Saturday, 6 October 2012

Nghĩa gốc của đa trong cây đa là nhiều (Năng Lượng Mới số 18 , 12-5-2001)


Bạn đọc : Có người nói đa trong cây đacây đề là một từ gốc Hán nhưng có người lại nghi đó là một từ gốc Sanskrit (vì liên quan đến đạo Phật). Xin ông vui lòng cho biết thực hư ra sao. (Nguyễn Trung Sơn).
An Chi : Trước nhất, xin nói rằng cây đa còn có một cái tên xưa hơn nữa là dong, một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 榕, mà âm Hán Việt hiện đại là dung. Chữ này đã được Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng (Sài Gòn, 1975) giảng là: “Tên một loài cây cực lớn, tàn cây rất rộng, bóng cây che được cả ngàn người.” Cứ như lời giảng này mà lại đặt vào nội dung của các Phật thoại, không khéo có người sẽ ngỡ rằng dung (> dong) là một giống cây huyền thoại, trong khi nó là một giống cây có thực: Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh đã đối dịch chữ dung 榕 một cách chính xác và cực gọn là “cây đa”. Đa là một giống cây có thể phát triển đến mức siêu khổng lồ mà toàn bộ cành, nhánh, rễ có thể chiếm đến mấy héc-ta. Cây đa lớn nhất còn sống tại Pune (Ấn Độ) có đường kính tán tới 800 m xung quanh thân chính của nó.
 Về nghĩa đã như thế còn về âm thì ta có hàng loạt trường hợp tương tự cho nên bất tất phải hoài nghi : bao dung – bao dong ; dung mạo – dong mạo ; hình dung – hình dong ; thung dung – thong dong ; v.v..
Nói dong xưa hơn đa là hoàn toàn có lý do. Ta cứ giở Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa ra thì sẽ thấy. Đây là một loại từ vựng giảng Hán bằng Nôm theo một trong hai nguyên tắc : hoặc đối dịch (bằng Nôm) kèm theo miêu tả ngắn gọn, hoặc giữ nguyên chữ cần dịch kèm theo miêu tả, nếu đây là một chữ có thể dùng như Nôm. Đoạn hữu quan dưới đây trích từ thiên “Mộc loại, Đệ tam thập ngũ” :
 Ngô đồng tạc rối cây vông,
Lá thu lác đác bay không đã vàng.
Cổ dung cây cả giữa đường,
Vô hoa hữu quả rễ cùng chồi ngay.”
Hai liên lục bát này mỗi liên là một mục từ : mục trước là “ngô đồng” được đối dịch là “(cây) vông”; mục sau là “cổ dung”, không có đối dịch vì thời đó, dung đang là một từ thông dụng và không có từ Nôm đồng nghĩa. Nếu lúc bấy giờ danh từ đa xuất hiện rồi thì nó đã được dùng để dịch dung theo nguyên tắc thứ nhất. “Ngọc âm giải nghĩa” mà lại!
