Wednesday, 25 April 2012

BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHỮ NGHĨA - Nguyễn Đăng Na


TB

Bình Ngô đại cáo là tác phẩm văn học chức năng hành chính quan trọng không chỉ đối với lịch sử dân tộc mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với tiến trình phát triển văn học sử Việt Nam. Trong tác phẩm này, tác giả đã kết hợp một cách uyển chuyển giữa tính chân xác lịch sử với chất sử thi anh hùng ca qua lối văn biền ngẫu mẫu mực của một ngọn bút tài hoa uyên thâm Hán học. Chính vì thế, Bình Ngô đại cáo đã trở thành tác phẩm cổ điển sớm đi vào sách giáo khoa từ trung học cơ sở đến phổ thông trung học và được giảng dạy ở tất cả các trường cao đẳng, đại học ngành khoa học xã hội - nhân văn. Với vị trí như vậy, Bình Ngô đại cáo (BNĐC) cần được nghiên cứu một cách thấu đáo từ văn bản, dịch bản đến chú giải. Mặc dù suốt thế kỉ XX các nhà nghiên cứu đã đổ khá nhiều công sức vào nghiên cứu BNĐC, nhưng tới nay, không phải chẳng còn gì để bàn. Trong hai bài trước(1), chúng tôi đã giải quyết ba vấn đề:
1- Bài Bình Ngô đại cáo trong Bản kỉ thực lục sách Đại Việt sử kí toàn thư(2) là văn bản có độ tin cậy nhất. Tại văn bản này, không có câu “Đại Thiên Hành Hóa hoàng thượng nhược vân”. Câu “Đại Thiên... nhược vân” là lời mào đầu của viên hoạn quan, nói trước khi truyền chỉ.
2- Bốn chữ “Đại Thiên Hành Hóa” [代 天 行 化 ] là hiệu của Lê Lợi do các tướng sĩ tôn xưng ngài sau chiến thắng Tân Bình - Thuận Hóa năm Ất Tị 1425. Theo Toàn thư , tôn hiệu trên được dùng cho tới tháng 12 năm Đinh Mùi 1427 khi quân ta đại thắng giặc Minh. Sau đấy, Lê Lợi lên ngôi, không dùng tôn hiệu đó nữa, mà thay bằng niên hiệu Thuận Thiên [ 順 天 ].
3- Bản mà lâu nay các sách như Tổng tập văn học Việt Nam, Tuyển tập văn học Việt Nam, sách giáo khoa Văn học 9, Văn học 10... vẫn ghi là Bùi Kỉ dịch, thực ra không phải. Đấy là bản Trần Trọng Kim dịch, in trong Việt Nam sử lược từ năm 1919. Nguyên nhân có sự nhầm lẫn này là, Dương Quảng Hàm hiểu lầm ghi chú của Bùi Kỉ in trong Quốc văn cụ thể (3) năm 1932.
Trên cơ sở hai bài viết trước, ở bài này chúng tôi sẽ đề cập tới vấn đề khác: một số chữ nghĩa trong BNĐC. Về chữ nghĩa bài BNĐC quả là còn nhiều việc phải làm. Trong khuôn khổ một bài viết, chúng tôi chỉ đề cập tới cách hiểu nhan đề bài cáo và cụm từ máu chảy trôi chày. Những chữ còn lại, xin để dịp khác.
1/ Cách hiểu nhan đề Bình Ngô đại cáo
BNĐC là tác phẩm văn học chức năng hành chính. Một quy tắc tuy không thành văn nhưng người cầm bút nào cũng phải tuân thủ là, ngay trong nhan đề phải ghi rõ loại hình thể loại của chúng. Nguyên tắc này dường như bất di bất dịch đối với tất cả tác phẩm văn học chức năng (hành chính và lễ nghi). Ta có thể lấy một số tên tác phẩm văn học chức năng hành chính Việt Nam thế kỉ X - XIV làm ví dụ. Chẳng hạn các tác phẩm Thiên đô chiếu của Lí Công Uẩn, Dụ chư tì tướng hịch văn của Trần Quốc Tuấn, Thất trảm sớ của Chu An... Những chữ đứng cuối tác phẩm đã chỉ cho người đọc biết thể loại của chúng, như: ‘chiếu’ [ 詔 ], ‘hịch văn’ [ 檄 文 ], ‘sớ’ [疏]... Nhan đề bài Bình Ngô đại cáo cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Cho nên, hai chữ “đại cáo” sẽ là thể loại tác phẩm của Nguyễn Trãi
Vậy “đại cáo” là gì ?
Các nhà biên soạn sách giáo khoa hiện hành(4) có hai cách giải thích khác nhau. Soạn giả Văn học 10 cho rằng, Bình Ngô đại cáo “dịch cho sát nghĩa là: tuyên cáo rộng rãi về việc dẹp yên giặc Ngô”; rồi bổ sung thêm: “bài này viết theo thể cáo”(5). Cách giải thích trên cho thấy, “đại cáo” là một cụm từ, trong đó ‘đại’ là “rộng rãi”, còn ‘cáo’ là “tuyên cáo” - nó vừa là động từ, vừa là danh từ chỉ thể loại tác phẩm. Soạn giả Văn học 9 thì giải thích khác: “ Bình Ngô đại cáo là bài cáo có quy mô lớn, nói việc dẹp yên giặc Ngô”(6). Như vậy, “đại cáo” vẫn là một cụm từ, ở đó, ‘cáo’ là danh từ chỉ thể loại, ‘đại’ phản ánh “quy mô” tác phẩm: lớn.
Thế thì, “đại cáo” trong BNĐC thực chất là cụm từ hay một từ ? Nếu là cụm từ, chúng thuộc cụm danh từ hay cụm động từ ? Và, ‘đại’ dùng để nói về tính phổ biến “rộng rãi” hay “quy mô” tác phẩm?
Trong Hán ngữ có hai chữ ‘cáo’: một chữ không bộ ngôn [告] và một chữ có bộ ngôn [ 誥 ]
Chữ ‘cáo’ không bộ ngôn [告] dùng cho kẻ dưới trình lên bề trên và thường làm động từ; chữ ‘cáo’ có bộ ngôn [誥] dùng để bề trên ban xuống kẻ dưới và thường làm danh từ. Tuy nhiên, không phải lúc nào người viết cũng phân biệt rạch ròi như vậy, trừ những văn bản văn học chức năng hành chính hoặc lễ nghi. Hơn nữa, cả hai chữ ‘cáo’ nói trên đều có thể đứng sau chữ ‘đại’ để thành “đại cáo”. Chẳng hạn, thiên Vũ Thành trong Kinh Thư có đoạn: “Việt tam nhật Canh Tuất, Sài Vọng, đại cáo [大 告] vũ thành” - “sau ba ngày là ngày Canh Tuất, làm lễ Sài, lễ Vọng, kính cáo (đại cáo) việc võ đã thành công”(7). Hai chữ “đại cáo” ở câu trên, Thẩm Quỳnh dịch là “kính cáo”(7), còn Nhượng Tống dịch là “cả tâu.”(8) Trong trường hợp này, hai ông đều hiểu ‘cáo’ [告] là động từ, ‘đại’ [大]làm trạng ngữ.
Chữ ‘cáo’ có bộ ngôn [ 誥 ] thường dùng để chỉ thể loại văn học, khi kết hợp với ‘đại’ sẽ thành “đại cáo” [ 大 誥 ]. Nguyễn Trãi dùng hai chữ đại cáo [大 誥] này để chỉ thể loại tác phẩm của mình. Các sách Toàn thư, Hoàng Việt văn tuyển(9)... đều xác nhận như vậy và ghi : 平 吳 大 誥 (Bình Ngô đại cáo).
Vậy “đại cáo” [大 誥] là thể loại gì và ý nghĩa của nó ?
Hán ngữ đại từ điển giải thích: “đại cáo [ 大 誥 ] là tên một thiên trong sách Thượng Thư. Lời tựa thiên Đại cáo có đoạn: ‘Vũ vương mất, Tam Giám cùng Hoài di làm phản. Chu Công giúp Thành Vương trừ bỏ nhà Ân, viết Đại cáo’. Khổng truyện rằng, ‘Trình bày đại đạo [大 道] để cáo [誥] với thiên hạ (trần đại đạo dĩ cáo thiên hạ), nên lấy làm tên thiên’, sau dùng để phiếm xưng những bài văn có tính chất điển cáo [典 誥 ].”(10) Như vậy, ban đầu, “đại cáo” [大 誥] do hai chữ mang ý nghĩa quan trọng nhất trong mệnh ”trần ‘đại’ đạo dĩ ‘cáo’ thiên hạ” ghép lại, dùng để gọi tên một thiên trong Kinh Thư, rồi thành từ cố định chỉ loại đặc biệt của thể cáo.
Đấy là nghĩa thứ nhất gắn với thời Tây Chu của Trung Hoa cổ đại.
“Đại cáo” còn có nghĩa thứ hai gắn với đương đại thời Minh. Nghĩa này cũng không kém phần quan trọng: “Văn kiện pháp luật ban bố năm Hồng Vũ thứ 18 thời Minh”(11) gọi là Đại cáo. Hồng Vũ [ 洪 武 ] là niên hiệu Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương [ 朱 元 璋 ] - người khai sáng ra nhà Minh, làm Hoàng đế Trung Hoa những năm 1368 - 1398.
Dựa vào hai nghĩa mà Hán ngữ đại từ điển đã nêu ra, chúng ta hãy xem, Nguyễn Trãi dùng hai chữ “đại cáo” đặt trong nhan đề tác phẩm của mình nhằm mục đích gì và có ý nghĩa như thế nào?
Thứ nhất, chiến thắng giặc Minh là sự kiện quan trọng, là bước ngoặc vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Nó không chỉ đánh dấu sự thất bại thảm hại của các thế lực hung tàn và cường bạo, mà còn khẳng định sự tất thắng của một dân tộc biết lấy đại nghĩa và chí nhân làm nền tảng tư tưởng. Vì thế, Nguyễn Trãi muốn nhân dịp này, bày tỏ để nhân loại thấy cái, “đại đạo” [大 道] - đạo lí lớn nhất của Việt Nam là, “đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, đúng như lời ghi trong Khổng truyện: “trần đại đạo dĩ cáo thiên hạ”. Đây vừa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, vừa là mục đích mà thiên Đại cáo ở sách Thượng Thư - một trong năm bộ “kinh” ( Ngũ Kinh) của Trung Hoa cổ đại hằng dương cao. Xa rời mục đích ấy, ta không thể hiểu thấu đáo tư tưởng chủ đạo bài cáo của Nguyễn Trãi. Khi đi đánh Vũ Canh, Chu Thành Vương truyền Đại cáo; bình xong giặc Ngô, Lê Lợi cũng tuyên Đại cáo. Tác giả muốn sánh Lê Lợi với Chu Thành Vương, quân sư của Lê Lợi với Chu Công Đán và muốn bài cáo bình Ngô của thời đại ông mang ý nghĩa ngang tầm với thiên Đại cáo đánh Vũ Canh thời Tây Chu của Trung Hoa cổ đại.
Vì sao Chu Thành Vương phải đánh Vũ Canh ? Bởi, y là tên phản chủ, kẻ phản phúc ! Sách Kinh Thư kể rằng, sau khi diệt xong Thương Vương Trụ tàn bạo, Chu Vũ Vương - cha của Chu Thành Vương vẫn thương tình, phong cho con trai Trụ Vương là Vũ Canh làm vua nước Ân. Khi Vũ Vương qua đời, con nối ngôi là Chu Thành Vương còn nhỏ. Trước hoàn cảnh đó, Tam giám gồm, Quản Thúc, Thái Thúc và Hoắc Thúc nổi loạn. Vũ Canh bèn liên kết với các tộc Di ở phía đông, hùa theo Tam Giám, đem quân đánh Thành Vương, phản lại nhà Chu. Cuộc bình Ngô của Lê Lợi cũng mang ý nghĩa như việc Thành Vương diệt Vũ Canh. Đấy là ý thứ nhất của hai chữ “đại cáo” mà Nguyễn Trãi dùng cho bài bình Ngô ở thời đại ông.
Thứ hai, Nguyễn Trãi viết bài Cáo bình Ngô khoảng cuối năm 1427 - đầu 1428, sau văn kiện pháp luật mà Minh Thái Tổ ban bố năm Hồng Vũ 18 (1365) tới hơn bốn mươi năm. Điều đó cho thấy, khi viết bài cáo, Nguyễn Trãi hoàn toàn biết có sự kiện Chu Nguyên Chương ban bố Đại cáo. Minh sử ghi: “Minh Thái Tổ đã định xong ‘luật lệnh’, các quan hữu ti tuân thủ thi hành. Nhưng những kẻ phạm pháp ngày càng nhiều, bèn lệnh cho thu thập các sai phạm của quan và dân, chia ra từng điều, làm thành Đại cáo, gồm 10 mục. Tháng 10 năm Hồng Vũ thứ 18, Đại cáo hoàn thành, gồm 74 điều. Lệnh ban xuống cho các trường học phải đem ra để dạy sĩ tử; còn ở làng quê thì đặt các trường tư, thuê thầy dạy”. Không những vậy, Chu Nguyên Chương còn khuyến khích mọi người đọc, học Đại cáo bằng lệnh: “Những ai đang bị tù đày mà đọc được Đại cáo thì sẽ giảm tội”. Năm sau - 1386, Chu Nguyên Chương lại ban Đại cáo tục biên, gồm 87 điều, Đại cáo tam biên 43 điều. Như vậy là, trong hai năm liền, Minh Thái Tổ đã liên tiếp ba lần ban Đại cáo, tổng cộng 204 điều. Tiếp theo, năm sau - Hồng Vũ thứ 20 (1387), Minh Thái Tổ lại ban Đại cáo vũ thần. Xem thế đủ biết, “Đại cáo” chính biên, tục biên, tam biên vũ thần của ông Thái Tổ nhà Minh cực kì quan trọng thật! Ông bắt tất cả mọi người, từ thành thị tới nông thôn, từ quan đến dân, từ văn đến võ, từ sĩ tử tới “phó thường dân”..., ai ai cũng phải đọc, phải học, phải thấm nhuần và quán triệt tinh thần của Đại cáo. Lớp học Đại cáo mở tới tận làng quê, thậm chí, biết đọc Đại cáo là tiêu chuẩn xét giảm án và ân xá cho các phạm nhân. Thế mà, nay Nguyễn Trãi gọi bài “bình Ngô” do mình soạn thảo là “Đại cáo”! Rõ ràng, ông muốn người đọc thấy rằng, bài cáo mà mình thay mặt dân tộc viết ra, chính là một văn kiện mang tính pháp luật, có ý nghĩa trọng đại, ngang với văn kiện pháp luật mà Minh Thái Tổ ban bố ròng rã suốt ba năm: Hồng Vũ 18, Hồng Vũ 19, Hồng Vũ 20. Đặt pháp luật Đại cáo để thống nhất đất nước, để cai trị nhân dân, để diệt trừ tội ác... Lẽ ra, văn kiện pháp luật Đại cáo của người sáng lập nhà Minh phải tượng trưng cho uy quyền và là công cụ bảo vệ nhà Minh. Nhưng, ở Việt Nam, ngược lại, nó dùng để “bình Ngô”!
Ngô là ai ? Dụng ý của Nguyễn Trãi khi dùng hai chữ “bình Ngô” ?
Không nên hiểu ‘Ngô’ theo hai cách như soạn giả Văn học 10 đã nêu ra(12). Ngô là nước Ngô, người Ngô, giặc Ngô! Vâng ! Nhưng nguồn gốc của chữ ‘Ngô’ từ đâu ra ?
Chu Nguyên Chương gốc người Hào Châu [ 濠 州 ](13) mà, Hào Châu xưa, thuộc đất Ngô. Vì thế, ‘Ngô’ chính là quê cha đất tổ của người sáng lập ra nhà Đại Minh: Thái Tổ Chu Nguyên Chương ! Hơn nữa, khi sự nghiệp đang trên đà thắng lợi (chiếm xong lộ Tập Khánh), năm 1356, Chu Nguyên Chương xưng Ngô Quốc công [ 吳 國 公 ], ý muốn nhắc tới nguồn gốc của mình: người đất Ngô. Tám năm sau, khi sự nghiệp sắp thành công, ông cải xưng là Ngô Vương [ 吳 王 ], ý muốn hồi cố và ước mơ sự nghiệp của mình sánh với nước Ngô thời cực thịnh dưới quyền Ngô Vương Hạp Lư đánh tan nước Sở hùng mạnh, truyền ngôi cho con là Ngô Vương Phù Sai; Phù Sai lại diệt nước Việt, cầm tù Việt Vương Câu Tiễn...
Bởi vậy, Ngô ở đây vừa là tước hiệu của Minh Thái Tổ khi chưa lên ngôi: Ngô Quốc công, Ngô Vương; vừa là nguồn gốc, quê cha đất tổ của người khai sáng ra nhà Đại Minh: Chu Nguyên Chương! “Bình Ngô” là “bình” tận gốc rễ họ Chu - Thái Tổ nhà Minh. Ba đời vua Minh xâm lược nước ta là, Thành Tổ Chu Đệ, Nhân Tông Chu Cao Xí, Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ Tuyên Đức. Nếu kể từ thái Tổ Chu Nguyên Chương, Tuyên Đức là đời vua Minh thứ năm. Hai chữ “Đại cáo” nói riêng, nhan đề Bình Ngô đại cáo [平 吳 大 誥] nói chung, mang ý nghĩa thâm thúy và sâu sắc như vậy. Nắm được ý nghĩa nhan đề BNĐC là nắm được tư tưởng cốt lõi của tác phẩm.
2/ Máu chảy trôi chày
Tôi còn nhớ, khoảng trên dưới mười năm về trước có cuộc thảo luận khá sôi nổi và kéo dài về cách hiểu bốn chữ “máu chảy trôi chày”. Mọi người dường như thống nhất với nhau rằng, ‘chày’ được dịch từ chữ ‘chử’. Trong Hán ngữ, về cơ bản, ‘chử’ [杵] có nghĩa là cái chày. Nhưng là cái chày gì, dùng để giã gạo, hay cái chày nói chung như, chày đập vải, chày giã thuốc, giã trầu, hoặc một loại vũ khí thời xưa giống hình cái chày..., thì quả thực, mọi người chưa hoàn toàn nhất chí. Ngay cả khi đã là cái chày rồi, cuộc thảo luận vẫn chưa chấm dứt bởi, người thì bảo nó là cái chày giã gạo bằng chân; người lại nói, là cái chày giã gạo bằng nước ở miền núi... Cuối cùng, khi làm sách giáo khoa, soạn giả Văn 10 chú giải cho học sinh như sau: Máu chảy trôi chày là, “máu đổ ra nhiều quá thành suối khiến cái chày (giã gạo) nổi lên trôi đi”(14). Có đúng như thế không? Để hiểu đầy đủ vấn đề, chúng tôi thiết nghĩ, trước hết phải đọc lại văn bản BNĐC, đặng từ đó, bám vào chữ nghĩa của Nguyễn Trãi mà bàn, mà phân tích !
Đoạn có cụm từ được dịch là ‘máu chảy trôi chày’ của BNĐC trong Toàn thư Hoàng Việt văn tuyển đều thống nhất ghi:

“Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị chi ô yết;
Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng(15).”
Hai vế đối nhau chỉnh chệ. Năm 1919 trong Việt Nam sử lược, quyển Thượng, Trần Trọng Kim dịch là:

Suối máu Lãnh Câu, nước sông rền rĩ
Thành xương Đan Xá, cỏ nội đầm đìa(16).
Khi đem BNĐC in lại vào sách Quốc văn cụ thể(17) năm 1932, Bùi Kỉ vẫn giữ nguyên lời dịch của ông Trần. Đến lượt mình, lúc sử dụng lại bản dịch của Trần Trọng Kim in ở sách của Bùi Kỉ, năm 1943 trong Việt Nam văn học sử yếu(18), Dương Quảng Hàm cũng không đổi thay gì hết. Vậy là, bản dịch của ông Trần được các thế hệ sau dùng tới hơn 40 năm kể từ ngày nó ra đời năm 1919 cho tới những năm đầu thập niên 60 của thế kỉ XX. Có lẽ, vì muốn giữ theo cấu trúc thể tứ lục, khi dịch, ông Trần đã lược mỗi vế mất hai chữ “vị chi” và dịch thoát ý các chữ “chử phiêu”, “sơn tích”. Phải chăng vì nhận thấy lời văn dịch của ông Trần chưa thật sự lột tả hết ý của Nguyễn Trãi, nên năm 1962 khi Nhà xuất bản Văn Hóa cho ra mắt độc giả bộ Hợp tuyển thơ văn Việt Nam tập II: Văn học Việt Nam thế kỉ X - XVII, các soạn giả đã chỉnh lí lại thành:

Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen (19).
Rồi chú: “máu chảy trôi chày”: do chữ “huyết lưu phiêu chử” ở Kinh Thư. Ý nói giặc bị chết nhiều” (20). Từ đó, câu có cụm từ “máu chảy trôi chày” được thay thế lời dịch của ông Trần và thản nhiên bước vào sách giáo khoa trong nhà trường. Rồi cứ thế, một số người đã bám vào bốn chữ “máu chảy trôi chày” trong bản dịch và lời chú “huyết lưu phiêu chử” mà trao đổi, mà tranh luận một cách hùng hồn, sôi nổi, hào hứng và kéo dài, chẳng cần biết Nguyễn Trãi đã viết như thế nào nữa. Bây giờ nhìn lại, tôi thực sự lấy làm ngạc nhiên. Đúng là, một thời đã qua !
Như trên đã trình bày, Nguyễn Trãi chỉ viết “Lãnh Câu chi huyết chử phiêu”, chứ đâu có viết “huyết lưu phiêu chử” mà bỗng dưng thành “máu chảy trôi chày” để tranh luận, để trao đổi ? Mà, giả sử, nguyên văn chữ Hán, cụ viết “huyết lưu phiêu chử”, cũng chẳng thể dịch là “máu chảy trôi chày” được! Soạn giả Hợp tuyển chỉ đúng khi cho biết xuất xứ cụm từ “huyết lưu phiêu chử” từ Kinh Thư mà thôi. Nguyên văn đoạn có “huyết lưu phiêu chử” trong Kinh Thư như sau, xin dẫn ra để bạn đọc tham khảo: “Giáp Tí muội sảng, Thụ xuất kì lữ nhược lâm, hội vu Mục Dã, võng hữu địch vu ngã sư; tiền đồ đảo qua công vu hậu dĩ bắc, huyết lưu phiêu chử”. Nghĩa là, “ngày Giáp Tí, lúc rạng đông, vua Thụ kéo quân đông như rừng, họp ở cánh đồng Mục Dã. Các binh sĩ không ai chống lại quân ta, toán tiền phong ngược cả dáo lại đánh toán quân đi sau rồi chạy(21), ‘huyết lưu phiêu chử’.” Ta thử hình dung xem, quân của Thụ (Trụ) dù bị giết nhiều vô vàn đi chăng nữa (vì chúng đông “như rừng”), nhưng làm sao máu đổ ra có thể “thành suối” để đến đỗi, “khiến cái chày (giã gạo) nổi lên trôi đi”, dù diễn đạt theo kiểu tu từ ? Thật không thể hình dung nổi ! Vậy, mấu chốt vấn đề ở chỗ nào? Có hai việc cần giải quyết.
Thứ nhất, cách hiểu chữ ‘chử’.
Trong Hán ngữ, ‘chử’ [杵] có 6 nghĩa. Ngoài nghĩa thông dụng là “cái chày” dùng để giã đập các vật, ‘chử’ còn thông nghĩa với ‘lỗ’ [櫓]. Hán ngữ đại từ điển giải thích, ‘chử’ thông nghĩa với ‘lỗ’ và: ‘lỗ’ [櫓], cổ đại vũ khí trung đích thuẫn [ 古 代 武 器 中 的 盾 ]”(22) - ‘lỗ’ là cái ‘mộc’, loại vũ khí thời xưa. Một thú vị nữa là, chính các soạn giả từ điển lại lấy ngay Kinh Thư, nơi có cụm từ “huyết lưu phiêu chử” để minh họa cho cách cắt nghĩa của mình. Các soạn giả viết: “Thư, Vũ Thành: ‘Thụ xuất kì lữ nhược lâm, hội ư Mục Dã... huyết lưu phiêu chử’”. Rồi, các soạn giả dùng sách Thuyết văn giải tự của Hứa Thận, mục “bộ ‘mộc’ [木]” để giải nghĩa: “ ‘lỗ’, đại thuẫn dã [ 櫓,大 盾 也 ]. Thanh, Đoàn Ngọc Tài chú: ‘lỗ’, hoặc giả ‘chử’ vi chi; ‘huyết lưu phiêu chử’, tức ‘huyết lưu phiêu lỗ’ dã”(22). Đoạn văn trên cho biết, ‘lỗ’ [櫓] là cái mộc lớn. Ông Đoàn Ngọc Tài thời Thanh chú rằng, ‘lỗ’ do mượn chữ ‘chử’; ‘huyết lưu phiêu chử’ là ‘huyết lưu phiêu lỗ’.
Thế là đã rõ! Mộc - một loại vũ khí thời xưa, dùng để đỡ dáo đâm hoặc tên bắn. Mộc thì nhẹ, được làm bằng gỗ hoặc da thú, có hình tròn, hình bầu dục, hình lưỡi mác hoặc hình chữ nhật..., mặt quay ra phía ngoài để đỡ gươm đao, đỡ tên bắn có cấu tạo cong như mặt đáy chảo. Với chất liệu nhẹ và cấu tạo như vậy, ‘lỗ’ có thể nổi trôi theo dòng nước trong đó có máu của đối phương bị giết chảy ra. Điều này dễ hiểu và phù hợp với thực tế.
Thứ hai, Nguyễn Trãi viết:

Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị chi ô yết;
Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.
Hai vế đối nhau từng chữ rất chỉnh. Mỗi vế gồm 12 âm tiết, chia thành hai: nửa đầu (6 âm tiết) chỉ nguyên nhân, nửa sau (cũng 6 âm tiết) chỉ kết quả. Ta có thể diễn giải như sau: Bởi “Lãnh Câu chi huyết chử phiêu” khiến “giang thủy vị chi ô yết”; do “Đan Xá chi thi sơn tích” khiến “dã thảo vị chi ân hồng”. Nửa đầu của mỗi vế (6 âm tiết) lại theo cấu trúc 4 - 2: bốn âm tiết đầu làm chủ ngữ, hai âm tiết sau làm vị ngữ. Chủ ngữ của‘chử phiêu’ là ‘Lãnh Câu chi huyết’; chủ ngữ của‘sơn tích’ là ‘Đan Xá chi thi’. Lại nữa, trong ‘Lãnh Câu chi huyết’ thì, ‘huyết’ là trung tâm ngữ; cũng như vậy, ‘thi’ làm trung tâm ngữ cho ‘Đan Xá chi thi’. Nên lưu ý, “Lãnh Câu chi huyết” là máu (giặc Minh) trong dòng nước Lãnh Câu; “Đan Xá chi thi” là xác (giặc Minh chết) ở Đan Xá. ‘Sơn tích’ [山 積] là, tích lại như núi; ‘chử phiêu’ [杵 漂] là làm trôi cái ‘chử’. Xác giặc ở Đan Xá chất lại như núi; máu giặc đổ xuống Lãnh Câu làm cho trôi cái ‘chử’. Điều lạ là, ý tứ câu văn của Nguyễn Trãi rõ ràng, nhưng lời dịch đọc lên nghe mâu thuẫn. Xin đọc: “ Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc”. Vậy, Lãnh Câu là suối hay sông ? Đã đành rằng, ‘câu’ [ 溝 ] là suối, nhưng ở đây nó là địa danh! Vả chăng, Nguyễn Trãi cũng nói rõ ‘giang thủy’ [ 江 水 ] - nước sông, chứ đâu phải ‘câu thủy’ [ 溝 水 ] - nước suối. Hai âm ‘giang’ [江] và ‘câu’ [溝] đều thanh bằng, do đó không phải vì thanh điệu mà Nguyễn Trãi phải thay ‘câu’ bằng ‘giang’; hơn nữa, chúng lại không nằm ở vị trí gieo vần, nên càng không phải vì ép vần hoặc ép thanh mà đổi ‘câu’ (suối) thành ‘giang’ (sông). Trong một mệnh đề thôi, lúc thì ‘suối’, lúc lại ‘sông’, thế mà, ta cứ thản nhiên nhồi vào đầu bao thế hệ học sinh từ 1962 đến giờ. Thật tội nghiệp! Vế sau cũng thế: “ Thành Đan Xá thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen”. Làm gì có ‘thành’ nào ở đây ? Xác chết ở Đan Xá tích lại thành núi, vì việc đó mà cỏ ở ngoài đồng - dã thảo [野草] bị thẫm đỏ. Các chữ ‘Xá’ và ‘dã’ cũng tương tự trường hợp ‘câu’và ‘giang’ đã trình bày trên kia. Thì ra, đây là hai trận chiến: một ở sông (giang) Lãnh Câu, một ở đồng (dã) Đan Xá, hoặc một trận chiến phối hợp thủy lục: sông Lãnh Câu, đồng Đan Xá.
Vì sao xẩy ra hiện tượng dịch như vậy ? Có lẽ vì soạn giả Hợp tuyển hiểu lầm văn của ông Trần ? Ông dịch: “Suối máu Lãnh Câu” và “Thành xương Đan Xá”, thật là tuyệt vời. Phải chăng bởi nhận thấy dịch ‘chử phiêu’ là ‘trôi chày’ hoặc ‘chày trôi’ chưa thật thỏa đáng, nên ông Trần muốn lẩn đi, dịch thoát, cốt giữ ý: ‘Suối máu Lãnh Câu’. ‘Suối máu Lãnh Câu’ là máu ở Lãnh Câu nhiều tựa suối. Như vậy, Lãnh Câu đâu phải suối ! ‘Thành xương Đan Xá’ là xương giặc nhiều, chất lại tựa thành ở Đan Xá. Như vậy, Đan Xá đâu phải thành. Có điều, ông đã thay chữ ‘thi’ (xác chết) bằng chữ ‘xương’. Do dịch thoát ý, hai chữ ‘suối’ và ‘thành’ của ông Trần bị soạn giả Hợp tuyển hiểu nhầm, biến thành “ suối Lãnh Câu”, “ thành Đan Xá”, khiến câu văn vừa sai lạc ý nghĩa của Nguyễn Trãi và vừa mâu thuẫn. Bây giờ đến chữ ‘ô yết’ và ‘ân hồng’.
Dịch ‘Ô yết’ là ‘rền rĩ’ hoặc ‘nghẹn ngào’ đều được. Song, ‘Ô yết’ [ 嗚 咽 ] có hai nghĩa: một, chỉ tiếng khóc buồn đau; hai, chỉ âm thanh bi thương trầm lắng. Nếu dịch ‘ô yết’ là ‘nghẹn ngào tiếng khóc’ thì hơi quá vì đã gộp cả nghĩa một và hai của chúng lại. Trong văn cảnh, Nguyễn Trãi chủ yếu miêu tả nước chảy làm cho những cái mộc bị trôi nổi va đập vào nhau phát ra âm thanh trầm lắng, nghe thấy bi thương. “Ân hồng” dịch là “đầm đìa” thì chưa rõ, nhưng dịch thành “Đầm đìa máu đen” lại hơi quá. Ân hồng [殷 紅] dùng để chỉ màu đỏ thẫm, trong màu đỏ có pha sắc đen. ‘Ô yết’ và ‘ân hồng’ đối nhau: một từ chỉ âm thanh, một từ chỉ màu sắc, tạo nên khung cảnh thảm đạm của giặc Minh. Hơn nữa, nếu dịch “giang thủy vị chi ô yết” và “dã thảo vị chi ân hồng” là “nước sông nghẹn ngào tiếng khóc” và “cỏ nội đầm đìa máu đen” thì không những thái quá như chúng tôi đã phân tích, mà mỗi vế bị bỏ mất hai chữ rất quan trọng: “vị chi” [為之] - vì việc đó mà... Chữ ‘chi’ [之] là đại từ thay cho cả mệnh đề sáu chữ đứng trước: “Lãnh Câu chi huyết chử phiêu”, “Đan Xá chi thi sơn tích”. Chúng là những nguyên nhân khiến cho nước sông ‘ô yết’, cỏ đồng ‘ân hồng’. Dĩ nhiên, dịch vừa sát nghĩa, vừa bảo đảm âm luật của thể loại là một việc cực kì khó. Chúng tôi luôn biết rằng, nói bao giờ cũng dễ hơn làm rất nhiều, nhưng chẳng phải vì vậy mà lặng im.
Khi viết BNĐC, Nguyễn Trãi dựa vào hiện thực cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược. Ông có thể sử dụng nhiều mẫu chất liệu có sẵn trong nền văn hóa Trung Hoa cổ đại, nhưng ông chỉ dùng những gì diễn tả đúng nhất với hiện thực cuộc kháng chiến lúc bấy giờ. “Lãnh Câu chi huyết chử phiêu” không phải là “suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày”, càng chẳng phải máu “đổ ra nhiều quá thành suối khiến cái chày (giã gạo) nổi lên trôi đi” và ‘chử’ là cái ‘mộc’. Chỉ có những cái mộc bị trôi, chẳng có cái chày giã gạo nào “nổi lên trôi đi” cả ! Thế mới biết, hiểu cho thấu đáo một câu văn của cổ nhân khó thật !
Trên đây, chúng tôi mới nêu hai trường hợp: nhan đề “Bình Ngô đại cáo” và cụm từ “máu chảy trôi chày” mà đã có bấy nhiêu chuyện, huống cả bài Cáo thì, còn biết bao vấn đề nữa để bàn. Chỉ mong rằng, các nhà đang biên soạn sách giáo khoa mới, làm sao có được một bài BNĐC chuẩn xác từ văn bản đến chú thích, xứng đáng với tầm vóc bản “thiên cổ hùng văn” và thế hệ trẻ không phải học những điều chẳng có trong văn bản như ở thế kỉ trước !

