Saturday 3 October 2015

Nếu "khai tử" môn Sử, sẽ là một thảm họa lớn (Trần Trung Hiếu - Giáo Dục)

Nếu "khai tử" môn Sử, sẽ là một thảm họa lớn

(GDVN) - Những giáo viên dạy Sử và dư luận xã hội quan tâm và phiền lòng là trong Dự thảo này không đưa môn học Lịch sử vào chương trình giáo dục cơ bản.
LTS: Môn Sử gần như bị “khai tử” trong Dự thảo Chương trình Giáo dục phổ thông tổng thể.
Thời gian qua, Bộ GD&ĐT công khai Dự thảo Chương trình Giáo dục phổ thông tổng thể (trong chương trình giáo dục phổ thông mới) đến các trường phổ thông (chương trình tổng thể) trên toàn quốc để lấy ý kiến góp ý. 
Nói một cách thẳng thắn là Dự thảo này đã từng bước “khai tử” môn Lịch Sử  trong các môn học phổ thông và tương ứng với nó là “khai tử” luôn trong các kỳ thi quốc gia tốt nghiệp và tuyển sinh vào đại học, cao đẳng.
Chưa bao giờ, vị thế và vai trò của môn Sử bị đánh giá thấp như thế so với các môn học phổ thông trong một Dự thảo của Bộ GD&ĐT.
Bài viết thẳng thắn trên tinh thần góp ý và nhìn thẳng sự thật của thầy Trần Trung Hiếu - giáo viên Sử, Trường THPT chuyên Phan Bội Châu - Nghệ An sẽ như một lời cảnh báo với người soạn thảo chương trình.
Thầy Hiếu viết:
Ở nội dung “Môn học cốt lõi thuộc lĩnh vực giáo dục Khoa học xã hội”, Dự thảo quy định “Giáo dục khoa học xã hội được thực hiện ở nhiều môn học và hoạt động trải nghiệm sáng tạo, trong đó các môn học cốt lõi tiếp nối với nhau là: Cuộc sống quanh ta ( các lớp 1,2 3 ), Tìm hiểu xã hội (các lớp 4, 5); Khoa học xã hội ( trung học cơ sở và trung học phổ thông); Lịch sử và Địa lý ( cấp trung học phổ thông).
Ngoài ra, Dự thảo còn quy định: “nếu chọn môn Khoa học xã hội thì không chọn các môn Lịch Sử và Địa Lý”.
Điều đó rõ ràng cho thấy, môn học Lịch Sử và Địa Lý chỉ tách thành môn học độc lập ở cấp trung học phổ thông, còn cấp tiểu học và trung học cơ sở thì môn học này được lồng ghép vào môn học “Cuộc sống quanh ta” (các lớp 1, 2, 3), “Tìm hiểu xã hội” (các lớp 4, 5) và “Khoa học xã hội” (cấp trung học cơ sở).
Chúng tôi cho rằng, việc quy định môn học Lịch Sử là môn học bắt buộc trong chương trình giáo dục cơ bản (cấp tiểu học và trung học cơ sở) là một sai lầm lớn bởi ai cũng biết vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của môn học này trong việc giáo dục, hình thành nhân cách, lòng yêu nước và sự hiểu biết, nhận thức về truyền thống dân tộc.
Liệu chúng ta, cụ thể là Bộ GD&ĐT đã quá dân chủ trong vấn đề dạy học khi chiều theo ý kiến của dư luận và sở thích của học sinh?
Lẽ ra, Bộ GD&ĐT phải thấy được và xác định được vai trò, vị trí và ý nghĩa của môn Sử đối việc trồng người, đối việc giáo dục truyền thống, nhân cách cho học sinh. Khi đã xác định được như vậy thì sẽ bắt buộc học sinh phải học và thi chứ không phải để cho học sinh học theo kiểu “ứng thi”, thích gì học nấy, không thi thì không học như hiện nay!
Nếu đã chiều theo ý muốn của học sinh tự chọn thì cho chọn tất cả. Ai thích môn gì phù hợp với ý thích (cảm tính) thì học, không thích thì không học. Kiểu học, liểu thi như thế này thì quả là một tai họa!
Chúng tôi thiết nghĩ, mọi công dân đều phải sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật, và đối với học sinh cũng phải chấp hành nhưng quy định của nghành giáo dục về học tập và thi cử.
Còn việc dạy và học như thế nào cho học sinh không chán Sử và yêu Sử hơn lại là một việc khác mà các nhà quản lý giáo dục, các chuyên gia biên soạn sách giáo khoa, các giáo viên cốt cán môn Sử ở bậc phổ thông và các Nhà Sử học cần ngồi lại với nhau để bàn vào dịp khác.
Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể của Bộ GD&ĐT đã gạt Lịch Sử ra khỏi chương trình giáo dục cơ bản (cấp tiểu học và trung học) và biến môn học cơ bản này thành “môn tự chọn”, theo chúng tôi đó là một dự thảo “phản quốc”, “phản giáo dục”! Tại sao, cơ sở nào mà Dự thảo này lại viết “Nếu chọn môn Khoa học xã hội thì không chọn các môn Lịch sử, Địa lý…” ?
Điều chúng tôi – những giáo viên phổ thông muốn biết rõ là: Ban Biên soạn Dự thảo này là những ai, Trưởng ban biên soạn này là ai? Những cơ sở biên soạn Dự thảo này liệu có thật thuyết phục không?
Chẳng lẽ họ không biết rằng giáo dục lịch sử là giáo dục về văn hóa, truyền thống, lòng yêu nước và niềm tự tin, tự hào dân tộc sao?
Dạy lịch sử còn là dạy làm Người, dạy cho thế hệ trẻ giữ gìn phẩm giá, nhân cách con người, đồng thời góp phần quan trọng vào việc nâng cao cái “phông” văn hóa cho học sinh. Học lịch sử còn để biết giá trị của ngày hôm nay và từ đó biết ý nghĩa của thành ngữ “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”.
Không biết Toán, có thể gặp khó khăn khi … cộng trừ tiền lương, quy chiếu tiền đô la ra tiền Việt. Còn không biết lịch sử thì điều gì sẽ xảy ra khi con cái không biết cha mẹ, ông bà tổ tiên, dòng họ mình là ai?
Ảnh minh họa. Tuổi trẻ
Mình sinh ra và lớn lên ở đâu, không biết cội nguồn dân tộc, Tổ quốc này là ai? Không học Sử thì thế hệ trẻ làm sao biết được chỉ ở Việt Nam mới có ngày Giỗ tổ Hùng Vương 10/3 âm lịch và không thể hiểu được tại sao đến ngày đó, học sinh, sinh viên và tất cả cán bộ, công chức được nghỉ ?
Và tại sao UNESCO lại công nhận Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dân tộc ta là một Di sản văn hóa phi vật thể? Học sinh không học Sử và thi Sử, làm sao các em hiểu được giá trị lịch sử của sự kiện lịch sử 2/9; 30/4 và đó là những ngày lễ lớn mà tất cả người dân được nghỉ?
Phải chăng, họ đang muốn từng bước “khai tử” một môn học mà từ xưa được coi là quan trọng và là môn cốt lõi bồi dưỡng lòng tự hào dân tộc của một “đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên”, nâng cao tinh thần yêu nước và là môn học hiệu quả nhất trong các môn học phổ thông  về việc góp phần hình thành nhân cách của mỗi con người sao?
Điều gì sẽ xảy ra, nếu như các thế hệ trẻ người Việt trong tương lai gần không biết gì về lịch sử nước nhà, hoặc nếu biết thì cũng dừng lại những hiểu biết ngây ngô, lơ mơ, đại khái, thậm chí với những nhận thức méo mó, lệch lạc?
Trong khi đó, họ sẽ suốt ngày đam mê, nhặt nhạnh các thông tin về lịch sử đã bị xuyên tạc, bóp méo và bôi đen đang tràn lan từng phút, từng giây trên các trang mạng, sách báo phản động . Lúc đó, hệ lụy đáng đau buồn nữa không phải là kiến thức lịch sử mà là nhận thức lịch sử, không còn là ý thức mà là thái độ, nhân cách.
Nhà văn Xô Viết Rasul Gamzatop đã nói:”Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn anh bằng đại bác”. Nếu như không dạy lịch sử một cách tử tế thì chưa biết chừng, chắc chắn sẽ đến một lúc nào đó, chính thế hệ được dạy bằng Dự thảo chương trình này sẽ quay lưng lại với cha ông. Nếu chúng ta không thấu hiểu và trân trọng quá khứ, tương lai sẽ đối xử với chính chúng ta còn tệ bạc hơn!
Vì sao chúng tôi phải Đề nghị đưa môn Sử trở thành môn thi bắt buộc trong kỳ thi THPT và tuyển sinh đại học. 
Thứ nhất, xét về góc độ phương pháp luận.
Lịch sử là quá trình phát triển khách quan của xã hội loài người nói chung cũng như của mỗi quốc gia, dân tộc. Lịch sử như một dòng chảy không ngừng từ khi con người xuất hiện, phát triển liên tục đến ngày nay và cả mai sau.
Sử học (nói rộng ra là Khoa học Lịch Sử) là một trong những ngành trí thức sớm nhất của con người và  luôn giữ vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, trong kho tàng tri thức nhân loại cũng như trong mọi hoạt động của con người, trong nhận thức thế giới và cải tạo thế giới .
Thầy Trần Trung Hiếu với GS.VS.NGND Phan Huy Lê - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử tại Hội thảo Khoa học Quốc gia về Dạy học môn Sử trong trường phổ thông Việt Nam, Đà Nẵng 8/2012. Ảnh TH
Sử học đáp ứng một nhu cầu tự nhiên và ngày càng nâng cao của con người vì ai cũng cần biết mình sinh ra từ đâu và quá khứ như thế nào. Chúng ta không thể hình dung được sự tồn tại và phát triển của loài người nếu như chúng ta bị tách rời khỏi quá khứ hoặc với cả một quá khứ mù mịt.
Lịch sử và cuộc sống là một quá trình phát triển biện chứng mà hôm nay phải là sự kế thừa và phát triển của hôm qua và chuẩn bị cho hôm sau. Về phương diện này, lịch sử là cả một kho tàng kinh nghiệm vô cùng phong phú mà con người cần nhận thức để rút ra những bài học.
“Ôn cố tri tân” là một nhu cầu của con người đã trưởng thành và có ý thức được cuộc sống và vận mệnh của mình, luôn muốn vươn lên để nhận thức và cải tạo thế giới.
Từ nhận thức dựng lại quá khứ tiến lên nhận thức bản chất của lịch sử, khám phá ra những đặc điểm và quy luật phát triển của lịch sử, cung cấp những cơ sở khoa học để hoạch định con đường phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc cũng như của mỗi cộng đồng cư dân trên mọi lĩnh vực.
