Wednesday, 8 May 2013

Có chân trong ban chấp hành (Nguyễn Đức Dân)




                                                                      GS TS  NGUYỄN ĐỨC DÂN

1.    Tiếng Việt cũng như mọi ngôn ngữ khác, theo dòng thời gian luôn luôn có những từ ngữ mới xuất hiện. Trở lại thời tiền sử khi  vượn-người  đang trở thành người, thì tiếng nói  bộ lạc nào chắc cũng chỉ chừng  dăm bảy chục từ liên quan đến  cuộc sống  bầy đàn cần thiết cho những truyền  tin hàng ngày như  ăn uống, đi lại, săn bắt, con mồi, kẻ thù, sống chết, cây cối, trời đất, nắng mưa…và một vài từ trỏ bộ phận cơ thể con người đầu, mặt, tay, chân…Xã hội  phát triển  và nhu cầu giao tiếp ngày càng tăng thì những  khái niệm, những  thông tin mới ngày càng nhiều, thế là con người phảiđặt ra những từ ngữ mới.  Nhưng đặt  từ ngữ mới thế nào khi  ngoài chính mình con người hầu như chưa hiểu biết gì về thiên nhiên?  Thế là con người lấy mình để nhận thức thiên nhiên và đặt tên cho những đối tượng xung quanh. Từ đây có giả thuyết con người là trung tâm vũ trụ (anthropocentrism). Có thể hình dung quá trình đặt ra từ mới như sau: thấy những đối tượng  nào về hình thức hoặc tính chất  giống  những bộ phận cơ thể con người thì cho chúng cùng tên với bộ phận con người. Con người nhìn bằng mắt thì cái bộ phận mà con thú dùng để nhìn cũng được gọi là “mắt”.   Đó là cách lấy con người làm  trung tâm để gọi tên các con vật, các sự vật, hiện tượng…  Mỗi dân tộc nhìn chính mình và nhìn thế giới theo những cách  khác nhau.  Chẳng hạn, người Việt thấy con người có tứ chi (hai tay, hai chân). Và tay  là một bộ phận khái quát mà những bộ phận nhỏ của nó có tên  gọi chung là taycánh tay, bàn tay, ngón tay  mà người Anh gọi bằng những từ hoàn toàn khác nhau:arm, hand, finger. “Cánh tay” là “arm” nhưng với người Việt từ “cánh” gợi trong nhận thức là cái gì đótừ trung tâm vươn xa ra, thế là hình thành mấy chục từ ghép mà tiếng đầu tiên là cánh: cánh buồm, cánh chim, cánh bèo, cánh cửa, cánh cung, cánh hoa, cánh quạt, cánh quân, cánh sen…Trong khi đó, người Anh lại dùng “arm” để tạo ra những cụm từ mà người Việt gọi là cành cây, nhánh sông, nhánh biển, tay ghế… Sự khác nhau trong nhận thức về phân cắt thế giới khách quan, về những đặc điểm các bộ phận con người cùng sự khác biệt loại hình giữa các ngôn ngữ dẫn tới quá trình phát triển nghĩa của những  từ ngữ trỏ bộ phận con người cũng khác nhau. Lấy từ chân làm  ví dụ.
2. Trong  con người, chân  là bộ phận thấp nhất giúp ta đứng vững. Thế là bộ phận thấp nhất làm giá đỡ cho  những   đối tượng tự nhiên hoặc nhân tạo  được nhiều dân tộc  gọi  tên  là “chân”:   chân tường, chân cột, chân giường, chân bàn, chân đèn, chân cầu thang; chân đồi, chân núi, chân chống(xe đạp), chân kính (đồng hồ), chân vạc, … Có những cái chân có hình dáng riêng: sập chân quỳ; lư hương chân quỳ; quần  cắt kiểu  chân què của phụ nữ nông thôn Bắc Bộ xưa
 Nhưng với chân trời, hoặc “chân mây mặt đất một màu xanh xanh”(Nguyễn Du), thì người Pháp,  người Anh và người Nga lại dùng một từ gốc Latinh  horizon, chẳng dính líu gì tới “chân” cả.
