Cập nhật lúc 18h16, ngày 26/09/2007
NGÔ ĐỨC THỌ
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
1. Để thực hiện chủ quyền quốc gia trên toàn lãnh thổ, các nước trên thế giới nói chung đều thực hiện quản lý nhà nước theo một hệ thống địa danh bao gồm những địa danh có tính pháp định và những địa danh do người địa phương quen dùng. Địa danh nói chung bao gồm cả tên núi, tên sông, tên cầu đường, bến đò, cửa biển, các trạm tuần tra kiểm soát v.v… Nhưng đặc biệt quan trọng là hệ thống địa danh hành chính gắn liền với từng vùng lãnh thổ do nhà nước hoạch định. Tuy nhiên, do sự hình thành mới của các khu dân cư, các khu vực sản xuất nông lâm ngư nghiệp – nói chung là do sự phát triển của kinh tế, văn hóa và do yêu cầu khác của chính trị, quân sự v.v.., sau một thời gian nhất định những đơn vị hành chính đó thường có những thay đổi hoặc hoạch định lại. Sự thay đổi càng nhiều, thời gian dồn lại càng lâu xa thì việc nghiên cứu xác định các địa danh trong lịch sử càng trở nên khó khăn, phức tạp.
Không ngoài thông lệ chung, các lớp địa danh trong lịch sử nước ta trải qua các triều đại từ Ngô, Đinh, Tiền Lê… cho đến triều Nguyễn cũng đã thay đổi rất nhiều lần. Từ Cách mạng Tháng Tám 1945 đến nay mới hơn 50 năm mà các địa danh cũng nhiều thay đổi. Còn phải kể thêm các lần sửa đổi địa danh ở các tỉnh Bắc Bộ và Nam Bộ dưới thời Pháp thuộc và các tỉnh miền Nam dưới thời chính quyền Sài Gòn.
Tình hình đó khiến cho việc nghiên cứu lịch sử chung của dân tộc cũng như lịch sử các địa phương, các chuyên ngành (kể cả chuyên ngành quân sự học, lịch sử ngoại giao v.v…) gặp rất nhiều khó khăn. Khi gặp các địa danh cổ xưa, ngôài một số ít được biết chính xác hoặc may mắn tra cứu được, người nghiên cứu phần nhiều đành chịu bỏ trống việc xác định địa danh.
Vì lý do đó, nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam và nước ngoài từ trước đến nay đã có những cố gắng bền bỉ có thể phát biểu trên các tạp chí khoa học, trong các công trình liên quan về một hoặc một số vấn đề địa danh học Việt Nam. Gần đây cũng đã xuất hiện một vài cuốn như Từ điển địa danh Hà Nội hoặc Sổ tay địa danh Việt Nam. Những sách như vậy nói chung rất có ích cho công việc chung, nhưng một mặt khác nói lên sự cần thiết phải có một công trình khoa học ở tầm cỡ quốc gia mới có thể đáp ứng được yêu cầu tra cứu hiện nay cũng như cho nhiều thế hệ sau nữa. Chúng ta đang cố gắng làm tất cả những gì để gìn giữ truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc, nhưng không có một vấn đề nào của nó lại không gắn liền với hai đối tượng là đất nước và con người. Tôi nghĩ rằng tất cả những gì có thể làm được, qua nghiên cứu để đi đến những nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn, sâu sắc và khoa học hơn về 2 đối tượng đó đều là hết sức cần thiết để thực hiện đường lối xây dựng văn hóa như Nghị quyết 5 của TƯ Đảng đã định hướng. Vì vậy tôi rất tán thành chủ trương của Viện trong thời gian tới sẽ tổ chức biên soạn Từ điển địa danh Việt Nam như đã được nêu lên trong lời phát biểu của Tân Viện trưởng và hy vọng việc chuẩn bị sớm hoàn tất để có thể bắt tay thực hiện công trình.
2a. Hiện nay có thuận lợi là Viện ta đang thực hiện công trình dịch chú để xuất bản bộ sách Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí.
Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí (ĐKĐD) là một công trình địa lý học rất đồ sộ và có giá trị nhiều mặt, nhưng đến nay chúng ta mới có điều kiện tổ chức dịch thuật, chú giải và sẽ chính thức xuất bản lần đầu cùng với toàn văn chữ Hán và đầy đủ 314 bản đồ màu. Học giả Việt Nam chú ý sớm nhất và khai thác rất có hiệu quả ĐKĐD thì phải kể đến Nguyễn Văn Huyên trong cuốn Địa lý hành chính Bắc Ninh, nhưng sách này chỉ mới được công bố vào năm ngoái, trong khi đó thì GS Hà Văn Tấn hơn 30 năm trước đã tham khảo sử dụng nhiều tư liệu trong ĐKĐD trong khi thực hiện công trình chú giải Ức Trai Dư địa chí.
Năm 1970, trong cuốn Tìm hiểu kho sách Hán Nôm T.1, tuy không có mục riêng cho ĐKĐD nhưng cố học giả Trần Văn Giáp đã có một đoạn nói về sách này khi liên hệ với các tài liệu sau Đại Nam nhất thống chí. Trần Văn Giáp đã dẫn tư liệu trong Đại Nam thực lục ghi việc về tháng 4 năm Đồng Khánh thứ 2 (5-1887):
“疆 界 彙 編 書 成 ( 凡 七 卷 并 圖 一 幅 ) 准 董 理 黃 有 秤 實 授 吏 部 侍 郎 銜… 尋 准 有 秤 充 國 史 館 纂 修”
Cương giới vựng biên như thành (phàm thất quyển, tịnh đồ nhất bức). Chuẩn Đổng lý Hoàng Hữu Xứng thực thụ Lại bộ thị lang hàm… Tầm chuẩn Hữu Xứng sung Quốc sử quán toản tu/ Sách Cương giới vựng biên làm xong (gồm 7 quyển và 1 bức vẽ bản đồ). Chuẩn cho Đổng lý Hoàng Hữu Xứng được thực thụ hàm Thị lang bộ Lại… Sau chuẩn cho Hững Xứng làm Toản tu Quốc sử quán” (Đệ lục kỷ, q.6) Không thấy nói gì thêm về việc Sử quán biên soạn sách ĐKĐD. Nhưng sau khi hoàn thành bộ Đại Nam cương giới vựng biên, cả Hoàng Hữu Xứng và tập thể biên soạn được ban thưởng như Thục lục đã ghi, Hoàng Hữu Xứng được sung chức Toản tu ở Sử quán thì việc Hoàng Hữu Xứng được giao trách nhiệm thực hiện công trình này là một điều hợp lý. Công trình biên soạn này, như tên sách đầy đủ được ghi đầu mỗi tập là: 同 慶 敕 製 御 覽 地 輿 志 Đồng Khánh sắc chế…, nghĩa là vua Đồng Khánh sai làm, tức là một công việc rất quan trọng, nhưng Thực lục, bỏ sót không ghi thì phải coi là một thiếu sót. Nhưng lúc đó bộ sách chỉ mới được giao nhiệm vụ biên soạn, và theo cách chép Thực lục có thể nghĩ rằng đến khi sách hoàn thành sẽ truy ghi các chi tiết về sự khởi đầu. Nhưng bấy giờ là thời buổi “quốc phá gia vọng”, nhưng trang cuối cùng của bộ Thực lục triều Nguyễn cũng khép lại vào giai đoạn này. Sau đó các sách vở giấy tờ của triều đình thất tán mất mát dần, mười phần không còn một, thì nhưng chỉ dụ, tấu văn, thư khải liên quan đến bộ sách này tuy vẫn còn hy vọng phần nào nhưng cũng rất ít khả năng tìm lại được.