Thứ hai, về vai trò của môn Lịch Sử, đã có nhiều lãnh đạo Việt Nam phát biểu thừa nhận và khẳng định. 
Các sách sử xưa dành cho các nho sinh dự các kỳ khoa cử thời phong kiến ở nước ta khá đồ sộ và đều hầu như thuộc các bộ sách thông sử kinh điển của Nho giáo.
Suốt 10 năm đền sách, vợ nuôi chồng, em nuôi anh, có khi học đến bạc đầu nhưng các nho sinh từ 5 tuổi đến 80 tuổi ai ai cũng gắng mà học, bởi thời phong kiến nếu không thuộc lòng kiến thức thông sử để thi thố thì đừng bao giờ mong đỗ đạt, làm quan, rạng mặt với tổ tông.
Trong các bài học ngày xưa thì bài học lớn về dạy người chính là các bài học về lịch sử. Sinh thời, cụ Nguyễn Sinh Sắc đã dạy Nguyễn Tất Thành nhiều kiến thức, nhưng nhiều nhất là những bài học lịch sử từ thuở ấu thơ đã giúp Người sớm hun đúc lòng yêu nước và ý chí giải phóng cho dân tộc khỏi ách áp bức thông qua những trang sử nước nhà.
Câu thơ lục bát của Hồ Chí Minh khi mở đầu cuốn “ Việt Nam Quốc sử diễn ca” từ thở hoài thai của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hẳn nhiều người thuộc lòng và hay trích dẫn khi nhấn mạnh đến vai trò và yêu cầu học lịch sử dân tộc : “ Dân ta phải biết Sử ta”. 
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nhà Sử học Trần Huy Liệu đã được Hồ Chủ tịch bổ nhiệm là Bộ trưởng Bộ Thông tin và Tuyên truyền trong chính Phủ VNDCCH. Ông còn là Chủ tịch đầu tiên của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Trưởng ban Nghiên cứu Văn Sử Địa trực thuộc Trung ương Đảng.
Những chức vụ này của nhà sử học, Giáo sư, Viện sỹ Trần Huy Liệu nói lên tầm quan trọng của bộ môn Lịch sử đối với một đất nước mới thoát khỏi gông cùm nô lệ.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhận thức rõ tầm quan trọng của các môn khoa học xã hội và nhân văn nói chung, môn Lịch Sử nói riêng, năm 1996, Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của BCH TW Đảng (khóa VIII) đã đề ra nhiệm vụ “Coi trọng hơn nữa các môn khoa học xã hội và nhân văn, nhất là Tiếng Việt, Lịch Sử dân tộc”. 
Mục tiêu của giáo dục phổ thông theo Luật Giáo dục (2005, sửa đổi 2009, 2010) là “giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản”. Như vậy, mục tiêu của giáo dục phổ thông không phải là đào tạo ra những con người công cụ mà đào tạo ra những con người có bản lĩnh  và năng lực hành động tự do và sáng tạo.
Theo GS.VS.NGND Phan Huy Lê, trong lực của học sinh “quan trọng bậc nhất là nhân cách, là tư duy độc lập sáng tạo, là những tố chất tạo nên bản lĩnh con người, trong đó kiến thức cơ bản và giá trị lịch sử văn hóa là nền tảng”.
Theo GS. Phan Huy Lê, “riêng đối với Việt Nam, Lịch sử càng giữ vai trò cực kỳ quan trọng gắn liền với sự tồn vong của quốc gia- dân tộc”.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI (2011) đã chỉ rõ: “Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại ; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội”.
Năm 2011, trong Lễ kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (1966-2011), Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã phát biểu và cũng lại lần nữa trân trọng nhắc lạ điều này : “ Sử học là nghành khoa học nền tảng hết sức quan trọng, không chỉ dừng lại quá khứ mà từ đó biết “ôn cố tri tân”, phục vụ trực tiếp sự nghiệp cách mạng hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Các giá trị lịch sử và văn hóa chung đúc qua các thời kỳ lịch sử, đặc biệt là chủ nghĩa yêu nước luôn luôn là nguồn động lực của sự phát triển bền vững.” chính là chỉ ra mối quan hệ biện chứng của lịch sử với hiện tại và tương lai.
Ngày 16/8/2012, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tuy sức khỏe đang rất yếu, đã gửi điện chúc mừng Hội KHLSVN tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia về Dạy học lịch sử trong trường phổ thông Việt Nam, ông mong mỏi và dặn dò: “Giáo dục khoa học lịch sử cho thế hệ trẻ Việt Nam là vấn đề vô cùng quan trọng đối với tương lai và trường tồn phát triển của dân tộc”.
Thứ ba, vấn đề môn Sử ở nhiều nước phát triển.
Cố Tổng thống nước Pháp là Francois Mitterrand đã ví von rằng, những kẻ không hiểu lịch sử dân tộc thì bơ vơ như những đứa trẻ mồ côi. Chính vì vậy mà Chính phủ thời ông làm Tổng thống đã có nhiều biện pháp nhằm chấn hưng Sử học, đẩy mạnh việc giáo dục và truyền bá lịch sử.  
Nhiều nước trên thế giới đã giành cho chương trình Lịch Sử một vị trí xứng đáng, là một trong 5 môn học bắt buộc ở phổ thông vì “Sử học là thầy dạy của cuộc sống”. Trong hệ thống giáo dục ở Mỹ và Canada, Lịch Sử là một trong những môn bắt buộc ở các cấp phổ thông và đại họccùng với các môn học khác như Toán, tiếng Anh, Vật lý…
Thứ tư, bất cứ một quốc gia, dân tộc nào trên thế giới từ xưa tới nay đều có lịch sử hình thành và phát triển. Lịch sử Việt Nam hàng ngàn năm qua cũng là lịch sử của dựng nước và giữ nước.
Do vị trí địa-chính trị và địa-quân sự, từ khi hình thành nhà nước đầu tiên cho đến nay, dân tộc ta luôn phải đương đầu với nhiều âm mưu và hành động xâm lược đến từ các đề chế lớn từ châu Á, châu Âu, châu Mỹ, trong đó gần như liên tục và thường xuyên là các đế chế Đại Hán phương Bắc.
Trong điều kiện tương quan lực lượng hết sức chênh lệch giữa ta và đối phương, con đường chiến thắng của dân tộc là phải phát huy tất cả sức mạnh của cả nước đánh giặc, toàn dân đánh giặc, trong đó chủ nghĩa yêu nước, sự đoàn kết dân tộc và trí thông minh là nhân tố quyết định.
Trong mọi sự thăng trầm, hưng thịnh của lịch sử đều luôn để lại cho hiện tại và tương lai những bài học lịch sử quý giá. Chả lẽ các cuộc kháng chiến trường chinh mà dân tộc ta giành được, kể kẻ cả thành công hay thất bại lại không để lại cho hậu thế những bài học lịch sử sao?
Bài học mất nước của An Dương Vương thời quốc gia Âu Lạc, Hồ Quý Ly đầu thế kỷ XV và triều Nguyễn nửa cuối thế kỷ XIX và những cuộc kháng chiến đánh đuổi ách ngoại xâm từ hàng ngàn năm qua luôn là một thực tiễn sinh động trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ nền độc lập dân tộc luôn tươi nguyên giá trị.
Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước là thực tiễn sinh động trả lời cho câu hỏi “ Tại sao trải qua 1082 năm đô hộ của phong kiến Trung Quốc, họ không thể tài nào đồng hóa nổi một con người Việt Nam ? Tại sao đứng trước một sức mạnh bạo cường của các đế quốc thực dân, đế quốc, dân tộc ta vẫn trường tồn để phát triển?”.
Lịch sử không diễn ra theo một con đường giản đơn và thẳng tắp mà thường gập ghềnh, quanh co, phức tạp. Vấn đề là liệu chúng ta có đủ bản lĩnh và trí tuệ để học một cách thực sự và nghiêm túc tất cả các bài học lịch sử hay không thôi chứ bài học lịch sử nào cũng đều hết sức quý giá.
Ngay từ thời Roma cổ đại, các nhà chính trị thông thái đã thực tin “Lịch sử là thầy dạy cuộc sống”. Hiểu đúng bản chất và biết trân trọng, khai thác các bài học của quá khứ phục vụ cho cuộc sống hiện tại và tương lai bao giờ cũng là cách ứng xử văn hóa và khôn ngoan của con người. 
Thứ năm, ngày nay xu thế trong trật tự thế giới đang biến đổi hết sức phức tạp và khó lường. Vấn đề về mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tranh chấp đất đai và vấn đề chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ luôn là nguyên nhân gây nên sự bất ổn của nhiều khu vực thế giới.
Đối với Việt Nam, nhiệm vụ xây dựng đất nước luôn gắn chặt với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền biển đảo và toàn vẹn lãnh thổ. 
Trong thời gian vừa qua, chính quyền và quân đội Trung Quốc đã và đang có nhiều âm mưu và hành động ngang ngược xâm phạm một cách trắng trợn chủ quyền bất khả xâm phạm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Thế hệ trẻ lớn lên qua nền giáo dục phổ thông mà không biết gì đến lịch sử dân tộc, không có một niềm tin dân tộc, không kế thừa các truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc thì làm sao có thể để yêu nước và bảo vệ đất nước? Thế hệ trẻ sẽ hiểu gì và có thái độ như thế nào trước thự tếc lịch sử đó?
Thứ sáu, lịch sử bị xuyên tạc như thế nào trong nhiều năm gần đây?
Nhờ sự bùng nổ của công nghệ thông tin của xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, các lực lượng, thế lực phản động chống chế độ, chống Đảng và Nhà nước đang điên cuồng chống phá bằng mọi hình thức và phương thức: tuyên truyền, gây chia rẽ, kích động đoàn kết dân tộc, xuyên tạc nhiều kiện lịch sử,nhân vật lịch sử thông qua các phương tiện truyền thông như truyền hình, truyền thanh, báo mạng….