Trong khi chúng ta nói chân răng, chân tóc,  chân móng tay, thì người Pháp lại thấy ở những đối tượng trên có đặc điểm cắm sâu vào như rễ cây để đứng vững nên họ có lối nói rễ răng, rễ tóc, rễ móng tay.
Chân vịt,  chân rết là cách lấy chân người gọi tên chân con vật. Từ đây lại dùng tên này để gọi những đối tượng nào có hình dáng hoặc công dụng giống như thế: chân vịt của con tàu, hệ thống mương máng chân rết, công ty mở thêm nhiều chân rết ở các địa phương…
     3. Chân để con người đứng ở một vị trí. Vậy thì “có chỗ đứng trong thị trường” là “có chân trong thị trường”.  Cái vị trí này là  vị thế con người trong một tổ chức xã hội Ấy thế là chân được dùng hoán dụ cho thành viên của một tổ chức: “chạy được một chân trong ban chấp hành”,  “có chân trong hội đồng quản trị”; “có chân trong đội tuyển quốc gia”; “xin được  một chân bán hàng ở Trung tâm thương mại”; “còn thiếu một   chân  tổ tôm”… Tiếng Anh,  tiếng  Pháp và tiếng Nga không có kiểu chuyển nghĩa theo cách dùng hoán dụ từ chân. Người ta  dùng trực tiếp từ “thành viên” (member, membre, член). 
Kết hợp  nghĩa “thành viên” với nghĩa “ở vị trí thấp nhất” ,  người Việt nhận thức ở từ chân  một nghĩa mới. Nó   trỏ người ở những nghề nghiệp có vị trí thấp trong một tổ chức , những người phụ việc, phục vụ cho cán bộ  lãnh đạo:  “Anh ta là một  chân chạy trong công ty”, “Chưa tìm được việc làm , thôi thì trước mắt kiếm một chân sai vặt, chân chạy cờ, chân loong toong  hay một chân bảo vệnào đó cũng được”… Tục ngữ  “giàu hai con mắt, khó hai bàn tay”  đã  khái quát tay để cầm nắm thành tay là công cụ  lao động. Mà chân ở vị trí thấp nhất, nên từ  tay chân, chân tay chỉ loại công cụ lao động thấp nhất – bọn đàn em, bộ hạ, thuộc hạ cho những đại ca,  những ông trùm và  những người quyền thế.
    4. Dùng  tay, chân  để trỏ  người là một điểm đặc biệt của tiếng  Việt. Hầu như không thấy trong tiếng Anh,  tiếng Pháp và tiếng Nga.  Trong khi chúng ta nói tay chơi, tay ngang, tay sai,  tay súng, tay thợ, tay trong… thì để chỉ mỗi loại người này  tiếng Anh lại dùng một từ trong đó không có yếu tố “tay”:  playboy; layman;  lackey
Tay, chân được dùng trỏ các vận động viên thể thao . Dùng tay  trỏ vận động viên chơi môn thể thao bằng tay. ‘Võ sĩ thép’ Mike Tyson chỉ được xếp vị trí cuối cùng trong danh sách 10  tay đấmhuyền thoại của quyền Anh’; “Minh Quân vô địch giải các tay vợt xuất  sắc”,  “Việt Nam góp mặt haitay cơ tại vòng tứ kết giải Billards 9 bóng châu Á”; “Tay đua 24 tuổi người Ý  Marco Mimoncelli  tử nạn ngày 13.01.2011”;  “27.12 tới, vào đúng mùa cưới, chân sút vàng của đội tuyển Việt Nam  Phạm Thành Lương đã quyết định “đưa nàng về dinh” …(trích ViệtBáo.com),  “danh hiệu kỳ đạo của cáctay cờ Việt Nam”(trang www.thanglongkydao). Các bạn còn gặp   “tay đập”,   “tay chắn” trong bóng chuyền.  Và “tay kiếm cừ khôi” là tên một trò chơi game.
Điều  thú vị trên đây hầu như cũng không thấy trong tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Nga.

