Sunday, 27 May 2012

ĐI TÌM ÂM ĐỌC CỔ CHO CHỮ “LƠ THƠ” - Trần Trọng Dương

Trần Trọng Dương Đi tìm âm đọc cổ cho chữ "lơ thơ" (Tạp chí Hán Nôm, Số 3 (76) 2006; Tr.44-53)
Cập nhật lúc 08h20, ngày 05/12/2006
TRẦN TRỌNG DƯƠNG
ThS. Khoa Bảo tàng, ĐH Văn hóa Hà Nội
1. Trước các bản Nôm cổ, người phiên chú ứng xử với hai tư cách: trước tiên là người đi tìm chữ nghĩa, người giải mã; thứ hai - người đọc, người thưởng thức. Tư cách thứ hai dường như luôn là những trở lực đối với việc thực hiện phiên âm. Những câu chữ quen thuộc cứ bám riết vào đầu óc và bắt ta trượt theo. Vì vậy, ta luôn phải ý thức về sự bám riết ấy và cố gắng thoát ra khỏi nó bằng cách luôn nhìn văn bản với con mắt nghi ngờ và thực hiện đúng các thao tác phiên âm trong từng trường hợp cụ thể. Như thế, người phiên chú cũng giống như nhà làm thơ: luôn cố gắng thoát ra khỏi sự nhàm chán thông thường, luôn gắng tìm ra những cái mới lạ trong những điều tưởng như là đã quá cũ càng, dĩ nhiên, một cách hữu lý. Chúng tôi muốn nói đến trường hợp chữ LƠ THƠ ở câu thơ 269 trong Truyện Kiều: Lơ thơ tơ liễu buông mành / Con oanh học nói trên cành mỉa mai.
Đây là một trong những câu thơ hay và nổi tiếng trong Kiều. Ngữ nghĩa khá trong sáng. Từ điển Truyện Kiều(1) ghi: “LƠ THƠ: Thưa thớt, không rậm. Td. Lơ thơ tơ liễu buông mành, 269.” [1, tr.271]. Từ điển của Đào Văn Tập cũng ghi: “lơ thơ: Thưa thớt: lơ thơ mấy cái râu; lơ thơ tơ liễu buông mành.” Mục từ này Đào Văn Tập tiếp thu từ cuốn Từ điển của Hội Khai trí tiến đức [2, tr. 317]. Cho đến các từ điển tiếng Việt sau này như từ điển Văn Tân, từ điển của Viện Ngôn ngữ học xuất bản năm 1994 cũng ghi vậy. Một đặc điểm dễ nhận thấy là mục từ “lơ thơ” trong các từ điển của thế kỷ XX đều ghi từ này chỉ có vẻn vẹn một nét nghĩa. Các bản quốc ngữ của Bùi Kỉ, Tản Đà, Bùi Khánh Diễn, Nguyễn Văn Hoàn, Đào Duy Anh…đều nhất loạt phiên là LƠ THƠ(2).
2. Thế nhưng, từ điển J.F.M. Génibrel ghi: “.n. LƠ…id. - thơ, Insouciant, adj. Sans souci blasé, adj. Nonchalamment, adj. Nonchalance, f.--lỉnh, id. - thơ tơ liễu buông mành, Les saules étendent leurs rameaux avec nonchalance.” [3, tr.415]. Tạm dịch là: “. n. LƠ…id. Lơ thơ, chẳng lo nghĩ đến cái gì, vô tư vô tâm, adj. Chán chường không bận tâm, adj. Hững hờ, Adv. Uể oải, f--lỉnh, id. Lơ thơ tơ liễu buông mành. Những cây dương liễu xỏa rộng những cành nhánh của nó một cách hững hờ = liễu hờ hững buông tơ.) [2]
Chúng tôi tò mò tra thử từ LƠ THƠ trong hai cuốn từ điển gần thời điểm sáng tác Truyện Kiều thì thấy: Từ điển của Bá Đa Lộc Bỉ Nhu năm 1772-1773 ghi: “lơ thơ   : Sự vật bên ngoài chỉ đáng chê.” [4, tr.259]; từ điển Taberd xuất bản năm 1836 cũng ghi: “  lơ thơ, res specie tantùm contemneuda.” [5, tr.269]. Chúng tôi lại tra ngược lên A de Rhodes thì thấy: “Lơ thơ, lơ xơ, ốm yếu, lử thử, lừ thừ.” [8, tr.138, tr.223]. Nhưng từ LƠ THƠ của Nguyễn Du khó có thể mang nghĩa này. Bởi câu thơ đang tả cảnh lúc Kim Trọng trở lại chốn cũ, nơi chàng lần đầu gặp người đẹp. Hoặc có chăng cảnh ấy mang cả tâm trạng của con người thì dịch như Génibrel thì cũng hợp lý.
Như vậy, phải chăng có sự trùng hình, đồng âm giữa từ LƠ THƠ của Nguyễn Du với mục từ “lơ thơ” trong ba cuốn từ điển cổ nói trên ?
3. Từ những nghi ngờ trên, chúng tôi tiến hành khảo sát về tự dạng trong các bản Nôm cổ, kết quả như sau:

TT
Bản
Năm

Tự dạng

Phiên âm(3)
1 
Liễu Văn đường
1866
NKB, NQT: Lơ thơ.
2 
Nguyễn Hữu Lập
1870
 
NQT: Lơ thơ.
3 
Liễu Văn đường
1871
NQT: Lơ thơ.
4 
Duy Minh Thị
1872
閭 舒
NTC: Lơ thơ.
5 
Kiều Oánh Mậu
1902
TA: Lơ thơ.

Ta thấy rằng cách ghi Nôm khá thống nhất: chữ LƠ được ghi bằng ba tự dạng khác nhau, chữ THƠ được ghi bằng hai tự dạng. Một đặc điểm dễ nhận thấy là các từ dùng ghi âm là những từ có cách đọc Hán Việt khá giống nhau:
STT