Nguyên bản chép tay ĐKĐD gồm 27 tập được lưu trữ tại Nội các triều Nguyễn. Chính với nguyên bản đó mà khoảng những năm đầu thế kỷ XX (chưa rõ chính xác vào năm nào), Viện Viễn Đông Bác cổ tại Hà Nội đã được phép mượn tổ chức sao chép ra bản A.577 hiện lưu giữ tại Viện Hán Nôm nhưng chúng ta đã biết. Còn số phận bản gốc của triều đình Huế như thế nào thì hiện còn chưa rõ. Tuy nhiên quâ thông tin mà tôi theo dõi được bản ấy vẫn được an toàn trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến 1947 mà đến năm 1967 vẫn hiện diện ở Đà Lạt: Đó là năm Tiến sĩ Muriel Texier đã được đọc nó trong kho tài liệu của triều đình Huế do chính quyền Sài Gòn di chuyển từ Huế vào(1). Không rõ nó có bị mất mát trong các lần di chuyền từ 1975 đến nay hay còn được lưu giữ ở đâu đó mà chúng tôi chưa được biết. Có lần, nghe có tin ĐKĐD hiện diện ở Ôxtralia, bằng con đường thư điện tử trên Internet, tôi đã liên hệ hỏi Tiến sĩ Andrew Goseling và đã có phúc đáp là ở Ôxtralia không có sách ấy. Trong khi chờ đợi, tôi mong quý vị gần xa mách bảo cho những tin tức nếu có về bộ bản gốc sách này.
Học giả nước ngoài thì sau các nhà nghiên cứu ở VĐBC đến các học giả Nhật Bản. Từ năm 1933 (Chiêu Hòa 8) người phụ trách Đông Dương văn khố (Toyo Bunko) ở Tokyo Nhật Bản, qua các bài viết của Matsumoto, đã biết được những thông tin về bộ sách mà họ lập tức đánh giá ngay là “có vai trò cực kỳ quan trọng” này. Qua nhiều liên hệ với E.Gaspardone, Codès, cuối cùng đến năm Chiêu Hòa 13 (1938) họ đã thực hiện được việc nhờ một số người thạo việc tại Hà Nội sao chép cho đầy đủ một bản sao ĐKĐD từ bản A.577. Riêng về phần các bản đồ thì việc sao chép có thể là không được thành công lắm, cho nên họ đã phải trở lại Hà Nội để đề nghị cho chụp ảnh bằng bản kính. Bản kính chụp tốt, nhưng vì kỹ thuật đương thời không chụp được ảnh màu, nên người Nhật vẫn rất lấy làm tiếc về việc đó. Vài năm sau khi Toyo Bunko có được bản sao, họ đã tính đến việc xuất bản nguyên văn ĐKĐD. Và 2-1945, chỉ mấy tháng trước khi kết thúc chiến tranh thế giới lấn thứ II bộ ĐKĐD đã được xuất bản bằng nguyên văn tại Tokyo. Riêng các bản đồ được tách sthành phần riêng gồm 2 sách (Thượng, Hạ), khổ 20 x 24cm, chữ trong bản đồ chụp lên khá rõ, nhưng một số bản bị nhòe mờ, soi kíp lúp rõ hơn, nhưng cũng khá khó khăn, đó là do hạn chế kỹ thuật đương thời.
