), Hoàng Tam Kỳ (Phó bí thư Tỉnh ủy Gia Định), Lê Minh Quới (thư ký của đồng chí Lê Duẩn), Lê Hồng Tư, Lê Quang Vịnh, Phan Trọng Bình, Nguyễn Văn Một…
Có những lúc bị tra tấn dã man đến mức, cái chết đã lởn vởn trong đầu ông, nhưng tấm gương kiên trung của những con người “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” đã tiếp thêm sức mạnh cho ông trong cuộc tranh đấu với kẻ thù. Không khuất phục được Mười Thương, kẻ thù đã kết án tử hình rồi đày ông ra Côn Đảo cùng 41 đồng chí khác. Giữa lao tù, ông tiếp tục móc nối với đồng đội để đấu tranh với địch, duy trì phong trào cách mạng.
Năm 1965, sau khi Diệm bị lật đổ, đồng chí Trần Quốc Hương, phụ trách tình báo Trung ương hướng dẫn ông cách làm đơn đề nghị nhóm đảo chính trả tự do với lý do là người của Cao Đài diệt Diệm; đồng thời vận động báo chí Sài Gòn viết bài đòi trả tự do cho ông. Tháng ba năm đó, Mười Thương đã được ra tù và đưa ra căn cứ kháng chiến.
Thường vụ Đặc khu ủy Sài Gòn - Gia Định đã đánh giá cao đóng góp của Mười Thương: viên đạn trên cao nguyên đã gây hoang mang cho bọn Diệm - Nhu, những lời khai của ông còn góp phần ly gián kẻ thù, đồng thời bảo vệ vững chắc màng lưới cơ sở cách mạng ngay trong lòng địch. Sau đó, ông được bố trí công tác tại Ban An ninh khu Sài Gòn - Gia Định do các đồng chí Cao Đăng Chiếm và Nguyễn Tài phụ trách.
Tiếp tục công việc còn dang dở từ gần mười năm trước, Mười Thương báo cáo chi tiết lý lịch, tình hình nợ máu của các tên ác ôn đầu sỏ và đề xuất tiêu diệt tên Nguyễn Chữ (Giám đốc Nha Công an Trung phần đã tiếp tay cho Diệm trả thù những người cách mạng và gây ra vụ thảm sát Duy Xuyên, Chợ Được, Hương Điền (Khu V) và tên Nguyễn Văn Thành (cựu Trung tướng quân đội Cao Đài, phần tử chống phá cách mạng). Sau đó, hai tên này đều bị lực lượng biệt động tiêu diệt.
Cho đến khi đất nước thống nhất, với nhiệm vụ nghiên cứu công tác địch tình ở Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam, Mười Thương đã có nhiều đóng góp tích cực vào việc theo dõi diễn biến phân hóa xu hướng chính trị các tôn giáo, đảng phái để đề xuất đối sách thích hợp, phục vụ kháng chiến. Với cương vị là Thường vụ Thường trực Đảng ủy Công an tỉnh Tây Ninh, Phó ban Nội chính, Phó ban Dân vận, rồi Trưởng ban Tôn giáo Tây Ninh, ông đã có cơ hội cống hiến cho đất nước những hiểu biết về tôn giáo, mà ông đã tích lũy suốt mấy mươi năm thành kinh nghiệm quý báu, để ổn định tình hình chung, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân trên quê hương.
Ngay khi ra tù (năm 1965), Mười Thương đã được một nữ phóng viên Báo Quân giải phóng “thương”. Và rồi, năm 1967, đám cưới của hai người đã được tổ chức giản dị giữa căn cứ, với sự chứng kiến của những đồng chí, đồng đội. Hai năm sau, vợ ông được chuyển sang ngành công an, hoạt động tại tờ báo An ninh miền Nam. Đất nước thống nhất, bà tiếp tục công tác tại Công an Tây Ninh, với cấp bậc Thượng tá, Trưởng phòng Công tác chính trị, phụ trách tờ tin nội bộ. Họ có 5 người con đều đã trưởng thành.
Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một chiến sĩ công an, năm 1998, Mười Thương được nghỉ hưu. Ông cùng người vợ thảo hiền trở về với cuộc sống bình dị ở mảnh đất Tây Ninh mà ông đã trọn đời cống hiến. Với giọng dễ thương, bà dịu dàng kể: “Cuộc sống của chúng tôi cũng tạm ổn. Ngày ngày, ngoài chăm sóc cháu nội, chúng tôi còn cùng nhau lên rẫy, chăm sóc rừng cây và nuôi vài con heo làm vui tuổi già”.