Tự dạng

Âm Hán Việt
1.
La sơ
2.
Lư sơ
3.
閭 舒
Lư thư
Ba trường hợp có tất cả 5 tự dạng Nôm khác nhau, nhưng chỉ có 4 âm đọc Hán Việt, vì đều đọc là LƯ. Chúng tôi tiến hành đưa ra các khả năng âm đọc trên lý thuyết(4) cho 4 âm này (Xem các bảng 1, 2, 3, 4 trong phụ lục). Cụ thể như sau:
- Các khả năng đọc của âm LA = các biến âm của L x các biến âm của A = 10 x 8 = 80 khả năng.
- Các khả năng đọc của âm SƠ = các biến âm của S x các biến âm của Ơ = 6 x 3 = 18 khả năng.
- Các khả năng đọc của âm LƯ = các biến âm của L x các biến âm của Ư
= 10 x 4 = 40 khả năng.
- Các khả năng đọc của âm THƯ = các biến âm của TH x các biến âm của Ư = 10 x 4 = 40 khả năng.
Như vậy, ta có các kết quả sau:
Tổng khả năng âm đọc của LA SƠ = LA x SƠ = 80 x 18 = 1440 khả năng. Tổng khả năng âm đọc của LƯ SƠ = LƯ x SƠ = 40 x 10 = 400 khả năng. Tổng khả năng âm đọc của LƯ THƯ = LƯ x THƯ = 40 x 40 = 1600 khả năng.
4. Để kiểm tra các cách đọc này có thể xuất hiện trên thực tế hay không, chúng tôi đã tiến hành tra các từ điển cổ. Kết quả, chúng tôi đã tìm được các âm đọc sau (một điều thú vị là các âm đọc này đều là các khả năng đọc trùng cho cả 3 trường hợp): xơ rơ, xơ xơ, sơ sơ, thưa thưa, thơ rơ, thơ thơ, lơ thơ, lơ sơ, lờ rờ. Chưa kể biến âm hiện đại: lưa thưa.
So với tự dạng trong các văn bản, ta có thể loại bỏ các trường hợp: xơ xơ, sơ sơ, thưa thưa, thơ thơ. Vì nếu đã có âm đọc giống nhau chúng khó có thể được ghi bằng hai tự dạng khác nhau. Xét về ngữ nghĩa trong văn bản, chúng ta cũng có thể loại các khả năng đọc như: lờ rờ, sơ sơ. Như vậy, chỉ còn các âm đọc: xơ rơ, thơ rơlơ thơ, ngoài ra có thể đọc theo biến âm khác là rơ thơ, tuy rằng từ này không được ghi trong các từ điển, nhưng nó vẫn có thể tồn tại trong thực tế.
Từ điển A. de. Rhodes ghi: “Cây thơ rơ: cây không có lá, trụi lá.” [8, tr.223]. Từ điển của Bá Đa Lộc Bỉ Nhu cũng ghi: “ (5) Thơ rơ. Cây trụi lá.” [4, tr.470]. Từ điển Taberd cũng ghi: “thơ rơ, arbor foliis expoliata.” [5, tr.499].
Tra trong từ điển của Huỳnh Tịnh Paulus Của thì thấy: “lơ thơ: xơ rơ, thưa thớt” [6, tr.573], “ xơ .n. Rã rời, tan tác, còn cái xác không, cái bã không, cái vỏ không. Xơ xơ: rách rã, tơi bời, tan tác. Xơ rơ (xác rác): thưa thớt còi cụt, trơ trọi, còn nhánh không, (cây cối). Bão bùng cành ngọn xơ rơ.” [6, tr.1198]; “ rơ,… xơ rơ: thưa thớt, xờ xạc, (cây cỏ)” [6, tr.874]; “Thơ rơ: xơ rơ thưa thớt, như cây mùa đông, nhánh lá xơ rơ. Thơ thơ. id.” [6, tr.1018].
Quả là có hiện tượng trùng hình, đồng âm ở đây! Đó là sự trùng hình giữa từ LƠ THƠ cổ từ đầu thế kỉ XIX trở về trước với từ LƠ THƠ (biến thể của từ THƠ RƠ cổ từ nửa sau thế kỉ XIX).
5. Còn một vấn đề nữa chúng tôi muốn nói đến trong trường hợp này là: với ba cách ghi trong ba bản Kiều , 盧 , 閭 舒 thì lại ngược vị trí với cách ghi trong từ điển của Bỉ Nhu và Taberd 冟, . Chúng tôi cho rằng sự đảo ngược vị trí của các chữ Nôm ở đây là biểu hiện (về mặt văn tự) của hiện tượng chuyển đổi trật tự âm tiết để tạo biến thể của từ trong các đơn vị từ song tiết. Các biến thể chủ yếu xuất hiện ở từ ghép đẳng lập và từ láy. Tuy nhiên, “các biến thể này chưa thể vượt qua giới hạn của nó để trở thành một từ đồng nghĩa; mà, trên bình diện ngữ âm, khả năng chuyển đổi trật tự âm tiết của từ sẽ dẫn đến kết quả: 1. hoặc tạo thành hai cặp song tiết vừa có sự đối lập về vần, lại vừa có sự đối lập bằng trắc, như: gang thép - thép gang, mỉa mai - mai mỉa…2. hoặc tạo thành hai cặp song tiết chỉ đơn thuần đối lập về vần (không đối lập bằng trắc, như thầm thì - thì thầm, mênh mông - mông mênh… Sự chuyển đổi âm tiết trong trường hợp này lại chịu ảnh hưởng của cơ chế láy” [11, tr.249]. Mục đích của việc đảo âm như vậy là nhằm thay đổi diện mạo ngữ âm trong việc tổ chức hoạt động lời nói cụ thể (nhất là trong thơ), bảo đảm tính hài hòa về âm điệu cho lời nói. Với cách đảo tự dạng Nôm của từ THƠ RƠ ta sẽ có một biến thể lâm thời của nó là RƠ THƠ. Ngay trong Truyện Kiều hiện tượng này cũng đã xảy ra trong câu 270: bên cầu tơ liễu bóng chiều tha la. Các bản Nguyễn Hữu Lập 1870, Kiều Oánh Mậu 1902 đều ghi là   / Ảnh minh họa, (LA THA(6)), các bản Liễu Văn đường 1871 và Duy Minh Thị ghi là [Ảnh minh họa] Ảnh minh họa / Ảnh minh họa, (THA LA/THA RA).
Đến đây ta có thể đi đến kết luận rằng:
(1). Trong giai đoạn cuối thế kỉ XVIII (1773) đầu thế kỉ XIX (1838) (nói rộng hơn là từ 1838 trở về trước), tiếng Việt đã từng tồn tại từ LƠ THƠ với nghĩa là “ốm yếu, lử thử. lừ thừ” hay “sự vật có bộ mặt đáng khinh” và được ghi bằng chữ Nôm ; đồng thời, từ THƠ RƠ (âm cổ của LƠ THƠ) được ghi bằng chữ Nôm với tự dạng là , , có dùng bộ khẩu báo hiệu đọc chệch âm để phân biệt (tại từ điển của Bỉ Nhu và Taberd). Các bản Nôm Liễu Văn đường 1866 và 1871 ghi với tự dạng là cũng nhằm mục đích ấy. Như thế, ta có thể khẳng định rằng cách viết với cách phiên Nôm là RƠ THƠ là cách đọc cổ của thời đại Nguyễn Du.
(2). Sang đến nửa sau thế kỷ XIX (sau 1838), từ LƠ THƠ với các nghĩa cổ “ốm yếu”, “sự vật có bộ mặt đáng khinh” đã biến mất khỏi vốn từ vựng tiếng Việt, và lúc này THƠ RƠ có sự biến dịch ở vỏ ngữ âm, điều này được ghi nhận trong các từ điển. (Xem phụ lục 5). “Sự biến dạng vỏ ngữ âm của từ (mặt biểu hiện của nó) có một giới hạn là từ đồng nghĩa. Đó là những trường hợp mặt biểu hiện biến đổi đi, nhưng biểu vật và nghĩa thì vẫn giữ nguyên” [Ju. Stepanov, chuyển dẫn theo 10].
(3). Trong tiếng Việt giai đoạn này cùng tồn tại các từ tương tự: THƠ RƠ, XƠ RƠ, LƠ THƠ. XƠ RƠ, LƠ THƠ là những từ do THƠ RƠ/ RƠ THƠ cổ phái sinh ra. Lúc này, cách viết được chuyển sang dùng phổ biến để ghi âm LƠ THƠ. (Nhưng từ điển Huỳnh Tịnh Paulus Của ghi thì ba âm “thơ, rơ và xơ” đều cùng được ghi bởi chữ sơ  . Như vậy, THƠ RƠ nếu viết đầy đủ thì có tự dạng là , XƠ RƠ viết đầy đủ cũng có tự dạng là (7)). Theo như con số thống kê của chúng tôi, trong từ điển của Huỳnh Tịnh Paulus Của, chữ THƠ RƠ xuất hiện 1 lần, chữ LƠ THƠ xuất hiện 1 lần, chữ XƠ RƠ xuất hiện 7 lần trong đó 2 lần dùng để chú nghĩa cho THƠ RƠ, LƠ THƠ, 5 lần xuất hiện trong các ví dụ minh họa. Có thể lý giải hiện tượng này như sau: đến cuối thế kỉ XIX, THƠ RƠ đang lùi dần vào “hậu trường” để nhường chỗ cho các từ mới do nó phái sinh. Lúc này, từ XƠ RƠ là một từ phổ dụng; còn từ LƠ THƠ mới bắt đầu được hình thành, và nó mượn luôn hình thức chữ viết của từ LƠ THƠ cổ.
Và như thế, việc trùng hình đồng âm giữa hai chữ hoàn toàn không có tính tương tự, mối liên hệ về mặt ngữ âm lẫn tính tương tự, mối liên hệ về mặt nghĩa đã dẫn đến sự lầm lẫn ở trường hợp này.
Đến cuối thế kỉ XIX, như Génibrel vẫn còn ghi mục từ: “Thơ rơ, Dépouillé de ses feuilles” [3, tr.845], “Xơ rơ, Dépouillé, ad D’un arbre dépouillé de ses feuilles.” [3, tr.978]. Nhưng qua cách ghi Nôm chính xác trong các bản Kiều muộn thì có thể nhận định rằng: cuối thế kỉ XIX, LƠ THƠ đang dần được phổ dụng, nó thay thế các từ có âm đọc cổ hơn. Việc từ điển Génibrel còn ghi mấy mục từ trên là do từ điển này đã tiếp thu từ Huỳnh Tịnh Paulus Của. Tình hình cũng tương tự như vậy đối với các mục từ THƠ RƠ, XƠ RƠ trong từ điển G. Hue (1937). Sang đầu thế kỷ XX (1931), cuốn từ điển đầu tiên chỉ ghi LƠ THƠ mà không ghi âm đọc THƠ RƠ là từ điển của Hội Khai trí tiến đức. Kể từ đó, âm LƠ THƠ được định hình, từ LƠ THƠ phổ dụng từ đó đến nay. Từ điển này cũng ghi biến thể hiện đại của LƠ THƠ là LƯA THƯA, “lưa-thưa. Cũng có nghĩa như “lơ thơ”: sao mọc lưa- thưa.” [2, tr.325].
Đi theo hướng tái lập các âm đọc cổ cho Truyện Kiều qua phương pháp ngữ âm lịch sử là một hướng đi hết sức lý thú và hiệu quả. Và còn phải kể đến kiến thức về cơ sở từ vựng học (tra qua các bộ từ điển cổ). Với phương pháp thứ ba, chúng ta có thể đưa ra các giải pháp âm đọc cổ một cách khá chắc chắn kể cả khi có những bất lợi về văn tự và văn bản học, khi các văn bản Nôm cổ đã mất hoặc đã bị sửa chữa khá nhiều. Với nhận thức như vậy, chúng tôi thử tiến hành kiểm tra lại từ MỈA MAI trong câu “Con oanh học nói trên cành mỉa mai”.
Bá Đa Lộc Bỉ Nhu ghi: “Mỉa. Similis, e. Mỉa mai.Ảnh minh họa Mỉa dạng. Mỉa tợ. Mỉa mỉa. Mỉa chiệng. [4, tr.292]. Taberd tiếp thu: “Mỉa. Similis. Mỉa mai .Mỉa dạng. Mỉa tợ. Mỉa mỉa. Mỉa chiệng.” [5, tr.305]; Huỳnh Tịnh Paulus Của cũng ghi: “Mỉa .n. Mường tượng, gần giống, không khác gì bao nhiêu. Mỉa mai. Mỉa giống. Mỉa dạng. Mỉa Tợ. Mỉa chiệng. Id. [6, tr.646]. Đến Génibrel là “MỈA.1. Semblable à; À peu prés. Mỉa mai, id. Mỉa dạng, id. Mỉa tợ, id. Mỉa chiệng, id. Nói mỉa mai, Parler par figures. Ví mỉa mai, id. 2. Mỉa, (T), Publier quelque chose à la honte de qqn. Mỉa mai, id. Nói mai, id. Mai nhau, S’injurier mutuellement.” [3, tr.452] Tạm dịch là: “Mỉa.1. Giống nhau, tương tự. Mỉa mai, id. Mỉa dạng, id. Mỉa tợ, id. Mỉa chiệng, id. Nói bằng hình ảnh. Ví mỉa mai, id. 2. Mỉa, (T), nói về mọi điều với giọng chế nhạo. Mỉa mai, id. Nói mai, id. Mai nhau, xúc phạm lẫn nhau.”
Ta có thể đi đến kết luận bước đầu như sau: Từ Huỳnh Tịnh Paulus Của về trước MỈA MAI chỉ có một nghĩa là “giống như”; kể từ sau Génibrel mới có từ MỈA MAI nghĩa là “chê bai”, từ này đồng âm với từ MỈA MAI cổ, nhưng cũng kể từ sau Génibrel MỈA MAI cổ đã biến mất. Tuy nó có xuất hiện năm 1937 trong từ điển của G.Hue, nhưng việc đó chỉ chứng minh một điều là G.Hue đã kế thừa mục từ này của Génibrel.
Câu hỏi được đặt ra: để diễn đạt ý “mỉa mai” trong câu thơ trên, Nguyễn Du đã dùng từ gì ? Ắt đó phải là một từ có âm đọc gần giống với MỈA MAI. Nhưng trước tiên ta thử khảo sát về tự dạng của từ này trong các bản Nôm.