Vậy thì chữ đa này bắt nguồn từ đâu? Có người đã có sáng kiến cưỡng duyên nó với chữ đa trong đa la, thậm chí bối đa la nữa! Ép dầu, ép mỡ; ai nỡ ép … âm! Đó là còn chưa nói đến chuyện rắc rối là cảđa la và bối đa la thực chất là hai từ khác nhau nhưng từ trước lại đồng âm với hai âm tiết sau của từ sau. Nếu truy nguyên cho thật chặt chẽ và chính xác thì đa la 多羅 vốn là hai chữ Hán dùng để phiên âm danh từ tāla của tiếng Sanskrit; còn bối đa la 貝多羅 thì để phiên âm (cũng của thứ tiếng này) danh từ pattraDictionnaire sanskrit-français của N. Stchoupak, L. Nitti. L. Renou dịch tāla là palmier à vin, borasse éventail. A Sanskrit English Dictionary của M. Monier-Williams (Delhi, 1999) cho một lời dịch tương tự với quyển từ điển trên: the palmyra tree or fan-palm (Borassus Flabelliformis, producing a sort of spirituous liquor […]). Ta có thể nghĩ rằng đây là cây thốt nốt. Quả nhiên, Sổ tay tra cứu danh pháp khoa học của KS Nguyễn Đại Hương – KS Lê Thị Thuỳ Trang (Nxb Trẻ, 2002) đã dịch cho taBorassus Flabelliformis là “thốt nốt”.
Còn pattra thì sao? Thì chỉ đơn giản có nghĩa là lá (cây), cánh (hoa, chim); ở đây là lá làm nền để viết chữ lên đó. Thứ lá hữu quan ở đây chính là lá thốt nốt, trên đó người ta chép kinh Phật. Vì vậy nên mới có danh từ ghép tāla-pattra, nghĩa là lá thốt nốt, mà nếu phiên âm sang tiếng Hán, thì sẽ là đa la bối đa la 多羅貝多羅. Rắc rối là ở chỗ hai tiếng đa la trước chẳng có liên quan gì về nghĩa với hai tiếng đa la của từ sau nhưng lại đồng âm trong nhiều ngữ cảnh của kinh Phật nên dễ sinh ra nhầm lẫn.
                Cứ như trên thì đa trong cây đa chẳng có liên quan gì đến đa trước hoặc đa sau trong cụmđa la bối đa la. Nhưng nó có trực tiếp liên quan gì đến tiếng Sanskrit hay không? Ta thử xét xem. Thứ tiếng này có hai từ để chỉ cây đa là nyag-rodha và vaa. Từ ghép nyag-rodha có nghĩa gốc là “cây mọc (rodha) ngược (nyag)”. Từ này được phiên sang tiếng Hán thành ni-câu-đà 尼拘陀 hoặc nhiều cách khác (ni-câu-luật-đàni-cồ-đàni-câu-lô-đàni-câu-loại-đàni-câu-lâu-đà) nhưng âm tiết cuối đều là “đà” (nên khác đa). Còn vaa thì, theo nguyên tắc và truyền thống phiên âm từ Sanskrit sang Hán, phải là bà đa 婆多, nhưng không thấy dùng trong văn chương Phật giáo, để chỉ cây đa.
Vậy, rốt cục thì ta có thể tìm từ nguyên của danh từ (cây) đa ở đâu? Thưa đó là với danh ngữ đa căn thụ 多根樹, cây nhiều rễ, một hình thức dân dã mà văn chương Phật giáo dùng để mô tả và gọi tên cây đa một cách súc tích nhất có thể có. Chính là với danh ngữ dân dã này mà người ta đã dịch tên ngôi vườn Nyagrodharama gần thành Ca-tì-la là Đa căn thụ viên/多根樹園 (Vườn Đa), trong khi hình thức bác học là Ni-câu-đà viên 尼拘陀園.Vậy đa căn thụ hiển nhiên là cây đa. Nhưng vào đến tiếng Việt thì danh ngữ này dần dần được rút ngắn để chỉ còn giữ lại có âm đa, là âm tiết, cũng là hình vị, cũng là từ, diễn đạt sinh động nhất đặc trưng của cây đa.