Bà tuyệt đối không phàn nàn về những vất vả đã và đang phải trải qua, dù rằng ông là thương binh 2/4, lại thêm hậu quả từ những trận tra tấn của kẻ thù trong những năm tù đầy nên sức khỏe rất yếu. Mỗi khi trái nắng trở trời, bệnh tật lại hành hạ ông. Khi ấy, bàn tay bà, tình yêu thương của bà lại nâng đỡ ông, cùng ông vượt qua đau đớn, như ngày xưa, bao đồng chí của ông đã tiếp cho ông nghị lực và niềm tin, để bước qua cái chết, trở về một cách vẻ vang!
Hơn 30 năm sau ngày toàn thắng, người cán bộ trinh sát an ninh vũ trang vẫn sống khiêm nhường như thế. Khi viết những dòng cuối này, chúng tôi đã nhận được tin vui: Đảng và Nhà nước đang làm thủ tục để phong danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho người chiến sĩ công an Phan Văn Điện

  Ngô Thanh Hằng

Chuyện về người ám sát hụt Ngô Đình Diệm (Nguyễn Thế Lực - VOV)


Chuyện về người ám sát hụt Ngô Đình Diệm


Phát súng trên cao nguyên nhằm vào Ngô Đình Diệm – Tổng thống nguỵ quyền Sài Gòn của người chiến sĩ cách mạng vào ngày 22/2/1957 đã đi qua hơn năm thập kỷ, nhưng dư âm của nó vẫn còn mãi. Người chiến sĩ đó là người tử tù không số, nhân chứng lịch sử của những ngày cả miền Nam sục sôi phong trào đấu tranh chính trị kết hợp với vũ trang diệt ác để bảo vệ Đảng, bảo vệ cơ sở cách mạng, đòi kẻ thù nghiêm chỉnh chấp hành Hiệp định Genève- Mười Thương.
Nhận nhiệm vụ đặc biệt lúc 13 tuổi
Mười Thương tên thật là Phan Văn Điền, quê ở xã Nghi Thiết, huyện Nghi Lộc- Nghệ An. Ông sinh ngày 18/8/1935 trong những năm tháng phong trào cách mạng đang sục sôi ở Nghệ An. Cha ông hy sinh trong đợt binh biến Đô Lương tháng 1/1941 khi ông vừa 6 tuổi. Năm 1945, ông bị lính Nhật bắt đưa vào miền Nam và bỏ lại ở Bà Rịa -Vũng Tàu. Ông đã tìm đến ở thuê cho một gia đình khá giả trong vùng. Được một năm, ông đã trốn đi theo kháng chiến khi vừa 10 tuổi.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, ông còn có nhiều tên gọi khác nhau như Đinh Dũng, Phạm Công Phú, Hà Minh Trí, Triệu Thiên Thương.
Phan Văn Điền và bà Nhã Nam (vợ) ra thăm Đại tướng Võ Nghuyên Giáp năm 1995
Tháng 8/1948, lúc đang là nhân viên Ban quân báo tỉnh Bà Rịa, thấy ông còn nhỏ nhưng nhanh nhẹn, hoạt bát và rất gan dạ nên 3 đồng chí gồm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Hành chính tỉnh Hứa Văn Yến, Trưởng ban quân báo tỉnh Nguyễn Văn Bản, Trưởng ty Công an tỉnh Bà Rịa -Ba Thiên họp chung, giao nhiệm vụ đặc biệt cho ông là vào đồn Cao Đài ở ngã ba Bờ Đập (nằm giữa 3 xã Long Tân, Long Mỹ và Phước Hải, thuộc huyện Đất Đỏ và Long Điền của tỉnh Bà Rịa). Đây  là vùng căn cứ kháng chiến của ta.

Phan Văn Điền được giao nhiệm vụ làm liên lạc đặc biệt giữa lãnh đạo kháng chiến tỉnh với thiếu úy Phạm Ngọc Chẩn (Trưởng đồn Bờ Đập) - người đã chấp nhận sẽ kéo hết Đại đội quân Cao Đài của đồn ra với kháng chiến để đánh Tây.