STT
Bản
Năm

Tự dạng

Phiên âm
1.
Liễu Văn đường
1866
Ảnh minh họa Ảnh minh họa
NKB, NQT: Mỉa mai
2.
Nguyễn Hữu Lập
1870
Ảnh minh họa 枚
NQT: Mỉa mai
3.
Liễu Văn đường
1871
Ảnh minh họa Ảnh minh họa
NQT: Mỉa mai
4.
Duy Minh Thị
1872
Ảnh minh họa 枚
NTC: Mỉa mai
5.
Kiều Oánh Mậu
1902
Ảnh minh họa Ảnh minh họa
TA: Mỉa mai

 Nhất loạt các tự dạng Nôm đều ghi thống nhất về thanh phù, kèm theo bộ khẩu. Chính bộ khẩu là yếu tố gây nhiễu ở đây. Như ta biết, trong chữ Nôm, chữ “khẩu” tồn tại với hai tư cách: tư cách thứ nhất là bộ thủ dùng để chỉnh trường nghĩa, tư cách thứ hai là một kí hiệu báo hiệu đọc chệch âm. Nếu là “nói mỉa”, dùng bộ khẩu thì không sai. Nhưng đây, chữ khẩu tồn tại với tư cách thứ hai: bộ khẩu báo hiệu đọc chệch; mặt khác, về mặt hình thức, nó dùng để phân biệt với tự dạng của chữ mỉa mai (, ) nghĩa là “giống như”.
Vậy âm đọc chệch ở đây là gì? Đó là từ BẺ BAI mà chúng ta rất hay gặp trong các văn bản Nôm: “bẻ bai. Đg. Vừa chê bai vừa bắt bẻ. Làm thì chẳng thấy mặt nào, Ăn thì khối kẻ xen vào bẻ bai (cd).” [7, tr.13]. Bá Đa Lộc Bỉ Nhu ghi: “Ảnh minh họa Bẻ bai. Chê trách.” [4, tr.36] Taberd ghi: “Ảnh minh họa Bẻ bai, vafer.” [5, tr.21]. Tự dạng Nôm ở hai từ điển trên càng chứng tỏ rằng: có sự phân biệt về hình thức cũng như âm đọc và ý nghĩa giữa BẺ BAI và MỈA MAI. Câu 2851 cũng có từ này: “Bẻ bai rầu rĩ tiếng tơ, Trầm bay lạt khói gió đưa lay rèm.” Từ điển Truyện Kiều ghi: “Bẽ bài. Gốc ở từ Khơ me bekbuôi là châm chọc, không phải từ láy âm. Châm chọc làm cho tủi thẹn. td. Bẽ bài rầu rĩ tiếng tơ.” Các bản Nôm đều ghi với tự dạng là Ảnh minh họa Ảnh minh họa, nên các bản phiên âm đều phiên là BẺ BAI.
Tóm lại, với cách đi như trên: dùng phương pháp tổng hợp (ngữ âm lịch sử, văn tự học, từ vựng lịch sử), chúng tôi tạm đưa ra cách đọc cổ cho hai trường hợp chữ Nôm trong câu 269 như sau: RƠ THƠ(8) tơ liễu buông mành; Con oanh học nói trên cành BẺ BAI. Cũng cần nhắc lại rằng, cách đọc “lơ thơ”, “mỉa mai” là cách đọc phổ biến từ nửa sau thế kỷ XIX, đọc thế tất nhiên không phải là sai xét về mặt ngữ nghĩa. Nhưng xét từ phương diện ngữ âm lịch sử và tự dạng thì chúng ta nên đọc với các âm RƠ THƠ và BẺ BAI thì hợp lý hơn, đây đều là các cách đọc được ghi nhận trong các từ điển ra đời thuộc tiếng Việt trung đại. Trên đây là những tìm hiểu của chúng tôi về trường hợp ngôn ngữ khá nhạy cảm này. Rất mong được các nhà nghiên cứu, quan tâm phủ chính.
Phụ lục: 1. Bảng thống kê khả năng các âm đọc của LA

L/ A

i
e
ưa
ơ
a
ua
ai
ui
S
Si
Se
Sưa
Sa
Sua
Sai
Sui
X
Xi
Xe
Xưa
Xa
Xua
Xai
Xui
T
Ti
Te
Tưa
Ta
Tua
Tai
Tui
Tr
Tri
Tre
Trưa
Trơ
Tra
Trua
Trai
Trui
Ch
Chi
Che
Chưa
Chơ
Cha
Chua
Chai
Chui
Gi
Gi
Gie
Giưa
Giơ
Gia
Giua
Giai
Giui
D
Di
De
Dưa
Da
Dua
Dai
Dui
R
Ri
Re
Rưa
Ra
Rua
Rai
Rui
Nh
Nhi
Nhe
Nhưa
Nhơ
Nha
Nhua
Nhai
Nhui
L
Li
Le
Lưa
La
Lua
Lai
Lui
2. Bảng thống kê các khả năng đọc của SƠ
S/Ơ
ư
ưa
ơ
S
Sưa
X
Xưa
Th
Thư
Thưa
Thơ
Ch
Chư
Chưa
Chơ
Gi
Giư
Giưa
Giơ
R
Rưa
3. Bảng thống kê các khả năng đọc của LƯ và LƯ

L/ư

e
ư
ưa
ơ
S
Se
Sưa
X
Xe
Xưa
T
Te
Tưa
Tr
Tre
Trư
Trưa
Trơ
Ch
Che
Chư
Chưa
Chơ
Gi
Gie
Giư
Giưa
Giơ
D
De
Dưa
R
Re
Rưa
Nh
Nhe
Như
Nhưa
Nhơ
L
Le
Lưa
4. Bảng thống kê các khả năng đọc của THƯ 舒

Th/ ư

e
ư
ưa
ơ
V
Ve
Vưa
H
He
Hưa
S
Se
Sưa
X
Xe
Xưa
Th
The
Thư
Thưa
Thơ
T
Te
Tưa
Ch
Che
Chư
Chưa
Chơ
Gi
Gie
Giư
Giưa
Giơ
D
De
Dưa
Đ
Đe
Đư
Đưa
Đơ

5. Sự tồn tại và diễn biến của LƠ THƠ, THƠ RƠ, MỈA MAI, BẺ BAI trong một số từ điển.

Từ điển

Năm

LƠ THƠ

THƠ RƠ

MỈA MAI

BẺ BAI

De Rhodes
1651
Lơ thơ, lơ xơ. ốm yếu, lử thử, lừ thừ (?) [138, 223]
Thơ rơ. Cây không có lá, trụi lá [223]


Bỉ Nhu
1772- 1773
Lơ thơ. Sự vật bên ngoài chỉ đáng chê. [259] Lơ láo [ 259]
Thơ rơ. Cây trụi lá. [470]
Mỉa mai. giống như [292]
Bẻ bai. Chê trách [36]
Taberd
1838
Lơ thơ. res specie tantùm contemneuda [269]. Lơ láo [269]
Thơ rơ. [499]
Miả mai. giống như [646]
Bẻ bai. Vafer [21]
Huỳnh Tịnh Paulus Của
1895
1896
Lơ láo. [546, 573] Xơ lơ xáo láo [573]
Xơ rơ. Thơ rơ. Lơ thơ. (cây cối) [573, 874, 1018, 1198]
Mỉa mai. giống nhau [452]
Bẻ bai. Chê bai, nhiều tiếng nói [44]
Génibrel
1898
Lơ láo. Insolent, négligent, dégouté [415]
Lơ thơ. hờ hững [415], Xơ rơ (cỏ cây) [978], Thơ rơ [845]
Mỉa mai. giống [452]
Bẻ bai [30]
Mỉa mai [452]
Khai trí
tiến đức
1931
Lơ láo [317] Lua láu [ 320]
Lơ thơ. [317]. Lưa thưa. [325]. Xơ rơ. Trơ trụi (làng) [658] Thơi rơi [576]
V
Bẻ bai. Chê bai [42]. Mỉa mai. Nói cạnh như mỉa [342]
Gustave Hue
1937
Lua láu. Inconvennant, incorrect [524]
Thơ rơ [1016]
Mỉa mai. giống như [566]
Mỉa mai. Nói mỉa mai [566]. Bẻ bai. [37]
Thanh Nghị
1951
Lơ láo [368]
Lơ thơ [762]. Lưa thưa [776], xơ rơ.(làng) [1479]

Bẻ bai. Chê bai [83]. Mỉa mai [817]
Đào Văn Tập
1951
Lơ láo [368]
Lơ thơ. [368]
Lưa thưa [374]
Xơ rơ. Trơ trụi (làng) [718]

Bẻ bai [44], Mỉa mai. [392]
Viện Ngôn Ngữ học
1994
Lơ láo [564]
Lơ thơ. Ít và rất thưa [564]. Lưa thưa. [576]. Xơ rơ (ph.) [1118]

Bẻ bai [52]
Mỉa mai [609]
TĐ từ láy (Viện Ngôn ngữ học)
1995
Xơ lơ. Lơ láo [575]. Xơ lơ xáo láo.(Ph), Lơ láo [304], Láo lơ [229]
Lơ thơ [305]. Xơ rơ .[575], Lưa thưa [326] Lua tua [313]. Thơ thớt [514]

Mai mỉa [331] Mỉa mai [339] Bẻ bai [38]