N.Đ.N
CHÚ THÍCH:
(1) Xem Nguyễn Đăng Na:
a. Bình Ngô đại cáo: một số vấn đề về văn bản, Tạp chí Hán Nôm số 4/ 2002.
b. Bình Ngô đại cáo: vấn đề dịch giả và dịch bản, Tạp chí Hán Nôm số 5/ 2002.
(2) Từ đây gọi tắt là Toàn thư.
(3) Năm 1919 trong Việt Nam sử lược , trước bản dịch, Trần Trọng Kim cho in nguyên văn chữ Hán BNĐC và giới thiệu: “Tờ BNĐC này... theo nguyên văn ở trong tập Hoàng Việt văn tuyển ...” (tr.204). Khi in lại bản dịch của ông Trần vào Quốc văn cụ thể (Tân Việt Nam thư xã) năm 1932, Bùi Kỉ nhắc lại lời ông Trần: “Bài này dịch theo bài chữ nho ở bộ Hoàng Việt văn tuyển. ” (tr.96). Đọc lời ghi chú đó, Dương Quảng Hàm lại ngỡ Bùi Kỉ bảo mình dịch, nên lúc tuyển BNĐC vào Việt Nam văn học sử yếu năm 1943, Dương Quảng Hàm chua: “Bùi Kỉ dịch, Quốc văn cụ thể, Tân Việt Nam thư xã Hà Nội” (tr.262). Từ đấy, mọi người đều ghi theo lời chua của ông Dương.
(4) Trong bài này, chúng tôi chưa đề cập tới sách giáo khoa thí điểm.
(5) Văn học 10, sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000, Tập một, Nxb. Giáo dục, tr.117.
(6) Văn học 9, Tập một, tái bản lần thứ 11, Nxb. Giáo dục, 2001, tr.21.
(7) Kinh Thư, Trung tâm học liệu, in lần thứ hai, Sài Gòn, 1973, tr.217.
(8) Thượng Thư, Văn Học, H. 2001, tr.112.
(9) Bùi Huy Bích: Hoàng Việt văn tuyển, Hi Văn Đường, Minh Mệnh 6 (1825). Tồn Am gia tàng bản.
(10) Hán ngữ đại từ điển, tập 2, Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, Thượng Hải, in lần thứ 3, 1988, tr.1388.
(11) Hán ngữ đại từ điển, tập 2, Sđd, tr.1388.
(12) Soạn giả Văn học 10 viết: “Có hai cách hiểu chữ Ngô: các vua nhà Minh quê ở đất Ngô; đời Ngô (thời Tam Quốc), bọn người sang cai trị nước ta đều rất tàn ác, từ đó, dân ta gọi người phương Bắc là người Ngô với ý khinh ghét”. Sđd, tr.124.
(13) Hào Châu [ 濠 州 ] thuộc đất Ngô thời Xuân Thu, bao gồm các huyện An Huy, Hoài Viễn, Định Viễn, Phượng Dương, Gia Sơn ngày nay; lị sở là Chung Li thuộc đất phía đông Phượng Dương.
(14) Văn học 10, Sđd, tr.126.
(15) Hoàng Việt văn tuyển, Sđd; ĐVSKTT, tập IV, KHXH, H. 1993, tờ 51 a, b.
(16) Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, quyển Thượng, H. in lần thứ hai, 1928, tr.212.
(17) Bùi Kỉ: Quốc văn cụ thể, Tân Việt Nam thư xã, H. 1932, tr.100.
(18) Dương Quảng Hàm: Việt Nam văn học sử yếu, Nha học chính Đông Pháp, H. 1943, tr.261.
(19) Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, Tập II, Nxb. Văn Hóa, H. 1962, tr.257. Từ đây gọi tắt là Hợp tuyển.
(20) Hợp tuyển, tập II, Sđd, tr.260.
(21) Kinh Thư, Sđd, tr.215. Trong bản này, Thẩm Quỳnh dịch “huyết lưu phiêu chử” là “Máu người chảy trôi cả cái chày giã gạo”.
(22) Hán ngữ đại từ điển, tập 4, Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, Thượng Hải, in lần thứ tư, 1994, tr.855./.

Tuesday, 24 April 2012

Hai tiếng thổ mộ trong xe thổ mộ do đâu mà ra? (An Chi - Bách Khoa Tri Thức)



An Chi: Có ý kiến cho rằng thổ mộ là do tiếng Pháp tombereau mà ra. Ý kiến này không đúng vì người Pháp ở Sài Gòn và Nam kỳ trước đây chỉ gọi xe thổ mộ là boîte d’allumettes (= hộp quẹt) hoặc tac-à-tac, “có lẽ vì khi chạy, vó ngựa chạm mặt đường trải đá nghe (...) “tắc tắc” (tách tách)”, như Vương Hồng Sến đã cho biết trong Tự vị tiếng Việt miền Nam (Nxb Văn hóa, 1993). Họ không bao giờ gọi xe thổ mộ là “tombereau”.
Lại có ý kiến cho rằng thổ mộ là do thảo mã mà ra vì đây là xe chở cỏ cho ngựa ăn (ở đồn Tây) thời trước. Ý kiến này cũng lạ: người ta khó mà biết được tại sao thảo mã lại có thể trở thành “thổ mộ”. Huống chi, bản thân hai tiếng thảo mã đã là tiếng Việt, dù là đọc theo âm Hán Việt. Hay là người đề xướng cách giải thích này muốn liên hệ đến âm Quảng Đông của hai tiếng thảo mã là tshổu mạ chăng? Thổ mộ quả có na ná với tshổu mạ trong tiếng Quảng Đông nhưng dân Quảng Đông thì có liên quan gì với sự hoạt động ở các đồn Tây thời trước? Huống chi tshổu mạ (- thảo mã) chỉ có nghĩa là con ngựa bằng cỏ hoặc con “ngựa cỏ” tức ngựa hoang (?) chứ đâu phải là “xe chở cỏ cho ngựa ăn”.
Chỉ có cách hiểu thổ mộ là ngôi mộ bằng đất thì mới thật sự phù hợp để giải thích nguồn gốc của hai tiếng thổ mộ trong xe thổ mộ mà thôi: cái thùng xe thổ mộ với cái mui khum khum của nó rất giống với hình một nấm mộ bằng đất.

Chuyện tào lao về (xe) thổ mộ - An Chi (Huệ Thiên)


An Chi Chúng tôi không biết “t’ủ mỏ” là cái thứ tiếng gì nhưng chắc chắn đó không phải là âm Quảng Đông của hai chữ   độc mã, mà chữ Hán là 獨馬 Âm Quảng Đông của hai chữ này là:
– dug6 ma5 (Nhiêu Bỉnh Tài chủ biên, Quảng Châu âm tự điển, Quảng Đông Nhân dân xuất bản xã, in lần thứ 26, 1997, tr.232 & 260);
        – duk ͵ma (Hoàng Tích Lăng, Việt âm vận vựng [A Chinese Syllabary Pronounced According to the Dialect of Canton], Trung Hoa thư cục, trùng bản, 1973, tr.1 & 49);
        – tục mạ (Hà Thủ Văn, Việt Quảng ngữ đối chiếu, Chin-Hoa, Chợ Lớn, 1965, tr.53 & 105).