Tuesday, 7 May 2013

Cánh tả là gì?


Hiểu nôm na thì cánh tả là phe chủ trương cải tạo cục diện xã hội còn cánh hữu thì có xu hướng bảo thủ. Sự phân biệt này có từ thời Cách mạng Pháp 1789: các đại biểu phái Núi (Montagnards) và Gia-cô-banh (Jacobins) ngồi ở mé bên trái vị chủ tịch nghị viện.

Saturday, 4 May 2013

Vận động tàn quân trong những ngày trình diện



(GD&TĐ) - Theo Cục Địch vận - Tổng cục Chính trị (nay là Cục Dân vận), sau ngày 30-4-1975, trên toàn miền Nam, ta đã làm thủ tục đăng ký trình diện cho gần 2 triệu sỹ quan, binh lính và nhân viên nguỵ quyền, trong đó có trên 70.000 sĩ quan từ thiếu uý đến trung tướng, trên 1 triệu hạ sĩ quan, binh lính.
Những người ra trình diện đã nộp một số lượng lớn vũ khí cá nhân, chỉ cho ta kho tàng địch cất giấu phương tiện chiến tranh và nơi bọn ác ôn lẩn trốn… Câu chuyện dưới đây do Trung tá Lê Phương (nguyên cán bộ Cục Địch vận) kể lại khi ông cùng đồng đội làm công tác đăng ký trình diện tàn quân ngụy ngay sau khi Sài Gòn được giải phóng… 
Trung tá Lê Phương
Trung tá Lê Phương
Sau chiến thắng 30-4 đúng một ngày, tôi cùng anh Phạm Đình Thức (sau này là Thiếu tướng, Phó Cục trưởng Cục Địch vận) được cấp trên phân công cùng đoàn công tác của Bộ Quốc phòng đáp chuyến bay quân sự từ Hà Nội vào Sài Gòn.
Với những cán bộ làm công tác địch vận, chuyến vào Nam lần này của chúng tôi thật nhiều cảm xúc, bởi trong lúc cả nước đang dồn dập tin chiến thắng, chúng tôi càng thấu hiểu sự gian khổ, hi sinh của các đồng đội làm công tác địch vận cách đó 20 năm, khi họ lặng lẽ từ biệt người thân, âm thầm “tập kết ngược” vào Nam để làm công tác binh vận giữa vùng địch kiểm soát.
Giờ đây, sau giờ phút chiến thắng, nhiệm vụ của những cán bộ địch vận chúng tôi là góp phần giải toả mặc cảm của tàn quân ngụy và gia đình, làm sáng tỏ chính sách khoan hồng, nhân đạo của ta khi kết thúc chiến tranh.
Sáng 2-5-1975, máy bay hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất, chúng tôi tới ở tạm trong nhà hàng Thiên Thanh gần sân bay trong khi chờ Ban quân quản bố trí chỗ ở. Tôi vẫn nhớ lúc đó trong nhà hàng các loại thực phẩm đều bốc mùi ôi thiu do sự cố mất điện, còn sân bay thì ngổn ngang, lộn xộn với những ôtô, xe máy, đồ đạc, của cải… do quan chức và binh lính chính quyền Sài Gòn vứt lại trên đường di tản. Khi máy bay của đoàn công tác vừa hạ cánh, rất nhiều người dân hiếu kỳ đã vây quanh, có lẽ họ tò mò tới xem máy bay của “Việt cộng” và cũng muốn đến gần để “xem mặt” các anh “Bộ đội Bắc Việt”, chúng tôi nhận định: trong đám đông ấy, chắc chắn có không ít những sỹ quan ngụy trong các bộ trang phục dân sự.
Khi ổn định nơi ăn ở, tôi và anh Phạm Đình Thức được Ban Binh vận Trung ương Cục phân công cùng Uỷ ban quân quản thành phố làm nhiệm vụ tiếp nhận đăng ký trình diện của sỹ quan, binh lính và nhân viên ngụy.
Anh Thức được phân công cùng bộ phận làm nhiệm vụ đăng ký trình diện sỹ quan cấp tướng, tôi về bộ phận tiếp nhận đăng ký sỹ quan cấp tá. Sài Gòn là trung tâm đầu não của ngụy quyền, đồng thời trong quá trình tấn công và nổi dậy của quân dân ta, nhiều tướng, tá, nhân viên cao cấp của ngụy quyền ở các vùng cũng chạy về ẩn náu, do đó đối tượng phải đăng ký trình diện ở đây khá đông và phức tạp.
Uỷ ban quân quản thành phố đã sử dụng các trường từ bậc tiểu học, trung học đến đại học làm điểm đăng ký trình diện. Phường, xã nào đăng ký ngụy quyền địa bàn ấy; cấp quận đăng ký cấp uý; cấp thành phố đăng ký sỹ quan cấp tướng, tá và nhân viên cao cấp.
Ngoài số cán bộ của các ban, ngành, Uỷ ban quân quản còn huy động cả sinh viên các trường đại học để sử dụng vào một số công việc thích hợp. Khi thành phố công bố việc đăng ký trình diện trên hệ thống loa truyền thanh, sỹ quan, binh sỹ ngụy có nhiều thái độ hưởng ứng tích cực. Thân nhân của các binh sĩ, nhân viên nguỵ cũng có thái độ hợp tác khá tốt, nhiều gia đình bố mẹ, vợ con, bạn bè cũng cùng đi đến nơi trình diện, động viên con em vào khai báo.
Tôi làm nhiệm vụ đăng ký trình diện cho sỹ quan cấp tá tại một trường Đại học trên địa bàn Quận 5. Tại giảng đường, chúng tôi bố trí kê 7 bộ bàn ghế  cho 7 người ngồi tiếp nhận đăng ký gồm tôi và 6 cán bộ địa phương, trong đó có một đồng chí là Thành uỷ viên. Tôi được bố trí ngồi chính giữa, các cán bộ Cục Bảo vệ làm nhiệm vụ vòng ngoài. Sỹ quan ngụy sau khi được phát tờ khai đều có thể gặp bất kỳ ai trong số chúng tôi để đăng ký trình diện.