Chú thích:
(1) Xin xem: Nguyễn Du, Kim Vân Kiều (Đoạn trường tân thanh), Bùi Khánh Diễn chú thích (lần 3), Nxb. Sống mới, Sài Gòn, 1960, tr.50; Nguyễn Du, Truyện Kiều, Bùi Kỷ hiệu khảo, H. 1960 tr.24; Nguyễn Du, Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu chú giải, Nxb. Hương Sơn, 6 Đại lộ Gia Long, H. 1952 (in lần 1, Tân dân. H. 1940), tr.31; Nguyễn Du, Truyện Kiều, Nguyễn Văn Hoàn chủ biên, Nxb. Văn học. 1965 (tr.30), Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Phan Ngọc bổ sung và sửa chữa, Nxb. KHXH, H. 1987, tr.271 & tr.530; Nguyễn Du, Đoạn trường tân thanh - Truyện Kiều, đối chiếu Nôm - Quốc ngữ, Thế Anh phiên âm & khảo dị, Nxb. Văn học.1999, tr.41; Nguyễn Du, Truyện Kiều, bản Nôm cổ nhất: Liễu Văn đường 1871,
            Nguyễn Quảng Tuân phiên âm & khảo dị, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học & Nxb. Văn học, Tp. Hồ Chí Minh. 2002 tr.56; Nguyễn Tài Cẩn, Tư liệu Truyện Kiều - Bản Duy Minh Thị 1872, Nxb. Đại học Quốc gia H. 2002 tr.90; Nguyễn Du, Truyện Kiều - Bản Kinh đời Tự Đức 1870, Nguyễn Quảng Tuân phiên âm & khảo dị, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học & Nxb. Văn học, 2003 tr.88; Nguyễn Du, Truyện Kiều - Bản cổ nhất khắc in năm 1866 - Liễu Văn đường, Tự Đức thập cửu niên, Nguyễn Khắc Bảo & Nguyễn Trí Sơn phiên âm và khảo đính 10 bản Nôm cổ, Nxb. Nghệ An, Nghệ An 2004, tr.53. Paul Schneider, Dictionnaire historique des ideogrammes Vietnamiens, Domaine Carlone- 98, boulevard Edouard Heriot- BP 209- 06204 NICE Cedex 3 (France) trang 436 ghi: lơ / LƠ. LƠ THƠ, LƯA THƯA. Clairsemé, rare. HD 20I1. Bóng nảy lơ thơ chiều cảnh muộn (Les fleurs), sépanouissent claisemées, dans un paysage de crépusule.” LƠ THƠ từ thế kỉ XVII về trước lại mang nghĩa khác. Từ điển Việt - Bồ - La của de Rhodes ghi: “Lơ thơ: ốm yếu, lử thử, lừ thừ.” [8, tr.223], “Lơ thơ, lơ xơ: ốm yếu.” [8, tr.138]. Câu thơ này tả cây sen cuối hè lúc đã tàn, nhánh lá xơ xác trong chiều hôm. (Xem Hồng Đức quốc âm thi tập.AB.292). Câu này nên phiên là: bóng nấy rơ thơ chầu cảnh muộn, mình hằng đeo đẳng bén mùi hương.
(2) “Lơ thơ” với nét nghĩa là “hờ hững” như từ điển của Génibrel là một nét nghĩa hơi khác trong quá trình biến đổi ngữ nghĩa của từ này, cần phải tìm hiểu thêm. Trong phạm vi của bài viết, chúng tôi tạm chưa đề cập đến.
(3) NQT: Nguyễn Quảng Tuân, NKB: Nguyễn Khắc Bảo, NTC: Nguyễn Tài Cẩn, TA: Thế Anh; xin xem: Nguyễn Du, Đoạn trường tân thanh - Truyện Kiều, đối chiếu Nôm - Quốc ngữ, Thế Anh phiên âm & khảo dị, Nxb. Văn học, 1999, tr.41; Nguyễn Du, Truyện Kiều, Bản Nôm cổ nhất: Liễu Văn đường 1871, Nguyễn Quảng Tuân phiên âm & khảo dị, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học & Nxb. Văn học, Tp.Hồ Chí Minh, 2002 tr.56; Nguyễn Tài Cẩn: Tư liệu Truyện Kiều - Bản Duy Minh Thị 1872, Nxb. Đại học Quốc gia, H. 2002, tr.90; Nguyễn Du, Truyện Kiều - Bản Kinh đời Tự Đức 1870, Nguyễn Quảng Tuân phiên âm & khảo dị, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học & Nxb. Văn học. 2003, tr.88; Nguyễn Du, Truyện Kiều - Bản cổ nhất khắc in năm 1866 - Liễu Văn đường, Tự Đức thập cửu niên, Nguyễn Khắc Bảo & Nguyễn Trí Sơn phiên âm và khảo đính 10 bản Nôm cổ, Nxb.Nghệ An, Nghệ An 2004, tr.53.
(4) Các tự dạng Nôm của Béhaine chúng tôi lấy từ nguyên bản chép tay, phần dịch trích theo bản dịch của Nguyễn Khắc Xuyên.
(5) Xin xem Nguyễn Tài Cẩn, Thử tìm cách đọc Nôm cho hai chữ SONG VIẾT, Một số vấn đề về chữ Nôm, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H. 1985 [tr.181-210], Khảo sát quá trình diễn biến của chữ Nôm thông qua mô hình ngữ âm của chữ (Nguyễn Tài Cẩn, N.V. Xtankevich), nt, [tr.138-tr155].
(6) GS. Nguyễn Tài Cẩn cho rằng bản này khắc ngược thành LA THA. Nhưng với cách ghi tương tự như ở bản Nguyễn Hữu Lập thì chúng tôi cho rằng LA THA là một biến thể của THA LA mà thôi. Nguyễn Quảng Tuân, Thế Anh đều phiên theo mặt chữ là LA THA, nhưng không chú thích gì cả. Trong các từ điển (Génibrel và G.Hue) chỉ thấy ghi chính thể là THA LA mà không thấy ghi biến thể của nó là LA THA. Tuy nhiên, theo khảo sát sơ bộ của chúng tôi, các từ điển cổ không thấy ghi nhận hiện tượng này.
(7) Việc hai âm tiết khác nhau (tuy là gần âm) nằm trong cùng một từ song tiết lại được ghi bằng một mã chữ Nôm là điều không xảy ra trong thực tế. Thường thì, chỉ có trường hợp từ song tiết là từ láy âm mới được ghi như vậy, ví dụ như cạy cạy được ghi bằng , sớm sớm được ghi bằng  . Huỳnh Tịnh Paulus Của chỉ ghi mã chữ Nôm cho mục tự, còn các mục từ (từ song tiết) ghi ở dưới thì lại không có chữ Nôm, nên mới có hiện tượng này.
(8) Ngữ liệu bổ sung: trong cuốn Thiền tông khóa hư ngữ lục do Huệ Tĩnh giải nghĩa (thế kỉ XVII, trước sau 1631?), kí hiệu Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm AB.268, từ THƠ RƠ xuất hiện hai lần, cả hai lần đều được dùng để dịch từ y hy trong nguyên văn chữ Hán: Thơ rơ mặt nước, sang rỡ rỡ đóm nháng  疎 闾 �� 渃 浪 焒 焒 ? 盎 .55a4 [nv. , nghĩa là: lơ thơ mặt nước mấy con đom đóm đang bay qua]; Thơ rơ mà rừng trúc rây vàng, thấp thoáng trong sân hoa mà chơi ngọc 舒 疎 麻 棱 竹 篩 黃, 濕 光 中 �� 花 麻 制 玉. 62a5 [依 稀 而 林 竹 篩 金, 隱 暯 而 花 庭 弄 玉]. Tự dạng Nôm ở hai ví dụ này cũng là những cứ liệu hết sức thú vị, bổ sung cho nhận định ban đầu của chúng tôi về cách ghi âm của chữ Nôm cho từ THƠ RƠ.
Từ điển tra cứu & tài liệu tham khảo
1. Đào Duy Anh: Từ điển Truyện Kiều, Phan Ngọc bổ sung và sửa chữa, Nxb. KHXH, H. 1987.
2. Hội Khai trí Tiến đức: Việt Nam tự điển, HANOI Imprimerie Trung-Bac Tan-Van. Mặc Lâm xuất bản.1931.
3. J.F.M. Génibrel: Dictionnaire Annamite - Français (大 越 國 音 漢 字 法 釋 集 成), SaiGon Imprimerie de la mission à Tân Định.1898.
4. Pierre Pegneaux de Béhaine (Bá Đa Lộc Bỉ Nhu): Dictionarium Anamitico Latinum 1772-1772 (Tự vị An nam La tinh), Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch và giới thiệu, Nxb. Trẻ, 1999.
5. L.J. Taberd: Dictionarium Anamitico- Latinum (南 越 洋 合 字 彙 Nam Việt Dương hiệp tự vị), //.1838.
6. Huỳnh Tịnh Paulus Của: “大 南 國 音 字 彙 Đại Nam quấc âm tự vị, SaiGon Imprimerie REY, CURIOL & Cie, 4, rue d’Adran, 4. 1895-1896; Nxb.Trẻ. 1998 (theo ấn bản 1895-1896).
7. Vương Lộc: Từ điển từ cổ, Trung tâm Từ điển học & Nxb. Đà Nẵng. Hà Nội -Đà Nẵng 1999.
8. A. de. Rhodes: Từ điển Việt Bồ La, Thanh Lãng dịch, Nxb. KHXH, H. 1994.
9. Nguyễn Tài Cẩn: Một số vấn đề về chữ Nôm, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H.1985.
10. Vũ Đức Nghiệu: Những từ có liên hệ với nhau về nghĩa và lịch sử âm đầu trong tiếng Việt (Luận án PTS. KH. Ngữ văn), H. 1995.
11. Nguyễn Thúy Khanh, Đào Thản: Khả năng chuyển đổi trật tự âm tiết để tạo biến thể của từ trong các đơn vị từ vựng song tiết, trong Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông, Viện Ngôn ngữ học, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, H. 1986./.
(Tạp chí Hán Nôm, Số 3 (76) 2006; Tr.44-53)

Saturday, 26 May 2012

Tiếng Việt hôm nay: Sợ hơn bão táp (Cao Xuân Hạo)