Nhiệm vụ thứ hai của ông là điều tra quân báo đồn Bờ Đập và các đồn đóng bao quanh vùng căn cứ kháng chiến, như đồn Phước Hả, đồn Nước Ngọt và đồn Ngã ba Lò Vôi để phục vụ cho việc tấn công tiêu diệt chúng sau khi quân Cao Đài đồn Bờ Đập kéo ra theo kháng chiến.
Nhận nhiệm vụ vào đồn được 2 tháng, với trí thông minh của mình, Phan Văn Điền đã hoàn thành việc điều tra quân báo và vẽ xong sơ đồ bố trí của các đồn. Thời gian này tên đồn phó đã bắt đầu nghi ngờ, hắn đã mật báo cho đệ nhị phòng Pháp tỉnh Bà Rịa. Pháp báo cho bộ tham mưu quân đội Cao Đài ở Tây Ninh.
Bộ tham mưa quân đội Cao Đài ở Tây Ninh lập tức ra lệnh bắt cả thiếu úy Phạm Ngọc Chẩn và Phan Văn Điền về Tòa Thánh Cao đài Tây Ninh. Sau hơn một tháng bị đánh đập, tra hỏi hết sức đau đớn nhưng cậu bé 14 tuổi vẫn kiên quyết khai như vỏ bọc ngụy trang từ đầu là “Trẻ mồ côi ở đợ chăn trâu ở ngoài đồng, gần đồn. Ông Chẩn dẫn quân tuần tra thấy bắt đem vào đồn. Biết tôi mồ côi nên giữ lại trong đồn để làm tạp dịch phục vụ bưng trà nước, giặt quần áo cho ông”.
Anh hùng LLVTND Phan Văn Điền, nguời mặc áo đen, cùng với ông Trần Quốc Hương, nguyên Trưởng Ban Nội chính Trung ương -người bạn tù của ông.
Thiếu úy Chẩn thì cãi lại bọn điều tra: “Tên đồn phó tham ô bị Chẩn kỷ luật, thù oán Chẩn nên bịa chuyện báo lén cho Tây, báo lại cho quân đội Cao Đài, chớ gia đình tôi là đạo dòng (cha, mẹ đều lễ sanh). Anh ruột là trung tá Phạm Ngọc Trấn, Tư lệnh quân đội Cao Đài miền Tây, làm sao lại đi theo Việt Minh được”.
Một điều may mắn không chỉ cho ông Chẩn mà còn cả cho ông Điền, đó là Phạm Ngọc Trấn, Tư lệnh quân đội Cao Đài miền Tây lại là thầy dạy học trước kia của Trịnh Minh Thế (Tư lệnh quân đội Cao Đài miền Đông). Vì mối quan hệ đó và nể tình đồng nghiệp, Trịnh Minh Thế đã ra lệnh thả cả Chẩn và Phan Văn Điền. Từ đó, Phan Văn Điền mặc nhiên được ở trong một gia đình sĩ quan cao cấp Cao Đài. Hàng ngày ông nắm được rất nhiều tin tức qua mối quan hệ tiếp xúc giữa Phạm Ngọc Trấn với nhiều sĩ quan và chức sắc cao cấp của Cao Đài.
Ở trong một gia đình sĩ quan cao cấp Cao Đài với một vỏ bọc rất tốt, nhưng Phan Văn Điền luôn đáu đáu trong lòng là làm sao để liên lạc được với cách mạng bên ngoài. Đến năm 1949, Phan Văn Điền bắt liên lạc được với Công an huyện Châu Thành -Tây Ninh qua một gia đình cơ sở công an ở thị xã Tây Ninh.
Thấy vị trí của ông đang ở rất tốt, nên lãnh đạo Công an huyện động viên Phan Văn Điền tiếp tục làm tốt vai trò em nuôi trong gia đình Phạm Ngọc Trấn, để thu thập thông tin về tình hình nội bộ Cao Đài và các mối quan hệ giữa Cao Đài với Pháp và ngụy quyền.
Anh hùng LLVTND Phan văn Điền -hàng đầu, bìa phải gặp mặt các chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày
Giữa năm 1953, ông bị đệ nhị Phòng Cao Đài nghi ngờ theo dõi. Biết bị lộ, Công an huyện Châu Thành quyết định rút ông ra căn cứ. Năm 1954, Hiệp định Genève ký kết, tiễn đồng đội ra miền Bắc, ông được chọn ở lại trong ban địch tình Tỉnh ủy Tây Ninh để tiếp tục bám địa bàn hoạt động.
