Monday 8 October 2018

Lịch sử thể thao Saigon và Nam Kỳ (1910-1945) – Quần vợt (Nguyễn Đức Hiệp - Hiệp's Blog)

(https://hiepblog.wordpress.com/2016/04/21/lich-su-the-thao-saigon-va-nam-ky-1910-1945-quan-vot/)

Lịch sử thể thao Saigon và Nam Kỳ (1910-1945) – Quần vợt

Cũng như đá banh, môn thể thao quần vợt được chơi ở Saigon đầu tiên bắt đầu trong câu lạc bộ người Pháp, Cercle Sportif Saigonnais. Sau đó không lâu, quần vợt được người Việt Nam quan tâm. Đây là môn thể thao có tính cách cá nhân khác với môn thể thao đá banh và rugby banh bầu dục chơi theo đội. Mặc dầu vào Việt Nam cùng khoảng thời gian nhưng môn rugby, khác với đá banh, không được ưa chuộng và phổ biến trong xã hội người Việt, có lẽ là do thể lực và có phần nguy hiểm nhiều hơn so với đá banh. Ở Á Châu, chỉ có Nhật là nước duy nhất vẫn còn chơi banh bầu dục (rugby) và đội banh bầu dục Nhật là một trong những đội mạnh trên thế giới về môn thể thao banh bầu dục.
Quần vợt là một môn thể thao cá nhân được ưa chuộng trong giới thượng lưu người Việt. Chỉ trong vòng vài năm đã có nhiều các hội thể thao quần vợt đã được thành lập ở Saigon, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Tân An, Gò Công, Vũng Tàu và các tỉnh khác ở Nam Kỳ. Cercle Sportif Annamite lúc đầu chỉ chú trọng nhiều vào môn thể thao đá banh nhưng không lâu thể thao môn quần vợt cũng được lưu tâm và là môn thể thao mang lại cho Cercle Sportif Annam nhiều tiếng tăm, nhất là trong thời gian ông Triệu Văn Yên là chủ tịch và là ông bầu của hai cây vợt Chim và Giao.
Hội quần vợt Garcerie-Tennis Club có trru sở trên đường Garcerie (Phạm Ngọc Thạch) năm 1930 đã sữa xang và xây thêm các sân quần vợt ở Camp des Lettres (khu Trường Thi xưa thời nhà Nguyễn nay là nhà văn hóa thanh niên). Hội này đa số là người Việt Nam là hội viên nhưng cũng có thành viên đủ mọi giới và quốc tịch. Trong số những người quyên tiền ủng hộ Garcerie-Tennis Club để xây các sân quần vợt có các ông Triệu Văn yên, nhà nhiếp ảnh Nadal, ông Nguyễn Phong Cảnh chủ khách sạn Phong Cảnh khách lầu ở Saigon.
Trong lịch sử quần vợt Việt nam, có 3 nhân vật nổi bật là Nguyễn Văn Chim, Huỳnh Văn Giao và Võ Văn Bảy. Cả ba đã từng đoạt được các giải trong và ngoài nước và đã từng tham dự giải Grand Slam Giải quần vợt mở rộng Pháp (French Open) năm 1931 (Chim và Giao) và 1954 (Võ Văn Bảy). Riêng Nguyễn Văn Chim và Huỳnh Văn Giao cũng được đăng ký tham dự gỉi Grand Slam khác là Wimbleton năm 1931. Hiện cho đến nay chưa có người Việt nào đạt được thành tích như ba quần vợt nổi tiếng này trong quá khứ.
Do quần vợt càng được phổ biến và nhiều người tham gia môn thể thao được coi là thanh lịch này, năm 1921, ông Lương Văn Mỹ, chủ tịch hội quần vợt Chợ Lớn (Cholon-Tennis) đã có thông báo đến chủ tịch các hội thể thao ở Saigon-Chợ Lớn và các tỉnh Nam Kỳ về giải Championnat de Tennis. Báo Écho Annamite ngày 31/12/1921 đã đăng bức thư của ông Lương Văn Mỹ về giải này như sau
“Tôi rất hân hạnh thông báo với ông là một giải vô địch quần vợt cặp đôi (Championnat de Tennis en double) cho tất cả quần vợt tài tử người An Nam sẽ được tổ chức vào đầu năm 1922 ở ngay trung tâm sân hội chúng tôi ở Chợ Lớn. Tất cả các đội thể thao ở Nam Kỳ đều có thể tham dự, mổi hội một đội hai người.
Một cúp nghệ thuật có giá trị khoảng một tram đồng sẽ được trao cho Hội mà đại diện đã thắng ở chung kết. Hội này sẽ được tuyên bố là “vô địch bản sứ quần vợt Nam Kỳ” năm 1922.
Tất cả ghi tên tham gia đều miễn phí, tên của hai quần vợt đại diện cho hội sẽ được nhận cho đến hết ngày 15 tháng 1 1922. Sau khi có số tham dự, một chương trinh sẽ được soạn ra dưới sự giúp đỡ của các đại biểu của hai hội ở cạnh bên hội ở Chợ Lớn của chúng tôi, và sẽ được thông báo đến tất cả hội dự thi để họ có thể sắp xếp có mặt ở các ngày đã sắp sẵn các trận đấu từ vòng loại đến chung kết.
Vì lợi ích của thể thao và trên hết là môn quần vợt rất được trân trọng ở tất cả mọi người dân, tôi mong muốn ông, thưa ông chủ tịch, sẽ tham dự vào giải thể thao này với mục đích làm cho môn thể thao này càng thêm lý thú, môn thể thao mà hiện nay đang được thanh niên An Nam chơi mà không có bất kỳ sự khuyến khích nào.
Trân trọng kính chào ông chủ tịch
Chủ tịch hội quần vợt Chợ Lớn
Lương Văn Mỹ

Nhiều giải quần vợt sau đó được lập ra. Báo Écho Annamite ngày 25/1/1923 có đăng lịch trinh của giải quần vợt (Tournoi de teniis) do báo Diễn đàn Bản sứ (Tribune Indigène) tổ chức, tiền thu để giúp cho Hội thể thao An Nam, Cercle Sportif Annamite (C.S.A). Tham dự giải quần vợt này có nhiều hội viên thuộc nhiều hội thể thao Pháp và Việt như Cercle Sportif Saigonnais (C.S.S), Cercle Sportif Annamite (C.S.A), Cầu Kho, Garcerie-Tennis (G.T), Cholon Tennis (Ch. T), Club Tennis Élite de Giadinh (C.T. E. G)., Cholon Elite Tennis (Ch. E. T).
“Tranh giải quần vợt (Tournoi de Tennis)
do báo Diễn đàn bản sứ tổ chức gây quỷ cho Hội thể thao An Nam
Thứ ba 23/1/1923 lúc 16:30
Villarnel (Ch. T.) thắng Lộc (C.S.A) 6-2, 6-1
Cang (Ch. T) thắng Bảy (Caukho) 6-4, 6-5
Chiều nay 16:30
Sân 2: Tiên (G. T.) vs Mỹ (Ch.T)
Sân 3: Ngoan (Ch. T.) vs Khai (C.S.A)
Ngày mai thứ năm 25/1/1923 lúc 16:30
Sân 3: Massard (C.S.A) vs Dày (A. S. T.)
Sân 4: Chúc-Tiếng (Ch. E. T.) vs Schelling (C.S.S.)
Thứ tư 24/1/1923 lúc 16:30
Tinh (G.T.) thắng Mỹ (Ch. T.) 4-3, 6-1, 6-3
Ngoan (Ch. T.) thắng Khải (C.S.A.) 4-4, 4-2
Chiều nay lúc 16:30
Sân 3: Chúc Tiếng (Ch. E. T.) vs Schelling-Terrien (C.S.S.)
Sân 3: Massard (C.S.A.) vs Day (A.S.T.)
Ngày mai thứ sáu 26/1/1923 lúc 16:30
Sân 2: Sanh Bay (Cầu Kho) vs Kieffer-Tournois (C.S.S.)
Sân 3: Minh-Trung (C.T.) vs Thi-Nhiêu (E.G.)

csstennis
Hình 18 – Các sân quần vợt của Cercle Sportif Saigonnais, nơi giải vô địch Nam Kỳ và nhiều giải khác được tổ chức từ năm 1925 đến 1975.

Ngoài ra có nhiều giải quần vợt đặc biệt được các hội thể thao tổ chức như cúp Assomption (Qui thiên) của ông Nguyễn Văn Cang cho hội viên câu lạc bộ Garcerie-Tennis club (Écho Annamite 30/8/1927), cúp Huỳnh Văn Của, cúp Lâm Quang Vinh, cúp Jules Robin, cúp Triệu Văn Yên, cúp Nguyễn Văn Trân, cúp Trương Văn Bền,…
Cúp Lâm Quang (Coupe Lam-quang), do gia đình của tay quần vợt nổi tiếng Lâm Quang Vinh ở Trà Vinh, cho phép Hội thể thao An Nam, Cercle Sportif Annamite, quyền tổ chức cúp Lâm Quang lần đầu tiên năm 1926. Đến năm 1927, C.S.A giao cho Liên hiệp thể thao điền kinh Nam Kỳ (Fédération cochinchinoise des sports athletiques. F.C.S.A) tổ chức. Ông A. Breton chủ tịch liên hiệp đã đưa ra thể lệ thi tranh giải gồm 1 cúp cho vô dịch đơn và 2 cúp nhỏ cho vô địch đôi. Những người thắng giải mỗi năm sẽ được ghi tên và cúp và sẽ giao lại cho Liên hiệp cho giải năm tới. Nếu thắng được giải 3 năm liên tiếp sẽ được lấy cúp (đơn hay đôi) vĩnh viễn.
Mỗi tỉnh Nam Kỳ được gởi đại diện cho cúp đơn và cúp đôi. Trận bán kết và chung kết sẽ được tranh ở Saigon. Đăng ký dự giải gởi tới F.C.S.A qua Cercle Sportif Annamite hay Cercle Sportif Saigonnais. Vòng loại sẽ tranh trong mỗi vùng: vùng Sóc trăng gồm các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, etc., vùng Cần Thơ gồm các tỉnh Cần Thơ, Rạch Giá, Long Xuyên, Châu Đốc ẹtc, vùng Sa Đéc gồm các tỉnh Sa Đéc, Vĩnh Long, Trà Vinh etc., vùng Mỹ Tho gồm Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre, Tân An etc., và Saigon gồm Saigon, Gia Định và Chợ Lớn (theo Écho Annamite 25/3/1927).
Cúp Trương Văn Bền từ năm 1925 mục đích khuyến khích thể lực thể thao ở các trường học. Cúp dành cho tất cả các trường trung học ở Nam Kỳ tham gia.
Như đã đề cập ở trên, hai quần vợt người Việt nổi tiếng trong giai đoạn đầu là Nguyễn Văn Chim và Huỳnh Văn Giao, được khán giả và dân chúng gọi là Chim và Giao. Cả hai đánh cho hội Cercle Sportif Annamite do ông Triệu Văn Yên là chủ tịch và cũng là ông bầu của hai quần vợt này. Tiếng tăm của Chim và Giao trong giới quần vợt lan ra tất cả mọi tầng lớp trong xã hội từ Nam ra Bắc. Trong tác phẩm “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng có nhắc đến tên hai cây vợt nổi tiếng này khi tả Xuân tóc đỏ lúc làm chân nhặt banh trong sân quần vợt ở Hà Nội và mơ tưởng có ngày sẽ đựợc như Chim và Giao. Chim và Năm Nửa (một cây vợt cũng nổi tiếng cùng thời) lúc đầu chỉ đi làm nghề lượm banh trong các sân quần vợt ở Saigon nhưng qua sự kiên nhẫn học hỏi kỷ thuật đánh quần vợt đã trở thành tay các vợt lừng danh.
Đến năm 1927, danh tiếng của Chim được một số người dùng để hoạt động trong thương mại và truyền bá môn thể thao quần vợt. Trên đường Bonard ở số 94-96 có tiệm của ông Nguyễn Văn Trân bán các cây vợt tennis làm giống như cây vợt của Nguyễn Văn Chim và của một tay quần vợt có tiếng lúc bấy giờ là Lâm Quang Vinh. Trên báo Écho Annamite ngày 9 tháng 9 1927 có quảng các bán vơt chơi quần vợt như sau
“Các vợt của Lamquang và Chim được làm theo những dữ kiện từ vợt của hai nhà đại vô địch Nam Kỳ của chúng ta
Lâm Quang Vinh và Chim
đã thắng vẽ vang trên khắp Nam Kỳ. Bởi những đặc trưng mới, đã thu hút sự chú ý của các nhà chơi thể thao quần vợt mong muốn cải thiện lúc mình chơi quần vợt đánh với vận tốc thật nhanh.
Quí vị hãy chơi với hai cây vợt này của
Lamquang và Chim
Tên tuổi của họ là đủ quảng cáo cây vợt rồi
Đây là những cây vợt đánh hơn hết tất cả.
Nguyễn Văn Trân
94-96 Boulevard Bonnard Saigon
Téléphone No 178

lamquangvien_chim
Hình 19 – Quảng cáo bán vợt tennis của Lâm Quang Vinh và Chim (Écho Annamite 9/9/1927)