Nhiều cán bộ lãnh đạo nền giáo dục của ta đã thấy tính vô hiệu quả của cách dạy tiếng Việt ở nhà trường: vào đại học, nhiều sinh viên chưa biết viết một bức thư cho đúng ngữ pháp và chính tả; đến nỗi Bộ phải ra quyết định buộc sinh viên năm thứ nhất tất cả các trường phải học “Tiếng Việt thực hành”, và nhiều giáo sư văn học đã phải thốt lên: “Mong sao sau 12 năm học phổ thông con tôi vẫn còn nói và viết được tiếng Việt như trước khi đi học!”. Một ông bạn cũ lâu năm gặp lại, nay là hiệu trưởng trường phổ thông cơ sở, khi biết tôi đang dạy và viết về tiếng Việt, liền tái mặt và van xin tôi tha thiết: “/i>Anh chớ viết thêm cái gì mới nữa đấy ! Chỉ thay đổi xoành xoạch như mấy năm nay giáo viên dạy tiếng Việt trường tôi cũng đã đi Biên Hoà [*] mất hai người rồi ! “. Và tôi cũng đã được nghe chính người thầy cũ của tôi (một Nhà giáo Nhân dân) phát biểu trong một cuộc hội nghị do Bộ tổ chức là nên bỏ hẳn môn tiếng Việt ở trường phổ thông để “dành thì giờ học những môn có ích hơn hay ít ra cũng không có hại bằng”.
Dĩ nhiên khi nghe những lời như thế tôi và các bạn đồng nghiệp không khỏi thấy lòng đau như cắt, thấy danh dự của mình bị xúc phạm sâu xa, và ví thử vị giáo sư nói trên không phải là thầy tôi, thì tôi đã không ngăn được một cử chỉ phản ứng hỗn xược. Nhưng chỉ một giây sau, tôi, cũng như bất cứ ai có chút lương tri, phải tự nhủ rằng câu nói phũ phàng ấy hoàn toàn có đủ căn cứ.
Thế nhưng trong khi các giáo sư toán lý hoá luôn luôn thấy mình cần ra sức rút ngắn cái khoảng cách giữa mình và khoa học tiên tiến của thế giới, thì chúng tôi, các nhà giáo của khoa ngữ văn, lại không có giây phút nào thấy mình cần làm việc đó. Không những thế, mà trong chúng tôi còn có không ít người thấy mình vượt lên phía trước rất xa so với các nước khác, đến nỗi trong một cuộc họp khoa tôi đã tai nghe mắt thấy một bạn đồng nghiệp yêu cầu các giảng viên ngữ học khuyên sinh viên từ nay trở đi không dẫn các tác giả ngoại quốc nữa, vì thế giới ngày nay đã lâm vào một cơn khủng hoảng trầm trọng về khoa học xã hội; duy có Việt Nam làm thành một ốc đảo còn có được một nền khoa học ngữ văn lành mạnh!
Hiện tượng này không đáng lấy làm lạ, vì ở ta có hai ngành mà nhiều người quan niệm là không cần học một chữ nào cũng có thể làm được: đó là Văn và Ngữ. Cách đây bốn chục năm, bản thân tôi đã từng được triệu tập đến nghe bốn buổi (14 tiếng đồng hồ) giảng về ngôn ngữ học, trong đó diễn giả chưa từng đọc một trang sách báo nào về ngôn ngữ và ngôn ngữ học, cho nên nói toàn những chuyện mà ở trường, ngay khi giảng những buổi đầu, chúng tôi đã phải dặn sinh viên đừng bao giờ nghĩ và nói như thế, vì đó chính là những sự ngộ nhận thô thiển nhất của người ngoại hàng mà bốn năm học ngôn ngữ học ở trường sẽ giúp họ thanh toán triệt để.
Cho nên tình trạng lạc hậu trong các ngành học này là điều khó tránh khỏi. Lạc hậu mà biết mình lạc hậu (như bên các ngành khoa học chính xác) thì không sao: chỉ cần chăm chỉ đọc sách mới là chẳng bao lâu sẽ bắt kịp người ta; nhưng bên chúng tôi thì không phải như thế. Thấy rõ mình lạc hậu không phải dễ: phải hiểu người ta tiến xa đến đâu đã, rồi mới ước lượng được cái khoảng cách giữa người ta với mình. Nhưng làm sao hiểu được điều đó khi bản thân mình còn sa lầy ở một giai đoạn mà người ta đã bỏ xa từ hơn nửa thế kỷ trước ? Một số lớn trong chúng tôi không hề thấy mình lạc hậu chính vì lạc hậu quá xa, nhìn về phía trước không còn thấy mô tê gì nữa. Vả lại khi đã có đủ những học hàm học vị hằng mong ước rồi, rất ít người có thể tưởng tượng rằng mình mà lại cần đọc sách mới làm gì nữa, nhất là sau khi thử đọc một trang mà không hiểu nổi lấy một dòng.
Một trong những cái tội lớn nhất của thực dân Pháp là nền giáo dục mà họ đã áp đặt cho dân ta. Nền giáo dục ấy không nhằm đào tạo một đội ngũ trí thức. Nó chỉ nhằm đào tạo ra một lớp nha lại. Ngay như môn tiếng Pháp họ cũng không thèm quan tâm sửa đổi cho kịp với sự tiến bộ của khoa học. Cái ngữ pháp tiếng Pháp mà họ dạy cho học sinh của ta là thứ ngữ pháp cổ lỗ của thời đại chiến thứ nhất, vốn không tiến xa hơn những tri thức có từ thế kỷ thứ XVIII. Điều này rất rõ đối với bất kỳ ai đã từng so sánh sách dạy tiếng Pháp ở đông Dương năm 1945 với sách dạy tiếng Pháp ở Pháp cũng vào năm ấy (mà chỉ có một số rất ít học sinh Việt Nam học trong trường Pháp được học).
Di hại của chủ trương ngu dân ấy cho đến ngày nay vẫn còn rõ mồn một. Sở dĩ việc dạy ngữ pháp tiếng Việt trong nhà trường của ta hoàn toàn thất bại là vì nội dung được đem ra dạy chính là ngữ pháp tiếng Pháp được miêu tả theo một lối cổ lỗ, chứ không phải ngữ pháp tiếng Việt tuy dùng toàn thí dụ tiếng Việt. Chỉ nhờ một sự trùng hợp tình cờ mà tiếng Việt có những kiểu câu có thể phân tích theo ngữ pháp tiếng Pháp (của nhà trường Pháp trước Đại chiến : chủ ngữ, động từ, tân ngữ…), nhưng tiếc thay, những kiểu câu ” Pháp-Việt đề huề ” như thế chỉ chiếm khoảng 20% trong số kiểu câu của tiếng Việt, còn các kiểu câu không hoàn toàn giống tiếng Pháp thì một là khi phân tích người ta tìm cách đảo lại cho giống tiếng Pháp [như đảo câu Tôi tên là Nam thành Tên (của) tôi là Nam] ; hai là cắt bớt cái phần không giống tiếng Pháp đi (bỏ chữ Tôi trong câu trên ra ngoài “nòng cốt cú pháp”); ba là không phân tích những kiểu câu ấy, coi đó là “câu đặc biệt”; trong khi ít nhất có 70 % kiểu câu như thế trong vốn văn học dân gian, trong văn học cổ điển và hiện đại; cũng như trong tiếng nói hàng ngày mà ta vẫn nghe thường xuyên.
Trong khi đó, trong 12 bộ sách tiếng Việt dạy cho các lớp phổ thông khó lòng tìm ra được lấy một chục câu nêu rõ các quy tắc ngữ pháp (tiếng Việt) mà học sinh phải vận dụng thành thạo để viết cho đúng, nếu không kể vài ba trường hợp may mắn mà ngữ pháp tiếng Việt giống như ngữ pháp tiếng Pháp (chẳng hạn như trong câu Em đi học, phải nói em trước, rồi mới đến đi, rồi mới đến học). Còn hàng trăm quy tắc khác, cũng cơ bản và cần thiết không kém, thì chẳng có sách nào nói lấy một câu. Cũng may mà 12 năm học tiếng Việt vẫn không đủ để tiêu diệt hết cái cảm thức về tiếng mẹ đẻ mà mỗi học sinh, nhờ sống trong lòng nhân dân, vẫn còn giữ nguyên bất chấp các sách giáo khoa, cho nên vẫn nói đúng trong những điều kiện sinh hoạt tự nhiên, tuy có thể viết sai rất nhiều, vì khi viết và nhất là khi dịch từ tiếng châu Âu người ta lâm vào những điều kiện khác hẳn, thành thử cái cảm thức kia không còn chi phối hành vi ngôn ngữ nữa, và nhiều khi người ta viết ra những câu mà thường ngày người ta không bao giờ nói và nghe người Việt nói, và nếu có ai nghe ai nói như thế thì người ta phải bật cười. Lẽ ra một người làm ngôn ngữ học hay làm phiên dịch chuyên nghiệp phải luôn luôn nhớ mình và đồng bào mình nói năng như thế nào.
Đến những năm 50 còn có thêm một nhân tố nữa làm hỏng hẳn cách suy nghĩ và viết lách của các nhà Việt ngữ học. Đó là cái nguyên tắc lấy “khả năng kết hợp”, được hiểu một cách thô sơ thành sự phân biệt giữa “độc lập” và “hạn chế”, làm “tiêu chuẩn khách quan” để phân biệt đủ thứ (từ hay không phải là từ, có nghĩa hay không có nghĩa, thuộc từ loại này hay từ loại khác, v.v…).Những nguyên tắc này vốn do phái miêu tả của Mỹ đưa ra trong thập kỷ 30 và chỉ sau đó mấy năm đã bỏ hẳn, vì khi thực sự dùng vào việc phân tích, nó dẫn đến những kết luận cực kỳ phi lý. Thế nhưng nó đã được các nhà Việt ngữ học đi theo Lê Văn Lý dùng làm nguyên lý chủ đạo trong mọi lĩnh vực, kể cả những tác giả không tiếc lời mạt sát nền ngôn ngữ học Mỹ. Sở dĩ như thế là vì cái “tiêu chuẩn” này miễn được cho nhà ngữ học nhiều công việc rất khó chịu như việc quan sát tỉ mỉ lời ăn tiếng nói của người Việt và suy nghĩ kỹ càng về ý nghĩa của từ ngữ và câu cú Việt Nam.
Rốt cuộc, ngoài việc phân biệt “độc lập / hạn chế” ra, người viết sách ngữ pháp Việt Nam không còn biết đến một nguyên tắc làm việc nào khác [nếu không kể cái định kiến cho rằng tiếng Pháp (hay tiếng Nga, tiếng Anh) như thế nào thì tiếng Việt "dĩ nhiên" phải thế ấy]. Kết quả là sách ngữ pháp tiếng Việt hoàn toàn thoát ly tiếng Việt, và nếu bỏ các thí dụ bằng tiếng Việt đi thì ta sẽ có một chân dung tiêu biểu của một thứ ngôn ngữ Ấn-Âu điển hình, trừ một số đặc trưng hình thái học (như “chia động từ”, “biến cách” v.v… không phải ngôn ngữ Ấn-Âu nào cũng còn giữ). Sách ngữ pháp của ta là một tập hợp những “sắc lệnh” võ đoán mà người học phải chấp nhận như một giáo lý thiêng liêng hơn cả những sự thật hiển nhiên mà họ (và người ban bố sắc lệnh) có thể quan sát mỗi ngày mấy trăm lần trong tiếng nói của toàn dân và của chính mình. Những “sắc lệnh” ấy là do những bộ óc siêu quần chợt “ngộ” ra trong những khoảnh khắc loé sáng của thiên tài chứ không phải là kết quả của những năm lao động miệt mài nghiên cứu lời ăn tiếng nói của dân tộc. Không có lấy một nhận định nào được nêu rõ căn cứ, không có lấy một khái niệm, một thuật ngữ nào được định nghĩa một cách nghiêm túc, nghĩa là đủ minh xác để cho học sinh và giáo viên có thể tự mình biết là cái khái niệm, cái thuật ngữ ấy ứng vào những từ ngữ nào, thành thử ít có giáo viên nào dám tự mình đưa thêm một vài thí dụ ngoài các thí dụ trong sách. Những cách định nghĩa như “chủ ngữ là ngữ làm chủ” không cho ai biết thêm được chút gì để tự mình tìm ra một thí dụ về chủ ngữ, càng không giúp ai sử dụng khái niệm này để hiểu thêm tiếng Việt.
Cái lợi duy nhất của cách soạn ngữ pháp ấy là các tác giả tha hồ thay đổi giáo trình tuỳ theo cảm hứng, cứ một vài năm lại “cải cách” một lần bằng cách đưa ra một nhận định ngược với nhận định năm trước mà không cần phải chứng minh gì cả (vì cái nhận định năm trước cũng có hề được chứng minh gì đâu ?). Dù năm trước có nói con mèo là hai từ, thì năm sau cứ việc nói con mèo là một từ nếu nảy ra cái ý thích nói như thế : cần gì biết giáo viên ăn nói ra sao với học sinh, học sinh ăn nói ra sao với cha mẹ ? Khổ thân nhất là những học sinh có cha mẹ hay chú bác có chút văn hoá đủ để biết thế nào là một quy tắc, một khái niệm, một thuật ngữ khoa học, và thế nào là một câu tiếng Việt tử tế: cái vốn văn hoá ấy mà dùng vào việc “phụ đạo” cho con cháu chắc chắn sẽ làm cho chúng ăn điểm 1 điểm 2 suốt đời, vì sách giáo khoa tiếng Việt không hề căn cứ vào một cái gì mà người Việt có văn hoá phải biết cả.
Sau khi học ngôn ngữ học từ các giáo sư và tác giả người Âu (đó là cách duy nhất để học lý thuyết ngữ học), lẽ ra các nhà ngôn ngữ học Việt Nam có thể góp phần vào cái quá trình khắc phục những định kiến “dĩ Âu vi trung” [européocentisme] bằng cách nêu lên những chỗ mà ngữ học Âu châu không có hiệu lực khi đem ứng dụng vào tiếng Việt, hay ít nhất cũng theo dõi cái quá trình khắc phục ấy và lần lượt tiếp thu những kết quả của nó để hiểu tiếng mẹ đẻ đúng hơn và sửa đổi cách dạy tiếng cho có hiệu quả hơn. Tiếc thay, ngày nay Việt Nam đang là cái pháo đài cuối cùng và cực kỳ kiên cố của chủ nghĩa “dĩ Âu vi trung” cực đoan trong ngôn ngữ học. Giá như không tác hại đến như vậy đối với hàng chục thế hệ thì cũng chắng nói làm gì, để đến nỗi kinh động đến giấc ngủ đang yên lành của các tác giả sách giáo khoa và của các vị hữu trách ở Bộ giáo dục, và chuốc lấy cái tiếng xấu là “ném bùn vào mặt mọi người” như một bạn đồng nghiệp đã từng mắng tôi.
Tôi không ném bùn vào ai hết. Tôi chỉ nói lên sự thật thuần tuý mà đã mười mấy năm nay chưa từng có lấy một người nào dám nói hay viết dù chỉ một câu để bác bỏ. Nếu có gì đáng cho tôi tự trách mình, thì đó là nói chưa đủ mạnh để thức tỉnh những bạn đồng nghiệp đang ngủ quá yên giấc.
Và tôi tuyệt nhiên không phải là người đầu tiên. Cách đây bốn mươi năm đã có một bậc đàn anh của ngành Việt ngữ học, giáo sư Nguyễn Tài Cẩn, đem từ Liên Xô về một báu vật vô giá: lý thuyết âm tiết – hình vị (slogo-morphema) của một trong những nền ngôn ngữ học ưu tú nhất của nhân loại, lý thuyết duy nhất có thể giải đáp được những vấn đề mà một ngôn ngữ đơn lập như tiếng Việt (và nhiều ngôn ngữ phương Đông khác) đặt ra cho ngôn ngữ học hiện đại, và từ đó vạch ra một con đường đúng đắn để khắc phục chủ nghĩa “dĩ Âu vi trung”. Nhưng tiếc thay, hồi ấy không mấy ai hiểu ông. Ngược lại, người ta cố ý nhìn sang hướng khác, cố sao viết cho khác ông, để tỏ ra mình không đi theo ông, không phải là môn đệ của ông, nghĩa là thua kém ông. Cái không khí không lành mạnh ấy vẫn tồn tại cho đến bây giờ.
Tôi biết rằng những điều tôi viết trên đây không có bao nhiêu sức thuyết phục, và sẽ không thiếu gì những bạn đọc không tin tôi nói thật, hay ít nhất cũng cho rằng tôi vẽ ra một bức tranh quá ảm đạm, và những nhận định của tôi là cực đoan và còn thiếu căn cứ. Tôi rất tiếc là trong một bài báo không thể nêu ra những luận cứ khoa học đủ minh xác để biện hộ cho những nhận định của mình. Vì thế tôi đã phải đợi cho đến hôm nay khi cuốn sách Tiếng Việt, Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa của tôi đã được xuất bản và phát hành (Nhà xuất bản Giáo dục, 1998). Cuốn sách này tập hợp một số khá lớn những bài giảng, những bài tạp chí, những báo cáo khoa học của tôi.Cùng với cuốn Tiếng Việt, Sơ thảo ngữ pháp chức năng (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1991), cuốn sách này được viết ra để chứng minh một cách có luận cứ nghiêm túc rằng tiếng Việt không phải là tiếng Pháp, và tuy khác với tiếng Pháp về nhiều phương diện, nhất là về ngữ pháp, nó vẫn là một thứ tiếng trong sáng, chính xác, tinh tế, đẹp đẽ hoàn toàn xứng đáng được dân ta quý trọng và nâng niu, chứ không ghê sợ như những cố gắng kiên trì của nhà trường phổ thông và đại học đã làm cho học sinh ghê sợ, không cần phải nhào nặn và cắt xén cho vừa cái khuôn của ngữ pháp tiếng Pháp như sách giáo khoa của ta đã nhào nặn và cắt xén, không đáng bị coi khinh như các cơ quan truyền thông của ta vẫn coi khinh khi hàng ngày truyền bá một thứ tiếng Việt dịch từng chữ một từ tiếng Anh ra, bất chấp mọi quy tắc nói năng và viết lách của dân tộc.
[*] Chỉ bệnh viện tâm thần ở Biên Hoà – Đồng Nai.
(Theo Văn Nghệ, số 4, 22.1.2000)