Tuy cách phiên âm của mỗi sách một khác nhưng âm được phiên thì hoàn toàn thống nhất : tục mạ, theo cách dễ đọc nhất cho người bình thường của Hà Thủ Văn trong Việt Quảng ngữ đối chiếu. Và cứ như trên thì người kia đã sai ở ba điểm căn bản : – một, phụ âm đầu của chữ 獨 là [t] (viết bằng “t”) chứ không phải [t’] (viết bằng “th”); – hai, cách đọc thành “t’ủ” của người đó không có âm cuối vần trong khi chữ 獨 có âm cuối vần là [k]; – và ba, nguyên âm chính của chữ 馬 là [a], một nguyên âm không tròn môi chứ không phải “o”, là một nguyên âm tròn môi.
Cứ theo ba điểm hoàn toàn chắc chắn trên đây thì ta có thể  dứt khoát khẳng định : – “t’ủ mỏ” không phải là âm Quảng Đông của hai chữ độc mã 獨馬; – do đó, thổ mộ tuyệt đối chẳng có dây mơ rễ má gì về mặt từ nguyên vói hai chữ mà âm Quảng Đông đã bị “chế biến” như trên. Huống chi có phải chỉ có xe thổ mộ mới do một con ngựa kéo đâu! Bởi vậy tác giả Cao Tự Thanh mới nói rằng thứ từ nguyên dân gian ấy dùng để tào lao thì được chứ nếu tưởng là học vấn thì chỉ làm cho con cháu ngu đi mà thôi.



Monday, 23 April 2012

Từ đầu cánh đến ngầu pín _ An Chi (RCMCN cho số 75, 25-6-2010)

Trong quyển 1575 thành ngữ tục ngữ cần bàn thêm (Nxb Văn nghệ, 2009), tác giả Lê Gia đã cách cái mạng của  câu Nhất phao câu, nhì đầu cánh thành Nhất phao câu, nhì gầu cánh. Ông giải thích:
        “ Gầu, cũng nói là ngầu, thí dụ ngầu pín, tiếng Quảng Đông. Do chữ ngẫu là thịt gân, thịt xương ở đầu cánh tay. Phở tái gầu: Món phở thịt bò tái mà có thêm thịt gân. Nghĩa câu: Ăn thịt gà ngon nhất là miếng phao câu, nơi có mỡ béo và xương mềm; thứ nhì là thịt chỗ khớp xương cánh nối vào thân mình, nơi đây vừa béo vừa có xương sụn mềm.”
        Quả là tác giả Lê Gia đã trình làng một cách giải thích tân kỳ. Nhưng với tính cách là một từ của tiếng Việt, gầu không bao giờ nói thành ngầu, mà cũng không hề có nghĩa là “thịt gân, thịt xương ở đầu cánh tay”, như ông đã “phát hiện”, nên tất nhiên cũng chẳng dính dáng gì đến chữ ngẫu do ông đưa ra.
        Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên (ấn bản 2003) giảng gầu là “thịt có lẫn mỡ ở ngực bò”. Làm thế nào mà từ cái nghĩa “thịt có lẫn mỡ ở ngực bò”, gầu lại có thể nhảy phốc sang cái nghĩa “thịt gân, thịt xương ở đầu cánh tay” của ông Lê Gia? Rồi lại còn có thể nói thành ngầu! Nhưng táo bạo và thú vị nhất là ông Lê Gia lại còn gắn từ gầu, cũng nói ngầu của ông với từ ngầutrong ngầu pín của tiếng Quảng Đông, cứ ngỡ rằng trong thứ tiếng này thì ngầu là một bộ phận trong cơ thể của động vật. Thưa rằng ông đã nhầm to vì ngầu 牛 (âm Hán Việt là ngưu) ở đây có nghĩa là bò. Còn pín 鞭 ( âm Hán Việt là tiên) mới là bộ phận cơ thể, mà lại là một bộ phận đặc biệt. Quảng Châu thoại phương ngôn từ điển của Nhiêu Bỉnh Tài, Âu Dương Giác Á và Chu Vô Kỵ (Thương vụ ấn thư quán, Hong Kong, 2001) giảng pín 鞭 là “hùng tính động vật đích sinh thực khí (uyển từ)” nghĩa là “bộ phận sinh dục của động vật giống đực (uyển ngữ)”. Rồi quyển từ điển này cho hai thí dụ: 牛鞭 (ngầu pín) và 三鞭酒 (xám pín chẩu). Xám pín chẩu là một loại rượu (chẩu = rượu) đặc sản của Trung Quốc, bào chế với nhiều nguyên liệu cao cấp như nhân sâm, lộc nhung, v.v., trong đó có ba thứ dương vật (xám = ba; pín = dương vật) không thể thiếu là: của hươu, của hải cẩu và của ... chó; còn ngầu pín là dương vật của bò , dĩ nhiên là bò đực. Phở ngầu pín là món phở mà người Quảng Đông chế biến với dương vật bò (đực). Vậy biến đầu cánh thành “gầu cánh” rồi đánh đồng nó với dương vật của bò thì chẳng tội nghiệp cho cái món số hai truyền thống của các cụ nhà ta lắm sao?
      Vậy xin trả lại cái mạng cũ cho câu tục ngữ đang xét mà tiếp tục đọc nó là Nhất phao câu, nhì đầu cánh. Nhưng đầu cánh là gì?  Tác giả Nguyễn Dư khẳng định:“ Đầu cánh là cái đầu và cái cánh chứ không phải là cái đầu (ngọn) của cái cánh. Để tránh hiểu lầm, nên thêm dấu phẩy giữa chữ đầu và chữcánh.” Tác giả này dựa vào bài “ Nghệ thuật băm thịt gà” của Ngô Tất Tố mà giải thích như sau:
        “ Thứ nhất phao câu nghĩa là chiếc phao câu được dành cho chiếu thứ nhất. Làng nào có tiên chỉ thì ông tiên chỉ, một mình một cỗ, được hưởng cả cái phao câu. Không có tiên chỉ thì những người được ngồi chiếu nhất cùng hưởng. Làng thằng Mới có bốn người ngồi chiếu nhất nên chiếc phao câu được chia làm bốn phần. Thứ nhì đầu cánh nghĩa là chiếu thứ nhì chia nhau cái đầu gà. Làng nào có nhiều người ngồi chiếu nhì thì hết đầu gà có thể dùng thêm cánh gà bù vào.”
Xin thưa rằng cách giải thích trên đây hoàn toàn sai với đặc trưng hình thức - ngôn từ của câu tục ngữ. Văn học dân gian Việt Nam có hàng chục, hàng chục câu tục ngữ có cấu trúc “ Nhất (...), nhì(...), v. v.” hoặc “Thứ nhất (...), thứ nhì (...), thứ ba (...), v. v.”, mà nội dung là một sự sắp xếp  thứ hạng về chất lượng, về vai trò, v. v.. Trong tất cả các câu đó, các từ chỉ thứ tự nhấtnhìba, v. v., luôn luôn trực tiếp đánh giá cái chủ thể được biểu hiện bằng từ/ngữ đi liền ngay sau nó, chứ dứt khoát không phải bất cứ một/những đối tượng nào không được nói đến trong câu tục ngữ. Vì vậy nên chiếu trên, chiếu dưới, chiếu nhất, chiếu nhì, v.v., là những thứ tuyệt đối chẳng liên quan gì đến câu tục ngữ của chúng ta. Câu này chỉ trực tiếp nói đến hai bộ phận trên thân thể con gà mà thôi. Thứ nhất là phao câu thì đã rõ nhưng thứ nhì, đầu cánh thì đích xác là chỗ nào?
        Xin quan sát hai mặt của cái cánh gà trong H.1. Nó cũng có ba phần như tay người: cánh tay, bắp tay, bàn tay. Tương đương với cánh tay là phần cánh gà tính từ chỗ đầu xương giáp với vai cho đến khuỷu cánh thứ nhất tính từ trong ra. Phần này của cánh, tiếng Anh gọi là drumette, tiếng Pháp làmanchon còn tiếng Hoa là chìtuǐ 翅腿 (âm Hán Việt là xí thối ), nghĩa là đùi cánh. Đùi cánh chính là cái bộ phận được tô màu vàng trong H.2, cũng là cả cái bộ phận mà ta thấy trong H.3.  Có người gọi nó làbầu cánh. Nó giống với cái đùi nhưng nếu nhìn theo tỷ lệ toàn thể thì nó thô hơn, ngắn hơn. Chỗ đầy thịt no tròn của đùi cánh, nơi nó dính vào vai, chính là đầu cánh, đối với phần nhọn phía ngoài cùng là cái chót cánh (Xin x. lại H.1).
        Vì ngon vào hàng nhất nhì trong cả con gà nên đùi cánh có một vị thế quan trọng trong việc chế biến thức ăn. Nó có thể được để nguyên để chiên (rán), quay, v. v., như có thể thấy trong H.4. Nhưng nó cũng có thể được chế biến cầu kỳ hơn bằng cách lóc bỏ da thịt của phần giáp với khuỷu cánh mà làm cho cái đùi cánh trở thành một khối thịt tròn, để lộ ra một khúc xương, như một cái que để cầm (H.5). Trong trường hợp này cái đùi cánh trông giống như một quả chuỳ. Vì vậy nên tiếng Pháp mới gọi nó là pilonnet hoặc pilonnette (chày nhỏ); còn tiếng Anh thì ví với hình dạng của cây kẹo mút mà gọi nó là chicken lollipop.
        Tóm lại, đầu cánh chính là cái phần đầy thịt no tròn của đùi cánh, đối với phần ngoài cùng là cái chót cánh. Trong H.3, đầu cánh chính là cái phần no tròn đã xẻ ra (trên) hoặc còn nguyên (dưới);  phần  còn lại sẽ trở thành cái que cầm cho chicken lollipop. Thịt đầu cánh rất ngon; có người cho rằng nó còn ngon hơn cả thịt đùi nữa.