Ông Nguyễn Văn Trân, chủ tiệm ở đường Bonard, cũng là hội viên đác lực của Hội thể thao An Nam (Cercle Sportif Annam). Ông Trân cũng đã sáng lập ra giải quần vợt cúp Nguyễn Văn Trân và tặng cho giải quần vợt liên trường vào tháng 11 1928 tổ chức cho các học sinh các trường ở Nam Kỳ trên sân 1 của Cercle Sportif Annam đường Colombier (Hồ Xuân Hương), mỗi người thắng giải (1 đơn và hai đôi) sẽ nhận được một vợt Kim Tiên và một mề đay huân chương. Ông Trân vừa là một nhà kinh doanh vừa là một hâm mộ quần vợt quảng bá môn thể thao này đến quần chúng.
Thể thao Nam Kỳ đi nước ngoài đầu tiên 1928
Ngày 23/9/1928, Tổng cục thể thao Annam (Cercle Sportif Annammite) ở Saigon gởi một đội banh và các tay quần vợt nổi tiếng trong đó có Chim và Giao sang Singapore. Ðây là cuộc thi thể thao đầu tiên của người Việt Nam ở nước ngoài (5). Khác với Huỳnh Văn Giao, Chim xuất thân từ gia đình nghèo và tiểu sử của Chim lúc còn trẻ cũng không rõ lắm. Ngay cả lúc nổi tiếng, ông chỉ được biết qua tên Chim trong quần chúng hay báo chí mà ít khi tên họ rõ ràng. Có lúc là được gọi là Huỳnh Văn Chim cùng họ với Giao như trên báo Écho Annamite ở Saigon và báo The Straits Times khi đi đánh quần vợt ở Singapore. Nhưng cũng được gọi là Nguyễn Văn Chim ở giải Grand Slam quần vợt mở rộng của Pháp và giải Wimbledon và ngày nay tên con đường Nguyễn Văn Chiêm ở Saigon.
Sau khi được giấy phép ở Nam Kỳ và Singapore, đầu tháng 10 năm 1928, như đã kể trên, cùng đi với đội banh Nam Kỳ qua Singapore có hai tay quần vợt nổi tiếng, Chim và Giao. Báo The Straits Times ra ngày 9/10/1928 có đăng Chim đã thắng vô địch quần vợt Malaya championship, Paul Clerc như sau (báo đăng tên Chim là Huỳnh Văn Chim, có thể nhầm cùng họ với Huỳnh Văn Giao)
“Cho đến nay công chúng chưa có dịp gặp các tay quần vợt Nam Kỳ đến Singapore cùng với đội banh. Các tay quần vợt này có cả Huỳnh Văn Chim, vô địch Nam Kỳ, mà chất lượng có thể được đánh giá qua sự kiện là trong một trận đấu ở một sân tư gia, Chim đã đánh bại Paul Clerc, vô địch Malaya, với tỉ số 6-3, 6-4. Đó là vì sân ướt và Clerc có thể chơi hay hơn trên sân có tình trạng khác. Người ta hy vọng rằng một trận đánh biểu diễn khác sẽ được tổ chức”.
Giải Malayan Championships chỉ bắt đầu từ năm 1921 khi quần vợt ở Malaya (bao gồm luôn Singapore) bắt đầu là môn thể thao được chú ý và đang lên.
Vài ngày sau đó, tờ The Straits Times ra ngày 11 tháng 10 1928 có đăng lịch trình trận đánh quần vợt ở Singapore của giải Tournament S.R.C (Singapore Recreation Club)
Nguyễn Văn Chim, vô địch Nam Kỳ đấu với Khoo Hooi Hye vô địch người Hoa giải Singapore và giải Malayan Championship từ năm 1925 đến 1929.
Huỳnh Văn Giao đấu với Lim Bong Soo. Lim Bong Soo là tay vợt đang lên, mặc dầu nhỏ người, đánh tay trái nhưng có tài và sau này thay thế Khoo Hooi Hye trong thập niên 1930s là tay vợt hàng đầu ở Singapore. Khoo Hooi Hye và Lim Bong soo là hai tay quần vợt nổi tiếng trong lịch sử quần vợt Singapore.
Hình 20 – Vô địch quần vợt Singapore và Malaya, Khoo Hooi Hye
Vào giữa tháng 7 năm 1929, Hội thể thao An Nam có tổ chức hai buổi quần vợt vào ngày thứ bảy và chủ nhật (L’Avant-Garde 24/7/1929) trong đó hai minh tinh quần vợt Việt Nam Giao và Chim sẽ đánh biểu diễn tại sân của hội. Sân quần vợt đông đảo người tới xem tận mắt hai nhân vật mà họ ngưỡng mộ. Ngày đầu Chim thắng (6-2, 6-2, 6-1, 8-6) và ngày hôm sau thì ở sết (set) đầu Chim thắng 6-4, vào set 2 thì Chim và Giao đang ở tỉ số 6-6 thì trời mưa và gió lớn. Trận đánh vì thế phải ngừng cho đến 21 giờ tối thì tiếp tục lại, Giao thắng 9-7. Set 3 thì Chim thắng 6-4. Set 4 Giao thắng 6-1 thì trời mưa lại, lúc đó là đã 22 giờ tối. Trận đánh ngừng và chấm dứt. ChimGiao-avantgarde24july1929
Hình 21 – Chim và Giao (trên) và Triệu-văn-Yên (Nguồn: báo L’Avant-Garde 24/7/1929 trong bài phóng sự về trận đánh quần vợt giữa Chim và Giao và 9/8/1929 về Chim và Giao ở Singapore)

Giải Huỳnh Văn Của
Trong 3 người Việt Nam qua Singapore chơi quần vợt, còn có Huỳnh Văn Của. Mặc dầu không nổi tiếng bằng Chim và Giao nhưng ông cũng có nhiều thành tích. Cũng như Chim và Giao, ông Của là hội viên của Hội thể thao An Nam, Cercle Sportif Annamite, và đầu năm 1929 Của và Cang là vô địch đôi quần vợt Nam Kỳ. Chẳng may vài tháng sau ông mất đột ngột. Đây là sự mất mát lớn trong giới quần vợt thời bấy giờ. Để tưởng nhớ Huỳnh Văn Của, Hội thể thao An Nam Cercle Sportif Annamite (C.S.A) ở Saigon đã tổ chức giải Huỳnh Văn Của (coupe Huynh Van Cua) cho những người mới chơi môn thể thao quần vợt để khuyến khích tài năng trẻ để tưởng nhớ một nhà thể thao đang lên ở Saigon và Nam Kỳ
“Giải Huỳnh Văn Của
Hội thể thao An Nam tổ chức một giải thi đấu quần vợt gọi là giải Huỳnh Văn Của, để tưởng nhớ nhà vô địch quần vợt mất cách đây một năm. Giải này mở ra cho tất cả những người chơi quần vợt ở Nam Kỳ nhưng chưa bao giờ tham dự giải Lam-quang và giải Jules Robin hay giải vô địch Nam Kỳ. Giải này vì thế chỉ dành riêng cho những người mới bắt đầu chơi thể thao quần vợt.
Chúng ta nhớ lại một người chơi quần vợt tài ba của hội thể thao An Nam ở Sài Gòn là Huỳnh Văn Của, trong năm 1928 đã đi cùng với hai nhà vô địch quần vợt của chúng ta, Chim và Giao đi Singapore. Huỳnh Văn Của đã đánh thắng những tay quần vợt giỏi nhất của hội thể thao Saigon (Cercle Sportif Saigonnais) như là Tournois và Antoni. Năm ngoái, với Cang, ông đã đoạt giải đôi vô địch quần vợt Nam Kỳ
Một người rất hiền và khả ái, ông chơi thể thao với sự kính mến và tin tưởng từ tất cả những đồng nghiệp của mình. Hội thể thao An Nam ở Sài Gòn không muốn tên của một trong những hội viên của mình vừa mất bị quên lãng, một nhà thể thao tài năng sáng chói, mất đi trong sự yêu mến của cha mẹ và bạn bè ở tuổi tràn đầy sung mãn nở rộ của sự nghiệp. Từ giải Huỳnh Văn Của này, chúng tôi chắc chắn, là sẽ qui tụ rất nhiều người từ các tỉnh của chúng ta.
Đăng ký cho giải này là 3 đồng mỗi người tham dự cho quần vợt đơn và 2 đồng mỗi người cho quần vợt đôi, Hạn đăng ký là cho đến ngày 21 tháng 3 này. Nguyện vọng đăng ký xin gởi đến chủ tịch hội thể thao Saigon ở góc đường Colombier (Hồ Xuân Hương) và Pierre Flandin (Bà Huyện Thanh Quan).
Chúng tôi sẽ công bố thể lệ của giải. Hôm nay chúng tôi khuyên các nhà thể thao quần vợt ở các tỉnh nên ghi tên tham dự đông đảo giải này, giải được tạo ra chủ yếu là cho họ và sẽ, theo một cách nào đó, là một giải thưởng khuyến khích những người mới chơi quần vợt.

(Écho Annamite 12/3/1930)
Quần vợt ở các tỉnh
Các tỉnh Nam Kỳ cũng có nhiều người chơi và hâm mộ môn thể thao quần vợt, như ở Mỹ Tho trong ba ngày thể thao quần vợt được coi là to lớn chưa có tiền lệ, ngày 2, 3 và 4 tháng 8 1928, một đám đông khổng lồ như báo Écho Annamite loan tin đã đến xem và vỗ tay hoan hô trận quần vợt giữa Chim, vô địch Nam Kỳ và các tay quần vợt giỏi nhất ở Mỹ Tho, như Thế vô địch quần vợt địa phương.
Các trận đôi giữa Chim và Của ở Saigon với các cặp từ Mỹ Tho, Gò Công và Tân An phần thắng đều về phía Chim và Của. Những nhà quần vợt từ Gò Công và Tân An đã đến Mỹ Tho để có dịp luyện tập và sữa soạn cho vòng loai của giải quần vợt 11 tháng 11 1928 do Cercle Sportif Mytho tổ chức, họ đã có dịp may đọ sức với Chim và Của để có thêm nhiều kinh nghiệm (Écho Annamite 6/11/1928)
Đặc biệt được tán thưởng là các ông Tiếng và Martin từ Gò Công, Cang và Nguôn từ Tân An, Truân, Cho và Vang từ Mỹ Tho. Ông Vang với các banh chớp nhoáng và vào đúng chổ được tán thưởng vỗ tay lâu dài và được chúc tụng vì đã đứng ra tổ chức những ngày lễ hội thể thao này. Ông Vang cũng là chủ tịch hội thể thao Mỹ Tho. Trong những khán giả có ông trưởng ti hành chánh Delibes, người rất mê quần vợt và không bỏ sót trận quần vợt nào, đốc phủ Vinh, ông Ourgaud, ông Kha, chủ tịch Ủy ban liên hội thể thao An Nam (Commission Interclub Annam, C.I.A), ông bà Lafuste, ông bà Pellegrin, ông Tuấn huyện Nâm, quan tòa hòa giải ông Đạt, ông Trà ở Vĩnh Long, etc.. Ông Kha chủ tịch ủy ban liên hội đã từng dẫn các quần vợt như Chim, Của, Tuấn đến Mỹ Tho nhiều lần để phát huy môn thể thao quần vợt ở Nam Kỳ.
Chim và Giao làm rạng danh người Việt
Danh tiếng của Chim và Giao giờ đây khắp Đông Dương và Viễn Đông đều biết. Ngày 6/1/1930, triều đình Huế đã chính thức ban thưởng huy chương Nam Việt Long Bội Tinh chức kỵ sĩ (Ordre impérial du dragon d’Annam, chevalier) cho Triệu Văn Yên, ông bầu của Chim và Giao, còn Chim và Giao được trao Kim Tiền huy chương hạng ba (sapèque d’or, troisème classe).
Theo báo Écho Annamite (6/1/1930), cả ba đã có ghé Huế, trong những chuyến đi chu du đánh quần vợt và đã có nhiều người trước đây đề nghị đến triều đình thưởng huy chương cho họ, nay ngày 6/1/1930 thì họ đã được triều đình An Nam chính thức công bố. Báo Écho Annamite bình luận đây là sự kiện đáng để ý. Thứ nhất vì đây là lần đầu tiên triều đình Việt Nam đã trao huy chương cho những nhà thể thao và thứ hai trong ý nghĩa của lý do trao huân chương đã được nêu ra rõ là vì họ là những người Việt Nam đầu tiên làm rạng danh dân tộc Việt ở nước ngoài trong lãnh vực thể thao
“.. Chúng tôi nhận thấy đây là dấu hiệu thời đại khá nhiều ý nghĩa trong thái độ này của chính phủ Huế, chính phủ mà chúng ta không thể ca tụng quá được. Đã có thời, cách đây không xa, thể thao được coi như là những món giải trí không đáng kể và vô dụng, nếu không nói là hoàn toàn bị khinh miệt. Ở Đông Dương, thật ra cũng như ở Pháp, những “môn chơi bằng tay” đồng nghĩa với “môn chơi xấu xa không đoan chính” như một câu châm ngôn nổi tiếng đã nói, và may mắn thay để vực dậy thể lực của dân tộc ta đã quá yếu kém, quá suy yếu, quá bệnh hoạn, câu này càng ngày càng bị lãng quên, càng ngày càng bị phủ định bởi nhiều người và các diễn biến xảy ra.
Chúng ta nên vì thế vui mừng, thành khẩn chúc mừng phẩm giá mà họ xứng đáng hưởng được và được tôn vinh, ba người nhận huy chươn, của lứa thể thao đầu tiên này.
Rõ ràng là các tâm tính đã tiến hóa trên thế giới, và cả ở nơi chúng ta. Triều đình Huế chính họ cũng đi theo phong trào và tự cải cách theo nghĩa tốt đẹp hơn, mà người ta đã coi họ, thường không phải là không có lý do, lạc hậu cả một hệ thống, củ rich hết thời, đi ngược dòng, thù nghịch với tiến bộ, ngang ngạnh mù quáng với tất cả những gì mớ, chống đối tất cả những cải cách, những canh tân nghịch với truyền thống xưa trong quá khứ, mà họ là một người được ủy thác đầy ghen tị và nô dịch.
Cử chỉ mà triều đình sắp làm là vinh danh họ, cùng lúc vinh danh những người được nhận. Triệu Văn Yên, Huỳnh Văn Chim (*) và Huỳnh Văn Giao đã dành được huy chương từ sự đấu tranh cao độ – đó là cách nói để diễn tả, bởi vì các sân quần vợt do tính cách của chúng là những bãi chiến trận, và nói đúng hơn là những bãi chiến trận hòa bình, ở đó những dân tộc đến gần nhau hơn thay vì chia rẽ, nơi mà hận thù bị đuổi đi và thay vào đó là giống như một chiến trận, một trận chiến cao thượng – nhưng mà chúng vẫn còn là chiến trận vì ở đó có người thua và kẻ thắng, những nạn nhân và những cái chết hy sinh vì ý chí niềm tin, thậm chí có những anh hùng – nhưng không bao giờ có kẻ hèn nhát – mà những hy sinh, may mắn thay, không bao giờ đưa đến cái chết, dẫn đến đỗ máu.
Ba cá nhân mà chúng ta đề cập ở trên mang trên người của họ những huy chương với một phẩm cách đáng trọng, Những huy chương này đã tìm được đúng vị trí xứng đáng của chúng trên ngực của những người hùng gan dạ. Chúng không phải hổ thẹn đỏ mặt vì họ. Và họ, cũng vậy, không phải đỏ mặt xấu hổ vì chúng. Họ đã ngự trị đạt, được không qua những hành động ti tiện, không luồn cúi và cũng không xin xỏ. Họ không mua các huy chương này qua đồng tiền. Họ đã trả chúng bằng sự nhọc nhằn khổ cực, bằng sự cố gắng của họ, bằng tài ba của họ. Những huy chương này, đối với họ đôi khi, chỉ là một phần thưởng, một sự trợ lực làm vững lòng, một sự khuyến khích thôi. Chúng ta không đề cập nhiều, than ôi, về số lượng đồng nghiệp của họ !