Wednesday, 3 October 2012

Pháp có phim cấp 3 không?


Từ năm 1988 luật pháp Hồng Kông bắt buộc tất cả phim ảnh đều phải được cơ quan quản lý ngành truyền hình và giải trí kiểm tra phân loại và vé vào rạp phải in rõ loại phim để tránh việc khán giả nhỏ tuổi xem phải loại phim không phù hợp. Hệ thống phân loại của Hồng Kông có ba cấp; về sau có điều chỉnh chút đỉnh trong nội bộ của cấp thứ hai, nhưng về căn bản vẫn là ba cấp với cấp cao nhất (vẫn gọi là category III - cấp 3) là những bộ phim cấm khán giả dưới 18 tuổi.
Ở Việt Nam người trên 18 tuổi cũng không được xem các phim cấm trẻ em Hồng Kông dưới 18 tuổi. Khái niệm phim cấp 3 dần dần được mở rộng để chỉ tất cả các loại phim cấm bất kể nguồn gốc. Do đó mà có chuyện rủ nhau tải những bộ phim cấp 3 của Pháp, Mỹ, Nga... mặc dù các nước đó áp dụng những hệ thống phân loại và ký hiệu khác. Ở Pháp chẳng hạn, theo điều III sắc lệnh số 90-174 ngày 23/2/1990 có 5 loại phim:
- tous publics: ai xem cũng được, khỏi cần ai coi chừng;
- avertissement: ai xem cũng được nhưng người lớn dòm chừng một chút vẫn tốt hơn;
- interdit aux moins de 12 ans: cấm khán giả dưới 12 tuổi;
- interdit aux moins de 16 ans: cấm khán giả dưới 16 tuổi (gồm phần lớn các phim khiêu dâm nhẹ, tiếng Pháp là film érotique hay porno soft, với đội ngũ diễn viên trong trang phục của Adam và Eva, chỉ được phép gợi tả chứ không được đặc tả cơ quan sinh dục và cảnh giao hợp)
- interdit aux moins de 18 ans non classé X: không phải phim X nhưng vẫn cấm khán giả dưới 18 tuổi;
- interdit aux moins de 18 ans et classé X: phim X, cấm khán giả dưới 18 tuổi;
Như vậy đối với người Việt, phim cấm trẻ em Pháp dưới 16 tuổi đã là phim cấp 3 rồi.
Tưởng cũng nên nhắc lại rằng bộ phim L’amant sản xuất năm 1992 dựa theo tác phẩm cùng tên của Marguerite Duras, ở Pháp được xếp loại cấm trẻ em dưới 12 tuổi, nhưng khi được trình chiếu ở Việt Nam cho một số đối tượng rất hạn chế cũng bị cắt gần như toàn bộ các cảnh nóng. Trước đó báo chí Việt Nam dịch lại báo chí ngoại quốc, không ngớt lời bàn, nào là “khán giả đến nghẹt thở những cảnh quay táo bạo của cô đào Jane March và Lương Gia Huy”, nào là “cảnh quay công phu và nhiều hiệu ứng kỹ thuật” .... Rốt cục ai nấy đều bị tẽn, từ người xem đến anh nhà báo. Năm 1996 tôi sang Pháp, thấy ti vi chiếu L’amant, không muốn coi lại vì nghĩ phim không hay bằng tiểu thuyết. Đến chừng coi xong mới hiểu là chẳng những mình bị mấy ông kiểm duyệt bên nhà lừa bịp đã đành mà còn tội nghiệp cho lao động nghệ thuật bị các ông ấy coi là độc hại, cắt xén lam nham khiến cho tác phẩm trở nên tẻ nhạt, vô vị. Nhưng đâu còn cách nào khác, nếu không muốn thảy bộ phim đó vào sọt phim cấp 3? Trên thực tế, người ở Việt Nam hiện nay muốn coi nguyên bản phim L’amant chỉ có một cách là ghé vào các trang web dành cho phim cấp 3.

Monday, 1 October 2012

Do đâu có tên cây xa mu?


Cây xa mu (tên khoa học của cây là Cunninghamia lanceolata) còn được gọi  là sa mu, sa mộc, sà mu, sa múc, thông mụ, co may (Dao), long len, thông Tàu. Tên tiếng Pháp là sapin de Chine (dịch nghĩa là lãnh sam Trung Hoa) và samou hoặc cha-mou (rõ ràng là phiên âm của杉木, sam mộc). Có lẽ cũng như trường hợp từ pơ mu, người Việt mượn từ xa mu qua tiếng Pháp hay qua tiếp xúc với tiếng Hán ở miền Nam Trung Hoa. Chưa rõ thứ tự xuất hiện các tên gọi khác nhau của cây nên chưa thể xác định chắc chắn lai lịch của từng tên một.

Sunday, 30 September 2012

TÊN GỌI SAIGON TỪ ĐÂU ? (Hồ Đình Vũ)