Hình 1
Hình 2
Hình 3
Hình 4
Hình 5

Sunday, 22 April 2012

Ngầu pín (Cao Tự Thanh)

Ngầu pín


Buổi tối đang đau đầu vì những Độ mở kinh tế, Đo lường mức độ thương mại trong quyển Một trăm câu hỏi đáp về Ngoại thương Thành phố Hồ Chí Minh thì Trần Hữu Quang bên Viện Khoa học xã hội Thành phố phone qua hỏi Ngầu pín là gì? Thật là điên ruột khi biết y đang nhậu với một đám, nhậu ngầu pín, rồi no pín rửng chữ, rồi thảo luận xem ngầu pín là gì, rồi không có trọng tài bèn cử y phone qua hỏi, còn nói nhã là tra từ điển hộ. Trời ạ, bản nhân đang cày lòi cả thủy tinh thể, các người thì rảnh rỗi đàn đúm ăn nhậu hưởng lạc phi vô sản, mà chỉ nghĩ tới bản nhân như một thứ từ điển sống thế này thôi à! Thật là tình đời đen bạc. Nhưng đúng là từ này bản nhân chưa có dịp tra, thôi thì một công đôi việc. Cúp máy đi tao gọi lại. Ừ mau lên nhé. Y mà ở đây thì chắc được ăn từ điển chứ không phải nhậu ngầu pín đâu. 
Ra rồi nghe đây. Ngầu là ngưu, tức con bò (thủy ngưu mới là con trâu), pín là âm Hoa Hán giọng Quảng Đông, giọng Quan thoại cũng thế vì đây thuộc mảng từ vựng cơ bản, âm Việt Hán là tiện, làm động từ là lái ể nhưng đây là danh từ, chắc là một biệt danh kiểu tiếng lóng để chỉ công cụ tác nghiệp trong đó có li lái của con đực. Ngầu là ngưu thì phải rồi, nhưng mày có chắc pín là tiện không. Phụ âm đầu t thời Đường chuyển thành phụ âm đầu p và b thời Minh Thanh rất nhiều, như tỳ bà thành pípá, tân khách thành bìnkè, có thể nói là một quy luật ngữ âm, về cả ý nghĩa lẫn âm thanh thì chữ tiện đều hợp lý, còn đúng hay không để tao hỏi lại mấy cô bạn người Tàu. OK cảm ơn tiên sinh nhiều nhiều, chào nhé. Quả thật bọn người nhậu ngầu pín này rất có tác phong cắc bụp mau lẹ trong các hoạt động giao lưu.

Bực mình xong lại buồn cười, may là tôi tra ra, không thì nếu chẳng may họ pín vào lời ra suy diễn tào lao lại gây nhiễu kiến thức ngôn ngữ của người thiên hạ. Còn nhớ có một đại nhân vật lên cả tivi giải thích thổ là đất, mộ là nấm mộ, xe thổ mộ tức cái xe như nấm mộ lùm lùm chạy trên đường. Nguyễn Văn Huệ bên Đại học Tổng hợp thành phố thấy vô lý bèn chửi đổng “Mả cha mày chạy chứ mả ai chạy!”. Thứ từ nguyên học dân gian ấy dùng để tào lao thì được còn nếu tưởng là học vấn thì chỉ làm em cháu ngu đi. Thổ mộ là cách đọc Việt hóa của từ t’ủ mỏ, tức độc mã (một ngựa) đọc theo âm Hoa Hán giọng Quảng Đông. Xe thổ mộ tức xe (một) ngựa.

Thêm một ví dụ về sự suy diễn tào lao. Cái áo trường sam (áo vạt dài, tức áo dài) của người Hoa đọc theo âm Hoa Hán giọng Quảng Đông là sường sám, các tiệm may hiện nay không hiểu bèn cải biên thành sườn xám, có lẽ định gán cho nó một ý nghĩa (cái sườn màu xám?) trong tiếng Việt, cũng chẳng chết ai nhưng dễ dãi với ngôn ngữ sẽ dẫn tới đại khái về tư duy rồi vô nguyên tắc trong hành vi.

Nói thế không phải quá lời đâu, vì ngôn ngữ là công cụ giao tiếp, nếu dễ dãi về ngôn ngữ rất dễ phạm lỗi dù là vô tình trong ứng xử. Sự đại khái về tư duy ngôn ngữ vì thế có hại hơn nhiều người tưởng. Ngày xưa người ta viết bằng bút lông, để ngòi bút khô lâu sẽ giòn gãy rụng lông (Câu Trúc se ngọn thỏ… trong Truyện Kiều là chỉ chuyện này) nên thỉnh thoảng phải nhúng nước. Vì thế các báo chí, nhà xuất bản ở Trung Quốc trả tiền thù lao cho tác giả đều gọi nhã là tiền nhuận bút (thấm ướt ngòi bút). Về sau viết bài bằng bút sắt rồi bút bi, máy đánh chữ và thậm chí hiện nay viết trên máy tính cũng được gọi là trả tiền nhuận bút, thôi thì cũng được đi, có điều vụ tiền nhuận ảnh (đăng báo) mới là đại kỳ quái, thậm phi lý, không lẽ là làm ướt máy ảnh! Tương tự, nhiều vị thuộc chính giới và báo giới hiện nay gọi Hùng Vương là Quốc tổ, nhưng lại gọi Âu Cơ mẹ Hùng Vương đầu tiên là Quốc mẫu. Mẹ lại sinh ra được ông nội à?

Tháng 6. 1975 tôi từ Hà Nội về tới Sài Gòn, đổi được ít tiền miền Nam bèn đi chơi, thấy xe bò bía bèn sấn vào gọi mấy cuốn. Thấy chỉ có lạp xưởng, tép khô với rau, liền hỏi sao không có thịt bò, cô nhỏ bán hàng thấy tôi mặc áo bộ đội liền cười nói cái này đâu có bò chú. Tôi hỏi không có bò sao gọi là bò bía, cô ta đáp người ta kêu sao con kêu vậy chứ con biết gì đâu. Hơn mười năm sau gặp anh Tăng Văn Hỷ tác giả nhiều quyển từ điển Hán Việt sực nghĩ ra, hỏi anh người bang nào, anh đáp là Triều Châu, tôi hỏi hai chữ bò bía không phải giọng Quảng Đông, có phải giọng Triều Châu không. Anh cười nói chú hỏi đúng người rồi, chú biết chữ Hán nên tôi không cần nói nhiều, rồi viết ra hai chữ Hán bạc bính. Té ra nó là bánh mỏng (bánh tráng), đọc theo âm Hoa Hán giọng Triều Châu, sau khi từ pò pía chuyển thành bò bía cho phù hợp với ngữ âm và từ vựng tiếng Việt thì được dùng để đại diện cho cái món bánh tráng cuốn lạp xưởng tép khô với rau. Một loại bánh ngọt có nhân đậu xanh, sầu riêng, dừa vân vân ở Sóc Trăng được gọi là bánh bía cũng là theo nguyên tắc đại diện này, tức bía đã trở thành danh từ riêng, chứ pía vốn là bánh nói chung.
Chuyện đại diện về từ vựng – ngôn ngữ này còn lồng vào nhiều chuyện khác về văn hóa và giao lưu văn hóa. Một lần tôi đi dự hội nghị chữ Nôm quốc tế ở Siam Riep, trong bữa ăn gặp mặt đầu tiên ở một nhà hàng tự chọn, thấy menu có món soup de Vietnam, nhìn cái hình thì là món lẩu. Anh Nguyễn Văn Lịch bên Đại học Tổng hợp thành phố nói với đám khách hội nghị người nước ngoài đó vốn là món lẩu của Tàu. Họ hỏi riết tới, tôi phải giải thích (anh Lịch dịch) rằng lẩu là âm Hoa Hán giọng Quảng Đông, âm Việt Hán là lô tức cái bếp lò, đây chỉ một loại nồi đặc biệt gắn liền với lò, rất tiết kiệm năng lượng mà người Việt ngày trước gọi
là cái cù lao. Vật dùng này vốn của người Mông Cổ trước cả thời Thành Cát Tư hãn, quân kỵ Mông Cổ hành quân thường mỗi người hai ngựa, một con chở người, một con chở lương thực và trang bị khác, trong đó có một cái túi đựng phân ngựa. Ngựa ăn cỏ nên phân nhiều xenluylô, phơi khô cháy rất đượm, họ dùng phân ấy làm chất đốt kết hợp với cái lò tiết kiệm năng lượng kia nên khi hành quân vẫn được ăn nóng, giữ được sức chiến đấu. Sau khi nhà Nguyên chiếm Trung Quốc, loại nồi gắn lò (hay lò gắn nồi) này truyền tới Giang Nam rất được giới thương nhân ngư dân và cả bọn thủy khấu hải tặc đi sông đi biển hoan nghênh vì tiện dùng ở những nơi gió lớn, từ đó nó có tên Tàu. Đến khi nhà Thanh chiếm Trung Quốc, nó lại theo thuyền các di thần phản Thanh phục Minh Hoa Nam trôi qua Việt Nam mà đặc biệt là Đàng Trong. Trên nguyên tắc nó là cái lò nhưng được dùng để gọi chung các món canh nhiều mỡ cần ăn nóng, Việt Nam vẫn gọi theo tên Tàu là lẩu, bây giờ theo chân người Việt lên biên giới Campuchia – Thái Lan lại có hộ chiếu mang tên lai Pháp. Nhưng gọi là soup de Vietnam cũng đáng, vì nó đã được Việt hóa trăm phần trăm, chẳng hạn nhà hàng ấy có cả lẩu mắm, gần giống lẩu mắm ở vùng Đồng Tháp Mười, rất nhiều loại rau dại, có điều tôm cá toàn là thứ đông lạnh.

Tào lao thêm một chút. Tại nhà hàng ấy, tôi còn đọc thấy trong menu món beef luk lak, ngẩn ra xong thì phì cười, vì nó là một cách dịch ra tiếng Pháp (hay Anh) rất sáng tạo mà trung thành về âm điệu từ bò lúc lắc ở Việt Nam. May mà anh Lịch không nói tới món ấy, chứ mấy người nước ngoài kia mà truy nguyên luk lak là gì, chắc tôi cũng chỉ đành cười gượng lak đầu mà nói know die immediate.
26. 7. 2007
Ghi thêm. Định post entry Từ nguyên 2 giải thích nguồn gốc một số từ Hoa Hán, nhưng xem lại những comment trong entry Từ nguyên 1 thấy nên post lại bài Ngầu pín này (vốn là một entry có liên quan tới vấn đề từ Hoa Hán trong blog bị xóa lần truớc) để không phải lặp lại một số điều mà có thể nhiều người đã biết. Không ngờ dài quá, định cắt bớt thì đã có người vào comment, đành phải để thành một entry riêng.