(chú thích người dịch: (*) thực sự tên của Chim và Giao là Nguyễn Văn Chim và Huỳnh Văn Giao. Tờ Écho Annamite chắc nhầm lẫn).
Bài báo trên của báo Écho Annamite cho thấy tất cả mọi người từ quan triều, dân chúng mọi từng lớp kể cả báo giới đều nhận thấy sự xứng đáng của hai tay quần vợt và ông bầu của họ đã mang vinh danh về cho dân tộc Việt Nam ở nước ngoài. Cho tới ngày nay, Chim và Giao vẫn xứng đáng với niềm tự hào của người Việt Nam.
Chim và Giao trên phim ảnh, quần vợt Anh-Việt và giải quần vợt vô địch Malaya
Chim đã đạt được chức vô địch Đông Dương và đã đấu quần vợt với Samarq, vô địch Bắc Kỳ. Trận quần vợt này đã được quay phim và vào đầu năm 1930, một tuần trước khi Tết đã được mang ra trinh chiếu ở rạp Casino Saigon như báo Écho Annamite (17/1/1930) đã tường thuật. Phim về trận đánh quần vợt này ở rạp Casino Saigon đã được đông đảo khách đến xem và rất thành công.
Theo tờ Écho Annamite thì tiếng tăm của Samarq không những được biết khắp ở Đông Dương mà còn ở Viễn Đông nữa. Điều này cho thấy tiếng tăm của Chim bắt đầu lan rộng ra ngoài nước qua phim ảnh. Trong dịp này giám đốc hảng phim Indochine Films et Cinemas đã dành riêng 50 vé miễn phí cho Cercle Sportif Annamite ở Saigon để chia ra cho các hội viên. Chim, Giao và ông bầu của hai ông là Triệu Văn Yên, các đồng nghiệp, bạn bè và những người ái mộ đã giúp đỡ thành công cho buổi chiếu phim đầy ấn tượng này. Khán giả đã vỗ tay khen ngợi lúc xem trận quần vợt thật thanh lịch đẹp mắt này của tay quần vợt số một ở Đông Dương. Đây là cơ hội độc nhất vô nhị để thưởng lãm tài nghệ của Chim trong phòng chiếu phim trên đường Pellerin (Pasteur ngày nay) như báo Écho Annamite đã bình luận. Tiếc rằng ngày nay chúng ta chưa tìm ra được cuốn phim quí báu này.
Ngày 1 tháng 2 năm 1930, trong dịp Tết, Hội thể thao Vũng Tàu (Cap-Sport) do ông Michel Thanh là chủ tịch đã tổ chức với sự giúp đỡ của Cercle Sportif Annamite ở Saigon một trận đấu đôi quần vợt giữa Chim, Giao và hai quần vợt người Anh là Collins, Payne lúc 14 giờ chiều trên sân khách sạn Grand-Hôtel du Cap. Sân này do khách sạn bảo trợ cho hội Sport-Cap dùng cho trận quaần vợt hào hứng này. Buổi hôm đó rất nhiều người mua vé đến xem và có sự hiện diện của nhie6`u nhân vật quan trọng trong xã hội ở Saigon và Vũng Tàu. Trong trận này Chim và Giao đã thắng dễ dàng Collins và Payne. Sau đây là bài tường thuật về trận quần vợt này vào mùng 3 Tết âm lịch (Écho Annamite 5/2/1930)
“Quần Vợt – Các trận quần vợt Anh-Việt ở Vũng Tàu
“Ngày 1/2/1930, mùng 3 Tết âm lịch, thành phố nghĩ mát biển Vũng Tàu đi vào lễ hội, sau 14 giờ đã có một đám đông lớn tụ tập quanh khách sạn Grand-Hôtel, nơi mà trong 2 giờ nữa, sẽ xảy ra hai trận quần vợt mà mọi người đang chờ không kiên nhẫn. Giá vé, mà chúng tôi tin biết là, đã cho ra tổng cộng khoảng năm trăm năm chục đồng (piasters), đó là một sự thành công của buổi chiều hôm đó..Để ý là giá vé từ 1$ đến 0$40 tùy theo thứ hạng; và hai phần ba ít nhất là các khán giả được mời, những người được mời tọa lạc ở phía bên trong mà hầu như trong số họ ai cũng biết lẫn nhau.
Đến khoảng 3 giờ rưỡi tất cả ghế đã được chiếm chỗ. Các ghế ngăn đặc biệt cũng vậy. Chúng tôi nhận thấy, ngoài những người tổ chức, có sự hiện diện của ông Brégégère, giám đốc khách sạn Grand-Hôtel, ông Wolf, trưởng ti thành phố Vũng Tàu, ông Lalaurette, tỉnh trưởng tỉnh Bà Rịa, ông bà trung tá Descormes, ông bà thiếu tá Mallet, ông bà thiếu tá Francois, ông bà quản lý công ty Câble Anglais, ông begley, ông bà đại úy Nguyễn Văn Xuân, ông bà trung úy Pajot, chủ tịch Liên hiệp thể thao Vũng Tàu (Union Sportif du Cap), và đông đảo công chức, sĩ quan, các khách du lịch nghĩ mát, các người đứng đầu, phó các tổng, chức sắc các làng, mà chúng tôi xin không kể tên.
Lúc 16 giờ đúng, các tay quần vợt đôi như trong chương trinh xuất hiện trên sân với sự vỗ tay của quần chúng. Ngay sau đó, bắt đầu là các trao đổi đánh banh qua lại và sau đó là vào trận đấu dưới sự trọng tài của ông Triệu Văn Yên, chủ tịch Cercle Sportif Annamite ở Saigon. Cặp đôi quần vợt Chim và Giao đã dễ dàng hạ hai đối thủ Payne và Collins 6-1, 6-2 trong trận đánh không có biến cố gì.
Kế đó hai nhà vô địch An Nam đánh một trận biểu diễn mà sau khi dẫn 5-2, Giao đã thua Chim 5-7.
Cuối cùng là trấn đánh chính thức thứ hai giữa Cang và Collins. Đây là trận có nhiều bàn cãi vào buổi chiều hôm đó. Cang thắng dễ dàng đối thủ trong hiệp (set) đầu 6-1, nhưng bị thua ở hiệp hai 5-7. Ở hiệp ba, Collins dẫn trước 3-0, kế đó 4-1. Mọi người đều nghĩ là chiếc cúp tất yếu sẽ trở lại cho tay quần vợt người Anh, đến lúc Cang nhờ cố gắng gỡ được huề và cuối cùng thắng đối thủ 6-4.
Sau các trận đánh kết thúc, một bữa ăn trưa được khách sạn bảo trợ, tụ quanh một bàn dài ở trên sân, đối mặt ra biển, là các tay quần vợt, những “viên chức” và các đại diện báo chí. Bằng một vài lời khả ái, ông Wolf đã cám ơn các khách ăn là sự hiện diện của họ đã làm cho ngày lễ được vui hơn, mà Vũng Tàu sẽ ghi mãi vào kỹ niệm.
Những khách mời An Nam chấm dứt ngày đẹp trời này ở khách sạn ngay trung tâm thành phố, nhờ sáng kiến, tổ chức thành công mỹ mãn của ông huyện Michel Trần Thiện Thanh, chủ tịch hội thể thao Cap-Sports, với sự giúp đỡ hữu hiệu từ một ủy ban của hội thể thao này, được biết tiếng qua môn thể thao đá banh.

Đầu tháng 3 năm 1930, có tin hai nhà vô địch quần vợt Singapore Khoo Hooi Hye và Bong Soo sau khi đánh quần vợt ở Manila, trên đường sang Nhật Bản để đánh với Nhật trong giải cúp David, có thể ghé Saigon để đánh quần vợt với các vô địch Nam Kỳ. Tin này làm nức long các nhà quần vợt và khán giả hâm mộ. Duy chỉ có vấn đề mà ông chủ tịch Cercle Sportif Annamite Triêu Văn Yên còn do dự. Đó là số tiền mà hai quần vợt Khoo Hooi Hye và Bong Soo đòi hỏi là một ngàn sáu trăm đồng (piasters) cho chi phí di chuyển của họ. Đây là số tiền rất lớn cho hội thể thao An Nam ở Saigon. Theo chương trinh nếu họ đến, Chim và Giao sẽ lên Đà Lạt vài tuần trước để tập dược trong không khí trong lành ở thành phố này. Trong trường hơp Chim và Giao thắng Khoo Hooi Hye và Bong Soo thì Nam Kỳ sẽ được tham dự vào giải Davis Cup, đi Yokahoma đánh với Nhật. Cuối cùng thì dự định ghé Saigon của Khoo Hooi Hye và Bong Soo không thực hiện được.
Thật ra trước đó, báo Écho Annamite ngày 4/1/1930 đăng tin ông Triệu Văn Yên có nhận được thư của tay quần vợt nổi tiếng A. L. Rumjah ở Singapore ngõ ý muốn đến Saigon cùng với Gordon Lum và Khoo Hooi Hye để thử sức với các quần vợt Việt Nam trên đường đi dự giải quần vợt ở Manila. Saigon có cơ hội thưởng lãm các trận quần vợt giữa 3 vô địch các giải ở Á châu với các vô địch Việt Nam.
Gordon Lum, sinh ở thành phố Adelaide, là cây quần vợt trẻ người Úc gốc Hoa nổi tiếng ở Úc, sau này ông qua Thượng Hải đại diện cho Trung Quốc cùng với Khoo Hooi Hye đánh bại đội Anh trong giải Davis Cup ở Thương Hải 1930. Rumjah người Singapore gốc Ấn độ, đã từng là vô địch giải Trung Quốc 1926, 1928 và 1929. Dự định là các vô địch Việt Nam (Chim, vô địch Đông Dương, Giao, vô địch Nam Kỳ và Samarq, vô địch Bắc Kỳ) sẽ đứng ra tranh với Rumjah, Gordon Lum và Khoo Hooi Hye. Lúc đó C.S.A chưa quyết định sẽ tổ chức các trận đánh theo lối nào như kiểu cúp Davis, 4 đơn và một đôi hay theo lối khác. Sự kiện các nhà vô địch Singapore muốn đến Saigon đánh quần vợt tranh tài chứng tỏ môn thể thao quần vợt ở Saigon đạt được trinh độ và tiêu chuẩn quốc tế thời bấy giờ.
Hai năm sau khi đi Singapore, vào tháng 8 năm 1930 Chim và Giao cũng đã tham dự giải vô địch quần vợt Malaya trên sân cỏ (Malayan Lawn Tennis Championships) ở Kuala Lumpur, Giao và Chim đã áp đảo các đối thủ đến từ nhiều nước. Giải quần vợt Malaya 1930 là là thành tích cao nhất trong cuộc đời sự nghiệp thể thao của Chim và Giao.
Giao đoạt được chức vô địch đơn nam và Chim đứng nhì và trong trận chung kết đánh đôi N. E. Wise / Taylor (double), Giao và Chim đứng nhì sau khi thua cặp đôi nam Nhật Shoyo Matsukawa và Kawajiri (6-2, 4-6, 2-6). Nhưng trong trận chung kết đôi nam nữ Giao và Gras (Pháp) đã thắng N. E. Wise và Taylor (Malaya) 3–6, 6–3, 6–1.
Cercle Sportif Annamitte và giải quần vợt Triệu Văn Yên
Năm 1930-1931 là giai đoạn cực thịnh nhất của Hội thể thao An Nam, Cercle Sportif Annamite (C.S.A) trong lãnh vực quần vợt. Hội đặt ra cúp Triệu Văn Yên mang tên đương kim chủ tịch hội và năm 1931 hai cây vợt ngôi sao của hội lần đầu tiên dự giải Grand Slam, quần vợt mở rộng Pháp.
Cúp Triệu Văn Yên là giải giữa các hội thể thao để xem hội nào là vô địch cúp. Trong các trận thư hùng giữa Cercle Sportif Annamite ở Saigon và Chin Wo (Tinh Võ) Club ở Chợ Lớn gồm 3 trận đánh đơn và 2 trận đánh đôi, Cercle Sportif Annamite đã thắng 4 thua 1 (Écho Annamite 17/2/1930). Không cần phải có Chim và Giao, các tay quần vợt của Cercle Sportif Annamite Thoại, Vay, Ban và Yên đã thắng với kết quả như sau
Thoại thắng Yen-Bu 6-3, 6-3
Vay thắng Đông 6-3, 6-4
Ban (vô địch năm 1930 của C.S.A) thắng Hui-Foo 6-3, 8-6
Thoại và Vay thắng Tích và Phát, 6-3, 6-4
Hui-Foo và Đông (cựu vô địch người Hoa Chợ Lớn) thắng Ban và Yên 6-1, 6-3
Hội Cercle Sportif Annamite cũng đã tổ chức các buổi ga-la tennis và văn nghệ có nhạc tài tử và cải lương trong cùng chương trình như báo Écho Annamite ngày 17/2/1930 đã đăng như sau
“Ngày thứ bảy 22 và chủ nhật 23 tháng 2 1930 là những ngày đáng nhớ trong lịch sử thể thao quần vợt Nam Kỳ. Người ta có thể xét đoán như vậy qua chương trình đầy đủ tiết mục như sau của hội thể thao An Nam (C.S.A) ở Saigon – cũng hội này và lúc nào cũng hội này !
Chúng ta hãy bắt đầu bằng chương trình đầu tiên. Đây là cho buổi soirée thứ bảy: lúc 15 giờ các trận đánh quần vợt cho cúp Jules Robin; lúc 19 giờ các trận đánh bóng bàn (ping pong hay tennis de table); lúc 21 giờ trận quần vợt 3 sets giữa Chim và Giao, vô địch đôi Mã Lai; và lúc 22 giờ … nhảy múa dân tộc đồng quê, vui thú không quần vợt nhưng không phải hoàn toàn không thể thao, để làm đậm đà cho buổi lễ hội và để hâm nóng những cặp giò của các người yêu thích nhảy.nhạc tài tử và cải lương sẽ giúp vui cho cuộc thi này.
Ngày hôm sau, chủ nhật: 7 giờ sáng, các trận của giải cúp Jules Robin, và cũng các trận cúp nàu 3 giờ chiều; 17 giờ các trận bóng bàn (ping-pong).
Chúng tôi cũng thêm là một tác phẩm nghệ thuật của doanh nhân Nguyễn Văn Trân cũng sẽ được tặng cho người thắng trong trận quần vợt giữa Chim và Giao như đã nói trên.
Cuối cùng, chúng tôi thấy rằng, giải Jules Robin hứa hẹn vượt qua tất cả những kỳ vọng lạc quan nhất, tổng cộng có cả thảy 80 trận quần vợt và 120 tay vợt tham gia gồm những người đánh giỏi nhất ở nam Kỳ và ngay cả ở nam An Nam, bởi vì các tay quần vợt từ thành phố xa xôi, Nha Trang, cũng ghi danh tham dự.
Một trang vỗ tay cho hoạt động của Hội thể thao An Nam “Cercle annamite” và sự tận tâm của chủ tịch hội này, ông Triệu Văn Yên !