Khi môn Sử không thi thì học sinh không muốn học nhưng những thông tin trái chiều kiểu như thế có rất nhiều trên các trang web , blog, facebook…thì thật sự rất nguy hại cho học sinh khi các em chưa đủ kiến thức và  nhận thức, bản lĩnh để nhận ra đúng-sai, xấu- tốt từ nhiều nguồn, nhiều kênh thông tin độc hại đó… 
Học sinh, sinh viên ngày nay đã và đang sử dụng các phương tiện kết nối thông hiện đại để có thể truy cấp internet bất cứ lúc nào .Từ chỗ hoang mang về tư tưởng, niềm tin dẫn đến thất vọng về những gì mà các em đón nhận từ các nguồn thông tin phản động.
Các em sẽ dễ rơi vào tình trạng mất hoàn toàn niềm tin vào chế độ và có thể dễ rơi vào cái bẫy của các thế lực thù địch. Chúng tôi thiết nghĩ, sự yếu kém về kiến thức lịch sử chưa đáng nguy hại bằng sự lệch lạc về nhận thức lịch sử.
Đất nước càng gần đến các ngày Lễ kỷ niệm lơn như 3/2, 30/4, 19/5, 19/8 và 2/9…, các thế lực thù địch thường nhân cơ hội đó để cố tình bóp méo và bôi đen lịch sử, phủ nhận những giá trị của lịch sử đã “mặc đinh”, đã “đóng đinh” trong suốt chiều dài lịch sử.
Bằng nhiều cách nhìn nhận trái ngược dưới ngọn cờ “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do”…, họ đã xuyên tạc nhiều sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử một cách hằn học, cay cú.
Đặc biệt, khi đất nước ta đang tiến hành đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XII của Đảng, các thế lực thù địch đang lợi dụng các phương tiện truyền thông, báo chí ở nước ngoài, nhất là các trang mạng xã hội để tuyên truyền, xuyên tạc làm giảm uy tín cá nhân của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội….thông qua những cái gọi là “tài liệu nhạy cảm”.
Chúng khai thác, cắt xén, nhào nặn những thông tin sai sự thật, không kiểm chứng, thật – giả lẫn lộn, dễ gây hoài nghi, tò mò trong dư luận.Thế hệ trẻ, nhất là học sinh, sinh viên sẽ đón nhận và xử lý các thông tin lệch lạc đó như thế nào?
Họ sẽ biết tin vào đâu để có thái độ hành xử đúng đắn trong học tập và cuộc sống khi môn Sử đang bị xem thường? Và chúng tôi- những giáo viên dạy Sử sẽ trả lời và định hướng như thế nào khi đến các tiết dạy Sử, học sinh đã và đang hỏi những câu hỏi và thông tin mà các em đã tiếp nhận như thế ?
Thứ bảy, chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa là trang Sử bi hùng được viết bằng máu xương của nhiều thế hệ người Việt Nam ta từ thời Vương quốc Chăm Pa cho đến các Chúa Nguyễn, Vương triều Nguyễn và tiếp diễn đến tận ngày nay.
Tư liệu về quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam ở 2 quần đảo này là hết sức phong phú, chuẩn xác cả trong nước và ngoài nước. 
Chúng ta hãy hình dung nhiều thế hệ trẻ người Việt không hề biết về lịch sử nước mình, với lập luận là lớn lên nó sẽ biết thì rõ ràng đó là một nhận thức hết sức sai lầm. Nếu ngay từ nhỏ, những đứa trẻ đã không được giáo dục lịch sử nước mình, dân tộc mình thì lớn lên đứa trẻ đó cũng chẳng muốn, chẳng thèm quan tâm đến lịch sử làm gì.
Và thử hình dung một dân tộc và người dân không hể hiểu được lịch sử và cội nguồn của mình thì dân tộc đó sẽ như thế nào? Liệu như thế có phải mất gốc không?
Chúng ta hãy nhìn sang Trung Quốc – một quốc gia “muôn đời vạn kiếp” láng giềng của chúng ta, họ đã giáo dục con trẻ về lịch sử của họ như thế nào? Đến bây giờ, nếu hỏi thế hệ trẻ của Trung Quốc về Hoàng Sa và Trường Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa) thì gần như tất cả họ đều trả lời rằng: đó là lãnh thổ của Trung Quốc, dù chúng ta luôn khẳng định rằng đó là lãnh thổ của chúng ta.
Trung Quốc đã giáo dục cho trẻ con của họ như vậy, họ đã đưa nội dung đó vào trường học, vào sách giáo khoa Lịch sử phổ thông. Còn người Việt ta không giáo dục con cháu thì rất có thể thời gian không xa nữa, Hoàng Sa và Trường Sa sẽ thuộc về Trung Quốc.
Chúng ta cũng nên thẳng thắn nhìn Trung Quốc dạy học lịch sử cho con trẻ như thế, họ đưa nội dung giáo dục lịch sử vào trường học và không chỉ dạy trong sách giáo kho môn Sử mà còn đa dạng các hình thức dạy học với các hình thức phim ảnh, báo chí, truyền thông, các trò chơi games trên internet…
Có thể vì như vậy mà đã xuất hiện nhiều câu chuyện buồn rằng nhiều người trẻ của chúng ta có khi còn hiểu biết lịch sử Trung Quốc hơn lịch sử nước mình bởi những đứa trẻ đó thường xuyên xem phim truyền hình của Trung Quốc.
Nếu chúng ta không muốn xem và nghe lại những câu chuyện đau lòng “cười ra nước mắt” kiểu như Quang Trung, Nguyễn Huệ là hai bố con, là an em, là bạn cùng chiến đấu, là hai người khác nhau; Nguyễn Tất Thành thì biết còn Nguyễn Ái Quốc thì không…thì có lẽ chúng ta cần phải nghiêm túc và thẳng thắn nhìn nhận về vấn đề giáo dục lịch sử nước mình, suy ngẫm lại lời dạy của Bác Hồ “ Dân ta phải biết sử ta…”.
Thử hỏi, nếu môn Sử không còn chỗ đứng trong hệ thống các môn học phổ thông nữa, học sinh không muốn học môn Sử nữa và thầy cũng không muốn dạy Sử nữa , Sử không phải là môn thi bắt buộc  nữa thì sao ? Ai sẽ là người chịu trách nhiệm trước cả tiền nhân và hậu thế về sự thật lịch sử này?
Thứ tám, được sự đồng ý và phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ, Đề án KHXH cấp quốc gia “ Nghiên cứu, biên soạn bộ Lịch Sử Việt Nam” đã bắt đầu được triển khai xuất phát từ nhu cầu tìm hiểu lịch sử dân tộc của nhân dân trong nước, kiều bào nước ngoài  và giới học giả cũng những người quan tâm đến Việt Nam trên thế giới.
Ngày 24/12/2013, Ban Bí thư TW Đảng đã kết luận xác định tên gọi bộ sách là “Lịch Sử Việt Nam”, “là bộ quốc sử mang tính quốc gia chính thống”.
Sau đó, Bộ KH&CN đã ban hành các Quyết định thành lập Ban Chủ nhiệm Đề án này do GS Phan Huy Lê làm Chủ nhiệm và các Phó Chủ nhiệm là GS.TSKH Vũ Minh Giang, GS.TS Nguyễn Quang Ngọc, PGS.TS Trần Đức Cường.
Bộ “Lịch sử Việt Nam” có tính chất như bộ lịch sử mang tầm quốc gia là một công trình khoa học lớn với sự dày công của nhiều nhà khoa học lịch sử hàng đầu Việt Nam biên soạn (gồm 25 tập, với dung lượng trung bình 700 trang/ tập) cũng là đòi hỏi của chính khoa học lịch sử, là một dấu mốc quan trọng đánh dấu bước phát triển mới của sử học nước nhà.
Thứ chín, về mặt văn hóa, trong toàn bộ lịch sử lâu dài và oanh liệt của dân tộc Việt Nam, lịch sử chống ngoại xâm luôn là nội dung xuyên suốt, bao trùm.
Nhưng lịch sử chống ngoại xâm không phải là toàn bộ lịch sử dân tộc, mà trái lại sự phát triển kinh tế, những thành tựu về văn hóa xã hội lại chính là cơ sở tồn tại và phát triển đất nước, là sức mạnh vật chất và tinh thần để dân tộc ta vượt qua những thử thách hiểm nghèo, làm nên những chiến công thần kỳ trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Văn hóa Việt Nam là sản phẩm và kết tinh của quá trình lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước lâu dài của dân tộc Việt Nam, là kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất, lâu bền nhất của dân tộc và chính nó đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam.
Nó được tạo nên từ vốn văn hóa của các tộc người đã từng sống trên lãnh thổ Việt Nam và trong quá trình phát triển nó đã được tiếp nhận nhiều ảnh hưởng từ các nền văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, phương Tây…nhưng vẫn giữ được bản sắc tạo nên sức mạnh tiềm tàng của người Việt trong trường kỳ lịch sử.
Vì vậy, giáo dục qua di sản là trách nhiệm của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị. Phương pháp dạy học thông qua các di sản gắn liền với dạy học lịch sử địa phương là phương pháp trực quan, sinh động và thực sự có hiệu quả.
Chúng tôi khẳng định, nếu Bộ GD&ĐT vẫn kiến quyết bảo thủ, vẫn cho mình là đúng không chịu nghe nhiều ý kiến phản biện, góp ý xây dựng của tuyệt đại đa số các giáo viên sử ở các bậc học THPT trên toàn quốc, và những người đã và đang nặng lòng với lịch sử, vẫn quyết định lịch sử là môn tự chọn thì đó là một thảm họa lớn.
Ngoài ra nó còn là phản giáo dục, mà hệ lụy của nó không thể cân,  đo đong đếm được. Chúng ta đang thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" một cách sâu rộng và trên mọi ngành, mọi tuổi tác. Chúng tôi nghĩ, câu nói nổi tiếng của Bác "Dân ta phải biết sử ta" chính là điều mà Bộ GD&ĐT càng phải học. Học để thực hành chứ không chỉ là khẩu hiệu suông.
Lịch sử luôn vận động và biến thiên không ngừng, xu hướng phát triển của lịch sử thế giới cũng luôn biến chuyển khó lường. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, muốn tồn tại và đi lên cần phải đổi mới.
Ngành giáo dục đang trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện, nhưng đổi mới không có nghĩa là phủ nhận sạch trơn tất cả cái cũ để bê cái nào đó xa lạ. Chúng ta đừng bao giờ hô hào và tự hào Việt Nam là lịch sử của hàng ngàn năm Văn hiến khi chính chúng ta đã đã và xem thường môn sử.
Trần Trung Hiếu