Đây là một đề tài được các nhà nghiên cứu, học giả, Tây lẫn Ta, tốn rất nhiều thì giờ và công sức. Cho đến nay thì có khoảng 5 giả thuyết về xuất xứ của chữ Sài Gòn, trong đó có 3 thuộc loại quan trọng hơn. Xin ghi lại 3 thuyết quan trọng hơn dưới đây:
Sài Gòn từ Thầy Ngòn (Đề Ngạn), Xi- Coón (Tây Cống)
Đây là thuyết được đưa ra bởi 2 tay thực dân Pháp là Aubaret và Francis Garnier (người bị giặc Cờ Đen phục kích chết). Theo Aubaret, Histoire et description de la Basse-Cochinchine và Garnier, Cholen, thì người Tàu ở miền Nam, sau khi bị Tây Sơn tàn sát, đã lập nên thành phố Chợ Lớn vào năm 1778 và đặt tên cho thành phố đó là Tai-ngon hay Ti-ngan. Sau đó, người Việt bắt chước gọi theo và phát âm thành Sài Gòn.
Thuyết này được hai học giả là Vương Hồng Sển và Thái Văn Kiểm đồng ý. Quả thật, trên phương diện ngữ âm, thì Thầy Ngòn, Xi Coón, rất giống Sài Gòn! Tuy nhiên, theo lịch sử thì không phải.
Tại sao ? Vì lịch sử chứng minh rằng Saigon có trước, rồi người Tàu mới đọc theo và đọc trại ra thành Thầy Ngòn, Xi Coọn.
Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776, năm 1674 Thống Suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vở "Luỹ Sài Gòn"(theo Hán-Việt viết là "Sài Côn"). Đây là lần đầu tiên chữ Sài Gòn xuất hiện trong tài liệu sử sách Việt Nam . Vì thiếu chữ viết nên chữ Hán "Côn" được dùng thế cho "Gòn". Nếu đọc theo Nôm là "Gòn", còn không biết đó là Nôm mà đọc theo chữ Hán thì là "Côn".
Như vậy, ngay từ năm 1674 đã có địa danh Saigon! Thì làm gì phải đợi đến 1778 khi người Tàu ở Cù Lao Phố bị Tây Sơn tiêu diệt rồi chạy xuống lập nên Thầy Ngòn tức Đề Ngạn, hay Xi Coón tức Tây Cổng.
Sài Gòn từ Củi Gòn, Cây Gòn, Prey Kor.
Thuyết này được Petrus Trương Vĩnh Ký đưa ra dựa theo sự "nghe nói" như sau :
"Sài là mượn tiếng viết theo chữ Hán có nghĩa là củi gỗ; Gòn là tiếng Nam chỉ bông gòn .Người ta nói rằng tên đó phát sinh bởi sự kiện nhiều cây bông gòn do người Cao Miên đã trồng chung quanh đồn đất xưa của họ, mà dấu vết nay vẫn còn ở chùa Cây Mai và các vùng lân cận".
Pétrus-Trương Vĩnh Ký- Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs, trong Excursions et Reconnaissance X. Saigon , Imprimerie Coloniale 1885.
Không biết tại sao mà sau này Louis Malleret và Vương Hồng Sển lại quả quyết thuyết này là "của" Trương Vĩnh Ký , mặc dù ngay sau đoạn này, TVK lại viết tiếp "Theo ý tôi, hình như tên đó là của người Cao Miên đặt cho xứ này, rồi sau đem làm tên gọi thành phố. Tôi chưa tìm ra được nguồn gốc đích thực của tên đó". Tương tự, có nhiều thuyết phụ theo nói rằng Sàigòn từ "Cây Gòn" (Kai Gon) hay "Rừng Gòn" (Prey Kor) mà ra.
Nói chung, các thuyết này đều dựa trên một đặc điểm chính: cây bông gòn. Nhưng thuyết này phần lớn đã bị bác bỏ vì lý do đơn giản là không ai tìm đượcdấu tích của một thứ "rừng gòn" ở vùng Sàigòn, hay sự đắc dụng của củi gòn ở miền Nam, kể cả nhà bác học Trương Vĩnh Ký . Ngay vào thời của Trương Vĩnh Ký (1885) tức khoảng hơn 100 năm sau mà đã không còn dấu tích rõ ràng của thứ rừng này, mặc dù lúc đó Sàigòn không có phát triển hay thay đổi gì cho lắm. Ngay cả khi Louis Malleret khảo nghiệm lại, hình như cũng không có dấu vết gì của một rừng gòn ở Sàigòn.
Sài Gòn từ Prei Nokor
Đây là thuyết mà thoạt đầu khó có thể chấp nhận nhứt (về ngữ âm), nhưng hiện nay được coi như là "most likely".