Cúp Jules Robin do ông Dauverchain của hảng Ogliastro et Cie., bắt đầu từ năm 1927, đứng ra bảo trợ cho giải quần vợt do Ủy ban liên hội thể thao An Nam (Commission Interclub Annamite) tổ chức. Người thắng giải ngoài nhận cúp còn được tặng một chai rượu cognac Jules Robin (Écho Annamite 9/11/1927). Qua đó ta thấy vai trò của các công ty thương mại bảo trợ các môn thể thao để quảng cáo cho sản phẩm của công ty đã có ở Nam Kỳ trong giai đoạn đầu của các môn thể thao được ưa chuộng. Công ty Ogliastro et cie. nhắm vào các khán giả và người chơi quần vợt vì họ đa số thuộc giới thượng lưu và trung lưu. Rượu cognac Jules Robin đã được nhiều người Việt Nam lúc đó biết đến và ưa chuộng Công ty Ogliastro lúc đó là đại lý độc quyền của hảng rượu cognac Jules Robin ở Nam Kỳ.
Hình 21 – Rượu cognac Jules Robin, đại lý tại Saigon là công ty Ogliastro & Cie.
Ông Triệu Văn Yên, ngoài chức hội trưởng Cercle Sportif Annamite, ông còn là giám đốc công ty Nguyễn Văn Trác. Công ty này cũng qua ông Yên tháng 11 năm 1927 đã tặng một cúp cho đội tuyển thắng trận đá banh giữa hai đội banh Goconnaise SportiveÉtoile de Giadinh ở thành phố Gò Công. Công ty Ogliastro cũng tặng mỗi cầu thủ hai đội (22 người) một chai Jules Robin và gói thuốc lá “La Cigogne”. Ngày nay thực sự hai món này, rượu và thuốc lá, như ta biết không được quảng cáo và thương mại trong các trận thể thao ở nhiều nước.
Chim và Giao và các giải Grand Slam
Nhưng thành tích ít người biết đến là Chim đã đi qua Âu châu dự hai giải quần vợt grand slam là French Open và Wimbledon vào tháng 5 1931.
Với danh tiếng vô địch quần vợt Đông Dương lan rộng ở Á châu, năm 1931 Chim được mời qua Pháp và Anh cùng với Giao tham dự 2 giải Grand Slam lớn nhất mà tất cả các tay quần vợt trên thế giới đều ước mơ được tham dự: giải quần vợt mở rộng Pháp (French Open) và giải Wimbleton. Đây là lần đầu tiên có hai người Việt Nam tham dự các giải Grand Slam. Ngoại trừ Võ Văn Bảy sau này vào năm 1955 và Võ Văn Thanh (em Võ Văn Bảy) năm 1963 tham dự giải quần vợt mở rộng Pháp, cho đến hiện nay vẫn chưa có người Việt Nam nào khác tham dự các giải Grand Slam được.
Trong vòng hai của giải quần vợt mở rộng của Pháp (French Open) ở sân Roland Garros, Paris. Nguyễn Văn Chim đã đánh với Jean Borotra, tay quần vợt nổi tiếng của Pháp được coi là một trong “4 chàng ngự lâm pháo thủ” (4 mousquetaires) thời đó gồm Borotra, Brugnon, Cochet và Lacoste. Borotra là vô địch 15 lần hai giải Grand Slam (9 lần vô địch gỉai quần vợt mở rộng Pháp và 6 lần vô địch giải Wimbleton). Với một đối thủ như vậy, Nguyễn Văn Chim tuy thua 4-6, 3-6, 3-6 nhưng đã có gây ấn tượng với giới quần vợt thế giới.
Hình 22 – Bốn tay quần vợt ngự lâm pháo thủ nổi tiếng (“Mousquetaires”) của Pháp ở sân Roland Garros (1928) Brugnon (trái), Cochet, Lacoste và Borotra (phải) và ông bầu Pierre Gillou (chính giữa). Borotra đã đánh trong vòng đầu giải quần vợt mở rộng Pháp với Chim ở nơi này.
Theo chương trình cũng có trận ở đấu vòng đầu giữa Huỳnh Văn Giao và Andre Martin-Legeay (Pháp) ngày 18/5/1931 nhưng Andre Martin_Legeay được tuyên bố thắng (walk over) có lẽ do Giao đã không đến được.
Sau đó, Nguyễn Văn Chim và Huỳnh Văn Giao theo dự định là sẽ đến Luân Đôn để tham dự giải quần vợt Wimbledon. Ngày đấu vòng đầu giữa Nguyễn Văn Chim với Charles Kingsley (Anh) là 22/6/1931 như trong hồ sơ tư liệu của giải Wimbledon và ngày nay của Association of Tennis professionals (ATP) đã ghi nhưng có lẽ vì không đến được nên Kingsley được cho là thắng (walk over) để vào vòng hai. Tương tự Huỳnh Văn Giao cũng đã thua W. Legg (walk over) có lẽ vì không có mặt.
Một tay quần vợt khác nổi tiếng ở Saigon là Nứa. Năm 1933, ông đánh thắng Giao và trở thành vô địch Nam Kỳ.
nua_asie_noiuvelle1933
Hình – Nửa, vô địch Nam Kỳ đã thắng Giao 2 set 8-6, 6-3 ngày 2 tháng 4 năm 1933 (nguồn – L’Asie Nouvelle 3/1933)

Tuy vậy về độ bền bĩ, cho đến những năm cuối thập niên 1930, Chim và Giao vẫn là những cây vợt chưa có ai so bằng, mặc dầu tuổi đã bắt đầu cao. Các trận quần vợt thường được tổ chức có mặt hai cây vợt này là có nhiều người đến xem.
“Chủ nhật 10 tháng 10 1937
tổ chức bởi Liên hiệp quần vợt Nam Kỳ (Fédération Cochinchinois de Tennis)
trên sân của Cercle Sportif Saigonnais
Những trận đấu lớn quần vợt chuyên nghiệp
giữa các tay quần vợt: Chim, Nua, Giao, Nhanh, Bảo và Tiêc
Giá xem: 1$ và 0$50
Tổ chức: các ông Durand, Bonvicini và Yên

(Le Nouvellist d’Indochine 26/9/1937)
Trong giải quần vợt xuyên Đông Dương năm 1936 (24/9/1936 đến 4/10/1936), các đội quần vợt Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ và Cam Bốt tranh giải. Mỗi đội gồm 3 người đánh 4 trận đơn và 1 trận đôi. Đội Nam Kỳ không có Chim và Giao nhưng có Nửa. Kết quả đội Trung Kỳ và Cam Bốt bị loại vào chung kết là Nam Kỳ và Bắc Kỳ. Các trận đánh rất sôi nổi nhất là trận đôi với kết quả Nam Kỳ thắng 3-2 trong năm trận như sau
Nửa (Nam Kỳ) thắng Fong (Bắc Kỳ) 6-1, 6-0
Sáu (Nam Kỳ) thắng Nhân (Bắc Kỳ) 6-4, 6-1
Nhân-Dương (Bắc Kỳ) thắng Nửa – Sáu (Nam Kỳ) 6-4, 1-6, 7-5
Sáu (Nam Kỳ) thắng Fong (Bắc Kỳ) 6-2, 6-2
Nhân (Bắc Kỳ) thắng Báu (Nam Kỳ) 3-6, 6-3, 6-4
Mặc đầu tuổi đã cao, vào tháng 8 năm 1950 Nguyễn Văn Chim cũng tham dự giải Monte Carlo Country Club nhưng trong vòng hai đã thua Horsten (Pháp). Trận này đánh dấu kết thúc cuộc đời thể thao của ông. Vài năm sau thì ông mất, qua những gì ông đã mang lại cho vinh quang nước Việt và để ghi nhớ công trạng của Chim trong lãnh vực thể thao quần vợt mang lại danh tiếng cho Việt Nam và phát triển môn thể thao này ở Saigon, dưới thời Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1955, đã đặt tên một con đường ở Saigon là đường Nguyễn Văn Chiêm ở quận 1, gần nhà thờ Đức Bà và đường Phạm Ngọc Thạch thay thế tên đường Marc Pourpe, cũng là tên của một phi công có dính liền với lịch sử hàng không Saigon.
Đường Marc Pourpe thời Pháp thuộc từ đó trở thành đường Nguyễn Văn Chiêm danh tiếng (đúng ra phải là đường Nguyễn Văn Chim) và ngày nay vẫn giữ tên như vậy. Nhưng tên đường Chiêm không đúng với tên thật của ông là Chim như đã được ghi trên các hồ sơ, tư liệu trong các giải quốc tế grand slam, các giải ở các nơi khác và báo chí trong và ngoài nước. Điều này thành phố Saigon nên phải sửa lại cho đúng, xứng đáng chính danh của tên một vận động viên thể thao nổi tiếng nhất Việt Nam.
Quần vợt và phụ nữ
Phụ nữ cũng tham gia vào môn thể thao quần vợt. Tại sân của Hội thể thao An Nam (C.S.A) đường Colombier (Hồ Xuân Hương) có xây riêng cho phụ nữ. Điều này chứng tỏ có một số đáng kể hội viên của C.S.A là phụ nữ. Báo Phụ nữ Tân Văn số ngày 25/1/1934 có đăng bài “Phụ nữ Nam-kỳ với Thể-thao” như sau
“Từ khi cái sân banh lập riêng cho phụ-nữ đã có mặt tại sân C.S.A, đường Colombier thì các chị em cũng đến thường nơi đây mà dượt banh. Các bà các cô đến đó mà tập luyện cũng khá đông như bà Yên, bà Chấn, cô Lê-thoại-Ba, cô bảy Phùng Há vân vân..
Sân C.S.A được thấy phụ-nữ ra tranh tài hai lần. Lần đầu, nhân một cuộc hội chợ tại sân này, cô giáo Năm và cô giáo Ất đã xách vợt ra mắt công chúng lần thứ nhứt. Cô Năm thắng cô Ất.
Đến nay nhân tranh giải Critérium de Cochinchine, có hai cô nữ khan hộ ở Biên-Hòa là cô Bùi thị Khâm và Đỗ thị Nổi ra mặt.
Chiều thứ bảy 13 tháng 1 1934 đã có hai trận đánh đôi.
Trận đầu ông Hy và cô Collin đánh với cô Bùi thị Khâm và ông Báu. Cặp Hy-Collin thắng trong 3 hiệp 6/1,3/6,6/2.
Trận sau ông Triệu văn Yên và bà Boyer thắng ông Thành và cô Đỗ thị Nổi 4/6, 6/4. 6/2.
Cô Khâm cầm vợt còn yếu, cô Nổi đánh banh mạnh hơn và đở nhiều trái banh hay.
Mấy bà đa6`m ngồi gần tôi cứ tấm tắc khen không ngớt. Họ cho cô Nổi ra sân banh giải lần đầu mà đánh dạn lắm, đánh nhiều mánh lới hay và có thể trông mong nơi cô Nổi nhiều\. Hai cô đều có hy vọng về sau này.
Các chị em hâm mộ thể thao nên gắn tập bền chí thì sau này, có ngày cũng sẽ có phụ-nữ An Nam xách vợt đi tranh tài nơi xứ người\. Đó là một sự vẻ-vang cho ta.
Còn cô Nam và cô Ất, chớ để cho chị em thất vọng. Trên sân quần và trong các lúc bàn về thể thao, tên của hai cô vẫn được chị em phụ-nử nhắc nhở luôn luôn. Chị em cũng còn trông mong cho có một trận đánh đôi: cô Nam và cô Ất tranh tài với cô Khâm và cô Nổi.
Nguyễn-Thị-Kiêm