2b. Về thời điểm biên soạn của ĐKĐD:
Thoạt đọc qua tên sách dễ nghĩ ngay là sách được làm xong hẳn trong đời vua Đồng Khánh (1886-1888). Nhưng nếu tính từ tháng 4 năm Đồng Khánh 2 (5-1887), nghĩa là từ khi HHX được điều về làm Toản tu ở Quốc sử quán, cho đến ngày Đồng Khánh mất (18-1-1888) thì thời gian chỉ có chưa đầy 8 tháng: Một thời gian ngắn ngủi như vậy, không ai có thể làm xong được một bộ sách đồ sộ như ĐKĐD. (Trước đó, trong bài biểu dâng sách và cả trong sách Đại Nam cương giới vựng biên không thấy nói đến một bản thảo nào có thể liên hệ xa xôi với ĐKĐD). Đối với một bộ sách như ĐKĐD việc tổ chức biên soạn không thể nào đơn giản được: Sau khi nhận sắc chỉ của vua giao nhiệm vụ biên soạn tất phải tiến hành hàng loạt công việc như soạn thảo quy tắc chung, thông báo cho giao việc cho các quan đầu tỉnh kê khai phần của tỉnh mình theo các biểu mẫu quy định thống nhất cho tất cả 26 tỉnh từ Bình Thuận đến Cao Bằng v.v.. Các quan tỉnh muốn soạn được bản khai đó không thể không họp bàn với các quan phủ huyện để có các bản khai từ cấp dưới lên, tổng hợp tu chỉnh rồi mới gửi về triều đình. Ban biên soạn tại Quốc sử quán tất phải kiểm tra để bổ sung, chính lý tư liệu, tu chỉnh văn phòng cho nhất quán v.v… Phần chính văn đã khá phức tạp, lại còn việc biên vẽ các bản đồ v.v… Nói tóm lại với lượng công việc mà chúng ta có thể hình dung ra phần nào, cho dù số người tham gia chính phụ có đông đến vài chục người, công việc cũng không thể làm xong trong dăm bảy tháng được. Và như vậy có nhiều khả năng có thể khẳng định vua Đồng Khánh chưa bao giờ được “ngự lãm” bộ sách sẽ mang niên hiệu của ông. Khả năng thuận lợi nhất mà ta đã kịp trình lên cho ông được một vài tập nào đó may mắn đã có chuẩn bị từ trước. Nhưng khả năng này rất mong manh nếu không muốn loại bỏ hẳn đi. Vả lại, ngay cả ngày nay chăng nữa, nếu có một bộ sách như vậy thì cũng phải soạn thảo hoàn chỉnh rồi mới trình lên cấp cao, chứ không phải tiện đâu dâng đấy được. Nếu vua Đồng Khánh không chết sớm thì mấy chữ “Đồng Khánh sắc chế ngự lãm…” sẽ được hiểu là “vua Đồng Khánh sai làm và đích thân ngự lãm”, nhưng vì lý do nói trên, nên hiều là: Vua Đồng Khánh sai làm để ngự lãm (hoặc là… để vua ngự lãm). Hiểu (và dịch) thêm một chữ để thì mới khỏi hiểu lầm và hợp với thực tế: vua Đồng Khánh sai làm để xem, nhưng có thể chưa kịp xem. Toàn bộ ĐKĐD chỉ có thể hoàn thành sớm nhất là trong những năm đầu đời Thành Thái. Các chứng cớ chữ huý trên văn bản cũng cho thấy điều đó, như:
- Thôn Hội Vũ (會 武), tên cũ là thôn Chiêu Hội (@ @) sau năm 1890 kiêng chữ Chiêu @ (tên huý vua Thành Thái Nguyễn Phúc Chiêu) (x. NCCH, tr.159), đổi là thôn Hội Vũ.
- Thôn và xã Quang Chiêm (光 瞻): Từ đời Đồng Khánh trở về trước là xã Quang Chiêu (光 昭); sau năm 1890 kiêng huý vua Thành Thái đổi là Quang Chiêm. Văn bản ĐKĐD (T.14, Nghệ An tỉnh) tại vị trí này đã đổi thành Quang Chiêm. - Tổng Chân Lại huyện Tứ Kỳ phủ Ninh Giang chữ Chân 真 (đồng âm với chữ Chân, tên húy của cha vua Thành Thái) (膺 真) Ưng Chận, NCCH, tr.159) được chép bớt 1 nét bên phải 真 -> 真 (bớt 1 nét bên phải)
- Hoàng tử Trần Quốc Chẩn (陳 國 (王真)): Chữ Chẩn (王真) có thiên bàng chữ Chân (真),được chép bỏ phần trên, thành giống như chữ Kỳ (王真=>琪).
(Nhiều nơi khác chữ Chân Chiêu lại được viết nguyên dạng).
Điều đó cho thấy rằng bộ ĐKĐD được vua Đồng Khánh sai làm từ tháng 5-1887 và được hoàn thành trong khoảng thời gian từ đó cho đến mấy năm đầu đời Thành Thái.