Friday 7 August 2015

Hỏi – đáp về thời Âu Lạc (Nguyễn Văn Toàn - Văn Chương Việt)

Hỏi – đáp về thời Âu Lạc
Nguyễn Văn Toàn


1. Xuất xứ của Thục Phán An Dương Vương?

Thục Phán thuộc dòng dõi vua Khai Minh nước Thục thời Chiến Quốc. Thục là một quốc gia cổ ở vùng Tứ Xuyên, Trung Quốc. Xuất phát quyền lực của nước Thục là đồng bằng Thành Đô, với lãnh thổ chủ yếu nằm ở vùng Trung và Tây bồn địa Tứ Xuyên, cũng như vùng thượng thung lũng sông Hán Thủy. Dân tộc chủ yếu ở Thục là người Khương. Nước Thục bị Tần đánh bại vào năm 316 TCN. Khi đó kinh đô của Thục đặt tại Thành Đô.

2. An Dương Vương đã lưu lạc đến phía Bắc Văn Lang như thế nào?  

Sách “Ngược dòng lịch sử” của GS Trần Quốc Vượng viết rằng sau khi nước Thục bị Tần diệt, con nhỏ vua Thục là Thục Chế được lập lên ngôi, lưu vong về phía đông nam. Tuy nhiên qua thế hệ Thục Chế vẫn phải lẩn trốn trước sự truy nã của Tần và không có cơ hội khôi phục nước Thục cũ. Cuối cùng tới con Thục Chế là Thục Phán thì hình thành quốc gia nằm ở phía bắc Lạc Việt của họ Hồng Bàng. Và sau cuộc chống Tần thắng lợi đã buộc vua Hùng thứ 18 nhường ngôi, lập ra nước Âu Lạc.

Truyền thuyết Cẩu chúa cheng vùa (“Chín chúa tranh vua”) của người Tày ở Cao Bằng cũng dẫn chúng ta đến hướng nghĩ như trên về gốc tích của An Dương Vương. Theo truyền thuyết này thì Thục Phán là con Thục Chế, vua nước Nam Cương (tên mới của nước Khai Minh?). Thục Phán đã lãnh đạo nước Nam Cương hợp nhất với Văn Lang để lập ra Âu Lạc. Kinh đô xưa của nước Nam Cương vẫn còn đấu tích khá rõ nét. Đó là kinh đô Nam Bình (Cao Bằng) với thành Bản Phủ là nơi vua ở.

3. Công lao của An Dương Vương trong việc đánh bại quân Tần như thế nào?

Việc Thục Phán đánh bại quân Tần xâm lược thực chất phần lớn là do công lao của nhân dân Văn Lang. Nhân dân Văn Lang với truyền thống chống ngoại xâm (Đế Lai, giặc Ân, Thục Phán) có thể đã tạm liên minh với Thục Phán để chống kẻ thù lớn hơn. An Dương Vương, “kẻ thù của kẻ thù” đã trở thành bạn của Văn Lang trong trường hợp như vậy. Sau này, khi đã kháng chiến thắng lợi, Thục Phán còn gây áp lực để Hùng Vương nhường ngôi, xóa nước Văn Lang, lập ra nước Âu Lạc.
Thậm chí, Thần tích đền Chèm ghi Thục Phán đánh nhau với Tần Thủy Hoàng, muốn “cầu hòa” nên đem Lý Ông Trọng mà hiến để xin bãi binh. Như vậy, chứng tỏ Thục Phán đã có một sự tính toán nhất định để sử dụng thủ đoạn trong chiến tranh, một điều không bao giờ gặp vào thời Văn Lang.
Do đó, dù Thục Phán là “anh hùng đánh bại quân Tần” thì vẫn không thể xua tan tâm lý “bài ngoại” của cư dân Văn Lang vốn còn lưu giữ chế độ thị tộc rất sâu sắc. Bởi Thục Phán là thủ lĩnh ngoại tộc bị nhà Tần dồn đuổi mới chạy xuống vùng đất Văn Lang và đã cướp ngôi vua của Hùng Vương thứ mười tám. Những cuộc chiến đã diễn ra giữa hai bên Hùng – Thục được miêu tả rất nóng bỏng và sinh mạng của người Văn Lang đã bị tàn hại rất nhiều.

4. Thời điểm Thục Phán diệt nước Văn Lang?

Đại Việt Sử Ký Toàn thư chép: “Đời cháu Thục Vương là Thục Phán mấy lần đem quân sang đánh nước Văn Lang. Nhưng Vua Hùng Vương có tướng sĩ giỏi, đã đánh bại quân Thục. Vua Hùng Vương nói: Ta có sức thần, nước Thục không sợ hay sao? Bèn chỉ say sưa yến tiệc không lo việc binh bị. Bởi thế, khi quân Thục lại kéo sang đánh nước Văn Lang, vua Hùng Vương còn trong cơn say. Quân Thục đến gần, Vua Hùng trở tay không kịp phải bỏ chạy rồi nhảy xuống sông tự tử. Tướng sĩ đầu hàng. Thế là nước Văn Lang mất. Giáp Thìn, năm thứ 1 [257 TCN], vua đã thôn tính được nước Văn Lang, đổi quốc hiệu là Âu Lạc”.
Tuy nhiên, thời điểm 257 TCN không thể diễn ra việc Thục Phán diệt họ Hùng và lập nước Âu Lạc. Thời điểm này Thục Phán và đồng bào của ông ta đã nương nhờ tù trưởng Dịch Hu Thống trên đất Tây Vu, gần Văn Lang. Sau này, khi Dịch Hu Tống bị Đồ Thư giết chết, bằng sự lấn án của dòng tộc mình có thể Thục Phán đã cướp quyền lãnh đạo ở vùng đất Tây Vu và dùng vị thế này để liên kết với nhân dân Văn Lang để chống Tần. Bởi thế Sứ ký Tư Mã Thiên thì viết nước Âu Lạc lập sau năm 208 TCN.