Ông Triệu Văn Yên trong bài viết trên chính là hội trưởng Hội thể thao An Nam (C.S.A). Lúc trước đó vào tháng 5 năm 1932, báo Phụ-nữ Tân văn đã có tổ chức Hội chợ phụ nữ và trong Hội chợ đã có tổ chức hai môn thể thao là bóng bàn và đánh trái lăn (quần vợt). Bài bình luận “Phụ nữ và thể thao” trên báo Phụ-nữ Tân-văn 21/4/1932 của bà Kiều Oanh khuyến khích phụ nữ Việt nam chơi thể thao và đưa ra thí dụ là phụ nữ Tàu (Hoa) ở Singapore và phụ nữ Xiêm (Thái Lan) đã có lập hội chơi banh lăn (quần vợt) và banh tròn (đá banh). Như vậy có thể nói năm 1932 là khởi đầu của phụ-nữ Nam Kỳ tham gia vào thể thao.
Võ Văn Bảy
Nổi tiếng như Chim và Giao sau này trong giai đoạn 1954 đến 1984 là tay quần vợt Võ Văn Bảy. Võ Văn Bảy sinh ngày 18 tháng 7 1931 tại Vĩnh Long, năm mà Nguyễn Văn Chim và Huỳnh Văn Giao đang tham dự giải Grand Slam ở Pháp và Anh. Hai mươi ba năm sau, sau khi đạt giải vô địch Việt Nam, Võ Văn Bảy là người kế vị Chim và Giao đươc tham dự giải quần vợt mở rộng Pháp (French Open) ở sân Roland Garros. Nhà quần vợt trẻ tuổi đại diện Việt Nam trong vòng 1 đánh với quần vợt người Ba Tây Armando Vieira, nhưng Võ Văn Bảy đã thua 6-0, 6-1, 6-4. Tại giải quần vợt Mã Lai mở rộng (Malaysia Open) năm 1960, ông vào được bán kết nhưng sau đó thua quần vợt người Phi Luật Tân Felicismo Ampon 6-3, 6-0.
Năm 1961 là năm ông đoạt giải huy chương vàng ở Đông Nam Á vận hội (Miến Điện) sau khi đánh thắng quần vợt Thái Lan Seri Charuchinda trong trận chung kết gay cấn (6-8, 6-2, 5-7, 6-0, 6-4). Em của ông Võ Văn Bảy là Võ Văn Thành cũng tham dự giải quần vợt mở rộng Pháp vào năm 1963. Trong vòng 1, Võ Văn Thành thua quần vợt người Pháp Bruno Valle (6-1, 6-2, 6-2).
Năm 1969 là năm Võ Văn Bảy thật sự đăng quan trong sự nghiệp quần vợt của mình. Ông đoạt giải vô địch quốc tế quần vợt Mã Lai (Malaysia International Championships). Sau khi thắng quần vợt Úc Sydney Ball trong trận bán kết (7-5, 2-6, 6-2 và 6-2). Cũng trong trận bán kết, em ông Võ Văn Thành đã thua quần vợt Úc Elwyn McCabe (6-4, 6-2, 6-4).
Trong trận chung kết hào hứng giữa Võ Văn bảy và Elwyn McCabe, sau hiệp đầu (set 1) mà Võ Văn Bảy thắng McCabe với tỉ số 6-4, đến hiệp 2 khi ông dẫn trước 2-1 thì McCabe ném vợt bỏ ra ngoài vì khán giả ủng hộ Bảy và chê chọc McCabe. Hơn nữa giờ sau, trọng tài mới thuyết phục McCabe trở lại, nhưng theo luật thì một khi đã tự ý không đánh quá nữa giờ thì bị coi như là thua. Võ Văn Bảy trở thành vô địch năm 1969 giải vô địch quốc tế quần vợt Mã Lai.
Tổng luận
Saigon có một lịch sử thể thao lâu dài và phong phú từ đua xe đạp, đua ngựa, đá banh, quần vợt, quyền anh… Người Saigon đã tạo ra các hội thể thao từ thưở ban đầu trước nhất trong nước và đã để lại dấu ấn qua các đội banh nổi tiếng như Ngôi sao Gia Định, và các tay quần vợt không những có tăm tiếng khắp Đông Dương, Đông Nam Á mà còn trên thế giới qua sự tham dự các giải Grand Slam trong thập niên 1920 và 1930, được coi là thời kỳ vang son của lich sử thể thao của Saigon nói riêng và Việt Nam nói chung. Nguyễn Văn Chim và Huỳnh Văn Giao đã làm cho người Việt Nam được rạng danh qua những thành tích đạt được mặc dầu chúng ta biết ít về họ. Thành phố Saigon đã vinh danh qua các con đường có tên của rất nhiều danh nhân trong lịch sử dân tộc trong lãnh vực chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học nhưng trong lãnh vực thể thao chỉ có một nhà thể thao duy nhất được vinh danh, Nguyễn Văn Chiêm.
Bước theo sau với không kém thành tích trong quần vợt là Võ Văn Bảy và Phạm Huỳnh Tam Lang thủ quân của đội tuyển đá banh Việt Nam đoạt được cúp độc lập Merdeka ở Mã Lai. Qua bao nhiêu thế hệ người Saigon nói riêng và người Việt Nam nói chung rất ưa chuộng các môn thể thao đá banh, quần vợt, đua xe đạp, đua ngựa. Giáo sư Erich Wald (13) trong bài viết về xã hội Việt Nam trong thời kỳ phổ biến của radio trong thập niên 1930, cho thấy thể thao như đá banh, quần vợt, đua xe đạp và đua ngựa thu hút sự chú ý của quần chúng qua radio rất nhiều, thí dụ như truyền thanh về Chim và Giao ở Huế trong giải quần vợt cúp Bảo Đại hay ở giải quần vợt mở rông Pháp hay truyền thanh trực tiếp từ các sân đá banh, sân quần vợt, trường đua, v.v…
Một thành phố đầu đàn của một nước không những dẫn đầu về kinh tế, hay trong lãnh vực khoa học kỹ thuật mà còn sáng tạo trong lãnh vực văn hóa và xuất sắc và mạo hiểm trong lãnh vực thể thao. Thành phố Saigon đã là và sẽ như vậy.


Sunday 7 October 2018

Nhân vật Saigon-ChợLớn thời Pháp thuộc – Tổng Đốc Phương (Nguyễn Đức Hiệp - Hiệp's Blog)

Nhân vật Saigon-ChợLớn thời Pháp thuộc – Tổng Đốc Phương

 (https://hiepblog.wordpress.com/2015/03/15/nhan-vat-saigon-cholon/)

Nhất Sỹ,nhì Phương, tam Xường, tứ Định”


Cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 là giai đoạn mà xã hội Việt Nam bắt đầu chuyển mình và thay đổi rất lớn. Đây không phải là một sự lựa chọn mà là sựbắt buộc. Việt Nam bi bắt buộc phải bỏ sự cô lập đứng riêng với tổ chức chính trị kinh tế xã hội đặc thù của mình và bị ép một cách không cân xứng vào hệ thống kinh tế toàn cầu của sự phát triển tư bản phương Tây, lúc bấy giờ là một hệ thống không công bình và khác lạ với con người Việt Nam truyền thống. Việt Nam coi như là một xứthuộc địa của Pháp: với Nam Kỳthuộc Pháp trong khi Bắc Kỳ, Trung Kỳlà hai xứ bảo hộ.
Trong giai đoạn đầu của thời Pháp thuộc ở Nam Kỳ,nhiều tầng lớp yêu nước khởi nghĩa giúp vua chống lại Pháp, và một số theo Pháp đàn áp khởi nghĩa. Đến cuối thế kỷ 19 thì người Việt Nam nhận ra rằng phải thích ứng với tình thế mới và tìm đường hay phương hướng mớiđể dành độc lập, phát triển quốc gia. Những người như các ông Gilbert Trần Chánh Chiếu, Lương Khắc Ninh, Trương Duy Toản… mặc dù hấp thụ văn hóa Pháp và tư tưởng Tây Phương nhưng luôn có cái nhìn muốn canh tân, cải cách đất nước. Họ là những người yêu nước và trong giai đoạn đầu thế kỷ 20, đa số họ thành lập hay tham gia trong phong tào Minh Tân, có liên hệ mật thiết với phong trào Đông Du do Phan Bội Châu và Cường Để khởi xướng.
Nhưng cũng có những người hấp thụ văn hóa Pháp, thích ứng với tình thếvà có địa vị trong xã hội, mà không còn nghĩ đến xã hội đất nước trong một phạm vi lớn hơn. Những người nhưvậy được ưu đãi và có lợi thế qua sự hợp tác của họvới Pháp trong lãnh vực kinh tế,chính trị hay qua vị thế của họtrong xã hội như các thương gia Hoa kiều, các người theo đạo. Một trong những người như vậy là ôngĐỗ Hữu Phương, một người Việt gốc Minh Hương ở Chợ Lớn. Bài viết này không có mục đíchđánh giá con người mà chỉmô tả những sự kiện liên hệ đến ông Đỗ Hữu Phương trong bối cảnh xã hội ở đầu thế kỷ 20 qua các tư liệu báo chí Pháp ngữ và Quốc ngữ hiện nay ít được chú ý.
Ông Đỗ Hữu Phương có khác với nhữmg người lúc đầu hợp tác với Pháp là ông rất chuộng văn hóa Pháp. Bắt đầu từ Hội Nghiên cứu Nam Kỳ và Đông Dương (Société des Études Indo-chinoises) là nơi những tầng lớp trí thức và thượng lưu Pháp Việt giao du và học hỏi. Những người Pháp nghiên cứu và có kiến thức rộng về Nam Kỳ và Đông Dương phải kể đến Antoine Landes, Charles Lemire, George Durwell và Việt thì có Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký. Ngoài ra có những thương gia, kỹ nghệ gia Hoa Việt, các quan lại, công chức trong bộ máy cầm quyền Pháp làm việc chung với người Pháp; và qua đó văn hóa Pháp dần dần ảnh hưởng sâu rộng vào xã hội miền Nam, nhất là ở thành thị.
Ngược lại người Pháp ở chính quốc bắt đầu biết đến vùng đất Đông Dương và họ tò mò tìm hiểu về văn hóa ở Viễn Đông, nhất là trong giai đoạn cuối thếkỷ 19 sau hội chợ thế giới 1889 cho đến thời đại Belle Epoque đầu thế kỷ20 thì sự hấp dẫn văn hóa Viễn Đông đã có tác động lớn vào giới nghệ sĩ, học thuậtở Paris. Trong giai thoại về cô Cléo de Merode với các ông đốc Phủ, ta có thể đoán rằng ông Phủcó quyền thế và giàu có trong câu chuyện, người ngỏ ý mời cô qua Nam Kỳ đến ở dinh ông ởSaigon, chắc phải là ông Tổng đốcĐỗ Hữu Phương (11). Hội chợtriển lãm thế giới năm 1900 ởParis đòi hỏi sự tổ chức qui mô, riêng về phần khu triển lãm Đông Dương dưới sự điều hành của Jules Charles-Roux, Pierre Nicolas ở Paris và Paul Doumer ở Hà Nội, ở Nam Kỳ cóỦy ban địa phương Nam Kỳ (Comité local de Cochinchine) trong đó ông Đốc Phủ Sứ Đỗ Hữu Phương là một hội viên và ông Trương Vĩnh Ký là thư ký. Khoảng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, tầng lớp thượng lưu Hoa Việt ở Nam Kỳ đều chịu ảnh hưởng ảnh hưởng văn hóa Pháp mà ông Phương là một thí dụ nổi bật.