Friday, 25 May 2012

Giải phóng là từ của ai?


Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (1931) chưa có giải phóng. Ít năm sau đó từ giải phóng được mượn từ tiếng Trung Quốc và xuất hiện trong các từ điển Pháp Việt để dịch các từ émanciper, délivrer, libérer... (Đào Duy Anh, 2005:293; Đào Duy Anh, 1950:943; Gustave Hue 1937:326): libérationsự giải phóng, libérateurngười giải phóng, guerre libératricechiến tranh giải phóng... Trong thời gian đất nước có chiến tranh các từ điển song ngữ và từ điển tường giải ở cả hai miền đều đối xử với giải phóng như một từ bình thường của tiếng Việt.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân lịch sử, từ giải phóng được thâm dụng ở miền Bắc và các vùng do chính phủ lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam kiểm soát. Trong các vùng lãnh thổ dưới quyền kiểm soát của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, từ này hầu như không có dịp xuất hiện trừ khi cần phải nói về đối phương (Mặt Trận Giải Phóng). Từ giải phóng vì thế mà trở thành từ của Việt Cộng. Cũng như các dấu hiệu nhận dạng cá nhân trên thẻ căn cước, người ta có thể dựa vào tần số xuất hiện của từ giải phóng mà biết được tác giả hay tác phẩm đó thuộc về Việt Cộng hay không.
Phải chăng vấn đề ở đây chỉ là vấn đề cách sử dụng. Nghĩa là ở ngữ cảnh. Chỉ ở ngữ cảnh? Từ giải phóng hiển nhiên là từ của Việt Cộng trong các tổ hợp Mặt Trận Giải Phóng, bộ đội giải phóng, anh Giải Phóng, ngày giải phóng miền Nam... nhưng khi ở trong các ngữ cảnh khác như giải phóng kho bãi, giải phóng mặt bằng, giải phóng mặt đường... chẳng liên quan gì đến Việt Nam Cộng Hòa cả thì có hết chất Việt Cộng được không? Việt Cộng dùng từ giải phóng một cách thoải mái hơn nửa thế kỷ qua trong khi những người chống Cộng không muốn dùng nó và cũng không có dịp để dùng. Bỗng dưng người Mỹ đứng ra tiến hành hai, ba cuộc chiến tranh giải phóng, thế là vốn từ của người chống Cộng tự nhiên hẫng hụt. Không dùng từ giải phóng thì quả thật:
 Không có chữ gì khác. Dùng riết, trong bối cảnh ấy, chữ “giải phóng” bỗng trở lại nguyên nghĩa của nó. Mà như thế, kể cũng phải. Đứng một mình, chữ ấy hoàn toàn trong sáng. Và trong sạch.
Từ ngữ nào đứng được một mình, có nghĩa một mình, không cần đến ngữ cảnh và không cần đến bối cảnh xã hội? Thôi thì cứ cho là từ giải phóng do các học giả đầu thế kỷ 20 chứ không phải Việt Cộng tạo ra nhưng nếu Việt Cộng không cố công giữ gìn từ giải phóng trong hơn nửa thế kỷ qua thì bây giờ các ông ấy lấy đâu ra từ ngữ để dùng và để người khác có thể hiểu được các ông ngay? Không ai lạ gì số phận của những từ ngữ bị Việt Cộng chê, không dùng: xuất tiến tuyến, đường thông thủy, trường võng mạc... Vậy có gì đáng xấu hổ khi phải sử dụng từ ngữ của Việt Cộng? Việc gì phải chối?

Thursday, 24 May 2012

GIAN NAN LÀ NỢ (An Chi - KTNN 245, ngày 10-5-1997)