Trước hết họ xuất trình chứng minh thư, sau đó khai báo đơn vị, ngày rời đơn vị, nơi ở hiện nay... Thường mỗi người đều cầm theo một tờ kêu gọi trình diện của chính quyền cách mạng. Việc khai báo không có gì căng thẳng, nhưng các sỹ quan ngụy rất “ngại” các bàn đăng ký của cán bộ địa phương, bởi các cán bộ cách mạng nằm vùng là những người không xa lạ về lai lịch và “chiến tích” của đối phương nên sỹ quan ngụy thường bị truy vấn khá kỹ, vì thế chỉ lác đác một số tên lên trình diện ở các bàn bên. Thấy tôi mặc quân phục, lại là bộ đội miền Bắc nên chiếc bàn của tôi dần trở thành “mũi nhọn” để các sỹ quan ngụy xếp hàng chờ tới lượt, và tôi trở thành người tiếp nhận đăng ký nhiều nhất, lâu nhất.
Một điểm đăng ký trình diện của sỹ quan ngụy sau ngày 30-4-1975. (ảnh tư liệu của Cục Dân vận)
                     Một điểm đăng ký trình diện của sỹ quan ngụy sau ngày 30-4-1975. (ảnh tư liệu của Cục Dân vận)
Một hôm, đã quá trưa, khi tôi chuẩn bị xuống nhà ăn của nhà trường để dùng bữa thì thấy cán bộ của Cục Bảo vệ đến thông báo có một viên trung tá ngụy khẩn khoản xin gặp tôi để trình diện. Tôi cho phép ông ta vào gặp, ông tự giới thiệu là trung tá, lữ đoàn trưởng thuỷ quân lục chiến.
Viên sỹ quan tâm sự: “Từ hôm các ông kêu gọi đến trình diện, sáng nào tôi cũng đến, nhưng tôi chỉ đứng ngoài để nghe ngóng…”.
Tôi vui vẻ bảo: “Ông đã nghe và thấy những gì trong mấy ngày qua ?”. Lúc này, viên trung tá đã bớt căng thẳng: “Tôi để ý xem nếu trong này có tiếng kêu thét do bị bắt, bị tra tấn của các sỹ quan Sài Gòn, tôi sẽ bỏ trốn. Nếu không trốn được, tôi sẽ tự sát. Nhưng bây giờ thì tôi đã yên tâm ra trình diện”.
Từ 11h30 tới 13h30 hôm ấy, tuy vừa mệt, vừa đói bụng, nhưng tôi và hai sỹ quan cảnh vệ vẫn vui vẻ tiếp chuyện viên trung tá Lữ đoàn trưởng. Câu chuyện của chúng tôi xoay quanh chính sách nhân đạo, khoan hồng của chính quyền cách mạng, tôi còn vạch rõ cả những đòn tâm lý chiến mà kẻ địch từng xuyên tạc về người chiến sĩ giải phóng khi chúng tung tin “bộ đội Việt cộng bám cành đu đủ không rớt” …
Nhận thấy cách giao thiệp của tôi đã trở nên gần gũi, tin tưởng, viên trung tá ngụy tâm sự khá cởi mở, song anh ta vẫn tiếp tục thăm dò: “Khi nào các ông sẽ tiến hành thẩm vấn chúng tôi?”. Biết rằng viên sỹ quan này cũng giống như số đông binh lính khác vẫn còn không ít hoài nghi, lo lắng với biết bao câu hỏi trong đầu, tôi trả lời viên trung tá rằng anh hãy trở về chuẩn bị cho cuộc sống bình thường của một người dân trong một đất nước thống nhất. Khi ấy, viên sỹ quan ngụy mới thú thực: “Vợ con tôi đang chờ ngoài ô tô, tôi dặn hôm nay nếu tôi có mệnh hệ gì thì gia đình sẽ coi ngày tôi ra trình diện là ngày giỗ…”.
Tôi bật cười vì suy nghĩ ấy, và khá bất ngờ khi chuẩn bị ra về, viên trung tá mang ra hai chiếc hộp sắt vuông vắn giống như hai hộp bánh. Thì ra một hộp xếp toàn vàng lá, một hộp toàn kim cương, đây là những tài sản do viên trung tá tự nguyện nộp cho cách mạng. Tôi bảo anh ta để xuống bàn rồi cử hai sỹ quan bảo vệ làm biên bản chi tiết để nhận bàn giao cho Uỷ ban quân quản. Thực tế, tôi không thạo lắm về món hàng xa xỉ này nên không biết số lượng vàng, kim cương kia được cân đong ra sao, thế là đành cử người đi tìm một thợ kim hoàn vào thống kê giúp để ghi biên bản…
Sau hơn 10 ngày làm công tác đăng ký trình diện cùng Uỷ ban quân quản, tôi và anh Phạm Đình Thức cùng ngồi lại với nhau để trao đổi về kết quả thu được sau những ngày tiếp cận tàn quân ngụy. Hỏi chuyện anh về đối tượng cấp tướng và nhân viên cao cấp mà anh tiếp xúc, anh kể có những người phân vân, hoài nghi và ra vào các điểm trình diện tới hai, ba lần rồi mới dám xin giấy kê khai.
Có sỹ quan cấp tướng sau khi đăng ký xong đã vui vẻ thổ lộ: Lúc đầu chưa tin chính sách của cách mạng nên gần hết hạn đăng ký mới dám ra khai báo, một số khác thì rủ thêm cả bạn bè đi cùng để…đề phòng bất trắc. Song, hầu hết trong số họ đều vui mừng, phấn khởi ra đăng ký trình diện. Chính số sỹ quan ngụy và thân nhân của họ đã góp phần vạch trần những luận điệu tuyên truyền mà địch từng hù doạ là sẽ có trả thù, “tắm máu” sau giải phóng, đồng thời làm rõ thêm thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của toàn dân tộc, của mọi người dân Việt Nam yêu nước.
Bài và ảnh: Bùi Vũ Minh