5. An Dương Vương lập quốc theo mô hình nào?

Một điều đáng để suy nghĩ nữa là Thục Phán An Dương Vương lập quốc theo mô hình nào? Mô hình của nước Thục đã diệt vong thời Chiến Quốc hay mô hình Văn Lang? Hay là một mô hình mới?
* Mô hình nước Thục xưa được An Dương Vương áp dụng ở những chứng cứ sau:
- Việc dời đô từ vùng bán sơn địa Phong Châu (Phú Thọ) về vùng đồng bằng Cổ Loa (thuộc Hà Nội ngày nay) chứng tỏ một bước tiến vượt bậc trong việc quản lý đất nước của nước mới Âu Lạc.

- Từ việc không có thành trì, phải nhổ tre đánh giặc thời Văn Lang, nước Âu Lạc đã xây dựng thành Cổ Loa vững chắc và tinh vi với vị thế là kinh đô của cả nước, chế ra “nỏ thần” và phân biệt rạch ròi giữa vua và dân về nơi cư trú.

- Đã bắt đầu có những mưu mô chính trị xảo quyệt ở nhà nước phong kiến Âu Lạc. Như Trọng Thủy của Nam Việt phải qua làm con tin (dù với thân phận ở rể).

- Và cái tên An Dương Vương cũng có thể là niên hiệu của Thục Phán, vua nước Âu Lạc. Điều này khác hẵn với cách gọi các đời vua Hùng theo kiểu số thứ tự. Và bản thân vua Hùng cũng có nghĩa là “thủ lĩnh” được Hán hóa về sau này.
* Mô hình Văn Lang được nhìn nhận ở những chứng cứ sau:
- Bộ máy nhà nước của nước Âu Lạc không có nhiều thay đổi so với bộ máy nhà nước thời Văn Lang. Đứng đầu trong bộ máy hành chính ở trung ương vẫn là Vua và Lạc Hầu, Lạc Tướng. Đứng đầu các bộ vẫn là Lạc Tướng. Đứng đầu các chiềng, chạ vẫn là Bồ chính. Tuy nhiên, ở thời An Dương Vương quyền hành của nhà nước cao hơn và chặt chẽ hơn. Vua có quyền thế hơn trong việc cai trị đất nước.
- Con gái vua, như Mỵ Châu vẫn gọi theo cách gọi của dân gian Văn Lang. Có nghĩa là mệ, mế Châu.
- Tục ở rể vẫn thịnh hành. Bằng chứng Trọng Thủy của nước Nam Việt, một nước lớn và mạnh hơn phải sang ở rể ở Âu Lạc.
Như vậy, mô hình Âu Lạc là sự kết hợp giữa mô hình Thục và mô hình Văn Lang. Chính vì điều này, nhà nước Âu Lạc đã có sự phát triển vượt bậc trong vòng 30 năm (208 TCN – 179 TCN), đủ sức đẩy lùi những cuộc tấn công của nước Nam Việt trong một thời gian khá lâu dài.

6. Nước Âu Lạc có cương vực như thế nào?

Nước Âu Lạc chưa chia ra đơn vị hành chính, mà vẫn giữ các bộ lạc tự trị và cha truyền con nối. Đó là các bộ lạc: Mê Linh, Long Biên, Kê Tù, Khúc Dương, Tư Phố, Đô Lung, Tây Vu, Chu Diên, An Định, Vô Công, Cư Phong, Hàm Hoan, Liên Lâu, Bắc Đái, Câu Lậu, Dư Phát, Vô Biên.
7. Dân số Âu Lạc khoảng bao nhiêu?

Dân số cuối thời Âu Lạc, ở niên đại 180 trước Công nguyên, có khoảng 600.000 người.

8. Ngôn ngữ của người Âu Lạc?

Cách trung tâm Thủ đô Hà Nội khoảng 40km là Đa Chất (Đại Xuyên, Phú Xuyên) - làng đang lưu giữ một dòng ngôn ngữ cổ. Người dân ở đây có một thứ tiếng nói để trao đổi riêng với vốn từ vựng rất phong phú, ít phải vay mượn. 
Một số người đã tìm đến nghiên cứu về dòng ngôn ngữ này và đưa ra nhận định: Đây là những biệt ngữ có sự kết hợp giữa âm Nôm và âm Hán Việt. Thậm chí căn cứ vào phát tích và phả hệ của làng, một số người còn cho rằng đây là thứ ngôn ngữ thời Văn Lang - Âu Lạc còn bảo lưu được.
Nghi vấn về một nền ngôn ngữ cổ thời Văn Lang - Âu Lạc đang hiện diện ở Đa Chất có chính xác hay không? Câu hỏi này người Đa Chất và những người quan tâm đang trông chờ lời giải từ các nhà khoa học về ngôn ngữ, lịch sử và khảo cổ.

9. Thành Cổ Loa độc đáo như thế nào?

Thành Cổ Loa là tòa thành có bề dày lịch sử và sự độc đáo về sinh thái nhất tại Việt Nam. Khó có một tòa thành có nhiều sự độc đáo như thành cổ Cổ Loa. Các nhà khảo cổ học đã đánh giá đây là “tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ”.
Gần 15.000m tường thành Cổ Loa đều được xây dựng bằng cách triệt để lợi dụng địa thế tự nhiên, đắp vòng nối với nhau nơi Trấn Nam môn, tạo thành một hình xoáy trôn ốc nên được gọi là Loa thành. Cách đắp này cổ kim, Đông Tây chưa hề có. Thành Cổ Loa theo tương truyền gồm 9 vòng xoáy trôn ốc, hơn hẳn những tòa thành khác về số vòng thành (các tòa thành sau này chỉ có nhiếu nhất là 3 vòng thành).

10. Thành Cổ Loa có vị thế như thế nào?

Thành Cổ Loa vừa là một đô thị cổ, vừa là một trung tâm quân sự, có cả làng mạc, vùng đô hội, có tất cả mọi ngành nghề. Những gì đã phát hiện cho phép xác định rằng khu vực tây nam thành là một “binh công xưởng” làm nhiệm vụ đúc mũi tên trang bị cho quân đội của An Dương Vương. Đến đây chúng ta sẽ được xem tận mắt dấu vết của lò đúc, những phần còn lại của khuôn đúc, những mũi tên đồng ba cạnh đặc trưng Cổ Loa – sản phẩm mang “thương hiệu Việt” đã từng nhiều lần gây kinh hoàng cho quân xâm lược. Ở Trung Quốc cũng có nỏ máy của Khổng Minh trong trận chiến với Mạnh Hoạch nhưng những cỗ máy bắn tên này chỉ nổi tiếng sau “nỏ thần” Cổ Loa hơn 400 năm.
11. Quy mô dân số thành Cổ Loa như thế nào?

Số liệu dân số thành Cổ Loa thời Âu Lạc, Nam Việt đến nay vẫn chưa được xác định rõ. Nhưng vào thời Hán, Cổ Loa thuộc huyện Tây Vu có 32.000 hộ, chiếm khoảng 1/3 số hộ của quận Giao Chỉ (92.440 hộ) và gần bằng số hộ của quận Cửu Chân (35.743 hộ). Cổ Loa hiện nay có tới 62 dòng họ, trong đó các họ lớn là Nguyễn, Đào, Hoàng, Trương, Lại, Đỗ, Chu, Tái, Phạm, Trần, Vũ, Chử, Lê, Hà, Đặng, Cao, Bùi, Ngô, Dương, Đồng, Vương… So với các làng xã khác thuộc đồng bằng trung du Bắc Bộ thì só lượng các dòng họ ở Cổ Loa là khá nhiều.

12. Từ Cổ Loa có thể đi đến những nơi nào bằng đường thủy?

Về phương diện giao thông đường thủy, Cổ Loa có một vị trí vô cùng thuận lợi hơn bất kỳ ở đâu tại đồng bằng Bắc Bộ vào thời ấy. Đó là vị trí nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng cùng với mạng lưới đường thủy của sông Thái Bình. Hai mạng lưới đường thủy này chi phối toàn bộ hệ thống đường thủy tại Bắc bộ Việt Nam. Qua con sông Hoàng, thuyền bè có thể tỏa đi khắp nơi, nếu ngược lên sông Hồng là có thể thâm nhập vào vùng Bắc hay Tây Bắc của Bắc Bộ, nếu xuôi sông Hồng, thuyền có thể ra đến biển cả, còn nếu muốn đến vùng phía Đông Bắc bộ thì dùng sông Cầu để thâm nhập vào hệ thống sông Thái Bình đến tận sông Thương và sông Lục Nam.