Hôm nay, Tuổi trẻ có đăng bài ""Gian nan là nợ" của Phạm Xuân Nguyên, nói về thắng lợi 1 - 0 của Tuyển VN trước Tuyển Singapore. Vì đồng cảm với PXN và cũng vì quá vui, AC đưa lên đây một câu  liên quan đến mấy chữ GIAN NAN LÀ NỢ, trả lời cách nay 13 năm, Để các bạn FB đọc chơi cho vui.
ĐỘC GIẢ 1: Cụ Đào Tấn có viết: “Lao xao sóng vỗ ngọn tùng, Gian nan là nợ anh hùng phải vay”.Nhưng sóng thì ở dưới nước còn tùng thì ở trên núi, vậy làm sao sóng vỗ được ngọn tùng? Chẳng có lẽ cụ sơ ý? Hay là cụ dùng ẩn dụ nào mà chúng tôi chưa biết được? Gần đây, theo thông tin trên một vài trang báo, người ta vừa tìm ra một loại cây quí hiếm có tên là thủy tùng. Phải chăng đây là một loài rong loài tảo nào mà cụ Đào Tấn muốn nhắc đến trong hai câu thơ của cụ? ĐỘC GIẢ 2: Trong một bài viết vào những năm 70 mà tôi đã quên tên tác giả và xuất xứ, người viết có tả cảnh mình được ngắm từ trên cao cánh rừng thông trong một ngày có gió. Nhìn ngọn cây rừng nhấp nhô lên xuống như những con sóng khi gió thổi qua, tác giả nhớ đến hai câu thơ của cụ Đào Tấn: “Lao xao sóng vỗ ngọn tùng Gian nan là nợ anh hùng phải vay”.Tác giả nói rằng nhờ được ngắm cảnh trên nên mới thấy được cái đẹp của câu thơ, cái độc đáo của cụ Đào khi cụ liên hệ nỗi gian nan của người anh hùng với cảnh cây tùng bị sóng gió vùi dập. Rồi năm 1990 tôi có mua một cuốn lịch bàn của Nxb Văn hóa, trong đó có một tờ cũng in hai câu thơ trên đây của cụ nhưng chữ “tùng” đã bị đổi thành “trùng”. Lao xao sóng vỗ ngọn trùng, Gian nan là nợ anh hùng phải vay”.Xin gởi kèm theo đây tờ lịch đó để làm bằng (tờ ngày thứ sáu, 6 tây tháng Bảy nhằm ngày 14.5 âm lịch). Gần đây tôi lại được đọc bài “Ghi chép ở từ đường Đào Tấn” của tác giả Thúy Vi đăng trên báo Sài Gòn giải phóng ngày 28.5.1994, trong đó tác giả cũng có dẫn hai câu thơ trên như sau: “Lao xao sóng vỗ ngọn tùng, Gian nan là nợ anh hùng phải vay”.Lại xin gởi kèm theo đây mẩu báo có in hai câu thơ trên đây để làm bằng, trong đó chữ thứ 6 của câu sau rõ ràng là chữ “tùng”. Vậy cụ Đào đã dùng “tùng” hay “trùng” trong hai câu tuyệt tác trên đây? ĐỘC GIẢ 3: Xin cho biết trong hai câu thơ lục bát của cụ Đào Tấn nói về cây tùng và người anh hùng, có phải cụ muốn nói đến cây tùng cụ thể nào mọc gần nước mà cành nhánh sà xuống thấp nên mới bị sóng vỗ hay không (nếu ở trên núi cao thì làm sao có sóng vỗ). Lại nói đến câu tám, cụ có dùng chữ “vay”: tại sao không là “nợ phải trả” mà lại là “nợ phải vay”? Có phải là vì âm điệu hay không?
AN CHI trả lời: Nguyên văn của cụ Đào Tấn là:“Lao xao sóng vỗ ngọn tùng,Gian nan là nợ anh hùng phải vay”.Người làm lịch năm 1990 của Nxb Văn hóa, vì không biết được xuất xứ của chữ tùng trong hai câu thơ trên đây nên mới tự tiện thay nó bằng chữ “trùng”, ngỡ rằng phải sửa như thế thì câu thơ mới hợp lý mà không ngờ rằng chính mình đã làm cho nó trở thành vô vị và tầm thường. Đúng thế, nếu hiểu “trùng” ở đây là “trùng dương” và “ngọn trùng” là “ngọn sóng” thì ý của câu thơ chỉ là sóng vỗ ngọn sóng lao xao mà thôi. Nhưng "sóng vỗ sóng" thì có liên quan gì đến chuyện người anh hùng phải gánh nợ gian nan? Thực ra, ở đây cụ Đào đã dùng chữ tùng vì cây tùng, ngoài việc tượng trưng cho tuổi thọ, lại còn được dùng để tượng trưng cho sự chịu đựng nữa. Chẳng thế mà tiếng Hán lại có câu “tiết tháo phương tùng quân” nghĩa là tiết tháo (kiên cường) như cây tùng và (dẻo dai) như cật tre.Truyện Kiều, câu 901 cũng có hai chữ “tùng quân” (Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân). Vậy chữ tùng của câu sáu trong hai câu lục bát của Đào Tấn đã gây liên tưởng rất hợp lý đến người anh hùng trong câu tám và thể hứng kết hợp với thể tỉ (trong ca dao) đã được cụ thực hiện một cách rất đắc địa trong hai câu thơ tuyệt cú đã trở thành phương châm, thậm chí nguyên tắc sống cho nhiều đấng nam nhi.Nhưng trở lên, chúng tôi mới chỉ làm chuyện “cãi lý” mà thôi, còn sở dĩ cụ Đào Tấn lại dám để cho sóng vỗ lên cao tới tận ngọn tùng ở trên rừng trên núi là vì thực ra cụ đã nắm vững từ ngữ ở trong tay: tiếng Hán có từ tổ chính phụ cố định “tùng đào” 松濤, có nghĩa đen là “sóng trên ngọn cây tùng”, mà văn thơ Trung Hoa đã dùng để chỉ tiếng gió rì rào qua những cây tùng trong rừng trên núi. Hai tiếng đó đã được Từ hải giảng là “tùng lâm phong động chi thanh” (tiếng gió lay động rừng tùng) còn Mathews’ Chinese-English Dictionary, nơi chữ tùng, thì dịch là “the soughing of the wind in the pines compared with the roar of the surf” (tiếng rì rào của gió qua những cây tùng, so sánh với tiếng gào của sóng cồn) hoặc, nơi chữ đào, là “wind in the pines” (gió qua những cây tùng). Thơ Âu Dương Nguyên Công đời Nguyên có câu:“Hạ liêm nguy tọa thính tùng đào", nghĩa là:Buông rèm ngồi nghiêm lắng nghe tiếng sóng tùng.” Sóng tùng ở đây chính là tiếng gió thổi qua những ngọn tùng.Vậy “sóng” của cụ Đào Tấn chính là “gió”, nghĩa là danh từ sóng cũng được cụ dùng theo ẩn dụ như trong câu thơ trên đây của họ Âu Dương, chứ không phải là theo nghĩa đen. Do đó câu:“Lao xao sóng vỗ ngọn tùng”chẳng có gì là phản luận lý hay phi luận lý cả. Và ở đây cũng chẳng có cây tùng cụ thể nào mà cành nhánh sà xuống sát mặt nước cả vì hai tiếng “tùng đào” chỉ là một lối nói đã trở thành ước lệ. Đến như cây thủy tùng, mà tên khoa học là Codium macronatum – loại cây này thực ra cũng đã được biết đến từ lâu – vốn chỉ là một giống tảo, thì làm sao địch nổi với cây tùng, cây bách trên rừng trên núi, và làm sao xứng đáng để so sánh với người anh hùng trong cuộc đời! Bây giờ xin nói về chữ “vay”, chữ “trả”. Vâng, cũng có thể là do âm điệu vì nếu dùng “trả” thì câu:“Gian nan là nợ anh hùng phải trả”đâu còn là thơ nữa. Nhưng vấn đề là dùng “trả” thì lại không hay bằng dùng “vay”: trong những người không muốn mang công mắc nợ thì nhiều người đã chủ động không vay để khỏi trả. Còn cụ Đào Tấn thì khẳng định:“Gian nan là nợ anh hùng phải vay”cho nên dứt khoát phải trảkhông trả không được vì đó là định mệnh. Đã sinh ra là anh hùng thì phải chấp nhận gian nan. Đó là cái hay của chữ “vay” vậy!

Wednesday, 23 May 2012

Mấy nhận xét về chữ Quốc Ngữ (Cao Xuân Hạo)