Chính Petrus Trương Vĩnh Ký là người đưa ra thuyết này Trong Tiểu Giáo Trình Địa Lý Nam Kỳ, ông đã công bố 1 danh sách đôi chiếu 187 địa danh Việt Miên ở Nam Kỳ, như Cần Giờ là Kanco, Gò Vấp là Kompăp, Cần Giuộc là Kantuọc và Sài Gòn là Prei Nokọr
Trước nhất, theo sử Cao Miên được dịch lại bởi Louis Malleret, vào năm 1623, một sứ thần của chúa Nguyễn đem quốc thư tới vua Cao Miên và ngỏ ý muốn mượn xứ Prei Nokor (Saigon) và Kras Krabei của Cao Miên để đặt phòng thu thuế.
Năm 1747, theo danh mục các họ đạo trong Histoire de la Mission Cochinchine, có ghi Rai Gon Thong (Sài Gòn Thượng) và Rai Gon Hạ (Sài Gòn Hạ).
Đó là theo sử sách, còn theo tiếng nói thì Prei Nokor (hay Brai Nagara theo tiếng Phạn mà người Miên mượn), có nghĩa là "thị trấn ở trong rừng",Prei hay Brai là rừng, Nokor hay Nagara là thị trấn. Đây là vùng mà chúa Nguyễn đã mượn làm nơi thu thuế như đã nói ở trên.
Theo tiến trình của ngôn ngữ, Prei hay Brai biến thành RAI, thành "Sài", Nokor bị bỏ "no" thành "kor", và từ "kor" thành "Gòn". Từ Prei Nokor …mà thành SàiGòn thì thật là …dễ sợ ! Còn sở dĩ có Saigon viết dính nhau là do các giáo sĩ Tây phương đã bỏ mất dấu và gắn liền nhau khi in. Sau khi chiếm nước ta, để khỏi đọc "sai" ra "sê" theo giọng Pháp nên Saigon được viết với hai dấu chấm trên chữ i.
Saigon… muôn thuở là Sàigòn !
Ca dao - Tục ngữ
Saigon là Hòn ngọc Viễn Đông, là một thành phố lớn nhất Việt Nam. Những nơi như Saigon được mệnh danh là Kẻ Chợ, đã là Kẻ Chợ ắt có chợ, mà phải là ngôi chợ lớn, khách Lục tỉnh lên thăm Saigon, ra vào chợ Saigon hẳn không quên. Chợ Saigon được đồng bào Hậu Giang so sánh với ngôi chợ tỉnh nhà:
Chợ Saigon cẩn đá,
Chợ Rạch Giá cẩn xi măng.
Giã em xứ sở vuông tròn,
Anh về xứ sở không còn ra vô.
Người con gái ở đô thành tiêm nhiễm nếp sống Tây phương, chàng trai xa nàng khỏi sao thắc mắc, lo nàng ở lại chẳng vuông tròn nên phải ra vô, nàng vuông tròn chàng yên tâm về xứ sở.
Cúc mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy,
Chợ Saigon xa, chợ Mỹ cũng xa.
Viết thư thăm hết mọi nhà,
Trước thăm phụ mẫu sau là thăm em.
Saigon và Mỹ Tho, hai nơi cách nhau trên sáu chục cây số, nay tuy thật gần những xưa thật xa,vì phương tiện di chuyển đâu có dồi dào như nay, chàng và nàng dù đã yêu nhau, nhưng mỗi lúc tới thăm đâu có dễ dàng, đôi bên cùng bận làm ăn buôn bán, nàng ở chợ Saigon, chàng ở chợ Mỹ Tho. Nhớ nhung nhau, chỉ biết tin thư thăm hỏi, lấy giấy thay lời. Chàng yêu nàng vì duyên, vì tình, tình yêu chân thật, đâu thấy nàng giàu mà ham hoặc thấy nàng nghèo mà chê.
Chợ Saigon đèn xanh, đèn đỏ,
Anh coi không tỏ, anh ngỡ đèn tàu.
Lấy anh em đâu kể sang giàu,
Rau dưa mắm muối có nơi nào hơn em.
Chợ Saigon với những hàng quảng cáo đèn màu xanh đỏ, chàng trai quê lên nhầm lẫn đó là đèn tàu. Sự lầm lẫn thị giác này có thể có được, nhưng lầm về yêu đương, chàng đâu có lầm. Chàng lấy nàng đâu có kể sang giàu, vì tiền tài bao nhiêu cũng có thể hết, duy tình nghĩa mới bền lâu, như người xưa đã nói:
Theo vàng bỏ ngãi ai hơi,
Vàng thời đã hết, ngãi tôi vẫn còn.
Chính vì nghĩa mới bền lâu, nên khi xa người nghĩa, người con trai đứng ngồi không yên :
Chim quyên xuống đất tha mồi,
Tôi xa người nghĩa đứng ngồi không yên!
Giấy tây bán mấy,
Mua lấy tờ nguyên,
Làm thơ hỏi bạn tình duyên chuyện gì ?
Mến thương nàng, đem nàng so sánh với các nàng Lục tỉnh, cô gái Saigon thật hơn:
Nội trong lục tỉnh Nam kỳ,
Mấy ai được nết nhu mì như em.
Hai hàng lụy ngọc ướt nhèm,
Làm sao cho đặng anh với em giao hòa.
Phú Lê post (theo Hồ Đình Vũ)