()

Friday, 3 May 2013

Trao đổi cùng Nguyễn Văn Hoàn (Nguyễn Huệ Chi - Talawas)

Trao đổi cùng Nguyễn Văn Hoàn (Nguyễn Huệ Chi)
Phi lộ: Tôi hoàn thành bài viết dưới đây vào ngày 15-V-2005 và cũng trong ngày đó đã gửi đến hai nơi: 1. Tạp chí Nghiên cứu văn học của Viện Văn học Hà Nội, nơi đã đăng bài ông Nguyễn Văn Hoàn phê phán tôi; và 2. Mạng talawas, nơi tôi công bố đầy đủ bài viết về Trần Thanh Mại mà Nguyễn Văn Hoàn dùng làm căn cứ chủ yếu để phê phán. Chờ đợi đến hai tuần không thấy hồi âm từ phía tờ tạp chí, tôi có gọi điện trực tiếp cho ông Tổng biên tập kiêm Viện trưởng Phan Trọng Thưởng thì được trả lời rất thân tình: bài nếu đăng cũng phải cắt nhiều, bởi có nhiều vấn đề quá nhạy cảm. Tôi rất biết chỗ khó của một người làm nhiệm vụ quản lý cả một viện nghiên cứu văn chương của nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nên chỉ đề nghị hai hướng xử lý: hoặc cắt bỏ một số đoạn xét thấy có thể gây phiền cho tờ báo với điều kiện những chỗ cắt để lại bốn chấm trong ngoặc vuông [....]; hoặc nữa cứ đăng nguyên nhưng có thêm một “Lời tòa soạn” nói rõ tòa soạn không tán thành quan điểm của người trao đổi ý kiến song vì tôn trọng quyền trả lời của người được góp ý nên vẫn cho đăng. Ông Tổng biên tập hứa sẽ xem xét ngay ý kiến của tôi, tuy vậy, đến nay cũng chưa nhận được một cú điện thoại chính thức của ông. Tôi vẫn kiên nhẫn chờ đợi, vì tin rằng sự thật vốn có một hấp lực mạnh mẽ đối với mọi đầu óc tỉnh táo, nên dù “vòng cương tỏa” có ghê gớm đến đâu thì sớm muộn bằng cách này cách khác người ta vẫn có cách tiếp cận và chuyển tải nó. Nhưng trong thời gian chờ đợi, thiết nghĩ cũng cần để mạng talawas công bố sớm ý kiến của mình, vì đây không phải là chuyện trả lời của một cá nhân đối với một cá nhân, mà rộng hơn, tôi muốn hé lộ cho bạn đọc thấy một góc bức tranh sinh hoạt tinh thần ở một thời cách xa ngày nay đã chẵn bốn thập kỷ, trên mảnh đất miền Bắc những năm sau hiệp định Genève, vậy mà còn để ảnh hưởng nặng nề đến tận hôm nay. Phơi bày bức tranh ấy cho trung thực, theo tôi chính là khởi đầu của mọi sự đổi mới thật sự trong công tác nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học mà giới nghiên cứu ở Việt Nam hiện đang rất bức xúc.