Thật ra lối giải thích pín là tiện trên đây chỉ là một cách suy đoán, chẳng hạn cũng có thể suy đoán đó là bính (mộc + bính) có nghĩa là cái cán, cái cuống, nhưng tôi chưa có dịp hỏi lại. Chính vì chỗ chưa chắc chắn ấy mà tôi không đưa lại entry này vào số Một số entry trong blog cũ. Thật ra chuyện này cũng dễ, cứ ra quán ngầu pín nào đó của người Hoa gọi môt dĩa rồi hỏi nhỏ ông chủ một tiếng là xong, nếu y viết ra chữ cho lại càng chắc ăn, nhưng chính vì dễ nên tôi chưa làm, nay thấy cần nhiều luận điểm trong bài nảy nên đành post lại, nếu sai mong các vị tha lỗi.
Tháng 3. 2008
Hôm qua anh Nguyễn Ngọc Giao có hỏi tôi lấy bài Ngầu pín đưa lên Diễn đàn Forum. Và quả nhiên như tôi đã lo, cách giải thích ngầu pín là ngưu tiện trên đây là không đúng. Khuya hôm nay tôi nhận được thư anh Giao, nguyên văn như sau:
Bài Ngầu pín vừa đưa lên mạng đã có hồi âm của một bạn đọc, xin chuyển ngay để anh biết:

Cám ơn BBT ZD đã đưa bài Ngầu pín của CTT, cho em được dịp học hỏi thêm gốc gác từ nguyên một số chữ Hán Việt rất thú vị… tuy nhiên hình như ông CTT dẫn gốc của ngầu pín là ngưu tiện có vẻ chưa được thuyết phục lắm… có người bảo đúng ra nó có gốc từ chữ Ngưu tiên (牛 鞭) mà người mình học đọc theo âm Quảng Đông thành Ngầu pín. Em thử nhờ cụ Gật Gù kiểm tra hộ lại trên mạng thì thấy trên nhiều trang tiếng Hoa cũng quảng bá đến món Ngưu tiên nàyCó lẽ đấy là tên gọi cho cơ phận của chú Bớp mà người Tàu đã dùng làm roi khi phơi khô thành một hình cụ, mà tiếng Việt mình gọi nôm na là “roi c… bò” thay cho ma-trắc, ngày xưa nhưng đồng thời cũng với tư duy hư cấu sáng tạo đầy phong phú của người Tàu qua âm dương ngũ hành… cái “roi” này cũng đã biến thành một món ăn “bổ dưỡng”… 
Ý kiến của bạn đọc nói trên là chính xác. Tôi nhờ anh Giao chuyển giúp lời cảm ơn của tôi tới anh ấy, và xin đính chính theo cách hiểu pín là tiên (“roi”) này. Từ cách hiểu này, còn có thể thấy Yàng pín là Dương tiên tức “roi” dê, Thố pín là Thố tiên tức “roi” thỏ…

8. 3. 2008

Saturday, 21 April 2012

Từ ghêm có tội tình gì?



Một số người di ứng rất mạnh với từ ghêm. Viết là game lại càng nặng tội hơn. Theo họ, ghêm/game hoàn toàn có thể được thay bằng trò chơi.
Người khác lại bảo rằng không phải trò chơi nào cũng là ghêm. Mà giả sử như ghêm với trò chơi là một thì đã sao? Có thể nhân danh điều gì để ép mọi người chỉ được dùng từ ngữ này, không được dùng từ ngữ kia để chỉ một hiện thực duy nhất?
Tình hình càng phức tạp hơn khi ghêm tham gia cấu tạo từ ngữ mới: ghêm truyền hình (tiếng Anh: TV game show), ghêm thủ (tiếng Anh: gamer), ghêm thủ cao cấp (tiếng Anh: advanced gamer), cây chơi ghêm (tiếng Anh: PC gaming case)...  Chấp nhận ghêm thì không có lý do gì để gạt bỏ ghêm sô (tiếng Anh: game show), ghêm mờ (tiếng Anh: gamer). Lại phát sinh thêm xung đột đồng nghĩa (ghêm mờ/ghêm thủ, ghêm sô/ghêm truyền hình...).
Loạn, nhưng sao không ai đứng ra dẹp?
Thực ra thỉnh thoảng vẫn có một vài nhà chính trị, nhà ngôn ngữ học, nhà biên soạn từ điển, nhà giáo, nhà văn... lên tiếng nhưng tiếng nói của họ dường như không tạo được hiệu quả mong muốn.  Ký ức về một thời chưa xa khiến người dân hiện nay thấy thà loạn thế mà được tự do nói năng theo ý mình vẫn hơn là bị gò ép tuân thủ quy định, khuôn mẫu của người khác. Nhà chính trị một mặt biết rằng không thể tiếp tục cai trị như xưa, mặt khác cũng sợ bản thân mình có ngày trở thành nạn nhân của cái chính sách ngôn ngữ có tham vọng quy hoạch xã hội như một trại lính. Vì vậy, ai thích nói gì cứ nói, ai thích nghe gì cứ nghe, nhưng Nhà Nước sẽ không có một hành động nào tạo điều kiện cho bất kỳ phe nhóm lợi ích nào ngoi lên.