Những năm sau Hiệp định Genève, Ngô Đình Diệm ra sức khủng bố, trả thù những người kháng chiến. Chúng đánh phá hành loạt tổ chức Đảng, cơ sở cách mạng, bắn giết, bắt bớ tù đày hàng loạt cán bộ, đảng viên và gia đình có con em đi tập kết ra Bắc. Đàn áp các tôn giáo, đảng phái đối lập, gây ra vô vàn đau thương, tang tóc cho nhân dân miền Nam nói chung, Tây Ninh nói riêng.
Trước tình hình đó, đảng viên và quần chúng khắp nơi sục sôi căm thù Mỹ, Diệm; yêu cầu Đảng cho phép vũ trang diệt ác để bảo vệ tổ chức Đảng, cơ sở cách mạng và bảo vệ phong trào đòi đấu tranh của nhân dân đòi địch thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Genève.
Từ thực tiễn bức xúc đó, Xứ ủy Nam Bộ đã đề ra “Đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam”. Chủ trương đấu tranh chính trị kết hợp với vũ trang diệt ác để bảo vệ Đảng, bảo vệ lực lượng cách mạng của quần chúng, từng bước đưa phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng phát triển lên cao trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Genève, tiến hành hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất nước nhà.

 
**
Trong chặng đường hoạt động cách mạng hơn nửa thế kỷ, từ năm 1946 cho đến lúc nghỉ hưu năm 1998, ông Phan Văn Điền đã trải qua nhiều công việc khác nhau, phải chịu không biết bao nhiêu gian khổ, tù đày, thương tật.

Nhiều lần thoát khỏi hiểm nghèo khi cái chết chỉ còn trong gang tấc, song điều làm ông nhớ nhất vẫn là những kỷ niệm về nhiệm vụ diệt Ngô Đình Diệm, Tổng thống nguỵ quyền Sài Gòn.
Những năm 50, Mỹ và Ngô Đình Diệm tăng cường các hoạt động khủng bố. Trước thực tiễn bức xúc đó, tháng 9/1955, Tỉnh uỷ Tây Ninh chỉ đạo Ban địch tình Tỉnh uỷ tổ chức đội vũ trang diệt ác. Phan Văn Điền làm đội trưởng và xác định Ngô Đình Diệm là tên ác ôn nhất cần phải diệt.
Ngày 20/10/1956, tại căn cứ ở Ấp Rổng Tượng-Gò Dầu-Tây Ninh, Phan Văn Điền được đồng chí Lâm Kiểm Xếp (Năm Xếp), Trưởng ban địch tình Tỉnh ủy Tây Ninh, giao nhiệm vụ tổ chức diệt Ngô Đình Diệm vào dịp Diệm lên toà Thánh Tây Ninh (10/1956) để ký kết Thoả ước Bính Thân với Cao Đài Tây Ninh. Do thời gian quá gấp rút, lại chưa nắm được kế hoạch cụ thể chuyến đi của Diệm, nên phương án diệt Diệm lần này không thành.
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đến thăm Anh hùng LLVT Phan Văn Điền
Nắm được thông lệ đã 2 năm (1954, 1955) cứ vào 12h đêm 24/12, Diệm đều đến Nhà thờ Đức Bà dự lễ mừng “Thiên chúa giáng sinh”. Hơn nữa, trong số cán bộ của Ban địch tình Tỉnh uỷ Tây Ninh có anh Lê Văn Cửu đã được cài vào làm phiên dịch trong cơ quan Viện trợ Mỹ, đã tạo được mối quan hệ với nhiều quan chức cao cấp nguỵ quyền, đều là người theo đạo Thiên Chúa giáo. Anh đuợc những tên này thường mời đi dự lễ Noel, nhằm bắc cầu làm thân với cố vấn Mỹ.
Tháng 12/1956, Phan Văn Điền đề xuất với cấp trên kế hoạch diệt Ngô Đình Diệm tại Nhà thờ Đức Bà vào đêm Noel, 24/12/1956.
Đêm Noel năm 1956, Lê Văn Cửu và Phan Văn Điền mỗi người một súng ngắn đã có mặt tại nhà thờ Đức Bà cùng với một số “quan chức” bạn của Cửu. Ông đã vào được bên trong nhà thờ và quỳ cách hàng ghế dành cho gia đình Diệm –Nhu 9 hàng (12m).