Một vài nét về Đỗ Hữu Phương


Đỗ Hữu Phương sinh ở Chợ Đủi, Saigon năm 1840, mất ngày 5 tháng 5 1915. Ông gốc người Minh Hương. Năm 1861, khi Pháp chiếm thành Saigon và đánh đồn Kỳ Hòa, người Pháp đã thấy tầm quan trọng của thương mại người Hoa ở Chợ Lớn, họ đã mua lương thực, trao đổi hàng hóa với người Hoa ở Chợ Lớn trong thời gian công phá đồn Kỳ Hòa. Ngay sau khi đã phá được đồn Kỳ Hòa, người Pháp tuyên bốSaigon là cảng tự do mở cửa buôn bán với thế giới bên ngoài. Thương mại người Hoa ở Chợ Lớn sau bao nhiêu năm bị ức chế, bế quan tỏa cảng, đã bộc phát và cộngđồng người Hoa và Minh Hương ởSaigon – Chợ Lớn hồ hởi tham gia vào tình hình kinh tế mới.
Trong năm 1861 biếnđộng lịch sử này, Đỗ Hữu Phương thấy được cơ hội mới, ông đã tiếp xúc và làm việc với người Pháp chânướt chân ráo cố gắng tuyển dụng người thiết lập một nền hành chánh còn rất sơ khai ởSaigon – Chợ Lớn. Ông được phong ngay làm chức trưởng khu Chợ Lớn (chef de quartier Cholon), sau thành huyện Chợ Lớn.
Năm 1872 ông được phong là Đốc Phủ tỉnh Chợ Lớn và huân chương Legion d’Honneur. Ông vềhưu năm 1897. Theo Brébion (1) thì ôngđã đi qua Pháp 4 lần; viếng các thủ đô ở Âu châu và đi chuyến vòng quanh thế giới vào năm 1884. Trong danh sách các hành khách đi tàu “Anadyr”từ Saigon đến Marseille ngày 29/04/1889, có tên ông cùng với 2 người con (8). Như vậy ta có thể đoán rằng ông đi chu du nước Pháp trong dịp hội chợ thế giới 1889 kỷ niệm 100 năm cách mạng Pháp.
Ông Phương là người có tiếng hiếu khách tiếpđãi người nước ngoài đến thăm tư gia của ông. Ông toàn quyền Đông Dương, Paul Doumer, khi có dịp vào Saigon cũng thường đến tư gia của ông Đỗ Hữu Phương. Paul Doumer là người có trách nhiệm thiết kế và giúp đỡ tổchức khu triển lãm Đông Dươngở Hội chợ quốc tế Paris năm 1900.
Đỗ Hũu Phương giao thiệp rộng rãi và biết rất nhiều các quan chức Pháp ở Saigon. Theo Hứa Hoành (4), ông thường đến nhà hàng khách sạn Continentalở Saigon, và Café de la Paix, nơi gặp gỡ của các bạn bè Pháp Việt thượng lưu trí thức. Nơiđây có các quan chức như ông Paul Blanchy (thị trưởng Saigon), ông Bonnet, ông Morin. Đỗ Hữu Phương đã “Pháp hóa hơn cả người Pháp”. Ông Phương gởi 4 người con trai qua Pháp học, trong đó có ông Đỗ Hữu Chẩn và ĐỗHữu Vị học ở trường võ bịSaint Cyr. Khi khách tới nhà chơi đềuđược Phương đãi rượu sâm-banh, ăn bánh petits beurres de Nantes và uống cà phê “De La Paix”. Café de La Paix là quán cà phê nổi tiếng ở Paris nơi ông Phương đã đến khi qua thăm Paris. Ông đã qua Pháp 4 lần trong đó có lần dự Hội chợ triển lãm 1889.
Theo Hứa Hoành (4) thì ông Nguyễn Văn Vực có nhắc lại hồi đó có một bài ca dao rất phổ thông nói về ĐỗHữu Phương hay đến nhà hàngCafé de la Paix, bài ca dao này đượcTrương Minh Ký dịch ra Pháp văn, đại khái như sau:
“Các quan lại Pháp thường hay đến tửu quán “Cà phê De La Paix”
…để gặp quan Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương và quan Bonnet đang ngồi tán dóc ở đó
Bạn sẽ gặp ngài Paul Blanchy (Chủ tịch Hội Đồng Quản Hạt), cùng với ngài Morin ở đó nữa…”
Bài này rất phổ thông hồi đầu thế kỷ 20ở Sài Gòn, nay đã biến mất không còn dấu vết. Dịch giả cùng vài bạn Pháp cũng có đếnđó chơi với Ðỗ Hữu Phương. Những người Pháp-Việt hội nhậpở đó, đã nhớ lại vẻ ấm cúng và thú vị của thuộcđịa Nam Kỳ, so với bầu trời Paris luôn luôn ảm đạm lạnh lẽo.”
Café de la Paix”này là ở ngay trung tâm thành phốSaigon, vị trí trên đường Nguyễn Huệ ngày nay, địa chỉ số 56-64 Boulevard Charner, ngay góc đường rue d’Ormay (Mạc Thị Bưởi) và Charner (12). Trong lúc ông Đỗ Hữu Phương và các nhân vật giàu có và quan chức trong chính quyền như Paul Blanchy, Morin, Bonnet tụ tập ăn uống, trao đổi nói chuyên thì đối diện bên kia đường, trong dãy phố gần toà hoà giải (Justice de la Paix) mà ngày nay là toà nhà Sun Wah Tower, ông Nguyễn An Khương, một nhân sĩ trong phong trào Minh Tân, có khách sạn và tiệm may và bán vải ở số 49đường Charner. Và sau đường Charner, gần Chiêu nam Lầu của ông Khương, ở đầu đường Krantz (Hàm Nghi) là khách sạn của ông Trần Chánh Chiếu, cạnh ga xe lửa đầu tiên ở Saigon. Các ông Nguyễn An Khương (con ông là nhà cách mạng Nguyễn An Ninh) và Trần Chánh Chiếu lúc này đang cố gắng lập hội, làm báo (Nông Cổ Mín Đàm, Lục Tỉnh Tân Văn) để canh tân thức tỉnh nước nhà, trong khi bên kia đường ông Phương đang hưởng thụ cuộc sống với các chính khách Pháp.
Cách sống xa hoa và sự hiếu khách của Ðỗ Hữu Phương với người Pháp đãđược bá tước Pierre Barthélemy kể lại như sau, khi ông Barthélemy và các bạn của ông đến viếng tư gia của Ðỗ Hữu Phương:
“Khi viếng ChợLớn, không thể không có chuyến ghé thăm một ông Phủ giàu có danh tiếng của thành phố này. Đó là điều chúng tôi làm, với sự tháp tùng của vài người bạn Saigon của ông ta. Ông đốc phủtiếp chúng tôi thật nồng nhiệt Ông là một người An-Nam, tuổi khoảng 50, vẻ mặt thông minh; ông hầu như luôn mặc bộ đồ Tây và không do dự cho các con trai ông được theo học một nền giáo dục Pháp. Một trong các con trai ông hiện là một sĩ quan trong binh đoàn Lê Dươngở Algérie, trong khi một người con khácđang học sắp xong ở Paris.
Nhà ông là một sự pha trộn lạ kỳ giữa Âu và Á. Sân trong thiết kế theo kiểu Trung Hoa, chung quanh sân là các phòng kiểu An Nam mà một phòng salon ở tận trong rất đáng chú ý. Đối diện với salon này là một biệt thự kiểu Âu. Bàn thờ trong phòng salon An Nam này là một công trình tuyệt diệu nổi tiếng, bàn thờ được cẩn xà cừ. Những cột nhà làm bằng gổ teck rất quí, trụ mái nhà của phòng salon này trông rất thanh tao và trên một bàn làm bằng gỗ quí là những chai rượu absinthe, amer Picon và những sản phẩm của Pháp khác. Ông Phủthích đãi khách các đồ ănđặc biệt, và ông ta cũng biết thưởng thức các loại rượu của chúng ta. Nếu phải diễn tảhết tất cả sự giàu sang của nội thất An nam này, thì phải viết rất nhiều trang giấy. Tôi thấy đủ hài lòng để chỉ kể lại buổi ăn trưa mà ông chủ nhà đáng mến sẽ làm cho chúng tôi thưởng thức. Thường thì ông Phủ ChợLớn ăn đồ ăn Tây ở nhà, nhưng chúng tôi hôm đó dùng vài món ăn An Nam và kết thúc với các món ăn Tàu. Ông chủchủ tọa bàn ăn “
..“
Thường thì ông Phủ ở Chợ Lớn đãi thực khách bằng thức ăn Tây, nhưng chúng tôi hôm nay được thưởng thức ăn vài món An nam và ông thêm vào các món Tàu. Chủ nhà chủ tọa ngồi vào bàn ăn, chúng tôi vui vẻ tập dùng đôi đũa đểgắp thức ăn vào đủ các dĩa. Thực đơn gồm các món ăn nhưsau
Cháo tổ yến
Cá kiểu An Nam (với các chén cơm) (cá này cóướp nước mắm)
Thịt heo kiểu An Nam (nước mắm)
Đuông dừa (sâu dừa) nướng
Dưa chua với thịt heo theo kiểu Âu
Trứng chiên với fromage kiểu Âu
Tráng miệng: Vải, xoài, vải nhỏ An Nam, gừng và các trái cây nhiệt đới khác.
Những món ăn này hợp với khẩu vị Âu của chúng ta; duy chỉ có một món làm chúng tôi lo âu, đó là mónđuông dừa (sâu dừa). Nhưng chúng tôi biết rằng một món như vậy rất là quí, rất khó tìm các con đuông này. Để có các con đuông, người ta phải chặt nguyên cây dừa và lấy từ ngọn một loại sâu đặc biệt sống ở đó. Một cây bị đốn chết, và vì thế người ta nhận ngay ra là thật tốn kém như vương giả để có một con sâu nướng. Vì thế chúng tôi phải nếm món này như một kiểu ăn mới. Nó nếm giống như sa lách đọt dừa, con sâu ăn rất ngon và chúng tôi không do dự tuyên bố rằng món này thật ngon và xứng đáng là món ăn đặc khẩu thi vị.
Tuy vậy sau buổiăn thử hút ống pip thuốc phiện thì kém thành công hơn cho các bạn đồng hành không hợp chịu thuốc của tôi và đa số chúng tôi không thể theo kịp được với ông Phủ hút thật tài tình. Ông ta kế đó dẫn chúng tôi viếng toà nhà villa kiểu Âu của ông ta. Một phòng tiếp khách lớn nằm ở trung tâm toà nhà. Ở giữa phòng khách này là một bànđỡ một cặp ngà voi thật tuyệtđẹp. Chung quanh là các tủ kính chứa đầy các vật bằng ngọc thạch và cácđồ mỹ nghệ đắt giá. Lúc này chúng tôi không thể không mỉm cười khi thấy các bức màn và giấy phủ trên tường, mà ý định là bắt chước mode mới nhất ở Paris. Nhưng ta không thểquá khắt khe về việc này và Paris thì quá xa Saigon.
Lúc trở ra, chúng tôi phải chiêm ngưỡng một bộsưu tập hình thú bằng sành đặt trên hòn non bộ nằm chính giữa mà chung quanh là suối nước chảy:đó là một trong các vật trang trí trong vườn với vài cây nhỏbé (bonsai) được làm từ Nhật Bản. Ông Phủ rất lấy làm hài lòng dẫn chúng tôi tham quan cơ sởtư dinh của ông ta và chúng tôi từgiã ông rất trễ, sau khi đã cámơn ông ta nồng nhiệt.”

hinh-1
Hình 1 – Một phòng trong dinh Đốc Phủ Đỗ Hữu Phương ở Chợ Lớn
(Nguồn: BáoLe Monde Artiste, Dimanche 27/7/1901)


Toàn quyền Paul Doumer (6), trong hồi ký về Đông Dương, có nói về Nam Kỳ và ông ĐỗHữu Phương như sau:
Ông Phủ ởChợ Lớn tiếp khách người Âu trong nhà ông, mời uống rượu Champagne và bánh petits beurres de Nantes, cho khách xem không mệt nghĩ một vài sản phẩm đặc thù lạ kỳ của người An Nam, và tổ chức, theo sự đòi hỏi ước muốn của khách, xem một tuồng hát của người bản xứ (dịch giả: đây chắc là hát bội). Đó là hình ảnh Nam Kỳ, một chút kiểu cách và bóp méo trong cách diễn tả của người ta và được dùng phổbiến, ngay cả những người ngoài cuộc không biết nhiều. Ông ĐỗHữu Phương đã đến Pháp nhiều lần; ông ta được tiếpđón ân cần và ông trởthành nổi tiếng ở Paris, từ nhà hàng Durand đến Café de la Paix. Ông ta là một trong những người phụng sự cho chúng ta trong những ngày giờ đầu tiên, là học trò ngày xưa của các nhà truyền giáo ky tô, vì thế được chúng ta ban tặng những huân chương và đạtđược sự giàu có”
Ông Đỗ Hữu Phương rất được biết trong giới thượng lưu và nghệ sĩ ởParis. Bạn ông, Charles Lemire có giao thiệp rộng rãi trong giới nghệ sĩ, nghệthuật đặc biệt là nghệ thuật sân khấu, kịch và opera ở Paris. Vì thế ta sẽ không lạ nếu Cléo de Mérode biết về ông Đốc Phủ Đỗ Hữu Phương.
Nhà hát Đông Dương ở hội chợ Paris, một phần có lẽ là dựa vào kiến trúc bên trong của tư gia ông ở ChợLớn. Trong dinh thự của ông ở ChợLớn có nhà hát tuồng, có đền thờ tổ theo phong cách Á đông của người Hoa. Mặc dù không có dự Hội chợ 1900 nhưng ông có ảnh hưởng qua sự giao tiếp rộng rãi với nhiều quan chức tổ chức vàđiều hành khu triển lãm Đông Dương như toàn quyền Paul Doumer, Charles Lemire.
Trong dinh thự ông còn có nhà hát, thỉnh thoảng dùng để diễn các tuồng hát bội. Nhà ông ngày nay trên đường Châu Văn Liêm (trước đó làđường Tổng Đốc Phương) không còn dấu vết gì đểlại. Nhưng qua các ảnh để lại ta có thể thấy sự bề thế của dinh thự ông. Một kiến trúc kiểu Tây nhìn từ phía ngoài nhưng bên trong là phong cách Á đông.