3. Nói riêng đối với việc nghiên cứu địa danh Việt Nam, có thể coi ĐKĐD là một đầu cầu rất quan trọng. Những ai quan tâm đến đề tài này đều dễ nhận ra một điều là: các sách Đại dư chí trong di sản của chúng ta phần nhiều chỉ ghi đến cấp huyện. Những sách địa phương chí toàn quốc (hoặc miền) mà có ghi hệ thống địa danh đến cấp xã thôn thì vẻn vẹn chỉ có mấy cuốn. Cổ nhất mà văn bản hiện còn thì có Ô Châu cận lục của Dương Văn An cho ta một hệ thống địa danh đời Mạc của miền đất ngày nay thuộc ba tỉnh Bình Trị Thiên. Cả Lê sơ, Lê Trung hưng và triều Tây Sơn không có cuốn nào. Triều Nguyễn có cuốn Các trấn tổng xã danh bị lãm: tuy không phải là một sách Địa dư chí thực thụ, nhưng sách này cho ta một hệ thống địa danh hoàn chỉnh của các phủ huyện từ Nghệ An (bao gồm cả Hà Tĩnh) trở ra. Kế đến là Bắc Thành địa dư chí của Lê Chất cho ta địa danh của các tỉnh Bắc Thành đời Minh Mệnh. Rồi đến ĐKĐD. Tất cả chỉ có như vậy. Và tất nhiên chúng ta hiểu rõ những sách đó thật quan trọng trong vai trò làm bàn đạp để một mặt ngược dòng thời gian tìm đến các lớp địa danh triều Nguyễn và lên trước nữa; mặt khác, từ ĐKĐD chúng ta có điều kiện tiếp cận với các lớp địa danh hiện đại vào những năm đầu thế kỷ XX, khi bắt đầu có những bản đồ toàn quốc bằng tiếng Việt và tiếng Pháp.
3. Trong khi chưa lập đủ bảng tập hợp tất cả 26 tỉnh xuất phát từ hệ thống địa danh của ĐKĐD, chúng tôi kèm theo báo cáo này một bản thống kê tên xã thôn thuộc một tỉnh (Hải Dương cũ, bao gồm một số huyện xã của TP Hải Phòng nay) thay đổi vì lý do kiêng huý triều Nguyễn.
Qua thống kê này có thể nêu lên một số nhận xét như sau:
a/ Trong tổng số 115 tên xã thôn thay đổi trong triều Nguyễn, số thay đổi vì lý do kiêng huý là 72 trường hợp, chiếm tỷ lệ 63%. Tỷ lệ đó có thể lên xuống đối với cá tỉnh khác, nhưng qua đó cho chúng ta thấy có sự thuận lợi rất lớn trong việc vận dụng bảng chữ huý để nhận diện tên xã thôn thay đổi qua từng lớp địa danh.
b/ Trong số 72 xã thôn đổi tên vì lý do kiêng huý triều Nguyễn, thì:
- Số thay đổi vào đời Gia Long là ít nhất (1 chữ, 3 xã thôn) - Số 1-3 trong TKê.
- Số thay đổi vào đời Minh Mệnh nhiều hơn đời Gia Long chút ít (2 chữ, 4 xã thôn) Số 4-7 trong TKê.
- Số thay đổi vào đời Thiệu Trị là nhiều nhất (5 chữ, 34 xã thôn), chiếm đến gần 50% số xã thôn đổi tên. Điều này cũng phù hợp với nhận xét chung là lệ kiêng huý ở đời Thiệu Trị là phức tạp nhất. Số 8-42.
- Số thay đổi vào đời Tự Đức ít hơn đời Thiệu Trị, chiếm khoảng 30% trường hợp đổi tên vì kiêng huý. Số 43-67.
c/ Trong số thay đổi vì lý do khác, chúng ta có thể nhận ra một số trường hợp đổi tên vì lý do tu từ, như Máu Bộ (血(trên)卯(dưới) 部) đổi thành Châu Bộ (朱 部), Ỷ Khê 猗 溪 đổi thành Nha Khê (牙 溪); Thạch Cốt (石 骨) đổi làm Thạch Hào (石 豪) v.v… Nguyên nhân có nhiều, nhưng có đặc điểm chung là hầu hết người ta chỉ đổi một chữ, còn một chữ vẫn được giữ lại trong tên mới. Điều đó tạo một thuận lợi rất đáng kể cho người nghiên cứu xác định địa danh: Trong một vùng hẹp cùng huyện cùng tổng mà các xã liền kề phần lớn đã biết, thì việc nhận diện một xã thôn chỉ đổi khác 1 trong hai chữ là có thể xác định được. Cũng có trường hợp đổi hẳn cả hai chữ như Nam Triệu (南 兆) đổi thành Đường Sơn (堂 山), nhưng loại này tương đối ít gặp.