Trên số 4 Nghiên cứu văn học năm 2005, nhân đọc Trần Thanh Mại toàn tập [1] , Nguyễn Văn Hoàn đã nêu lại một số ý kiến trong bài viết của tôi về Trần Thanh Mại, in trên Tạp chí văn học số 1-1979, được in lại có bổ sung trên Văn nghệ số 3 ngày 15-I-2005, và in hoàn chỉnh trên mạng talawas (talawas số 182, ra ngày 15-I-2005) mà Nguyễn tỏ ý không tán thành. Đọc kỹ bài ông, lúc đầu tôi đã định không trả lời vì thầm nghĩ, giữa thời buổi ngổn ngang bao nhiêu chuyện bất cập đang đặt ra trước mắt ngành nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học ở Việt Nam như thời buổi hôm nay - trong đó có việc xem xét lại chỗ đắc chỗ thất của giới nghiên cứu văn học mác-xít 60 năm qua - sự khác nhau trong cách nhìn nhận một hiện tượng nào đó cũng là dễ hiểu. Song nghĩ cho thấu đáo, trao đổi với nhau vẫn là hữu ích, không những có dịp làm rõ hơn ý tưởng của mình mà còn qua đó nói thêm một đôi điều về những năm tháng quá khứ của Viện Văn học mà chúng ta được sống, âu cũng là cơ duyên chứ nào phải cứ muốn đã dễ dàng có ngay.


1.

Trước hết, phải cám ơn Nguyễn Văn Hoàn đã trích dẫn một đoạn trong bài tôi viết trên talawas băn khoăn về tình trạng các bộ toàn tập được Nhà xuất bản Văn học in ra trong khoảng mấy năm gần đây với sự tài trợ của Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam. Nguyễn Văn Hoàn đã giúp chuyển tải ý kiến của tôi trên một tờ báo điện tử nước ngoài về đăng lên Nghiên cứu văn học trong khi chính tôi đang muốn làm việc ấy mà chưa có cách, còn gì hay bằng. Nhưng chỗ chưa sòng phẳng của người chuyển tải là không nói rõ văn cảnh của đoạn trích. Nguyễn Văn Hoàn giới thiệu đoạn trích như một “lời bình” của tôi trong bài viết, mà thực tế tôi chỉ để ở chú thích 15 của bài, nghĩa là coi đó chỉ là một ý rất phụ, một lời nói thêm nhân viết về Trần Thanh Mại mà thôi. Không rõ có dụng ý gì không nhưng một khi đem “cái phụ” biến thành “cái chính” thì tức là đã nâng cấp ý kiến của người khác lên một tầm khác với chính nó, điều đó không hay, nhất là trong ý phụ này tôi đã viết với giọng “uy-mua” - một lời trữ tình ngoại đề vừa hàm ý bao biếm lại cũng vừa là lời tự giải thích cho chính mình, chứ không phải lời lẽ nghiêm chỉnh như trong chính văn.