Saturday, 29 September 2012

Do đâu có tên cây pơ mu?


Trong tiếng Việt cây này còn có các tên như đinh hương, bách dầutô hạp hương, mạy vạc (người thiểu số ở Lào Cai), mạy long lanh (người Thái ở miền Tây Bắc và Thanh Hóa), khơ mu (Hà Tĩnh), hòng he (người Ba Na ở Gia Lai và Kon Tum). Nhưng cái tên pơ mu thì không gắn với một ngôn ngữ dân tộc nào cả.
Tên khoa học của cây pơ mu là Fokienia hodginsii (Dunn) A. Henry & H. H. Thomas. Tên này có liên quan đến tỉnh Phúc Kiến bên Trung Hoa (Fokienia) vì đó là nơi người ta (ông Hodgins) thu thập được mẫu vật đầu tiên để đem về châu Âu. Tên cây bằng chữ Hán là 福建柏  (fu jian bai / Phúc Kiến bách). Gỗ bách (bách mộc) tiếng Hán là 柏木, có phát âm (băi mù) rất gần với cách người Pháp gọi tên cây: pé-mou / pemou / peu-mou... Từ pơ mu của tiếng Việt có thể từ một trong hai nguồn này mà ra.

Thursday, 27 September 2012

Ông Dèm là ông nào?


Khu vực hiện nay bao gồm Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Thành Phố Hồ Chí Minh, Khoa Dược Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh, Trường Cán Bộ Quản Lý Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn II, Đài Truyền Hình Thành Phố Hồ Chí Minh, thời Pháp thuộc là doanh trại của trung đoàn bộ binh thuộc địa số 11 (11e régiment de d’infanterie coloniale, viết tắt là 11e R.I.C.). Người Việt gọi là thành Ông Dèm, do onzième tiếng Pháp nghĩa là thứ 11.
Đơn vị này được thành lập năm 1900. Tiền thân của nó là trung đoàn dã chiến Nam Kỳ (régiment de marche de Cochinchine) được thành lập năm 1869, đến năm 1890 chuyển thành trung đoàn bộ binh hải quân số 11 (11e régiment d’infanterie de marine) trước khi mang tên 11e R.I.C.
Khi quân Pháp rút khỏi Việt Nam, thành Ông Dèm trở thành doanh trại của lữ đoàn liên binh phòng vệ phủ tống thống, thường gọi là thành Cộng Hòa. Sau cuộc đảo chính tháng 11/1963, lữ đoàn liên binh phòng vệ phủ tống thống bị giải thể, đất cũ của thành Cộng Hòa được chia cho các trường Đại Học Văn Khoa, Đại Học Dược Khoa, Cao Đẳng Nông Lâm Súc và Đài Truyền Hình.

Monday, 24 September 2012

Về địa danh Sài Gòn (Năng Lượng Mới số 155 ,14-9-2012). An Chi / Huệ Thiên


Về địa danh Sài Gòn (Năng Lượng Mới số 155 ,14-9-2012).