Bên ngoài, 2 chiến sĩ Phan Văn Phát và Nguyễn Văn Tám đứng ở 2 nơi có bình biến điện quanh nhà thờ, đợi súng nổ sẽ cúp điện và ném lựu đạn khói vào bên ngoài tạo hoảng loạn và bóng tối để 4 người thoát ra khỏi vùng nguy hiểm. Tất cả đã sẵn sàng ở vị trí chiến đấu.
Đồng hồ điểm 24h, Tổng Giám mục rung chuông bắt đầu buổi lễ vẫn không thấy Diệm xuất hiện, kế hoạch không thành. Hôm sau qua báo chí mới biết Ngô Đình Diệm đã đến dự lễ cầu nguyện cùng với giáo dân tại “Khu trù mật Đức Huệ – Long An”. Phan Văn Điền tức anh ách.
Phát súng trên cao nguyên
Sau 2 lần diệt Diệm không thành, Ban địch tình Tỉnh uỷ Tây Ninh chỉ đạo tiếp tục theo dõi nắm tình hình di chuyển, hoạt động của Diệm. Tháng 2/1957, cơ sở của Ban địch tình Tỉnh uỷ Tây Ninh ở Bộ Thông tin nguỵ quyền do Phan Văn Điền phụ trách cho biết: “Hội chợ kinh tế cao nguyên dự kiến khai mạc vào 22/2/1957, Diệm –Nhu sẽ lên cắt băng khánh thành và đọc diễn văn khai mạc”.
Phan Văn Điền đã báo cáo cấp trên xin thực hiện kế hoạch diệt Ngô Đình Diệm. Cấp trên lo lắng vì  “quá xa xôi và không phải là địa bàn của ta, cơ sở không có, địa bàn không rành”. Nhưng Phan Văn điền vẫn quyết tâm vì ở đó có Trung đoàn 60 ngụy quân đóng giữ. Gốc đơn vị này là lực lượng Cao Đài liên minh của Trịnh Minh Thế kéo ra theo Diệm, sau khi Trịnh Minh Thế bị diệm –Nhu sát hại.
Anh hùng LLVTND Phan văn Điền -hàng đầu, bìa phải gặp mặt các chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày
Trung đoàn này do Nguyễn Công Trứ làm Trung đoàn trưởng, có vợ ở Thanh Phước, Gò Dầu- Tây Ninh. Trong Trung đoàn còn có 2 trung sĩ tên Theo và Đức quê ở Cẩm Giang –Gò Dầu, Tây Ninh. Khi còn là thiếu sinh quân Cao Đài, ông đã từng tiếp cận, chơi thân. Trong Nha Công dân vụ và Nha thông tin Nam Việt đều có người của ta do ông trực tiếp cài vào đầu năm 1955.
Với những lợi thế này, cấp trên đã quyết định cho ông đi Ban Mê Thuột nghiên cứu lập kế hoạch diệt Diệm. Sau 2 lần lên Ban Mê Thuột gặp cơ sở và những người quen cũ trong Trung đoàn 60 và nắm bắt tình hình, Phan Văn Điền đã hoàn thành sơ đồ vị trí các đồn bót, giao cho cô Nhung - cơ sở của ta trong Nha Công dân vụ - chuẩn bị nhà trọ, huy hiệu, thư mời để vào dự hội chợ và tìm mọi cách để tham gia đoàn văn nghệ phục vụ hội chợ.
Về Tây Ninh, Phan Văn Điền xây dựng kế hoạch hành động trình lãnh đạo. Sau khi thống nhất kế hoạch diệt Ngô Đình Diệm, đồng chí Năm Xếp, Trưởng Ban địch tình và đồng chí Tư Mừng, Bí thư Chi bộ trực tiếp giao nhiệm vụ cho Phan Văn Điền cùng một khẩu súng tiểu liên MAT.49 (loại mi bá rút của Mỹ) và một hộp đạn.
Ông phải trèo xuống giếng sâu bắn thử đạn cho khỏi bị lộ. 10 viên nổ giòn cả 10. Súng được tháo bá sắt ra để khi vào hội chợ cột dây dù vào cho dễ đeo, địch khó phát hiện. Theo kế hoạch, súng được đeo sát nách bên phải, lên cơ bẩm sẵn, khi bắn chỉ cần lòn tay vào đẩy băng đạn vào ổ đạn, nâng súng lên nhắm mục tiếu bóp cò.