Từ đoạn văn đã trích, Nguyễn Văn Hoàn nêu lên hai câu hỏi mà không thảo luận: “1. Quan niệm về “toàn tập” của một tác gia. 2. Đánh giá những bài viết trong cuộc đấu tranh chống nhóm Nhân văn-Giai phẩm”. Xin thưa: tôi biết toàn tập của một người có lúc không in trọn mọi tác phẩm của người ấy vì những khó khăn nào đó, chẳng hạn có những tác phẩm đã bị mất mát chưa tìm lại được, hoặc có những tác phẩm quá lạc hậu/quá tân tiến so với thời đại; nhưng đấy chung quy cũng là tình thế cực chẳng đã. Còn theo nguyên tắc, đã gọi là toàn tập thì mọi tác phẩm của một tác giả nhất thiết phải đưa vào. Toàn tập còn có tư cách gì nếu trên thực tế đã bị cắt xén và chỉ là tuyển tập? Quan trọng hơn, nếu nó không giúp bạn đọc tìm hiểu thật chính xác tiến trình tư tưởng và văn chương của một nhà văn? Huống chi ở đây, tất cả những bộ toàn tập đã công bố của Nhà xuất bản Văn học lại nhất loạt bỏ hết các bài viết trong cuộc đấu tranh chống nhóm Nhân văn-Giai phẩm, một sự kiện cực kỳ quan trọng trong suốt 20 năm xây dựng miền Bắc nước ta, thì thử hỏi có bình thường hay không? Xin nhớ lại thời kỳ ấy, từ thành thị đến nông thôn có ai được phép bàng quan, đứng ra ngoài không khí sục sôi “đánh địch” trên mặt trận văn hóa văn nghệ của cả một nửa nước, nhất là tầng lớp văn nghệ sĩ và trí thức? Ngay trong một lá thư gửi cho Hồng Diệu đề ngày 29-IX-1960, chính Trần Thanh Mại cũng đã nhắc đến những ngày “tất cả phải đổ dồn vào việc đấu tranh chống tư tưởng Nhân văn-Giai phẩm” vào “nửa sau năm 1958”, đến mức nếu “mở những cuộc tranh luận về lý luận văn học [trong thời gian này] thì không có lợi” - có nghĩa là đi lạc ra ngoài những gì xã hội quan tâm (xem Toàn tập, Tập III, trang731-732). Hai năm qua rồi mà một trí thức như ông còn đầy ắp ấn tượng về những ngày “long trời lở đất”, chứng tỏ cuộc đấu tranh chống Nhân văn-Giai phẩm đã tác động đến mọi người sâu sắc tới chừng nào. Bài viết của mỗi tác giả viết trong dịp đó, vì thế sẽ là nơi kiểm nghiệm chân xác cái đúng cái sai trong nhận thức, tư tưởng, nói lên bản lĩnh, tầm nhìn, sự trung thực và tình người của mỗi người trước những vấn đề nổi cộm, diễn ra cách chúng ta gần 50 năm nhưng đến nay vẫn chưa phải đã hết ý nghĩa thời sự. Thế thì vì sao lại phải bỏ đi? Hãy cứ thành thực mà nghĩ chứ đừng quanh co, chẳng phải là có một tâm lý chung chi phối người biên soạn, và cả người đứng ra chủ trương làm các bộ toàn tập hôm nay - một thứ tâm lý mặc cảm cho rằng những lời lẽ được nói ra vì động cơ chính trị nhất thời trong một lúc, nay in lại cho bạn đọc rộng rãi hẳn chẳng hay gì. Thêm nữa, nếu chịu khó tìm lại văn bản gốc để đọc tất ai cũng thấy ngay đấy là những lời lẽ lên gân tột mức, mang tính chất mạt sát, sỉ nhục đối với người bị phê phán, không thể nào có trong đời sống văn học bình thường. Phải ở vào một thời điểm hết sức căng thẳng, dưới một áp lực vô hình hoặc một sự phấn khích tinh thần đặc biệt thì người viết mới đủ “dũng khí” để nói ra những lời không mấy “văn chương” như thế. Vì thế mà nay người làm toàn tập cân nhắc bỏ đi cũng chẳng phải là chuyện khó hiểu. Nó là bằng chứng của một sự “phản tỉnh” mà hễ ai có chút lương tri cũng cần có, nói cách khác, một thước đo giá trị mới trong lương tâm cộng đồng thời buổi hiện tại không cho phép người làm sách giữ lại những lời lẽ khiến người đọc thế hệ sau không thể thông cảm, thậm chí bất bình. Bản thân tôi, từ kinh nghiệm của người thân, tôi đã chứng kiến người bố của tôi - Nguyễn Đổng Chi - viết bài phê phán học giả Phan Khôi theo yêu cầu của người khác (khác hẳn với tính cách của ông), rồi sau đó đã không ngớt ân hận. Cho đến tận lúc mất ông vẫn lấy làm xấu hổ, coi việc làm của mình là một vết nhơ không gột nổi, và dặn con tìm cơ hội gột rửa giúp mình [2] . Gần đây có nhiều người gợi ý nên làm toàn tập cho bố, tôi chỉ cười mà không giải thích, nhưng trong thâm tâm tôi tự thấy chưa thể nào làm được, vì không thể đặt vào toàn tập một bài viết không vẻ vang gì cho tên tuổi của bố tôi, tiếc thay trên giấy trắng mực đen bài viết đã được in ra [3] . Cũng chính với tâm trạng nói trên mà khi đọc các bộ toàn tập do Nhà xuất bản Văn học xuất bản không thấy có các bài viết của nhiều nhà văn đấu tranh chống Nhân văn-Giai phẩm, tôi đã hơn một lần băn khoăn nghi ngờ. Ở chú thích 15 trong bài hồi ức của tôi về Trần Thanh Mại trên talawas, tôi nêu thắc mắc và cũng tạm tự giải đáp như sau: “Những bài viết của Trần Thanh Mại phê phán Nhân văn-Giai phẩm đã không được đưa vào Trần Thanh Mại toàn tập, Nxb. Văn học, 2004. Tôi để ý thì thấy hết thảy những bộ toàn tập của các tác giả được Nxb. Văn học công bố mấy năm nay đều bỏ hẳn phần viết này, và cả một số phần khác nữa. Như vậy thì định nghĩa thế nào là “toàn tập”? Hay ông Nguyễn Văn Lưu, Giám đốc, coi toàn tập chỉ là những gì còn “ăn khách” được với hôm nay? Còn “những miếng xấu hổ” “khạc chẳng ra cho nuốt chẳng vào” thì thôi, đành theo ý ai đấy giấu nhẹm để người ta quên đi một thời người cầm bút phải thóa mạ nhau túi bụi “cho vừa lòng bề trên”, đúng như cha ông ta nói “tốt đẹp phô ra xấu xa đậy lại”? Có lẽ cách xử sự như thế cũng là hữu lý chăng” (nguyên văn chú thích này không hề có những cụm từ in đậm như trình bày của Nguyễn Văn Hoàn).