Trên đây là kết quả bước đầu của chúng tôi trong việc xuất phát từ hệ thống địa danh của ĐKĐD, vận dụng chìa khoá chữ huý để bóc tách và so sánh các lớp địa danh triều Nguyễn.
Chú thích:
1. Muriel Texier – Le mandarinat au Vietnam au XIX siècle BSEI, NS, XXXVII, 3-1962.- Dẫn theo: R.B. Smith: Sino – Vietnamese sources for the Nguyen period: anintroduction. Bulletin of the School of Orientan and Afican Studies, University of London. Vol. XXX. Part. 3, 1967. Bản dịch của Đỗ Văn Anh. S. Thư viện tập san, số 16-17, 1972.
THỐNG KÊ TÊN XÃ THÔN THUỘC TỈNH HẢI DƯƠNG
THAY ĐỔI VÌ LÝ DO KIÊNG HUÝ TRIỀU NGUYỄN
(ĐKĐD: Đồng Khánh địa dư chí)
(BTĐDC: Bắc Thành địa dư chí)
(CTTX: Các trấn tổng xã danh bị lãm)
TT | Chữ huý | Đd Đồng Khánh & Tự Đức (ĐKĐD) | Đ d Minh Mệnh (BTĐD) | Đ d Gia Long (CTTX) |
1 | LAN | Kim Quan | Kim Quan | Kim Quan/ < -- Lan |
2 | LAN | Quan Đình | Quan Đình | Quan Đình/ < -- Lan |
3 | LAN | Quan Khê | Quan Khê | Quan Khê/ < -- Lan |
4 | ĐẢM | Cổ Chẩm | Cổ Chẩm | Cổ Đam |
5 | CẢO | Nhật Tảo | Nhật Cảo | Nhật Cảo |
6 | CẢO | Lệ Tảo | Lệ Bạo | Lệ Cảo |
7 | CAN | Hu Trì | Cán Trì | Can Trì |
8 | HOA | Lương Đường | Hoa Đường | Hoa Đường |
9 | HOA | Phương Khê | Hoa Khê | Hoa Khê |
10 | HOA | Lai Phương Thượng | Lai Hoa Thượng | Lao Hoa Thượng |
11 | HOA | Lai Phương Hạ | Lai Hoa Hạ | Lai Hoa Hạ |
12 | HOA | Phương Đôi | Hoa Đôi | Hoa Đôi |
13 | HOA | Phương Điếm | Hoa Điếm | Hoa Điếm |
14 | HOA | Phương Bằng | Hoa Bằng | Hoa Bằng |
15 | HOA | Phương Xá | Hoa Xá | Hoa Xá |
16 | HOA | Phương Đường | Hoa Đường | Hoa Đường |
17 | HOA | Đông Phương | Đông Hoa | Đông Hoa |
18 | HOA | Phương Khê | Hoa Khê | Hoa Khê |
19 | HOA | Ngọc Chử | Hoa Chử | Hoa Chử |
20 | HOA | Phương Duệ | Hoa Duệ | Hoa Duệ |
21 | HOA | Phương Khê | Hoa Khê | Hoa Khê |
22 | HOA | Kiến Phong | Hoa Phong | Hoa Phong |
23 | HOA | Phương Quất | Hoa Quất | Hoa Quất |
24 | HOA | Phương Lưu | Hoa Lưu | Hoa Lưu |
25 | HOA | Phương Lăng | Hoa Lăng | Hoa Lăng |
26 | HOA | Phương Mỹ | Hoa Chương | Hoa Chương |
27 | TÔNG | Thị Tranh | Tông Tranh | Tông Tranh |
28 | TÔNG | Thị Đức | Tông Đức | Tông Đức |