Mục tiêu từ ngực trên trở lên đầu, vì từ ngực xuống bàng quang, Diệm có mang áo giáp chống đạn. Sau nhiều lần tập dượt phuơng án thuần thục, các đồng chí lãnh đạo động viên, ông cũng xác định rõ tư tưởng: đây là một nhiệm vụ hết sức khó khăn và nguy hiểm, nếu không hy sinh thì cũng bị bắt, nhưng Phan Văn Điền không hề chùn bước.
17h chiều 21/2/1957, Phan Văn Điền với giấy căn cước mang tên Hà Minh Trí cùng Nguyễn Thị Vân (cán bộ giao liên), người được giao nhiệm vụ mang vũ khí giấu vào vali, khởi hành trên chuyến xe khách Sài Gòn – Ban Mê Thuột. 6h sáng 22/2 đến nơi, 2 người vào nhà trọ.
Hà Minh Trí khẩn trương kiểm tra súng, đóng băng đạn nạp sẵn 22 viên vào ổ đạn, lên cơ bẩm, khoá chốt an toàn, gấp băng đạn xuôi theo súng và đeo vào sát nách. Nguyễn Thị Vân chần chừ muốn ở lại để biết kết quả về báo cho lãnh đạo, nhưng Hà Minh Trí lo an nguy cho đồng đội nên cương quyết:. “Nhiệm vụ cô đã hoàn thành, cô hãy trở về Tây Ninh, kết quả như thế nào thì ngày mai báo chí đưa tin tất cả đều biết”. Cô Vân lên xe trở về Tây Ninh. Hà Minh Trí áo sơ mi trắng thắt cà vạt, quần gabardin xanh mặc áo blouson rảo bước đến hội chợ kinh tế cao nguyên.
Cửa chính và cửa phụ vào trung tâm hội chợ dày đặc các lực lượng an ninh, cảnh sát của địch. Ông nghĩ nếu không lọt được những đôi mắt cú vọ, chúng phát hiện ra vũ khí thì không còn cơ hội giết Diệm. Thời gian khai mạc hội chợ đã đến gần, loa phóng thanh đã phát “Máy bay Tổng thống đã bay trên bầu trời Buôn Mê Thuột”. Ông lại càng nóng ruột và đã mưu trí đánh lừa các toán quân cảnh và an ninh quân đội, lọt vào khu trung tâm của hội chợ qua chỗ hàng rào hở phía sau trung tâm, giáp với Trung đoàn 60.
Tiếp cận sát mục tiêu giữa hàng ngàn đôi mắt soi mói dày đặc của bọn cảnh sát, tình báo, an ninh quân đội, bảo an, quân cảnh vòng trong vòng ngoài, Hà Minh Trí đứng bên cạnh một tên thượng sĩ an ninh quân đội Việt Nam cộng hòa to cao, 2 mắt đảo liên tục.
Giờ “G” đã điểm, đúng 8h, tên sĩ quan hành lễ hô: “nghiêm! nhìn cờ –chào!”. Tất cả đều nhìn lên cờ thì cũng là lúc Hà Minh Trí nâng súng lên từ phía sau ngực trái của Diệm bóp cò. Kẹt đạn, súng chỉ nổ một viên, tên Đỗ Quang Công –Bộ trưởng Bộ Canh nông vừa nhích qua sau lưng Diệm đã hứng đạn thay Diệm. Quân nhạc im bặt, cả lễ đài nhốn nháo, hoảng loạn, bọn cận vệ cõng Diệm tháo chạy. Hà Minh Trí bị địch bắt.
Đánh địch bằng đòn ly gián
Điều vẫn làm cho ông nuối tiếc, day dứt đến bây giờ là Diệm không chết. Ông nói: “Nếu như tên Bộ trưởng Bộ Canh nông không háo danh, muốn xích đứng gần vào Tổng thống Ngô đình Diệm để được báo chí chụp hình thì viên đạn đi thẳng vào tim của Diệm”.
Mặc dù vậy, Hà Minh Trí vẫn thành công trong việc thực hiện phương án 2 nếu bị địch bắt, mà trước lúc lên đường đồng chí Năm Xếp còn nhấn mạnh “Nội bộ địch càng mâu thuẫn cắn xé nhau thì càng có lợi cho cách mạng. Nếu không bị hy sinh mà bị bắt, chú phải vận dụng vốn hiểu biết về Cao Đài và sự đánh giá của Đảng về mâu thuẫn Pháp – Mỹ và mâu thuẫn giữa tay sai của chúng để thực hiện việc khai ly gián nội bộ chúng”.