13. Thành Cổ Loa có những truyền thuyết nào?

Hiếm có tòa thành nào ở Việt Nam lại có nhiều truyền thuyết ly kì, hấp dẫn như thành Cổ Loa. Từ truyền thuyết định đô (truyền thuyết “Độc Nhãn Long”), xây thành (“Sự tích thành Cổ Loa”) đến truyền thuyết về sự thất thủ (truyện “truyện Nỏ thần”/“truyện Mỵ Châu – Trọng Thủy) đều được dân gian lưu truyền từ đời này sang đời khác như những kí ức không thể nào quên…
So với việc Lý Thái Tổ cùng bá quan văn võ thấy rồng vàng bay lên ở thành Đại La, dời đô từ vùng Hoa Lư về đây, sau đặt là Thăng Long thì truyền thuyết về  việc An Dương Vương định đô xây thành hấp dẫn hơn rất nhiều. Truyền thuyết xưa kể rằng, An Dương Vương lệnh cho các thầy địa lý tìm khắp cõi Âu Lạc xem đâu có thế đất thịnh vượng để dựng kinh đô. Sau hàng tháng trời tìm kiếm, các thầy báo về có một nơi được coi là đỉnh của vùng tam giác châu thổ sông Hồng, là vị trí đắc địa bởi từ đây, có thể khống chế một vùng rộng lớn cả đồng bằng lẫn sơn địa. Đó chính là Cổ Loa. Khi quyết định rời đô từ Phong Châu (Lâm Thao - Phú Thọ) về, đoàn thuyền của vua chứng kiến cảnh chín con rồng quần thảo một hòn ngọc lớn. Vua cho đấy là điểm lành nên chọn đúng nơi mà chín con rồng quần thảo để xây chính điện (đền Thượng ở Cổ Loa bây giờ). Trong cuộc giao long, một con rồng khỏe nhất chiếm lĩnh được hòn ngọc và ngậm vào mồm. Nhưng nó cũng bị hỏng một mắt sau cuộc chiến đó. Bởi chính An Dương Vương đã dùng bảo kiếm của mình chọc thủng mắt rồng để quy phục bản tính hung dữ của nó.
Sau khi xây xong, thành Cổ Loa sập chỉ trong một đêm, sau phải nhờ sức thần mới diệt được gà trắng tinh mới có thể xây thành. Đó chính là “Sự tích thành Cổ Loa”.
Rồi Truyền thuyết “Mỵ Châu – Trọng Thủy” là một trong những câu chuyện có sức hấp dẫn được lưu truyền trong dân gian từ ngàn xưa. Đây cũng là tác phẩm mang dấu ấn bi kịch sớm nhất trong văn chương dân tộc. Bên cạnh bài học về việc cần đề cao cảnh giác với kẻ thù, tấm oan tình còn để lại những bài học mang giá trị nhân văn sâu sắc.
Bên cạnh đó, nước Giếng Ngọc (tương truyền là nơi Trọng Thuỷ tự tử vì hối hận) nếu đem rửa ngọc trai thì ngọc sáng bội phần. Nhân dân Cổ Loa cũng cho biết, xưa kia chúng ta phải cống nước giếng Ngọc sang Trung Quốc để rửa ngọc trai. Trong “Tang thương ngẫu lục” của Nguyễn Án và Phạm Đình Hổ thế kỷ XVIII có chép về việc Nguyễn Công Hãng sang Trung Quốc bị tướng nhà Thanh đòi nước giếng để rửa ngọc trai. Ông đã đứng đối giỏi mà phá được lệ đó.

14. Những nét văn hóa độc đáo tại Cổ Loa hiện nay?

Dân gian có câu: “Thứ nhất lễ hội Cổ Loa/Thứ hai hội Gióng, thứ ba hội Chèm”. Bắt đầu từ năm 1961, Lễ hội Cổ Loa được tổ chức vào ngày 6 tháng Giêng âm lịch, tương truyền là ngày An Dương Vương lên ngôi hoàng đế. Làng Cổ Loa gồm 12 xóm nhưng hội Cổ Loa là của chung một cụm tám làng (ngày trước gọi là Bát Xã) gồm: Ðài Bi, Sàn Dã, Cầu Cả, Mạch Tràng, Văn Thượng, Thư Cưu, Cổ Loa, Xép. Cả 8 làng này đều thờ Thục Phán nên đều tham gia tổ chức hội. Lễ hội là dịp để người dân địa phương nói riêng và người dân trên cả nước nói chung tưởng nhớ công lao của vị vua đầu tiên của nước Âu Lạc.

15. Sự phản kháng của người Văn Lang

Lịch sử ít nhắc đến sự phản kháng của người Văn Lang đối với nhà Thục. Tuy nhiên, chính sách cai trị của An Dương Vương khá chuyên chế và nhiều cuộc phản kháng đã diễn ra. Việc thành Cổ Loa “xây rồi lại sập” nhiều lần không phải là do nhà Thục không đủ kĩ thuật. Thực tế là kĩ thuật xây thành của nhà Thục rất điêu luyện và công phu. Kiến trúc kiên cố của Loa Thành sau này với thành cao, hào sâu, rộng, nhiều ụ, lũy và hàng vạn mũi tên đồng tìm được là những minh chứng điển hình.
 Sự tích thành Cổ Loa” viết thành sập là do “hàng vạn thiên binh thiên tướng” và “gà trắng tinh quấy nhiễu”. Rõ ràng các sự việc trên là không có thật. Sự thật chỉ có thể là do những nguyên nhân thực tế hơn. Đó là do người dân Văn Lang cũ bất phục tùng lẫn phá hoại trong việc phải phục dịch để xây dựng cung điện cho một bộ tộc khác. Bởi Loa Thành là một kiến trúc có sự phân biệt rạch ròi giữa vua, quan, thường dân đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Phong Châu, kinh đô của các đời vua Hùng thì không có sự phân biệt lớn về điều này. Và dĩ nhiên, sự phu phen, lao dịch nặng nề khiến cho người dân Văn Lang, nhân lực chủ yếu trong xây thành vốn không quen với công việc này cảm thấy mình đang bị áp bức và cần nổi dậy đấu tranh.
Chính vì vậy, sử thần Ngô Sĩ Liên sau này đã viết rằng: “An Dương Vương hưng công đắp thành có phần không dè đặt sức dân, cho nên thần thác vào rùa vàng để răn bảo, chẳng phải là vì lời oán trách động dân mà thành ra như thế ư?”.

16. Dấu ấn Thục Phán An Dương Vương trong lòng người Việt cổ?

Dù Thục Phán là “anh hùng đánh bại quân Tần” thì vẫn không thể xua tan tâm lý “bài ngoại” của cư dân Văn Lang vốn còn lưu giữ chế độ thị tộc rất sâu sắc. Bởi Thục Phán là thủ lĩnh ngoại tộc bị nhà Tần dồn đuổi mới chạy xuống vùng đất Văn Lang và đã cướp ngôi vua của Hùng Vương thứ mười tám. Những cuộc chiến đã diễn ra giữa hai bên Hùng – Thục được miêu tả rất nóng bỏng và sinh mạng của người Văn Lang đã bị tàn hại rất nhiều. Làm sao mối hận xâm lược có thể nguôi ngoai trong lòng cư dân Văn Lang?
Đối với cư dân vừa thoái thai khỏi chế độ thị tộc và xuất hiện sự hình thành dân tộc thì yếu tố ngoại lai thường gây ra sự khó chịu. Việc “bài ngoại” và “đào thải” của cư dân Văn Lang cũ dưới thời Thục Phán không phải là ngoại lệ. Thời Hai Bà Trưng, năm 40 – 43 SCN hai bà vẫn nhắc đến “nghiệp xưa họ Hùng” chứ không phải nghiệp xưa nhà Thục và tên nước cũng là Lĩnh Nam (tên nước cũ thời Lạc Long Quân). Chứng tỏ dấu ấn Thục Phán là rất ít ỏi trong lòng người Việt.

17. Truyện “Nỏ thần” thực chất là như thế nào?

Việc nhà Thục tung tin rằng Thần Kim Quy đến giúp sức xây thành, cho lẫy làm “nỏ thần” và ở lại 3 năm chính là một thủ thuật gây “nhiễu” tâm lý của lao dịch người Văn Lang trước khi sử dụng bạo lực áp chế họ xây thành và cai trị họ. Việc hai cha con chủ quán và đám yêu tinh bị quân của An Dương Vương giết chết trong truyền thuyết có thể là nghĩa quân của người Văn Lang bất phục tùng vì lao dịch và sự cai trị của nhà Thục.
Chúng ta đã từng suy nghĩ là chiếc “nỏ thần” vào thuở ban đầu do tướng Cao Lỗ làm ra chính là thứ vũ khí để áp chế dân chúng trước khi chống Triệu Đà không?
Chính vì nền tảng quyền lực như vậy nên Thục Phán mới đa nghi với nhân dân nhưng lại hòa hiếu với Triệu Đà để đến nỗi mất nước. Thậm chí đến con gái mình cũng xem là “giặc”. Một sự bao biện đến kinh hoàng.
Tuy nhiên, xé lớp màn sương huyền hoặc đi thì ta sẽ có một kết luận thú vị rằng: Đây lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, một vị vua ngoại tộc đã cai trị quốc gia dựa và niềm tin thánh thần của dân tộc khác và đã tỏ ra thành công trong buổi ban đầu. Sau này, người Mông Cổ là một thí dụ điển hình của thủ đoạn chính trị này. Áp chế được các dân tộc khác bằng quân sự, chính trị nhưng lại phải sử dụng văn hóa của các dân tộc đó để dễ bề cai trị.