by An Chi on Friday, September 14, 2012 at 12:51pm ·
BẠN ĐỌC : Blog của Dang Thai Minh có bài “Nguồn gốc địa danh Sài Gòn” của tác giả Bình Nguyên Lộc, tóm tắt nhiều xu hướng giải thích về nguồn gốc tên gọi này, trong đó có nguồn gốc từ tiếng Quảng Đông. Trong cuốn A Voyage to Cochin China của John White (London,1824), tác giả cũng ký âm tên nhiều vùng đất (như Canjeo (Cần giờ), Vung-tau, Gagn-jai, Cai-mep, Don-nai, v.v.) trong đó có SAIGON.
Phải chăng Saigon là từ của người ngoại quốc ký âm tên vùng đất mà triều đình Huế đặt tên là Trấn biên rồi là Gia định.         Trong tấm bản đồ của Trần (hay Nguyễn?) Văn Học vẽ vào năm 1815, có địa danh CHỢ SAIGON bằng chữ Hán, chỉ khu vực Chợ lớn ngày nay. Nhờ ông An Chi đọc và cho ý kiến. Xin cám ơn.
                                                                          Trần Gia Quốc Anh, Huế.
AN CHI : Về vấn đề bạn quan tâm, cách đây 22 năm, chúng tôi đã có nói rõ ý kiến cá nhân trong bài “Từ nguyên của địa danh Sài Gòn”, đăng trên Kiến thức Ngày nay số 36 (1-6-1990), in lại trongNhững tiếng trống qua cửa các nhà sấm (Nxb Trẻ, 2004, tr.167-177). Lần này, xin căn cứ vào tài liệu bạn gửi đến để trả lời bạn như sau.
                Bình Nguyên Lộc (BNL) là tác giả mà chúng tôi ái mộ từ năm 15 tuổi khi đọc quyển Nhốt Gió, tác phẩm  đầu tay của ông, do nhà Thời Thế xuất bản năm 1950. Nhưng ông chỉ là một nhà văn, và có thể là cả một nhà văn hoá nữa, chứ không phải một nhà ngữ học. Dĩ nhiên ngữ học không chỉ là độc quyền của những nhà ngữ học chính danh nhưng muốn bàn về ngữ học thì phải có những kiến thức hữu quan cần thiết. Không phải hễ là một học giả trứ danh  thì có thể có kết luận chính xác về bất cứ vấn đề ngữ học nào. Điển hình là trường hợp của Georges Condominas mà chúng tôi đã nêu trong bài “Nghĩa và nguồn gốc của từ Vặt” trên Năng lượng mới số 22 (26 - 5 - 2011). Với BNL, hơn 200 biểu so sánh ngôn ngữ trong quyển Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Viêt Nam (1971), rồi toàn bộ quyển Lột trần Việt ngữ (1972) của ông chỉ cung cấp cho ta những ngữ liệu bổ ích chứ không phải là công trình ngữ học thực thụ. Cũng vậy, bài “Nguồn gốc địa danh Sài Gòn” của ông mà bạn gửi đến không phải là một bài viết thật sự chặt chẽ và khoa học. Lĩnh nhận đề nghị của bạn, chúng tôi chỉ xin nêu một vài nhận xét cơ bản về bài này mà thôi.
        1.Tên của Sài Gòn trong tiếng Khmer.– Phủ nhận cái tên gốc của Sài Gòn là Prây Nôkor (cách ghi của BNL) trong tiếng Khmer, như BNL đã tuyên bố, là đã loại bỏ cái căn cứ đích thực giúp cho ta đi tìm từ nguyên của địa danh Sài Gòn. Sài Gòn  từ xưa đến nay vẫn được người Khmer gọi là Prey Nokor (cách ghi của AC) ; nghĩa là cho đến bây giờ cái tên Prey Nokor (dùng để chỉ Sài Gòn) vẫn còn tồn tại dai dẳng trong tiếng Khmer. Sau đây là một dẫn chứng sinh động. Trong bài “L'origine du mot Yuon et les avatars de notre voisin de l'Est” do Khemara Jati (Montréal, Québec) đưa lên mạng “RepublicofCambodia” (Yahoo!Groups) ngày 13-2-2010 , ta có thể đọc thấy một lời chú thích dứt khoát, rành mạch về địa danh “Sài Gòn” , ghi trong ngoặc đơn như sau: “Saigon (Maintenant «Hochiminhville», mais pour les Cambodgiens c’est toujours Prey Nokor)”. Dịch nghĩa: “Sài Gòn (Bây giờ [là] Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng đối với người Campuchia thì đó luôn luôn là Prey Nokor)”. Nên nhớ rằng cái câu này ra đời vào cuối thập kỷ thứ nhất của thế kỷ XXI. Nó mới toanh! Nghĩa là Prey Nokor, tên của Sài Gòn bằng tiếng Khmer, vẫn còn sống dai dẳng cho đến tận bây giờ. Làm sao có thể phủ nhận nó?