1. Trên bình diện ngôn ngữ học lý thuyết, chữ quốc ngữ không phải là một cách viết thích hợp với tiếng Việt. Nó sử dụng tự mẫu La Tinh, một hệ thống văn tự phản ánh cấu trúc âm vị học của các ngôn ngữ biến hình kiểu châu Âu, trong đó đơn vị cơ bản là “tiểu âm vị”, một đơn vị được thể hiện bằng một “âm tố”, trong khi đơn vị cơ bản của hệ thống âm vị học tiếng Việt là tiếng, hay “hình tiết” (morphosyllabème) – vốn đồng thời là đơn vị ngữ nghĩa và ngữ pháp.
Trong cuốn Âm vị học và tuyến tính (Phonologie et linéarité: Réflexions critiques sur les postulats de la phonologie contemporaine, SELAF, Paris, 1985), tôi có chứng minh rằng lý thuyết âm vị học hiện hành chỉ có giá trị đối với các ngôn ngữ “tiểu âm vị” (micro-phonématiques) như các thứ tiếng châu Âu chứ không thể dùng cho những thứ tiếng đại âm vị (macro-phonématiques) như tiếng Nhật, tiếng Malagasi, và nhất là các thứ tiếng đơn lập như tiếng Hán, tiếng Thái, tiếng Việt, trong đó cái đơn vị âm vị học tương đương về cương vị cấu trúc với âm vị Âu châu là âm tiết (tiếng) chứ không phải là âm tố. Một thứ chữ quốc ngữ, chữ “Pin yin” hay chữ “Romanji” che giấu và xuyên tạc cái cấu trúc âm vị học thực của các thứ tiếng sử dụng nó và làm cho các nhà nghiên cứu lạc hướng hoàn toàn.
2. Đó là xét trên bình diện lý thuyết ngôn ngữ học. Còn trên bình diện thực tiễn,
dùng chữ quốc ngữ cho tiếng Việt cũng không có hại bao nhiêu, vì dù sao nó cũng cho phép phân biệt đầy đủ các âm thanh cần phân biệt của tiếng Việt (1). Và mặc dầu việc vay muợn văn tự này, theo ý tôi, là một công việc có phần đáng tiếc, nó vẫn có một thuận lợi khá quan trọng ở chỗ nó đưa nước ta vào cái khối cộng đồng lớn của những nước dùng chữ La Tinh trên sách báo, giấy tờ và biển hiệu. Nhờ đó, một khi “tiếng” đã được tháo rời ra thành âm, các văn bản tiếng Việt có thể sao đúng chính tả của bất cứ từ ngữ nào (đặc biệt là các tên họ) được viết bằng chữ La Tinh hoặc đã được chuyển tự sang hệ chữ La Tinh. Điều này làm cho việc phiên âm các tên họ của người nước ngoài trở nên hoàn toàn vô ích và thậm chí rất có hại, nhất là khi ta biết rằng theo thống kê sơ bộ hơn 90 % các tên họ nước ngoài (kể cả người Pháp và người Anh) bị phiên âm sai chỉ vì người viết không biết đọc các tên họ ấy (chứ không phải vì quy tắc chính tả tiếng Việt không cho phép phiên âm đúng). Vả lại làm sao có thể biết đọc cho đúng tên họ của dăm trăm thứ tiếng trong nhân loại? Trong tình hình văn hoá của thế giới ngày nay, việc truyền thông, trao đổi được thực hiện chủ yếu là qua văn bản, cho nên chính tả quan trọng hơn phát âm rất nhiều. Cái thói phiên âm sinh ra do một định kiến hoàn toàn vô căn cứ (chưa bao giờ được kiểm nghiệm), cho rằng quần chúng ít học và học sinh không thể viết đúng và đọc đúng những từ như volt, watt, ampère hay những tên như Marx, Engels. Thật ra nhiều người trong số chúng tôi đã làm thí nghiệm trên con cái chúng tôi với những kết quả hết sức rõ ràng: chỉ cần chép một vài lần và ôn lại từ ba đến năm lần bằng cách “ám tả” theo trí nhớ là các cháu đủ thuộc vài chục tên riêng cho đến bốn năm năm sau, cùng với vài ba trăm tên khác được học thêm trong những năm kế theo. (2)
3. Kể từ những năm 20 của thế kỷ cho đến khi Cách mạng tháng Tám thành công, đã có nhiều người Pháp đề nghị cải tiến chữ quốc ngữ mà họ cho là bất hợp lý. Rồi đến khi miền Bắc được giải phóng, suốt ba năm trời đã diễn ra không biết bao nhiêu cuộc họp, đã in không biết bao nhiêu bài vở và kỷ yếu bàn về cách cải tiến chữ quốc ngữ, rồi cuối cùng người ta mới nhận ra rằng đó là một công việc không những hoàn toàn vô ích mà còn hết sức có hại, lặp lại một cách vô duyên một giai đoạn đã qua của lịch sử chính tả ở châu Âu mà ngày nay người Anh và người Pháp mỗi khi nhớ lại không khỏi cảm thấy bẽ bàng. Số là năm 1897, sau khi Hội Ngữ âm học quốc tế (IPA) ra đời và công bố hệ tự mẫu gọi là Alphabet Phonétique International, một số hội viên và hàng trăm người khác khởi động một phong trào rầm rộ cực lực lên án chính tả Anh và Pháp mà họ cho là hết sức phi lý, cần phải bỏ ngay vì đó là “một nghĩa địa của những hình thái cổ lỗ đã lỗi thời từ lâu” để thay nó bằng một thứ chữ viết phản ánh cách phát âm một cách trung thành và nhất quán, theo nguyên tắc “mỗi chữ ghi một âm và mỗi âm ghi bằng một chữ”.
May thay, với sự đóng góp của những người am hiểu ngôn ngữ hơn, người ta đã nhận ra rằng chữ viết có một chức năng khác với lời nói, chủ yếu là ở chỗ người đọc một văn bản rất khác với người tham gia đối thoại, và chữ viết được đọc bằng mắt chứ không phải nghe bằng tai, cho nên cách nhận diện từ ngữ trên một văn bản rất khác với cách nhận diện từ ngữ khi nghe một lời nói bằng miệng với sự hiện diện của người phát ngôn ngay trong khi đối thoại. Khi một hệ chữ viết đã được dùng trong vài ba thế kỷ, nó trở thành một truyền thống văn hoá. Mỗi từ ngữ dần dần có một diện mạo riêng, một Gestalt mà người ta đã quen thuộc đến mức không thể thay đổi được nữa. Và cái Gestalt thị giác do cách viết tạo nên được liên hội với cái nghĩa của từ ngữ bất chấp cách phát âm ra sao, và nhờ đó mà người đọc phân biệt được các từ đồng âm mặc dầu không có sự giúp đỡ của tình huống đối thoại hay của sự hiện diện của người đối thoại mà người kia có thể hỏi lại ngay khi không hiểu vì không biết người phát ngôn muốn dùng từ nào trong số những từ đồng âm. Đó là chưa nói rằng chính tả còn cho biết khá nhiều điều hữu ích về từ nguyên, và do đó, về nghĩa của những từ dùng căn tố Hy Lạp, La Tinh hay Sanskrit, về gốc gác của những tên riêng, và do đó, về quốc tịch hay tôn giáo của người đương sự. Cho nên từ khi có cái phong trào ”bài xích và cải cách chính tả Anh, Pháp” cho đến nay đã đúng một thế kỷ mà hai hệ thống chính tả này vẫn tồn tại y nguyên, và ngày nay họa chăng chỉ có những người không được bình thường may ra mới còn nghĩ đến chuyện cải cách chính tả Anh hay Pháp, mặc dầu so với chữ quốc ngữ, hai thứ chính tả này còn xa cách phát âm gấp bội.
4. Chữ viết không phải là phiên âm, vì ngôn ngữ không phải chỉ là âm thanh: nó còn có nghĩa nữa. Cho nên một hệ thống chữ viết lý tưởng phải phản ánh, ít nhất là một phần cái nghĩa của từ ngữ. Từ cổ đại, loài người đã có một hệ thống chữ viết gần đạt đến cái lý tưởng ấy: chữ Hán. Một bằng chứng sáng rực của tính ưu việt của chữ Hán là hiệu quả tuyệt vời của việc sử dụng nó cho một ngôn ngữ thuộc một loại hình hoàn toàn khác tiếng Hán: tiếng Nhật, một thứ tiếng đa âm tiết thuộc loại hình chắp dính (agglutinating). Khi dùng cho tiếng Nhật, nếu không kể mợt số rất ít những từ gốc Hán được người Nhật phát âm hao hao như tiếng Hán (các từ Hán – Nhật còn giữ dạng đơn âm hay chỉ biến thành song âm), chữ Hán chỉ biểu thị nghĩa, rồi thông qua nghĩa mà biểu thị âm (khi hiểu nghĩa rồi, người Nhật mới chọn giữa hai ba cách phát âm có thể bằng cách căn cứ vào văn cảnh). Dựa vào những thành quả ngoạn mục của việc dạy tiếng Anh bằng chữ Hán cho các học sinh Mỹ mắc chứng dislexia (không học được cách “đánh vần”), một số nhà ngữ học Mỹ đã thấy rõ tính ưu việt của một hệ thống văn tự phi ngữ âm và đã đi đến chỗ tin rằng đó chính là thứ chữ tương lai của nhân loại. Vả lại ai cũng biết rằng chính là nhờ chữ Hán mà người Trung Quốc, vốn nói nhiều ngôn ngữ khác nhau (về phương diện ngôn ngữ học, tiếng Bắc Kinh, tiếng Quảng Đông, tiếng Triều Châu là những ngôn ngữ khác nhau chứ không phải là những phương ngữ, vì khoảng cách giữa các thứ tiếng ấy xa hơn khoảng cách giữa các ngôn ngữ Salvian như tiếng Nga và tiếng Nam Tư (Serbo – Croatian) hay tiếng Bulgari rất nhiều), có được một công cụ giao tiếp chung. Một nhà ngữ học Pháp gọi chữ Hán là ”một thứ esperanto cho đôi mắt của các thần dân Trung Hoa”. Thứ esperanto này còn có tầm tác dụng vượt xa bờ cõi Trung Quốc: nó còn là phương tiện giao tiếp đắc lực giữa người Hán và cá sứ giả ”man tộc” như người Hàn, người Nhật, người Giao Chỉ, người Hồ, và các thứ ”rợ” khác, vốn thường bút đàm với người Hán (và với nhau) hơn là ngôn đàm.
5. Nói đến đây, tôi chắc chắn các vị hiểu tại sao chính tả tiếng Anh và tiếng Pháp “bất hợp lý” đến thế mà vẫn không thể thay đổi được. Khi lớn tiếng lên án chữ viết đương thời, những người Anh và những người Pháp cấp tiến ngày ấy cũng như những người Việt cấp tiến của thời kỳ 1954 (và ngay đến ngày nay hình như vẫn còn sót lại) chỉ chăm chăm vào một tiêu chuẩn duy nhất: ngữ âm (hay âm vị học). Họ phán xử hệ thống chính tả bằng cách đạt câu hỏi: Nó đã phản ánh thật đúng cách phát âm chưa ? Nó đã nhất quán đi theo nguyên tắc “âm và chữ tương ứng một đối một” hay chưa ? Còn những tiêu chuẩn khác thì họ không cần biết đến. Ở đây tôi chỉ xin nhắc đến tiêu chuẩn “truyền thống” hay “tập quán”. Như trên kia đã nói, khi người ta đã có nhiều thế kỷ để quen với diện mạo văn tự của các từ ngữ, cái diện mạo ấy trở thành cái hồn của chữ nghĩa. Nó biểu hiện ý nghĩa của ngôn từ không cần thông qua cách phát âm (vốn thay đổi tùy theo từng vùng), thành thử mọi mưu đồ cải cách đều là một sự xúc phạm đến truyền thống văn hoá. Viết gia (trong gia đình) thành za hay da, viết lý (trong luân lý) thành lí, viết yêu thành iêu hay iâw, viết qua thành kwa hay cwa trong nhiều thập kỷ nữa vẫn sẽ được tri giác như những lỗi của một lớp người thiếu hiểu biết, nếu không là một lớp người coi khinh hàng chục thế hệ đi trước, trong đó có những bậc thầy đã dựng nên cả một nền văn học hiện đại. Và như thế để làm gì ? Chẳng lẽ chỉ vì muốn tiết kiệm khoảng 2% luợng giấy in sách ? Chỉ cần tiết kiệm cỡ chữ “corps 10″ bằng cỡ chữ “corps 9″ cũng tiết kiệm được gấp mười lần như thế. Dĩ nhiên, một cuộc cải cách như thế sẽ không có hại gì đến mấy triệu học sinh vỡ lòng mới bắt đầu học thứ chữ mới. Nhưng ta cứ thử tính số tiền tổn phí để in lại tất cả các sách vở cần thiết cho các thế hệ học chữ mới. Và thử tính xem có sáu mươi mấy triệu người lớn trở thành mù chữ (hay ít ra cũng thành những người dốt nát chuyên viết sai chính tả do những tập quán cũ và cách đánh vần các văn bản một cách khó nhọc, ít ra là trong dăm bảy năm sau cải cách).
Nhược điểm của chữ quốc ngữ không phải ở chỗ nó chưa thật là một hệ thống phiên âm vị học, mà chính là ở chỗ nó có tính chất thuần tuý ghi âm, và hoàn toàn bất lực trước nhiệm vụ biểu hiện nghĩa mà lẽ ra nó phải đảm đương, và nhược điểm ấy lộ rõ nhất và tai hại nhất là trong trường hợp các từ đồng âm vốn có rất nhiều trong tiếng Việt. Tuy vậy, cũng gần giống như chữ Anh và chữ Pháp, những chỗ bị người ta coi là bất hợp lý chính là những chỗ làm cho nó phân biệt nghĩa và cội nguồn của các từ đồng âm như gia và da, lý và lí (trong lí nhí) (3) v.v.
Đáng tiếc là những trường hợp như thế không lấy gì làm nhiều. Nhưng có vẫn còn hơn không, như khi ta thay chữ quốc ngữ bằng một thứ chữ thuần túy ghi âm. Bỏ chữ Hán và chữ Nôm là một tai họa không còn hoán cải đuợc nữa, nhưng ta còn có thể bổ cứu cho sự mất mát này bằng cách dạy chữ Hán như một môn bắt buộc ở trường phổ thông. Người Việt sẽ không thể giỏi tiếng Việt nếu không thấu đáo nghĩa của các từ Hán-Việt, vốn chiếm tỷ lệ hơn 70% trong vốn từ vựng tiếng Việt.
GS Cao Xuân Hạo

(Tiếng Việt, mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa – NXB Giáo Dục, TP Hồ Chí Minh, 1998)
(*) Báo cáo đọc tại Hội nghị “Chữ quốc ngữ và sự phát triển của văn hoá Việt Nam”, Trường Đại học Tổng hợp, TP Hồ Chí Minh 1995
(1) Về những cái lợi và cái hại của chữ quốc ngữ, xin xem bài Chữ Tây và chữ Hán, thứ chữ nào hơn? (Kiến thức ngày nay, số 14, ngày 15-6-1994). Cũng xin xem thêm các mục dưới dây.
(2) Xin xem bài Về cách viết và cách đọc các tên riêng nước ngoài trên văn bản tiếng Việt, cũng đăng trong tập này.
(3) Xem thêm Cao Xuân Hạo, 1996