18. Mỵ Châu có phải là giặc?

Trong truyện “Mỵ Châu – Trọng Thủy”, khi Thục Phán - An Dương Vương bị quân Nam Việt của Triệu Đà truy đuổi, thần Kim Quy đã nổi lên và nói: “Giặc ở sau lưng nhà vua đó”. An Dương Vương nghe thấy liền rút kiếm chém đầu Mỵ Châu.
Với hành động đó An Dương Vương rõ ràng đã xem con gái Mỵ Châu là giặc. Nhưng đây là sự bao biện và cay cú của An Dương Vương khi thất trận. Đáng tiếc là trong suốt hai ngàn năm, khi nhắc đến câu truyện này dân gian và kể cả SGK lại thiêu diệt những điều hoang đường như ngọc trai biển Đông rửa tại Giếng Ngọc (nơi Trọng Thủy tự vẫn) thì ngọc sáng bội phần để chứng minh cho tính trong sạch của Mỵ Châu.
Thật ra, so với trách nhiệm của Mỵ Châu chỉ gói gọn một trong hai chữ “lầm”, “vô ý” như nhà thơ Tố Hữu đã chỉ ra thì trách nhiệm của An Dương Vương nặng nề hơn nhiều.
Bên cạnh đó, đặc trưng của Nhà nước xâm lược và lập quốc trên lãnh thổ của một dân tộc khác thường không xem trọng ý thức quốc gia dân tộc cao độ. Khi chọn nhân dân và quyền lợi, họ thường chọn quyền lợi cá nhân và dòng tộc. Chính vì nền tảng quyền lực như vậy nên Thục Phán mới cai trị tàn khốc với nhân dân nhưng lại hòa hiếu với Triệu Đà. Sau này các tướng của nhà Thục đều bị Trọng Thủy gièm pha với An Dương Vương và họ đều bị giết chết hoặc đuổi đi. Tướng thân thuộc đã vậy, huống gì là nhân dân, lực lượng chủ chốt để kháng chiến chống ngoại xâm.

19. Trọng Thủy tự vẫn theo Mỵ Châu, có hay không?

Nam Việt diệt Âu Lạc năm 179 TCN. Theo truyền thuyết Trọng Thủy cũng tự vẫn ngay sau khi diệt xong Âu Lạc. Nhưng theo sử sách ông có người con tên là Triệu Hồ sau đó nhiều năm. Như vậy Trọng Thủy có chết theo Mỵ Châu khi Âu Lạc mất nước hay không?
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Trọng Thủy có người con trai là Triệu Hồ, sau này trở thành người nối ngôi Triệu Đà vào năm 137 TCN và qua đời năm 124 TCN, thọ 52 tuổi. Như vậy Triệu Hồ sinh năm 175 TCN.
Với chứng cứ nói trên có thể xác định Trọng Thủy còn sống ít nhất tới 174 TCN. Như vậy, không có chuyện sau khi diệt xong Âu Lạc, Trọng Thủy lại tự vẫn theo Mỵ Châu như truyền thuyết được.
Bởi vậy, Khâm định Việt sử thông giám cương mục của nhà Nguyễn chỉ nhắc tới việc Trọng Thủy đi ở rể và tráo nỏ thần, không nói tới việc ông tự vẫn chết theo Mỵ Châu.

20. Kiệng kỵ ở Cổ Loa hiện nay là gì?

Ở Cổ Loa hiện nay có tục kiêng nuôi gà trắng, tục đãi dâu không đãi rể, tục kiêng tên Phán gọi chệch thành Phớn.
Những phong tục địa phương này còn mang nặng thái độ về luân lý đạo đức. Chẳng hạn người dân địa phương biểu lộ thái độ khinh bỉ sự phản phúc của Trọng Thủy trong tục đãi dâu không đãi rể như người con rể không được tự do ăn nằm với vợ ở nhà bố mẹ vợ, người ta sợ rằng như vậy sẽ làm ăn xúi quẩy vì quan niệm rằng chính vua Thục xưa quá tin Trọng Thủy cho ở rể nên sau này mất nước.

Huế, ngày 5/6/2013

Nguyễn Văn Toàn
Số lần đọc: 5428

Wednesday 5 August 2015

Xung quanh câu chuyện nỏ thần (Trịnh Sinh - Biên Phòng)

24/04/2013 14:56
Nước Âu Lạc của An Dương Vương vừa ra đời đã phải chống chọi với cuộc xâm lược của Triệu Đà. Cuộc chiến với Triệu Đà được coi là cuộc chiến đầu tiên bảo vệ lãnh thổ. Trong cuộc chiến bi hùng đó, nổi lên vị tướng tài Cao Lỗ với vũ khí nỏ thần vô cùng lợi hại.
Cao Lỗ có thư tịch chép là Cao Nỗ. Thư tịch và truyền thuyết kể lại, ông quê ở thôn Đại Trung, xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Nơi đây vẫn còn đền thờ ông. Trong Đại Việt sử ký toàn thư, có viết: “Rùa vàng bèn trút chiếc móng trao cho An Dương Vương và nói: Nước nhà yên hay nguy đều do số trời, nhưng người cũng nên phòng bị; nếu có giặc đến thì dùng móng thiêng này làm lẫy nỏ, nhằm vào giặc mà bắn thì không phải lo gì. An Dương Vương sai bề tôi là Cao Lỗ làm nỏ thần, lấy móng rùa làm lẫy, đặt tên là Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ”.
Với trọng trách vua trao cho, Cao Lỗ đã chế tạo ra được nỏ thần. Theo thư tịch ghi lại thì nỏ này - một phát bắn ra làm cho vạn người chết. Có sách thì cho rằng, một phát giết hai trăm giặc. Rõ ràng điều này chứng minh rằng, đây là một vũ khí tiên tiến nhất thời đại bấy giờ. Nếu nói theo ngôn ngữ quân sự, thì Cao Lỗ là vị tướng quân khí đầu tiên trong lịch sử dựng nước của dân tộc, có công lao rất lớn. Bởi vậy, mà cuộc hội thảo về ông ngày 16-1-2013, tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia đã được Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và khá nhiều vị tướng quân đội đã bạc đầu tham dự. Trong hội thảo này, có khá nhiều tham luận của nhiều ngành khoa học khác nhau cùng đánh giá về tướng tài Cao Lỗ. Ngoài công lao chế tạo ra nỏ, không những vinh danh cho tộc người Lạc Việt, ông còn có công khuyên giải An Dương Vương kế sách chống giặc phương Bắc, nhưng không được tin dùng. 
 
Mũi tên đồng 3 cạnh và nỏ thần.
Qua câu chuyện kể trong Đại Việt sử ký toàn thư về công lao, số phận của Cao Lỗ, có nhiều bài học được rút ra trong cuộc hội thảo. Đó là bài học sử dụng nhân tài của An Dương Vương: Giá mà không nghe lời xiểm nịnh, giữ lại người tài thì có lẽ lịch sử đã có những bước đi khác; giá mà không có việc để mất lẫy nỏ thần vào tay giặc trong vụ án tình Mỵ Châu - Trọng Thủy thì xã tắc không đến nỗi “cơ đồ đắm bể sâu”. Nhưng trên hết, đó là bài học phải dựa vào dân, chứ không phải bằng vũ khí cũng như thành cao, hào sâu.
Câu chuyện kể về vị tướng tài Cao Lỗ đã hơn hai ngàn năm qua, nhưng mỗi người dân đất Việt vẫn luôn tưởng nhớ đến ông. Theo thống kê, riêng quê hương Cao Đức của ông cũng đã có 8 làng lập đền thờ. Hằng năm, vào mùng 10 tháng 3 âm lịch (trùng với ngày Giỗ tổ Hùng Vương), cả 8 làng rước kiệu, bài vị về làng mở hội. Các triều đại phong kiến cũng đã chính thức ban 22 đạo sắc phong cho tướng Cao Lỗ. Sắc phong sớm nhất có niên đại năm 1796, thời Lê Trung Hưng và muộn nhất năm 1924, thời Nguyễn. Cùng với thờ tự là lễ hội liên quan đến nghiệp võ như “múa mo, múa mộc”, “múa bông đánh bệt”, võ vật...
Khảo cổ học đã chứng minh được cái lõi sự thật của câu chuyện Cao Lỗ và nỏ thần. Lẫy nỏ đã được phát hiện trong thời gian này, làm bằng đồng thau trong văn hóa Đông Sơn. Cùng với lẫy nỏ là mũi tên đồng 3 cạnh, sắc bén, có sức sát thương cao. Thậm chí, có cả một kho tên đồng ở địa điểm Cầu Vực ven sông Hoàng Giang, gần chân thành ngoại. Từ các di vật có thực là tên và nỏ, đã chứng minh đây là vũ khí độc đáo của người Việt. Thứ vũ khí ghê gớm ấy đã được “thiêng hóa”, “phóng đại hóa” trong truyền thuyết và cả thư tịch, đủ biết cái sự khiếp sợ của kẻ địch đối với thứ vũ khí do người Việt sáng tạo ra sao. Qua hiện vật khai quật được ngày nay, có thể chứng minh số lượng tên bắn ra một lúc ít ra là 2 chiếc. Truyền thống tạo ra cung tên của người Việt còn sớm hơn thời Cao Lỗ đến gần 2.000 năm với những mũi tên bằng đá của văn hóa Phùng Nguyên.
Cái kho chứa hàng vạn mũi tên Cầu Vực, nằm ở ngoài thành Cổ Loa, ven sông Hoàng Giang, đã chứng tỏ người Việt có cách đánh phòng thủ từ xa, từ ven sông (có tác dụng như hào thành tự nhiên) để kết hợp với thủy chiến, cũng là một thế mạnh của chiến tranh sông nước mà hình các chiếc thuyền lớn trên trống đồng đã cho thấy điều này. Khảo cổ học cũng chứng minh thời của tướng Cao Lỗ, rùa là loài vật thiêng, có thắt lưng của thủ lĩnh được gắn 8 tượng rùa (di tích Làng Cả, Việt Trì). Xương rùa tìm thấy nhiều trong các làng cổ. Có lẽ vì thế mà rùa đã được “thiêng hóa” thành thần Kim Quy (rùa vàng) giúp An Dương Vương xây thành, lại trao móng cho tướng Cao Lỗ để chế tạo nỏ thần.
Hai ngàn năm trôi qua, nhưng lịch sử và truyền thuyết về Cao Lỗ, về nỏ thần, về rùa vàng vẫn còn quyện vào nhau. Thế mới biết, người Việt có một đời sống văn hóa tinh thần vô cùng phong phú, gắn liền với đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, luôn khắc sâu ghi nhớ công lao của tiền nhân đối với Tổ quốc.
PGS.TS Trịnh Sinh