hinh-2
Hình 2: Dinh thự của ông Đỗ Hữu Phương dọc Kinh Xếp, Chợ Lớn


Nhà ông ĐỗHữu Phương ở Chợ Lớn là một toà tư gia to lớn rộng rãi, nằm dọc theo kinh Xếp. Sau này kinh Xếpđược lấp đi thành đường Tổng Đốc Phương (nay là đường Châu Văn Liêm). Theo ông Pimodan (1), ngườiđã viếng thăm nhà ông Phương, một phần tư gia ông Phương được Pimodan mô tả như sau
” Một vài cây số từ Sài Gòn là ChợLớn, một thành phố lớn của người bản địa, mà điểm thu hút chính là tư gia của một người An Nam giàu có, ông Đỗ Hữu Phương, mà từ rất lâu đãủng hộ và là bạn của chúng ta. Ông ta thực hiện một số chức năng hành chính mà chức vụ theo tiếng An Nam là “Phủ” tên mà ông ta được biết đến.
Con trai của ông, một sĩ quan dễ mến của quân đoàn Lê Dương, vừa mới tốt nghiệp trường võ bị Saint-Cyr, tiếp đón chúng tôi ở nhà cha, gồm các toà nhà riêng biệt xây xung quanh một sân rộng lớn hình chữ nhật.
Ở sâu trong toà nhà, nơi tiếp khách, trong một loại nhà sảnh lớn là nơi gia đình cư ngụ. Trên một bàn, ngự trịbức tượng Đức Phật, và cạnhđấy là những bức ảnh của các thành viên gia đình, giữa các bình ly và hoa.
Chung quanh là cácđồ vật đủ loại rất là khác nhau. Chỗ này là đồ nội thất cẩn xà cừ, cổ xưa và rất đẹp, các đồ mỹ nghệÂu châu không đáng kể, được mua rẻ tiền trên các kệ của một chợ nào đó; còn có một cái bàn thấp, trên đó có các trái cau, các lá trầu và vôi nhuộm màu hồng, mà người An Nam nhai chúng chung lại với nhau rất thỏa thích.
Trong một góc nhà, có một hộp âm nhạc to lớn phát ra từng nốt các giai điệuĐông Dương lạ kỳ. Các câu, bao gồm bốn hoặc năm nốt, đôi khi nhạt nhẽo, đôi khi kỳ lạ, đôi khi hài hoà, kế tiếp nhau mà không có phối hợp dựa trên một đơnđiệu. Nó trông giống như một giai điệu chơi bởi một đàn “orgue de Barbarie” (1) cũ, với các xi lanh mòn xóa đi một số nốt nhấtđịnh, thay đổi các giá trịcủa chúng tương đối với các nốt khác, và chỉ phát ra một cách biếm họa của giai điệu sơkhai.
Lúc này, các con gái của ông “Phủ” đến tham gia với chúng tôi. Đây là những thiếu nữ trẻ tuổi dễthương, được dạy dỗ tốt bởi các bà sơ và nói tiếng Pháp rất chuẩn. Họ kể cho chúng tôi một cách duyên dáng là họ đi dự, với y phục truyền thống, khiêu vũ của Toàn quyền và than phiền là họ không khiêu vũ được bởi vì đôi giày đế bằng gỗ của họ.
Chúng tôi đã biết chỗ ở, giờ thì chúng tôiđi tham quan dạo quanh những khu vườn trang trí công phu có óc tưởng tượng độc đáo nhất trong các phong cách làm vườn. Một số cây, thoả mãn trong kích thước nhỏbé của mình, có hình dạng nhưcác lọ bình, các động vật, ngay cả hình cơ thể con người được trang trí với các gương mặt, bàn tay và bàn chân bằng sứ. Những con búp bê như đang đi bộ giữa những con đường mòn dốc của ngọn đồi nhỏ, dưới bóng của các cây sim và cây cam nhỏ lùn phản chiếu trong các hồ nước nhỏhơn kích thước của chậu nước. Xa hơn một chút, trong một chuồng chim thật lớn, có các con vẹt đang cục tác; cạnh đó, là một con chim hét nói huyên thuyên tiếng Việt. Con chim này rất tốn tiền, giá rất cao và người ta đến coi nó vì tò mò. Còn về các tiết mục của nó, dường như nó có rất nhiều “gia vị”, và ngay cảcon vẹt Vert-Vert (2) sẽ đỏ mặt nếu nghe nó nói.”
Ghi chú (1) Orgue de barbarie là một loại đàn máy thường những người hát dạo dùng trên đường phố (2) Vert-Vert là con vẹt trong vở opera Vert-Vert của Offenbach.

hinh-3
Hình 3: Một góc vườn trong dinh tổng đốc Phương, trong hình có
các cây kiểng“bonsai”hình thú đúng với những gì ông Pimodan
và Pierre Barthélemy viết trong sách hồi ký của họ.


Sau khi ông ĐỗHữu Phương mất không lâu, con trai thứ hai của ông, Đỗ Hữu Vịsinh năm 1884 ở Chợ Lớn, phục vụtrong quân đội Pháp cũng đã hy sinh vào tháng 7 năm 1916 trên chiến trường thung lũng sông Somme trong đệnhất thế chiến. Đỗ Hữu Vịcũng là một phi công có tiếng, ông là người đầu tiên bay ởMaroc, Bắc Phi. Hiện nay, ở thành phốCasablanca vẫn còn có tên đường mang tên Đỗ Hữu Vị.
Khi toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut nhậm chức, ông Sarraut có mời ông Vị (lúc đó là trung úy không quân) trở lạiĐông Dương dẫn đầu toán nghiên cứu các đường thủy, sông ngòi xem xét khả năng có thể dùng thủy phi cơ phát triển vận tải thủy bộ và hàng không. Ông Vị đã đã viết báo cáo rất thú vị về vấn đềnày, trước khi ông quay lại Pháp khi chiến tranh thế chiến thứ nhất xảy ra (Echo Annamite,1920/04/22 (A1,N41). Ông là phi công gốc Việt duy nhất bay trên chiến trường Alsace-Lorraine và sáu phi vụ trên lãnh thổ Đức.

hinh-4
Hình 4 – Đại úyĐỗ Hữu Vị


Qua những tư liệuđể lại, ta có thể thấy cảgia đình ông Đỗ Hữu Phương, nhất là các con của ông, hoàn toàn bị ảnh hưởng theo văn hóa Pháp. Năm 1920, thì hài Đỗ Hữu Vị được cải táng, mang vềSaigon an táng bên cạnh mộ ông ĐỗHữu Phương trong khu cánh đồng mả(Plaine de tombeaux). Buổi cải tang có sự tham dự của nhiều người Âu và Việt trong đó có toàn quyền le Gallen và tướng Hirtzmann. Tờ báo “Tiếng Vọng An Nam”(Echo Annamite) số ngày 22/4/1920 có viết và tảcảnh như sau:
Hài cốt của ông Vị, từ cảng Marseille được chở trên tàu Porthos ngày 15 tháng 4 vừa rồi, sẽ đến Saigon vào ngày 9 hay 10 tháng 5. Lễ chôn cất sẽ diễn ra một ngày sau khi tàu cập bến vào lúc 4 giờ chiều.
Chúng tôi được biết là các đội lính danh dựsẽ có mặt dự đám tang của người đồng bào của chúng ta. Các đội lính bản địa An Nam tham dự với các đội lính Pháp. Quan tài sẽ được đặt trên vòng dây danh dự trang trí nghiêm trang với các cờ tam tài.
Đây là lộtrình của đám tang: động quan lúc 4 giờ chiều ở Messageries maritimes (bến nhà rồng ngày nay) – cầu xoay – quai de Belgique (bến Chương Dương) – đường Mac-Mahon (Nam Kỳ Khởi nghĩa) – đường Legrand de la Liraye (Điện Biên Phủ) –Route la Polygone (3 tháng 2) – cánh đồng mã nơi chôn cất gia đình ĐỗHữu Phương.
Tiểu sử
Đại úy ĐỗHữu Vị sinh tại Chợ Lớn vào năm 1884 – Con của ông bà ông Đỗ Hữu Phương, Tổng đốc huy chương danh dự bắc đẩu bội tinh (Legion d’honneur).
Ôngđược giáo dục ban đầu tại một trường tốt là trường Taberd – được gởi sang Pháp ở 8 năm tại Paris tại trường trung học Lycée Janson-de-Sailly, Yvelines và sau đó học tại trường Cao đẳng Collège St. Barbe.
Trúng tuyển thi vào trường võ bị Saint Cyr vào năm 1906. ở hạng khá tốt, ông là sinh viên cấp bậc trung sĩ và ra trường hai năm sau đó với chức vụ thiếu úy.
Tràn đầy sức sống, khinh rẻ các đơn vị đồn trú, ông yêu cầu đi phục vụtại miền phía Nam Algérie, nơi ông sống sót sau bốn năm trong cuộc chinh phục Ma Rốc, vừa đến ông ngay lập tức yêu cầu đi khỏi thành và đội quân tinh nhuệ Lê Dương (Légion étranger) của ông là một trong nhữngđội đầu tiên tiến vào thành phố Casablanca. Kế đó ông vàođội quân của tướng Brulard (*), nhưng không thấy cuộc sống này đủsôi nổi, ông gia nhập lực lượng không quân. Ông là sĩ quan không quân đầu tiên của Pháp bay trên nước Ma Rốc.
Trong cuộc chinh phục Ma Rốc, ông đã phụ trách một số nhiệm vụ nguy hiểm bao gồm: liên lạc viên với các quân đoàn Pháp đang bị bao vây ở miền nam Ma-rốc. Chính là từ những chiến dịch này, ông đã nhận được các huy chương ở Casablanca, Ma Rốc v.v…
Rất được quí trọng bởi tướng Lautey, một người bạn của cha mình, Tổng đốcĐỗ Hữu Phương. Trong một thời gian, Lautey đích thân chọn ông làm tùy viên thân cận của mình.
Tuy nhiên, với mong muốn hoàn thiện sự nghiệp hàng không của mình, ông trở về Pháp, ông đã đi khắp nước Pháp bằng máy bay, cùng với Trung úy Ménard.
Ông Albert Sarraut, khi trở thành toàn quyềnĐông Dương, đã triệu hồi ông từ Pháp về và đưa cho ông một nhiệm vụ tìm hiểu các tuyến đường thủy ở Đông Dương, để tìm hiểu việc sửdụng các thuỷ phi cơ. Những nghiên cứu này đã dẫn đến một báo cáo rất thú vị của Trung úy Đỗ Hữu Vị.
Sau khi ông Sarraut rađi, người kế nhiệm tạm thời, ông Van Vollenhoven đánh giá rất cao trung úy của chúng ta, đã dùng ông là sĩ quan tùy tùng thân cận. Trong khi đó chiến tranh đãđến và người đồng hương của chúng ta, coi thường những danh dựdanh vọng khác, ông xin có vinh hạnhđược tham gia chiến đấu ởPháp.
Khi ông vừa đến Paris, từ chối ở lại thủ đô, ông đã ngay lập tức đến mặt trận và chứng kiến những trận chiến khủng khiếp ở Flandre, dưới quyền của tướng Foch, nơi ông phục vụ như là một phi công lái máy bay ném bom. Ông liên tục bay ở Bỉ,trong vài tháng.
Sau các trận chiến ở miền Bắc, ông được gửi đến Alsace, nơi ông tham dự tất cả các chiến dịch: Mulhouse, Alkirch, v.v.. Ông là phi công người Việt duy nhất bay trên Alsace-Lorraine, trong 6 tháng ở đó, ông ta đã hoàn thành xuất sắc sáu nhiệm vụ ở Đức. Qua đó ông được tăng cấp chức đại úy (capitain) và huy chương hiệp sĩ bắc đẩu bội tinh (Légion d’honneur) và huy chương thập tựchiến tranh (Croix de Guerre).
Tại thời điểmđó, máy bay Caudron rất mạnh vừađược sáng chế, và lần đầu tiên được cài đặt các khẩu súng máy. Vì tính luôn tìm việc để phục vụ, đại úy Vị xin bay thử máy bay mới. Trong một chuyến bay, chiếc máy bay bị trục trặc ở độ cao 300 mét và rớt.Đại úy Vị đã bị kẹt và bất tỉnh dưới máy bay, vàđược kéo ra bởi một người phụ nữ sống ở Paris ngẫu nhiên có mặt tại hiện trường xảy ra tai nạn và ngay lập tức ông được vận chuyển bằng ô tô về Paris. Đó là một phép lạ mà ông không bị chết. Vẫn còn bất tỉnh trong vài ngày, chân sọ của ông bịbẹp và hàm dưới bị vỡthành miếng, ông đã được cứu bởi khoa học Pháp, một hàm nhân tạo đã được chếtạo ra cho ông.
Sau ba tháng hồi phục, chính phủ Pháp đưa ông trở về quê hương của mình. Nhưng đại úy Vị trả lời rằng lúc này chưa phải là thời điểmđể trở về, và tất cả mọi người phải ở lại vị trí của mình, bởi vì, như ông đã nói, “Tôi vừa là công dân Pháp và là công dân Việt và vì thế tôi phải làm gấp đôi bổn phận của tôi” (Je suis Francais et Annamite en même temps, je dois faire doublement mon devoir). Những từ cao cả cần được khắc sâu trong mỗi tâm trí.
Không còn có thể được sử dụng trong ngành hàng không, sau tai nạn khủng khiếp của mình, đại úy Vị yêu cầu được trở lại binh đoàn bộ binh cũ của mình. Than ôi!
Khi ông đứng dẫn đầu đội quân của ông, trong các trận đánh lớn khủng khiếp trên chiến trường vùng sông Somme (ở mặt trận miền Tây trong thếchiến thứ nhất) vào tháng Bảy năm 1916, lúc tấn công vào làng Dampierre, đã được phòng thủmạnh mẽ bởi quân Đức, ông đã bị bắn bởi hàng chục viên đạnở cự ly gần. Ông đã hi sinh trước chiến tuyến của kẻ thù và được chôn cất tại hiện trường của cuộc chiến. Được chôn ngay trên chiến trường là niềm an ủi lớn nhất của người chiến thắng!
Nhờ lòng tốt của ông Clemenceau, lúc đó là Chủ tịch Hội đồng, Bộ trưởng Bộ chiến tranh, việc chuyển thi hài vềnước đã được chấp thuận bởi một quyền đặc biệt từcác quy tắc thông thường.
Những người An Nam, cũng như gia đình của anh hùng liệt sĩ biết ơn ông Clemenceau qua cửchỉ có ý nghĩa này. Chính là cho đại úy Vị mà hôm nay chúng ta tưởng nhớ đến người đồng hương của chúng ta, một người xứng đáng của đât nước.
LƯU Ý. – Chúng tôi được gia đình Đỗ Hữu Phương ủy nhiệm để thông báo cho bạn bè của gia đình, các người quen bản địa và người Âu rằng việc chôn cất sẽ diễn ra một ngày sau khi tàu Porthos cập bến, lúc 4 giờ chiều, và không có gửi giấy cáo phó. Thông báo này thay thế cho cáo phó.
B. V. T.
(Bach Van Tham)
(Echo Annamite, Tiếng vọng An Nam, 1920/04/22 (A1,N41)).
(chú thích: (*) Tướng Jean Marie Brulard là vị tướng gan dạ nổi tiếng của Pháp tham dựthế chiến thứ nhất và các trậnđánh ở Bắc Phi, eo biển Dardanelles)

hinh-5
Hình 5: Quang cảnhđại lộ Tổng Đốc Phương (Châu Văn Liêm ngày nay) nhìn từBưu điện Chợ Lớn (giữa phía dưới hình). Toà nhà của ông Phương ở phía trái trong lùm cây sau ngã ba đường Đồng Khánh (Trần Hưng Đạo ngày nay) và đại lộ Tổng Đốc Phương (Châu Văn Liêm).