Chính nhận thức sâu sắc vấn đề, kết hợp với trí thông minh, nhạy bén, cùng với sự chỉ đạo kịp thời của Mười Hương (Trần Quốc Hương), người chiến sĩ tình báo tài ba mà Hà Minh Trí- bị kết án tử hình bí mật vẫn được sớm ra tù để tiếp tục hoạt động.

**

Sau khi bị bắt, chúng đưa ông vào đánh đập, điều tra ngay tại Buôn Mê Thuột. Ngô Đình Nhu, Trần Kim Tuyến và viên sĩ quan biệt bộ Phủ Tổng thống (Phạm Ngọc Thảo –tình báo của ta) cũng theo vào điều tra.
Chúng hỏi “Ai tổ chức anh ám sát Tổng thống?”. Với kế hoạch đánh địch bằng đòn li gián, Hà Minh Trí trả lời “Thiếu tướng Mai Hữu Xuân và Cao Đài liên minh ở Tây Ninh”. Thiếu tướng Mai Hữu Xuân lúc này đang là Giám đốc Nha an ninh quân đội ngụy. Ngô Đình Nhu đã ra lệnh “tất cả những người có mặt ở đây, phải tuyệt đối giữ bí mật tin này”.
Để kiểm tra xem Hà Minh Trí có đúng là Cao Đài hay không, chúng đã đưa Tạ Thành Long –trung tá Phủ đặc ủy Trung ương tình báo ngụy ở Sài Gòn lên hỏi cung Hà Minh Trí. Vì ông này trước đây vốn là thầy giáo dạy đạo đức học đường ở Tòa Thánh Tây Ninh, Hà Minh Trí đã nhận ra ông đã dạy mình lúc còn đi học lớp 2 (năm 1950).
Tạ Thành Long hỏi “Mày khai Cao Đài, vậy mày có học trường đạo Lê Văn Trung hay đạo đức học đường không? Ban giám đốc các trường đó là ai?” Hà Minh Trí đã trả lời vanh vách. Nghe xong, ông Long không còn hỏi gì nữa đứng dậy đi ra.

Hôm sau, chúng đưa tướng Mai Hữu Xuân vào điều tra Hà Minh Trí. Mai Hữu Xuân hỏi “Mày khai Cao Đài, vậy mày biết người này không?” Vừa hỏi, hắn vừa móc trong túi ra một tấm ảnh 4x6.

Hà Minh Trí nhìn tấm ảnh trả lời “Đây là thiếu tướng Nguyễn Văn Mạnh, Phó Tư lệnh quân đội quốc gia liên minh, em rể của cố trung tướng Trịnh Minh Thế. Ông Mạnh lấy chị Trịnh Thị Nhan, em gái của cố Trung tướng, nhà ở Cẩm Giang”. Mai Hữu Xuân bỏ tấm ảnh vào túi và đứng dậy đi luôn.
Nhà của Anh hùng LLVT Phan văn Điền (Mười Thương)
Sau đó chúng còng tay, bịt mắt đưa Hà Minh Trí ra sân bay về Sài Gòn. Chúng đưa ông đến trụ sở đặc biệt của mật vụ Phủ Tổng thống ngụy để tra tấn hỏi cung. Cho đến năm 1958, chúng đưa Hà Minh Trí về Trại giam Tổng Nha cảnh sát Sài Gòn. Hà Minh Trí được giam ở phòng số 10, phòng đặc biệt luôn có 3 tên lính đứng gác. 
Mặc dù bị đánh đập, tra tấn suốt ngày đêm với những chiêu độc ác hết sức dã man, đầu óc của Hà Minh Trí luôn căng ra để trả lời những câu hỏi cung của địch nhằm làm li gián kẻ thù, có lợi cho cách mạng. Dù bị đòn roi, tra tấn chết đi sống lại nhưng ông vẫn hát. Hà Minh Trí không phải hát cho mình, mà hát để động viên những bạn tù ở phòng khác bị đưa đi điều tra, tra tấn trở về phòng.
Tiếng hát của Hà Minh Trí đã cũng cố thêm tinh thần và ý chí cách mạng của những chiến sĩ khác như Lê Quang Vịnh, Lê Hồng Tư và những nữ sinh trường Gia Long bị bắt trong phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên Sài Gòn. Tiếng hát đầy ý chí và tình thương nên mọi người gọi Hà Minh Trí bằng tên Thương. Ở phòng giam số 10 nên gọi là Mười Thương. Và từ đó đến nay, cái tên Mười Thương đã trở thành tên thường gọi thân mật.