29 | THỰC | Bảo Tượng | Thực Tượng | Thực Tượng |
30 | THỰC | Lạc Nghiệp | Lạc Thực | Lạc Thực |
31 | THỰC | Trực Trang | Thực Trang | Thực Trạng |
32 | TRIỀN | Lý Đông | Triền Đông | Triền Đông |
33 | TRIỀN | Lý Đổ | Triền Đổ | Triền Đổ |
34 | TRIỀN | Phạm Lý | Phạm Triền | Phạm Triền |
35 | TRIỀN | Lý Dương | Triền Dương | Triền Dương |
36 | TRIỀN | Hán Lý | Hán Triền | Hán Triền |
37 | TRIỀN | Anh Lý | An Triền | An Triền |
38 | TRIỀN | Vạn Hoạch | Vạn Tuyển | Vạn Tuyển |
39 | TUYỀN | Lãng Xuyên | Chương Tuyền | Chương Tuyền |
40 | TUYỀN | Ngọc Uyên | Ngọc Tuyền | Ngọc Tuyền |
41 | TUYỀN | Kim Xuyên | Kim Tuyền | Kim Tuyền |
42 | TUYỀN | Xuyên Đông | Tuyền Đông | Tuyền Đông |
43 | CHƯƠNG | Mậu Công | Chương Công | Chương Công |
44 | CHƯƠNG | Khuê Phương | Khuê Chương | Khuê Chương |
45 | HỒNG | Thanh Lục | Hồng Lục | Hồng Lục |
46 | HỒNG | Đông Lục | Đông Hồng Lục | Đông Hồng Lục |
47 | HỒNG | Lạc Thị | Hồng Thị | Hồng Thị |
48 | HỒNG | La Giang | La Hồng | La Hồng |
49 | THÌ | Tuyển Cử | Thì Cử | Thì Cử |
50 | THÌ | Hiếu Hội | Hảo Thì | Hảo Thì |
51 | THÌ | Mỹ Ngọc | Thì Ngọc | Thì Ngọc |
52 | THÌ | Thịnh Vạn | Thì Vạn | Thì Vạn |
53 | THÌ | Hoà Ung | Thì Ung | Thì Ung |
54 | ĐOAN | Thụy Trang | Đoan Trang | Đoan Trang |
55 | ĐOAN | Thụy Xuyên | Đoan Xuyên | Đoan Xuyên |
56 | KÍNH | Dương Nham | Kính Chủ | Kính Chủ |
57 | THIÊN | Đại Lộc | Thiên Lộc | Thiên Lộc |
58 | VƯƠNG | An Xá | Vương Xá | Vương Xá |
59 | NGUYỄN | Thọ Xuyên | Nguyễn Xuyên | Nguyễn Xuyên |
60 | NGUYỄN | Tứ Xá | Nguyễn Xá | Nguyễn Xá |
61 | NGUYỄN | Cẩm Khê | Nguyễn Khê | Nguyễn Khê |
62 | NGUYỄN | Linh Xá | Nguyễn Xá | Nguyễn Xá |
63 | NGUYỄN | Phúc Giới | Nguyễn Xá | Nguyễn Xá |
64 | NGUYỄN | Vĩnh Xuyên | Nguyễn Xuyên | Nguyễn Xuyên |
65 | NGUYỄN | Mỹ Xá | Nguyễn Xá | Nguyễn Xá |
66 | NGUYỄN | Vụ Nông | Bắc Nguyễn | Bắc Nguyễn |
67 | NGUYỄN | Vụ Bản | Nguyễn Xá | Nguyễn Xá |
68 | BÌNH | Bằng Trai | Bình Tề | Bình Tề |
69 | BÌNH | Bằng Đê | Bình Đê | Bình Đê |
70 | BÌNH | Bằng Cách | Bình Cách | Bình Cách |
71 | BÌNH | Bằng Dã | Bình Dã | Bình Dã |
72 | BÌNH | Bằng Quân | Bình Quân | Bình Quân |
Thông báo Hán Nôm học 1998 (tr.399-410)