Monday 3 August 2015

Truyện Mỵ Châu-Trọng Thủy có những chi tiết hoang đường? (Nguyễn Văn Toàn - Giáo Dục)


Truyện Mỵ Châu-Trọng Thủy có những chi tiết hoang đường?

(GDVN) - Trong truyện “Mỵ Châu – Trọng Thủy”, khi An Dương Vương bị quân Nam Hán truy đuổi, thần Kim Quy đã nổi lên và nói: “Giặc ở sau lưng nhà vua đó”. An Dương Vương nghe thấy liền rút kiếm chém đầu Mỵ Nương. Với hành động này, An Dương Vương rõ ràng đã xem con gái Mỵ Nương là giặc.

LTS: Trước thực trạng nhiều người cho rằng sách giáo khoa hiện nay không tường minh tên giặc, TS báo Giáo dục Việt Nam đã nhận được khá nhiều ý kiến phản hồi theo nhiều chiều hướng khác nhau. Để rộng đường cho dư luận, chúng tôi trích đăng bức thư của độc giả Nguyễn Văn Toàn (Phú Hiệp, TP Huế).

Mơ hồ về tên giặc

SGK và kể cả giáo trình đại học & cao đẳng môn lịch sử Việt Nam đều có ghi chép chuyện Thánh Gióng đánh đuổi giặc Ân vào thời Hùng Vương. Vậy giặc Ân là giặc nào? Điều này cho đến nay vẫn chưa xác định được một cách chính xác.

Trong cuốn “Đại Việt Sử Ký Toàn thư Quyển I do Ngô Sỹ Liên biên soạn) có viết: “Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang. Đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn”. 

Rõ ràng, nếu cương vực Văn Lang bao trọn lãnh thổ cư trú của Bách Việt (phía nam sông Dương Tử trở xuống) thì giặc Ân có thể là triều Ân Thương của Trung Quốc. Bởi Văn Lang với cương giới phía bắc gần với Ân Thương của tộc người Hán. Như vậy, tất nhiên phải chịu họa xâm lấn từ triều đại này.
Giặc Ân vẫn chưa được xác định một cách chính xác.

Thiết nghĩ, những người biên soạn SGK và giáo trình đại học & cao đẳng nên nghiên cứu sâu hơn về vấn đề cương vực của Nhà nước Văn Lang để gọi cho đúng tên lũ giặc xâm lược bị Thánh Gióng đuổi đánh. Chứ không nên gọi giặc Ân là một thứ giặc “huyền thoại” theo kiểu cái gì mơ hồ thì… tạm gác lại và đưa vào chú thích.

“Bỏ qua” nhiều loại giặc

Nếu tìm hiểu kỹ, nhiều loại giặc khác trong thời cổ đại của dân tộc như Đế Lai và Thục Phán cũng không được SGK đề cập đến. Đây là “lỗ hổng” đáng tiếc cho lịch sử Việt Nam và khiến người học thụ động tiếp thu kiến thức một chiều theo kiểu “dạy gì, hiểu nấy” hay theo kiểu “sau này lớn rồi sẽ biết”.

Trong truyện “Mỵ Châu – Trọng Thủy”, khi An Dương Vương bị quân Nam Hán truy đuổi, thần Kim Quy đã nổi lên và nói: “Giặc ở sau lưng nhà vua đó”. An Dương Vương nghe thấy liền rút kiếm chém đầu Mỵ Nương.

Với hành động này, An Dương Vương rõ ràng đã xem con gái Mỵ Nương là giặc. Nhưng đây là sự bao biện và cay cú của An Dương Vương khi thất trận. Đáng tiếc là trong suốt hai ngàn năm, khi nhắc đến câu chuyện này dân gian và kể cả SGK lại thêu dệt những điều hoang đường như ngọc trai biển Đông rửa tại Giếng Ngọc (nơi Trọng Thủy tự vẫn) thì ngọc sáng bội phần để chứng minh cho tính trong sạch của Mỵ Châu.

Thật ra, chỉ cần chứng minh rõ trách nhiệm Mỵ Châu đến đâu trong việc mất nước Âu Lạc vào tay Triệu Đà là đủ. Không nên sử dụng những điều hoang đường để chứng minh. Điều này khiến cho trẻ em khi học đến truyện này cảm thấy như muốn chứng minh một sự thật nào đó thì nhất thiết phải đầu rơi, máu chảy.
Quá khứ là giá đỡ và chiếc la bàn định vị cho hiện tại và tương lai. Một dân tộc không tường minh quá khứ của chính mình, dân tộc ấy không thể biết được mình đang đứng ở đâu trong cái thế giới vốn không có điểm chung về văn hóa – lịch sử. 

Do đó, việc xác định đúng và đủ tên giặc trong lịch sử cổ đại Việt Nam tuy là một vấn đề chỉ đơn thuần là “xác định” nhưng cũng chẳng phải là vấn đề dễ dàng. Chẳng hạn Đế Lai tuy là rõ ràng là giặc, cai trị tàn bạo Lĩnh Nam và bị Lạc Long Quân đánh đuổi nhưng lại là cha của Đức Mẹ Âu Cơ nên sử sách ta đã bỏ qua và không nhắc đến. Bên cạnh đó, do Thục Phán là vua Âu Lạc, được công nhận là một triều đại Việt Nam nên chẳng sử sách nào nói thẳng về việc nhân vật này đã xâm lược Văn Lang cũng như sự cai trị tàn bạo của vị vua này.

Truyện “Mỵ Châu – Trọng Thủy” được dân gian thêu dệt nhiều chi tiết hoang đường.

Hay như Mỵ Châu rõ ràng không phải là giặc. Nhưng Thần Kim Quy lại bảo là giặc và An Dương Vương tin theo. Điều đó có nghĩa mọi việc đều do An Dương Vương và hậu nhân sau này của nhân vật này bày vẽ ra để bao biện cho sự thất bại, nhưng suốt hai ngàn năm chẳng ai chú ý đến chi tiết này. Bởi không có chuyện là thánh thần mà không biết rõ sự tình và không trừng trị An Dương Vương vì những gì nhân vật này đã gây ra. Ngược lại Mỵ Châu vừa mang tiếng là giặc vừa phải chịu cái chết thương tâm. Như thế là sự công bằng chăng?
Thậm chí, nhiều sử sách còn cho rằng Triệu Đà cũng được xếp vào hàng vua nước Việt và nhiều vùng ở phía Bắc còn thờ Triệu Đà và Trọng Thủy. Như vậy, nếu theo quan điểm “thắng làm vua, thua làm giặc” thì không phải An Dương Vương sau khi thất trận là giặc hay sao? Nếu đã gọi Triệu Đà xâm lược Âu Lạc là giặc thì tại sao không gọi An Dương Vương là giặc? Bởi hai nhân vật này đều là “ngoại tộc” so với dân tộc Việt (một Khương, một Hán).
Do đó, đừng nói là việc quên nêu tên giặc sẽ gây ra hệ lụy lớn mà ngay cả việc xác định không xác đáng vấn đề “ai là vua, ai là giặc” cũng có thể làm méo mó đi lịch sử của dân tộc vốn còn nhiều sự hồ nghi, mơ hồ