 Nhưng BNL còn biện luận rằng người Chăm gọi Sài Gòn là Prây Kor chứ không phải là Prây Nokor. Cái lý này hoàn toàn không vững. Ta đang nói về đất (cũ) của Campuchia thì phải căn cứ vào tiếng Khmer chứ sao lại lấy tiếng Chăm làm điểm xuất phát? Huống chi, Prây Kor chẳng qua chỉ là Prây Nôkor đã bị người Chăm bỏ đi âm tiết “nô”của Nôkor mà thôi.
Nhưng BNL còn đưa ra một cái lý khác nữa. Ông viết:
“Một ông Tây thứ nhì, cũng biết cơ cấu ngôn ngữ Cam Bu Chia như tôi, xác nhận rằng địa danh phải là Prây Ko, hoặc Prây Kor, chớ không thế nào mà là Prây Nokor được hết (…) Ông ấy cho là Ko, hoặc Kor, không phải chỉ có nghĩa là Bò, mà là có nghĩa là cây gòn, một thứ cây có công dụng y hệt như cây gạo của Bắc Việt.”
Thực ra thì, với cái chứng lý hoàn toàn cụ thể và chắc chắn mà chúng tôi đã đưa ra trên đây, thì ngoài Prey Nokor, không có bất cứ một cái tên nào khác của Sài Gòn bằng tiếng Khmer mà lại có giá trị được cả, dù cho nó do bất cứ ông Tây, ông ta nào lăng xê. Dĩ nhiên là kể cả Georges Coedès, học giả lừng danh, tác giả quyển Les peuples de la péninsule indochinoise (Dunod, Paris, 1962). Tại trang 185 của quyển này, Coedès đã viết như sau: “Grâce à la princesse, une ambassade cochinchinoise put en 1623 obtenir du souverain cambodgien l’autorisation d’établir un poste de douane à Prei Kor, à l’endroit où s’élève aujourd’hui la ville de Saigon.” (Nhờ nàng công chúa [Ngọc Vạn – AC], năm 1623 một sứ bộ Đàng Trong đã được quốc vương Campuchia cho phép lập một trạm thu thuế tại Prei Kor, nơi mà ngày nay thành phố Sài Gòn được xây dựng).
Kể ra cũng là chuyện khôi hài khi mà người ta muốn tìm tên của Sài Gòn bằng tiếng Khmer nhưng lại phớt lờ cách gọi nó của chính người Khmer để đưa ra toàn những thứ do chủ quan của mình tưởng tượng hoặc lựa chọn. Tóm lại, những thứ như Prây Ko (Rừng Bò), Prây Kor (Rừng Gòn), v.v., đều phải bị gạt bỏ không thương tiếc.
2. Sài Gòn và Thầy Ngòn (BNL viết “Ngồl”).– BNL viết:
“Trịnh Hoài Đức viết rằng sau khi Tây Sơn tàn phá thành phố lớn Nông Nại Đại Phố, ở Biên Hòa, thì người Tàu sống sót, trong đó có họ Trịnh, người Tàu lai, chỉ mới lên tám, chạy xuống phía dưới để lập ra một thành phố khác, nay truy ra là thành phố ấy là vùng Chợ Lớn ngày nay. Đa số người Tàu sống sót là người Quảng Đông. Họ đặt tên thành phố mới ấy là Đề Ngạn Thành. Đề Ngạn có nghĩa là “Nắm (vững) bờ sông”. Sông ở đây, chỉ là sông con, trỏ tả ngạn của con rạch Cầu ông Lãnh, đoạn nằm ở đại lộ Đồng Khánh ngày nay. Người Quảng Đông phát âm Đề Ngạn là Thầy Ngồl, và Thầy Ngồl bị Việt Hoá ra là Sài Gòn.”
Ý kiến của BNL hoàn toàn trái ngược với sự thật lịch sử. Trong Địa chí văn hoá Thành phố Hồ Chí Minh, t.1, phần ba (Nxb TPHCM, 1987), Nguyễn Đình Đầu đã khẳng định:
“1698 là năm chúa Nguyễn cử Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh (cũng đọc là Kính) vào Nam kinh lược.
“Nguyễn Hữu Cảnh «lấy đất Nông Nại làm phủ Gia Định, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Gòn là huyên Tân Bình, dựng dinh Phiên trấn; mỗi dinh đặt chức lưu thủ, cai bộ và ký lục đẻ cai trị».
“Từ đây mới chính thức có chính quyền của chúa Nguyễn ở vùng đất mới bấy lâu nay do lưu dân Việt Nam tự động đến sinh sống, khai hoang lập ấp và tự quản.
“Ta lấy năm 1698 là cái mốc đầu tiên của Sài Gòn là vì vậy, vì từ đó mới có phủ sở Gia Định, huyện sở Tân Bình thuộc phủ Gia Định, từ đó xứ Sài Gòn mới chánh thức là đất Việt Nam (…)”.
Huống chi, thực ra,  theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn thì thống suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đã đánh Cao Miên và phá vỡ Luỹ Sài Gòn từ năm 1674.
                                                     (Xin xem tiếp trên số 156, Thứ ba 18-9-2012).