Tháng 8/1962, chúng đưa ra tòa án xét xử kín Mười Thương, do tên đại tá Khoa- Chánh án Tòa án quân sự đặc biệt trực tiếp xét xử. Chúng hỏi “Tại sao anh giết Tổng thống?”. Mười Thương trả lời “Ngô Đình Diệm là kẻ ác nhất miền Nam. Kéo về Tây Ninh bao vây định bắt trung tướng Trịnh Minh Thế và đàn áp Cao đài. Ngô Đình Diệm càn quét dân chúng miền Nam. Tôi giết một con mèo độc để cứu vạn con chuột”. Mười Thương bị tuyên án tử hình.
Tháng 10/1963, chúng quyết định đày Mười Thương đi Côn Đảo cùng 41 đồng chí khác bị chúng tuyên án tử hình theo luật 10/59. Trước khi đi, ông có bài thơ khắc trên chiếc can nhựa tặng cho người bạn tử tù Võ Duy Quang tại khám Chí Hòa: “Đêm lui, nắng đã ửng rồi/Cành sai trái ngọt, rộng trời cờ sao/Vườn xuân đỏ rực hoa đào/Chim hồng tung cánh bay vào bình minh”.
Anh hùng LLVT Phan Văn Điền vừa vượt qua cơn bạo bệnh
Ý chí, tinh thần đấu tranh bất khuất của người cộng sản trẻ tuổi không chỉ làm cho giặc nao núng, mà còn rung động trái tim của cô nữ sinh Gia Long- người bạn tù trong phong trào đấu tranh của sinh viên. Mối tình đẹp như trong huyền thoại giữa Mười Thương và Nguyễn Kim Hưng (Nhã Nam), người vợ thuỷ chung của ông, đến tận bây giờ đã làm biết bao nhiêu người xúc động.
Năm 1963, Ngô Đình Diệm bị đảo chính, nhiều người ở Côn Đảo được thả ra. Đầu năm 1964, sau vụ Nguyễn Khánh làm đảo chính, ông được giải về đất liền nhưng vẫn đưa tiếp vào trại giam. Tại đây, Hà Minh Trí được gặp Trần Quốc Hương (Mười Hương), Nguyễn Đình Quảng (Minh Vân) từ trại giam 9 hầm Huế đưa vào.
Mười Hương đã chỉ đạo Hà Minh Trí một số nhiệm vụ và cơ sở bắt liên lạc sau khi ra tù. Cuộc đảo chính lật đổ Nguyễn Khánh tháng 2/1965, Phan Khắc Sửu, người bị Diệm bắt giam trong vụ đảo chính năm 1960 ở chung dãy trại B của Trung tâm thẩm vấn, đã nhận Hà Minh Trí là đồng đạo được lên làm quốc trưởng. Cũng chính vì vậy, ngày 10/3/1965, Mười Thương được trả tự do.
Ra tù, Mười Thương tiếp tục hoạt động trong Ban An ninh khu Sài Gòn –Gia Định, Ban An ninh Trung ương cục miền Nam, Ban An ninh tỉnh Tây Ninh, Văn phòng Bộ Nội vụ ở phía Nam. Năm 1976 về công tác lại ở Công an Tây Ninh, nơi mà trước đây Mười Thương công tác và nhận nhiệm vụ của Ban địch tình Tỉnh uỷ Tây Ninh diệt Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Sau này vì yêu cầu công tác, Đại tá công an Phan Văn Điền (Mười Thuơng) được điều sang làm Phó Ban Nội chính Tỉnh uỷ Tây ninh, rồi Phó Ban dân vận Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tôn giáo tỉnh Tây Ninh. Dù ở cương vị công tác nào, ông cũng luôn giữ vững phẩm chất đạo đức của người cách mạng, nhiệt tình, xông xáo, luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Năm 2005, kỷ niệm 60 năm ngày thành lập lực lượng Công an nhân dân, ông Phan Văn Điền (Mười Thương) được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Nay ông đã gần 80 tuổi, vừa vượt qua một cơn bạo bệnh, sức khỏe còn rất yếu nhưng đầu óc ông vẫn rất minh mẫn./.
Nguyễn Thế Lực