Vài suy nghĩ về lớp từ gốc Pháp trong "Tầm nguyên tự điển Việt Nam" của GS. Lê Ngọc Trụ
Công trình
“Tầm nguyên Tự điển Việt Nam” của giáo sự Lê Ngọc Trụ là một sự bổ sung
đáng quý vào kho tàng tư liệu Việt ngữ học. Nội dung của quyển tự điển
là một minh chứng sinh động cho sự uyên thâm và tình yêu Việt ngữ của
giáo sư. Một tấm gương tự học, vượt bao gian truân của thời cuộc để đạt
đến trình độ của một học giả của giáo sư sẽ soi đường dẫn lối cho thế hệ
hậu bối như chúng tôi.
Sau khi đọc xong phần từ
ngữ tiếng Việt có gốc Ấn-Âu, đặc biệt là lớp từ ngữ tiếng Việt gốc Pháp,
chúng tôi xin mạo muội trao đổi với giáo sư, - dù giờ đây giáo sư đã
yên nghỉ nới cõi vĩnh hằng, song kiến thức Việt ngữ mà giáo sư giới
thiệu trong “Tầm nguyên Tự điển Việt Nam” vẫn thôi thúc những người
nghiên cứu hậu bối như chúng tôi nghiền ngẫm – một số vấn đề sau:
a. a. Khái niệm vay mượn từ vựng và khái niệm chuyển mã
b. Tiêu chí để một từ được đưa vào từ điển
Khái niệm chuyển mã (code-switchings)
Chuyển mã là một hiện tượng ngôn ngữ học diễn ra trong các xã hội
song/đa ngữ nhằm phục vụ nhiều mục đích khác nhau của các cá nhân
song/đa ngữ, trong đó đáng chú ý là những lý do mang tính xã hội. Hiện
tượng này có thể diễn ra bên trong một phát ngôn hoặc liên phát ngôn.
Chuyển mã thường diễn ra trong những ngôn cảnh sau: (1) người nghe thay
đổi; (2) cảnh huống giao tiếp thay đổi hoặc NN khác phù hợp với cảnh
huống giao tiếp mới; (3) chủ đề hội thoại thay đổi.
Các
cá nhân song ngữ sử dụng hai NN trong cùng một ngôn cảnh hội thoại và
việc chuyển đổi giữa hai hệ thống mã đều có động cơ. Một số cá nhân
chuyển mã nhằm đáp ứng nhu cầu NNH. Khi nói về một chủ đề nào đó, cá
nhân giao tiếp cảm thấy trong ngôn ngữ anh ta đang dùng để giao tiếp
thiếu phương tiện để anh ta diễn đạt cái gì đó, anh ta sẽ chuyển sang sử
dụng ngôn ngữ khác. Một số chuyển mã để xác lập bản sắc xã hội hoặc
khoảng cách xã hội của mình… so với người đối thoại.
Đặc
trưng của chuyển mã là yếu tố trộn/chuyển mã từ ngôn ngữ này không thay
đổi về mặt hình thái học và âm vị học cho phù ứng với ngôn ngữ kia
trong mối quan hệ song/đa ngữ.
Khái niệm vay mượn từ vựng (lexical borrowings)
Vay
mượn từ vựng hay vay mượn khái niệm là hiện tượng một ngôn ngữ sử dụng
một yếu tố của một ngôn ngữ khác trong quá trình tiếp xúc. Yếu tố này
được “bản địa hóa” và trở thành một bộ phận của ngôn ngữ tiếp nhận. Đây
là một trong những khác biệt giữa chuyển mã và vay mượn. Trong khi đó,
chuyển mã mang tính nhất thời nhằm phục vụ một mục đích nào đó của một
cá nhân song/đa ngữ trong giao tiếp.
Hình
thức vay mượn nhằm cung cấp phương tiện từ vựng, tức phương tiện biểu
đạt các khái niệm của một ngôn ngữ được gọi là “vay mượn văn hóa” cùng
với nó là sự du nhập những khái niệm hay những sự vật mới từ nên văn hóa
khác. Chẳng hạn, sơ mi, cà vạt, bơ, phanh, công tơ, v.v. trong
tiếng Việt là những từ vựng vay mượn của tiếng Pháp. Ngoài ra, hiện
tượng vay mượn còn diễn ra dưới hình thức vay mượn ngữ nghĩa (semantic
loans hay loanshifts), tức khái niệm hay sự vật vay mượn được thể hiện
bằng vỏ ngữ âm hay chữ viết của ngôn ngữ tiếp nhận.
Vay
mượn là quá trình diễn ra lâu dài, liên tục khi hai ngôn ngữ tiếp xúc
với nhau thông qua nhiều cách thức khác nhau, còn chuyển mã là hiện
tượng ngôn ngữ học nhất thời và mang tính cá nhân. Vay mượn từ vựng và
việc sử dụng từ ngữ vay mượn đó được cả cộng đồng chấp nhận, trong khi
chuyển mã không thể được xem là bộ phận của ngôn ngữ tiếp nhận vì tính
nhất thời và tính cá nhân của hiện tượng này.