Friday, 20 April 2012

TỪ HÁN VIỆT GỐC NHẬT TRONG TIẾNG VIỆT - Trần Đình Sử

55. Từ Hán Việt gốc Nhật trong tiếng Việt (TBHNH 1997)
Cập nhật lúc 22h42, ngày 01/10/2007
TRẦN ĐÌNH SỬ
Đại học Sư phạm Hà Nội
1. Tiếng Việt có một vốn từ Hán - Việt rất lớn. Tuy chưa có con số thống kê xác định, song các nhà ngôn ngữ ước lượng số từ đó chiếm từ 60-80% từ vựng tiếng Việt. Trong số từ Hán Việt tiếp thu được từ thư tịch Hán cổ, từ Hán ngữ hiện đại, có một loạt từ Hán Việt, tuy tiếp thu chủ yếu qua con đường từ sách báo Trung Quốc nhưng lại có nguồn gốc Nhật Bản, chính người Trung Quốc cũng xem là từ ngoại lai có nguồn gốc Nhật Bản của họ. Có thể có cả từ gốc Nhật người Nhật trực tiếp đem đến Việt Nam hoặc người Việt trực tiếp vay mượn.
2. Dựa vào Từ điển từ ngoại lai của tiếng Hán do các tác giả Lưu Chính Đàm, Cao Danh Khải, Mạch Vĩnh Càn, Sử Hữu Vi biên soạn từ năm 1958, hoàn thành vào năm 1978, xuất bản năm 1984(1) có thể nhặt ra khoảng trên 350 từ gốc Nhật mà ngày nay vẫn được sử dụng trong tiếng Việt, chắc chắn là tiếp thu qua sách báo Trung Quốc.
Các từ đó là:
a- Về chính trị, xã hội có:
Quốc lập, quốc thể, Cơ quan, kiên trì, độc tài, độc chiếm, thừa nhận, thành viên, xuất phát điểm, bối cảnh, nguyên tắc, trọng điểm, xã giao, thi hành, lao động, nghị viện, nghị quyết, chính sách, chính đảng, tổ chức, phương châm, hiến pháp, mục tiêu, nội các, tuyển cử, tuyên truyền, hiệp hội, hiệp định, nhân quyền, xã hội, nhân văn chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa, giai cấp, vô sản, quyền uy, lập hiến, lập trường, lãnh thổ, đặc quyền, đặc vụ, đồng tình, thị trường, biểu quyết, hiến binh, nghĩa vụ, tư bản, tự do, chỉ thị, chỉ đạo, trung tướng, thiếu tướng, thiếu úy, nguyên soái, trọng tài, công dân, cách mạng, cao trào, quan điểm, quốc tế, công nhận, công bố, cộng hòa, cương lĩnh, cán bộ, chi bộ, tập trung, tập đoàn, giải phóng, câu lạc bộ, quân nhu, quan hậu, hội đàm, động viên, đại biểu, đại bản doanh, pháp luật, phản đối, kháng nghị, phản động, đại cục, đề kháng, tổng lãnh sự, tổng động viên, thẩm phán, thẩm vấn, bồi thẩm viên, thời sự, thực quyền, xâm phạm, tuyên chiến, dân chủ, tư pháp, phán quyết, phục vụ, phủ quyết, phần tử, thủ tiêu, tiến triển, lý tưởng, đăng kí, đơn vị, quốc giáo, hàng không mẫu hạm, Cơ đốc giáo, chiến tuyến.
b- Về thương nghiệp, kinh tế có:
Động sản, bất động sản, dự toán, ngân hàng, tài phiệt, xuất khẩu, nhập khẩu, nhập siêu, xuất siêu, kinh doanh, tối huệ quốc, tín dụng, hiệu quả, tiêu phí, bảo hiểm, sinh sản, thương nghiệp, thống kê, đầu tư, đầu cơ, thực nghiệp, công nghiệp, kinh tế, kế hoạch, giao thông, giám định, cố định, quảng cáo, qui phạm, thi công, quốc khố.
c- Về triết học có:
Triết học, hư vô chủ nghĩa, hình nhi thượng, tri thức, nội tại, ngoại tại, hữu tượng, khánh thể, chủ thể, khách quan, chủ quan, chủ động, ngẫu nhiên, tất nhiên, hiện tượng, bản chất, tất yếu, hiện thực, khẳng định, phủ nhận, phủ định, nguyên tố, yếu tố, tương đối, tuyệt đối, tích cực, tiêu cực, bi quan, nội dung, quan niệm, năng động, tính năng, ý thức, vật chất, lí trí, lí tính, lí luận, khái niệm, phạm trù, tư tưởng, tư trào, không gian, thời gian, mệnh đề, biểu tượng, nguyên lí, kinh nghiệm, mục đích, động cơ, phân tích, phân giải, ấn tượng, tưởng tượng, ám thị, tổng hợp, diễn dịch, trực tiếp, gián tiếp, trực quan, trực giác, qui nạp, khái quát, định nghĩa, tinh thần, pháp tắc, tiến hóa, tiến hóa luận, thoái hóa, năng lực, phương thức, chủ nghĩa, biện chứng pháp, nguyên động lực, duy vật luận, duy tâm luận, thế giới quan, luận chiến, chất lượng, giao tế, giám định, cơ chất, quá độ, hoàn cảnh, đơn thuần, tín hiệu, dị vật, kí hiệu.
d- Về khoa học, giáo dục có:
Khoa học, khoa mục, khóa trình, lũy tiến, chân không, chỉ số, diễn tập, thể dục, thể thao, học hội, kim cương, truyền nhiễm, kích thích, loại hình, xã hội học, luận lí học, tâm lí học, sinh lí học, ngữ nguyên học, địa chất học, động lực học, lượng tử, bán kính, dương cực, âm cực, thám hiểm, nhân cách, vật lí, hóa học, tiêu hóa, ôn độ, khuếch tán, bão hòa, giáo dục học, giáo khoa thư, lực học, tĩnh mạch, động mạch, thần kinh, thôi miên, tế bào, thăng hoa, hệ thống, đức dục, địa chất, kiến tập, phản ứng, phản xạ, mẫn cảm, huyết sắc tố, phóng xạ, bức xạ, phương án, phương trình, thôi miên, cơ giới, phát minh, thần kinh giao cảm, giả định, vận động, tổ hợp, din dưỡng, di truyền, y học, giải phẫu, ý nghĩa, bạch kim, nguyên tử, tiêu bản, thành phần, trường hợp, thường thức, quan trắc, học vị, nghiệp vụ, bác sĩ, giảng sư, quan tuyến, hóa thạch, giáo thụ.
e- Về văn hóa, nghệ thuật có:
Bi kịch, mĩ thuật, mĩ cảm, mĩ hóa, văn học, kịch trường, vũ đài, đạo cụ, sáng tác, giao hưởng, kiến trúc, ca kịch, nguyên tắc, diễn xuất, diễn thuyết, nghệ thuật, diễn tấu, đăng tải, xuất bản, tham quan, tạp chí, chủ bút, tân văn, kí giả, tư liệu, tác phẩm, tác giả, tọa đàm, chế bản, mạn đàm, văn hóa, văn minh, hội thoại, quảng trường, kị sĩ, kỉ lục, triển lãm.
3. Số từ Hán Việt gốc Nhật trên đây được tiếp nhận từ Hán gốc Nhật trong một thời gian dài. Có nhiều từ như cách mạng, thực nghiệp, nghị viện tiếp thu từ đầu thế kỉ. Các từ giai cấp, vô sản, lập trường… tiếp thu từ những năm 20. Các danh từ khoa học giáo dục thì muộn hơn, các từ như chế bản có lẽ là du nhập gần đây.
4. Không phải mọi từ Hán gốc Nhật đều chuyển thành từ Hán Việt gốc Nhật. Chẳng hạn từ Hán gốc Nhật “Nhân lực xe” - người Việt có từ xe tay, xe kéo cho nên không vay mượn nữa. Từ Hán gốc Nhật có bi kịch, hỉ kịch, lãnh thổ, lãnh không, lãnh hải… nhưng người Việt chỉ tiếp thu từ bi kịch, còn hỉ kịch thì gọi băng hài kịch, người Việt không dùng các từ lãnh hải, lãnh không mà dùng từ vùng biển, vùng trời. Từ Hán gốc Nhật còn nhiều từ nữa mà không trở thành từ Hán Việt gốc Nhật.
5. Các từ Hán Việt gốc Nhật có hai loại chủ yếu:
a, Một loại gồm các từ do người Nhật sử dụng yếu tố Hán để tạo ra từ của mình nhằm phiên dịch, diễn đạt các khái niệm mới về khoa học, giáo dục, chính trị, xã hội như các từ: chính đảng, giai cấp, tuyên truyền, công dân, dân chủ, xã hội chủ nghĩa, hư vô chủ nghĩa, tế bào, chân không… Loại này đều mang một hàm nghĩa hiện đại xác định, không gây nhầm lẫn hiểu lầm nào.
b, Loại thứ hai gồm các từ người Nhật vay mượn từ của Trung Quốc từ nguồn thư tịch cổ, rồi phú cho nó một ý nghĩa mới, như: văn minh, văn hóa, cách mạng, văn học, tưởng tượng, tinh thần, pháp luật, phân tích, phân phối, pháp tắc… Những từ này đối với người Trung Quốc, cũng như đối với người Việt Nam, chúng vừa quen lại vừa lạ, và do đó nhiều khi không nhận ra cái nghĩa ngoại nhập mới mẻ của nó.
Ví dụ: hai chữ “cách mạng”, trong Kinh Dịch có câu: “Thiên địa cách nhi tứ thời thành, Thang Vũ cách mạng, thuận hồ thiên ứng hồ nhân” – nghĩa là Trời đất đổi thay mà thành bốn mùa, Thang Vũ đổi thay mệnh, thuận theo trời mà ứng theo người”. Nhưng cách mạng trong ý nghĩa hiện đại hoàn toàn khác: đó là một cuộc đổi thay lớn, trọng đại trong công cuộc cải tạo xã hội và thiên nhiên, một cuộc nhảy vọt từ chất cũ sang chất mới, chứ không phải đổi thay thông thường, như mùa này thay mùa kia. Đây là người Nhật dùng để dịch ý từ tiếng Anh revolution.
Lại ví dụ từ “văn hóa”, trong tiếng Hán cổ chỉ việc “văn trị, giáo hóa”. Người Nhật dùng từ này để dịch ý từ tiếng Anh culture tức là chỉ toàn bộ các giá trị tinh thần và vật chất mà con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử của mình. Ông Đặng Thai Mai đã nói về cảm nhận quen mà lạ đối với từ này như sau: “Danh từ “văn hóa” chúng ta đã mượn ở tiếng Tàu - người Tàu lấy hai chữ này ở sách cổ - bộ Kinh Dịch để phô diễn một khái niệm mới của khoa học hiện đại… Vậy muốn có ý niệm xác đáng, ta phải công nhận cho chữ “văn hóa” hiện thời một nghĩa mới, nguồn gốc tự Tây phương”(1).
Từ Văn học lại càng thú vị. Đây là từ người Nhật dùng để dịch ý từ tiếng Anh literature: với hàm nghĩa là chỉ các tác phẩm dùng ngôn ngữ, văn tự làm công cụ để biểu hiện một cách hình tượng đời sống con người, bao gồm thơ ca, tiểu thuyết, tản văn, kịch, kí. Trong Luận ngữ có câu: Văn học Tử Du Tử Hạ” thì văn học được dùng với nghĩa là học vấn uyên bác, biết nhiều về văn hiến, không dính dáng gì với ý nghĩa hiện đaij. Lương Khải Siêu từng ở Nhật, hapá thu từ văn học của Nhật, cho nên trong trước tác của ông hai chữ văn học khi thì chỉ học vấn, khi thì chỉ văn học bao gồm tiểu thuyết và kịch, một ý nghĩa mà người Trung Quốc xưa không bao giờ nghĩ đến. Nhà nghiên cứu Nhật, Tá Đằng Nhất Lang cho rằng đó là ảnh hưởng Nhật(2).
Ở Việt Nam có lẽ ông Võ Liên Sơn là sớm nhất nhận ra cái nghĩa mới của từ đó. Năm 1927, ông viết; “danh từ văn học bây giờ người Tàu, người Nhật chỉ dùng theo nghĩa mới, nghĩa hẹp, cũng như hai chữ mĩ văn (belles lettres), nhưng từ thứ văn có tình cảm, mĩ cảm, thuộc về phạm vi nghệ thuật, chứ không gồm cả bao nhiêu văn tự kĩ thuật khác, nó thuộc về phạm vi khoa học”(3) và các tác giả đương thời sử dụng hai chữ này theo nghĩa mới một cách tự nhiên. Ví dụ Phạm Quỳnh viết Văn học nước Pháp (1921), Phan Khôi viết: Tục ngữ, phong dao và địa vị của nó trong văn học (1939). Nguyễn Thị Kiên viết Nữ lưu với văn học (1932). Các tập văn học sử của các tác giả đồng thời dùng hai từ văn học. Ông Đặng Thai Mai cũng viết: Dưới ảnh hưởng của tư triều Âu, Mỹ, hai chữ văn học ngày nay đã bao hàm một ý nghĩa khác hẳn nghĩa đen ngày xưa của nó(4).
Loại từ thứ hai này chỉ là một lối vay mượn từ có sẵn từ xưa để định nghĩa một từ mới của các nước, đó là một ước lệ, thiết nghĩ nên hiểu theo nghĩa mới đó trong dòng chảy của từ vựng.
Từ Hán Việt gốc Nhật là một phạm vi từ rất đặc biệt. Nó phản ánh các mối quan hệ văn hóa đặc thù của các nước Châu Á trong tư triều Âu Mỹ hiện đại. Nhật chịu ảnh hưởng văn hóa Hán và đã tác động trở lại tiếng Hán. Người Việt qua sách vở Trung Quốc mà tiếp thu từ mới của Nhật và qua đó mà tiếp thu văn hóa phương Tây. Việc xác lập các từ có nguồn gốc Nhật và sẽ góp phần để xác lập các từ Hán Việt gốc Việt, do người Việt sáng tạo ra. Nhưng đó sẽ là một vấn đề khác.
Chú thích:
1. Đặng Thai Mai, Nguyễn Hữu Đang: Định nghĩa hai chữ văn hóa/ Tuyển tập phê bình, nghiên cứu văn học Việt Nam (1900-1945), T5, H.Văn học, 1997, tr.327.
2. Tá Đằng Nhất Lang: Trung Quốc văn chương luận, Thượng Hải cổ tịch, 1996, tr.250.
3. Võ Liêm Sơn, Văn học và xã hội/ Thơ văn Võ Liêm Sơn, Hội Văn nghệ Nghệ Tĩnh, Vinh 1993, tr.135.
4. Văn học khái luận, 1994/ Tuyển tập phê bình, nghiên cứu văn học 1900 – 1945, T.5. Nxb Văn học, Hà Nội, 1997. tr.288.
Thông báo Hán Nôm học 1997 (tr.552-559)