Trong một bài khácở Écho Annamite (15/05/1920),đám tang của Đỗ Hữu Vị ởSaigon được tả như sau. Bài viết ký tên B.V.T (Bạch Văn Thắm) lý tưởng hóa con người và sựnghiệp ông Vị, làm người đọc ngày nay nhận ngay ra rằng thật ra ông ta chỉ là người Pháp chứ không còn là người Việt.
Đám tang khởi động
Thi hài được mang xuống từ tàu Porthos hôm qua lúc 10 giờ sáng dưới sự hiện diện của cả gia đình, và một sĩquan cảnh sát; quan tài được đặt trong một nhà nguyện.
Vào đúng 16 giờ bắt đầu lễ tang; đám tang di chuyển ở giữa dòng dân tụtập về đông đúc đáng kể. Một bàn thờ di động trênđó được đặt một chiếc máy bay nhỏ với hình phi công ĐỗHữu Vị, dẫn đường. Tiếp sau là các bàn thờ khác và một chuỗi dài các vòng hoa điếu tang gửi bởi rất nhiều hội đoàn của các hội bản địa, trong số đó có gia đình Hoàng Phú Trọng, các quan của tỉnh Hà Đông, gia đình Đào Hương Mai v.v .. đã hùng hồn thể hiện sự tham gia của chúng ta trong lễ tang gia đình.
Đólà các cống hiến nhỏ tỏ lòng kính trọng, mà xã hội An Nam mangđến cho một trong những người tham gia vào công trình cứu độ giải thoát và giải phóng của chúng ta.
Đoànđại biểu từ tất cả các trường ở Sài Gòn đi ngay trước xe tang lễ, đó là một xe kéođại bác của pháo binh, xe được choàng hoa với đầy các cây xanh, hoa, và được trang trí cao cảnhất bằng các lá cờ tam tài. Cỗ quan tài biến mất dưới các vòng hoa điếu và hoa tự nhiên. Khi nhìn thấy quan tài, chứa di hài còn lại của người mà chúng ta biết đầy sức sống và nhiệt tình, gợi lại trong tâm hồn chúng ta về sự hy sinh vô lượng mà chúng ta đã trả giá trong năm năm chiến tranh.
Sự vinh quang thừa nhận sự bất tử của những anh hùng của chúng ta, đều được làm bằng nước mắt và máu.
Tất cả mọi người đứng cúi đầu khi xe tang đi ngang qua. Gia đình Đỗ Hữu Phương, đại diện bởi Đại tá Chan (Đỗ Hữu Chẩn), chủ tịch Tri (Đỗ Hữu Trí) và ông Thinh (Đỗ Hữu Thịnh), người chi phí tài chánh cho đám tang, đi theo ngay sau xe tang, với một cam chịu nhẫn nhục cao quý với đấng Tạo hóa, đi trên con đường đau khổ nhưngđầy vinh quang, con đường mà người anh của họ được trở về với quê hương, đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Chính quyền dân sự và quân sự được đại diện bởi ông Thống đốc Le Gallen và tướng Hirlzmann: nhiều phái đoàn của đủ loại các tổ chức, hội người An Nam, các Hội đồng dân cử, các quan chức đến từmiệt xa, và một đám đông người châu Âu và người bảnđịa cũng đến dự đám tangđể làm nghĩa vụ cuối cùng của họ với người đồng bào của chúng ta.
Các ban nhạc chơi các bài hát tang lễ, các binh lính của đoàn bộ binh thuộc địa và dân quân địa phương đi kèm hai bên đoàn lễ tang, làm hàng rào danh dự cho người có một vị trí với huy chương danh dựquân sự rất cao. Bên trên đámđông, trong bầu trời trong xanh, hai chiếc máy bay của phi đội Sài Gòn của chúng ta, thao diễn trong ánh sáng rực rỡ, nhắc nhở rằng người đồng hương của chúng ta là một trong những phi công quân sự đầu tiên,đã phục vụ nước Pháp.
Lộ trình từbến tàu đến nơi chôn cất giađình Đỗ Hữu Phương ởtrong cánh đồng mã (Plaine des tombeaux) màđám tang đi qua, ở tốc độchậm của sáu con ngựa kéo chiếc xe tang, lâu hơn một tiếng đồng hồ.
Tại mỗi nút giao lộ, đều có một đámđông kính cẩn và cuối chào; người ta đến cánh đồng an nghĩ bao quanh bởi cây cối xanh tươi, nơi có một đội cảnh sát nghiêm trang giữ những người tò mò trong một trật tự thật hoàn hảo.
Cỗ quan tài mang trên hai đòn hỗ trợ; nó được bao bọc bởi cờ tam tài (cờ Pháp), vải đẹp nhất mà có thể bao phủ trên thi hài của một người yêu nước, lúc này là lúc ông Le Gallen phát biểu.
Đólà những gì ít ỏi còn lại của người chiến sĩ Đỗ Hữu-Vi. Nhưng linh hồn vĩ đại của mình, ngọn lửa ấm lòng yêu nước của ông và cho ông hoàn thành hai nhiệm vụ của mình cho hai quê hương, đang lượn bất tử trênđám tang lớn mà Pháp và Đông Dương đang cử hành làm cho ông.
Đại úy Guyomar sau đó đi lên đọc diễn văn, và với đầy hứng khởi vềnhững hy vọng chung và một tinh thần hy sinh quên mình của những người quân nhân như ông và đại úy Vị, ông tuyên bố lời vĩnh biệt cao quý mà người dự đều cảm nhận được sự hy sinh anh dũng của những người đấu tranh trên chiến trường vĩnh hằng chống lại các cám dỗ vật chất vô thường và các kẻ thù .
Người hùng biện thứ hai là tướng Hirtzmann, với giọng nói đầy nam tính dõng dạc, kể lại sự nghiệp của người chiến sĩ thanh cao của chúng ta. Thật là đẹp, tình huynh đệ trong các binh chủng quân đội!. Một đại úy được một tướng lảnh ca ngợi thán phục! Sự nghiệp sáng chói của một người đồng bào của chúng ta đã được phát họa lại trong tất cả mọi chi tiết ngoại vi nhỏ nhất và trong mọi tình huống đã nói lên tinh thần anh dũng của người anh hùng. Trước tiên là ở Nam Algerie, những chiến dịch ở Maroc, những công tác ở Đông Dương , sau đó sau tuyên chiến chiến tranh thế giới thứ nhất, những trận đánh kinh khủng mà tính khí anh dũng của đại úyĐỗ Hữu Vị thích ứng rất tựnhiên.
Lúc đó là thời điểm long trọng, cần có sựcống hiến của tất cả các người con của đất nước, để đi nhanh ra đến chiến trường. Đó là chiến trường danh dự cho những ai đã ngã xuống. Hôm nay chúng ta nhặt những gì còn lại của thi thể ông đã trở thành thiêng liêng vì sự chết cho chính nghĩaở nơi đất thiêng liêng ấy. Và qua sự tiếp xúc của hài cốt, với vùng đất sinh thành của mình, vùng đất này cũng trởthành kính trọng. Đó là, theo chúng tôi biết, ý nghĩa của diễn văn của tướng Hirstmann.
Ông Le Gallen, trong một vài lời nhanh ngắn mang ra ánh sáng cho ta thấy về những công lao của giađình cao quý Đỗ Hữu Phương, gởi đến Đại tá Chấn, ngườiđại diện dòng nam gia đình họ Đỗ. Bắt đầu từ người em út, Đỗ Hữu Vị, sự nghiệp quân sự, mà đại tá Chấn may mắn đã được cái chết tha cho, hôm nay mang lại một hào quang vẽvang, tuôn phát ra từ quan tài này. Sự bất tử được hứa hẹn cho những ai ngã xuống vì chính nghĩa. Lời phát ngôn đầy hy vọng này chắc làm giảm đi sự khổ đau của gia đình, vì lòng tin này mà máu của những người ngã xuống là hạt giống sinh sản dồi dào cho cuộc sống.
Sau sự tỏ lòng thương tiếc thành kính, và lời vĩnh biệt của người đại diện chính quyền, kính cẩn chào ĐỗHữu Vị, và với cử chí có ý nghĩa, mỗi người tham dự nghiêng người kính cẩn, rút đi trái tim đau buồn, với lòng đầy biếtơn và hy vọng trong tương lai đất nước của chúng ta mà Đỗ Hữu Vị đã cống hiến nhiều đểnó trở thành hạnh phúc và tựdo hơn.
B. V. T.
(Bạch Văn Thắm)
Gia đình ĐỗHữu Phương cũng không quên gốc gác Minh Hương của mình. Hội quán Nghĩa Nhuật ở Chợ Lớn được xây dựng với sự giúp đỡ của gia đình ông. Ngày nay không còn dấu tích gì về phần mộ gia đìnhĐỗ Hữu Phương và toà nhà biệt thự sang trọng to lớn của ông và gia đình ở Chợ Lớn trên con đường mang tên ông một thời, tất cả đều không còn. Gầnđó ngay trong khu trung tâm phố xưa của Chợ Lớn ngày nay có một con đường mang tên người cùng thời với ông, cũng có quốc tịch Pháp như ông, nhưng khác với ông, đã bỏhết tâm trí, tài sản sự nghiệp cho công cuộc canh tân con người vàđất nước Việt Nam, mặc dầu phải trả giá rất đắt và nhiều tai họa cho bản thân vào thờiđó nhưng đã được lịch sử ghi nhớ và kính phục: ông Gilbert Trần Chánh Chiếu, chủ bút hai tờ báo Nông Cổ Mín ĐàmLục Tỉnh Tân Văn, những tờ báo quốc ngữ đầu tiên đầu thể 20 có mục đích canh tân con người và xã hội Việt Nam trong giai đoạn chuyển tiếp giao thời giữa Cựu trào và Tân trào.

2
hinh-6b
Hình 6 – Biệt thự của Đốc phủ sứ ĐỗHữu Phương đầu thế kỷ 20
và cùng vị trí ngày nay (2014), ảnh Tim Doling


Nguyễn Đức Hiệp


Tham khảo:


  1. Antoine Brébion, Dictionnaire de bio-bibliographie générale, ancienne et moderne de l’Indochine française / A. Brebion ; publié après la mort de l’auteur par Antoine Cabaton, Société d’éditions géographiques, maritimes et coloniales (Paris),: 1935
  2. Pimodan, Claude de Rarécourt de la Vallée (1859-1923 ; comte de), Promenades en Extréme-Orient (1895-1898) : de Marseille à Yokohama, Japon, Formose, îles Pescadores, Tonkin, Yézo, Sibérie, Corée, Chine / Le Commandant de Pimodan, H. Champion (Paris), 1900.
  3. Théophile de Lamathière, Panthéon de la Légion d’honneur. Editeur : E. Dentu (Paris), 1905
  4. Hứa Hoành, Các giai thoại Nam Kỳlục tỉnh, http://sachxua.net/forum/index.php?topic=10090.0;wap2
  5. Pierre Nicolas, Notices sur l’Indo-Chine, Cochinchine, Cambodge, Annam, Tonkin, Laos, Kouang-Tchéou-Ouan, publiées à l’occasion de l’Exposition Universelle de 1900 sous la direction de M. Pierre Nicolas, commissaire de l’Indo-Chine, impr. de Alcan-Lévy (Paris), 1900
  6. Paul Doumer, Indo-Chine française (souvenirs), Vuibert et Nony (Paris), 1905
  7. Pierre Barthélemy, En Indo-Chine 1894-1895: Cambodge, Cochinchine, Laos, Siam méridional, E. Plon, Nourrit et Cie (Paris), 1899.
  8. Saigon Republicain, 1/5/1889, A2, N102.
  9. Écho Annamite, 22/04/1920 (A1,N41)
  10. Écho Annamite, 15/05/1920 (A1,N50)
  11. Nguyễn Lê Tuyên, Nguyễn Đức Hiệp, Quan hệ văn hoá Pháp-Việt đầu thế kỷ 20 qua sự kiện Triển lãm Toàn cầu 1900, http://khoahocnet.com/2015/01/03/nguyen-le-tuyen-nguyen-duc-hiep-quan-he-van-hoa-phap-viet-dau-the-ky-20-qua-su-kien-trien-lam-toan-cau-1900/
  12. Annuaire général de l’Indo-Chine française, 1901, Part 2, 1905, 1906, 1908.