Vay
mượn là kết quả của quá trình tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ. Hiện tượng
này diễn ra qua nhiều kênh khác nhau, chẳng hạn như từ ngữ gốc Pháp
trong tiếng Việt được du nhập vào tiếng Việt chủ yếu thông qua tầng lớp
tri thức Tây học, nhưng theo chúng tôi có một kênh trung gian nằm giữa
tầng lớp tri thức Tây học và người dân bình thường: đó là tầng lớp phục
vụ, sai nha, người giúp việc, v.v. Vì người dân thường vào thời Pháp
thuộc – vốn là những người thất học - không thể xem là chủ thể vay mươn
được, còn giới tri thức Tây học, theo chúng tôi, sử dụng Pháp ngữ nhiều
hơn Việt vì nhiều lý do khác nhau trong đó có lý do tạo lập khoảng cách
xã hội. Hiện tượng chuyển mã trong cộng đồng thời Pháp thuộc chỉ diễn ra
trong cộng đồng song ngữ của tầng lớp trung thượng lưu, hoặc trong
những tác phẩm văn học của các nhà văn nói tiếng Pháp, chứ không diễn ra
trong cộng đồng Việt ngữ nói chung.
Khi nào một từ được đưa vào từ điển
Chúng tôi xin trích câu trả lời của Ban biên tập Từ điển
Merriam-Webster, đó là việc sử dụng từ vựng liên quan. Để quyết định từ
nào đưa vào từ điển và xác định xem nó có những nghĩa nào, các nhà từ
điển học phải nghiên cứu xem từ đó được sử dụng nhiều nhất và sử dụng
thế nào. Đồng quan điểm với Merriam-Webster, Larousse cho rằng từ liên
quan phải được sử dụng theo cách thức quan sát được và không có bất kỳ
tranh cãi nào liên quan trong xã hội. Nó được sử dụng trong báo chí,
truyền hình, truyền thanh, trong cuộc sống hàng ngày của người dân. Điều
này là một sự đảm bảo về tính khả chấp của từ liên quan trong cộng
đồng.
Như vậy, khả năng
sử dụng trong cộng đồng là tiêu chí quan trọng để một từ được đưa vào
từ điển. Các nhà từ điển học là những người xây dựng từ điển, chứ không
phải những người tạo chế từ ngữ.
Vài suy nghĩ về lớp từ ngữ gốc Pháp trong “Tầm nguyên Tự điển Việt Nam” của Giáo sư Lê Ngọc Trụ
Theo
khảo sát của chúng tôi, phần lớn từ gốc Pháp trong quyển từ điển, phần
lớn là các hình thức được người song ngữ hoặc những người ‘trung gian”
như chúng tôi có đề cập đến ở phần trên, chuyển từ tiếng Pháp sang tiếng
Việt (chuyển mã). Mức độ chuyển mã này giảm dần khi môi trường song ngữ
thu hẹp lại. Như vậy, đây là lớp từ ngữ được cộng đồng song ngữ hay
cộng đồng trung gian sử dụng trong giao tiếp với nhau. Rất nhiều từ nằm
ngoài phạm vi sử dụng của cộng đồng Việt ngữ nói chung, chẳng hạn như a-bi-tuýt,
a-bon-nê, a-oăng, anh-di-jen, anh-tim, ba-nha, bạc-tơ-ne, cá mềm (quand
même), cạc- chê, công-tra, dẹt (verte), dò-ram, vây-dơ (veilleur),
v.v. Những đơn vị này mặc dù phần nào đã thích nghi với đặc trưng âm vị
học của ngôn ngữ tiếp nhận, và ở đây là tiếng Việt, nhưng tần suất sử
dụng của chúng rất giới hạn. Trái với những đơn vị này, một số đơn vị
gốc Pháp khác như sơ mi, cà vạt, bơ, phô ma, kem, cạc, phê, can, bu gi, bia, sốt, săm, phanh, v.v.
là những từ vay mượn xét trên tiêu chí nhu cầu ngôn ngữ của cộng đồng,
tức vay mượn khái niệm. Những đơn vị này hoàn toàn thích nghi về mặt âm
vị học trong tiếng Việt, đáp ứng nhu cầu biểu đạt các khái niệm mới và
được cộng đồng Việt ngữ tiếp nhận một cách tự nguyện.
Theo
chúng tôi, những đơn vị chuyển mã không thể đáp ứng các tiêu chí từ
điển học để trở thành từ trong từ điển, tức những đơn vị này được chuẩn
hóa. Vì vậy, một quyển sổ tay các từ gốc Pháp được dùng trong tác phẩm
văn học hay báo chí là phù hợp hơn.
Thư mục tham khảo
1. Lê Ngọc Trụ. 1993. Tầm nguyên Tự điển Việt Nam. Nxb Tp.HCM.
2. G. Sankoff. 2001. Linguistic Outcomes of Language Contact. In Peter Trudgill, J. Chambers & N. Schilling-Estes, eds., Handbook of Sociolinguistics. Oxford: Basil Blackwell, pp. 638-668.
3. S. G. Thompson. 2001. Language Contact. Edinburgh University Press.
4. Wardhaugh, R. 1992. An Introduction to Sociolinguistics. Blackwell.
Bài viết đã được trình bày trong tọa đàm khoa học "Giáo sư, nhà ngữ học Lê Ngọc Trụ: cuộc đời và sự nghiệp".
No comments:
Post a Comment