Có điều, thử đặt vào một cự ly xa hơn mà nhìn cho khách quan, việc không đưa những bài viết đã nói vào các bộ toàn tập sẽ ảnh hưởng thế nào đến bạn đọc? Nghĩ kỹ, tôi thấy đó là việc làm hại nhiều lợi ít. Nếu cuộc đấu tranh chống nhóm Nhân văn-Giai phẩm trước sau là đúng, chúng ta đã vô tình xóa mất một dấu son của nhân dân miền Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng trên cả một chặng đường tư tưởng. Con cháu về sau sẽ không có điều kiện tìm hiểu nhằm vinh danh những dấu mốc đáng nhớ của chặng đường này. Đó chẳng phải là một sai sót của công tác xuất bản khó lòng chấp nhận được ư? Còn nếu thực chất việc làm năm 1958 của giới văn nghệ sĩ, trí thức là sai, cứ giả định như vậy, thì lại càng cần phải đưa vào, để người đọc - cả một dân tộc có văn hóa hiểu theo nghĩa rộng - qua đó rút kinh nghiệm, nhằm bớt đi những vấp váp ấu trĩ, cho chặng đường đang tới. Chính vì ta không chịu rút kinh nghiệm kịp thời nên không ít cái sai đã tái diễn. Chẳng hạn việc đốt phá, tịch thu sách vở trong Cải cách ruộng đất là một tổn thất to lớn cho di sản văn hóa đất nước, đã lặp lại ở miền Nam sau năm 1975 [4] . Lại chẳng hạn việc phá đình phá chùa trong chủ trương “hợp tự” năm 1948 đã làm mất đi bao nhiêu di tích văn hóa quý giá có từ lâu đời ở Nghệ Tĩnh, lại được lặp lại với quy mô rộng rãi hơn ở hầu khắp miền Bắc trong những năm 60 thế kỷ XX [5] . Tôi nghĩ, có thể có ai đó coi việc “cắt gọt” các bộ toàn tập như Nhà xuất bản Văn học đã làm là một cách “khép lại quá khứ”. Nghĩ thế e không khỏi đơn giản và lầm. Bao nhiêu người từng bị xử lý trong cuộc đấu tranh chống nhóm Nhân văn-Giai phẩm, bị treo bút, bị cải tạo, bị tù đày... hàng chục, vài chục năm, cho đến nay đã người nào được lên tiếng “nói lại” một lời cho thỏa đáng? “Khép lại” kiểu ấy thì công bằng ở đâu? [6] Cũng như hàng triệu người vì quẫn bức phải bỏ nước ra đi đầu những năm 80, biết bao người thân của họ không may tử nạn trên biển cả. Khép lại quá khứ chắc chắn không có nghĩa là bắt họ không được chiêu tuyết cho cha mẹ vợ con họ.


2.

Trong bài viết của mình về Trần Thanh Mại, tôi có nói đến việc trước khi mất, ông có để lại di chúc cho tôi - do Trần Tuấn Lộ viết - giữ hai tập tài liệu của ông về Hồ Xuân Hương và về Miên Thẩm để kế tục ông nghiên cứu về hai nhà thơ tầm cỡ này của thế kỷ XIX. Nhưng đến năm 1967 thì ông HTN, đại diện Chi bộ và đại diện Phòng tư liệu của Viện đến đòi tôi trả lại cho Viện hai cặp tài liệu kể trên. Tôi đã phải bần thần mất một lúc lâu rồi mới lấy chúng ra đặt vào tay ông. Nguyễn Văn Hoàn không phủ nhận việc đó mà chỉ phiên rõ mấy chữ HTN tôi viết tắt chính là Hồ Tuấn Niêm, Trưởng phòng Tư liệu thư viện lúc bấy giờ, đồng thời cố gắng giải thích tính chất đúng đắn của việc ông Hồ Tuấn Niêm đã làm. Khốn nỗi, trong bài của mình tôi có hề nói một dòng nào rằng đấy là hành động không đúng đắn đâu. Thực ra, giờ đây nghĩ lại, nếu vào năm 1967 tôi có được ít nhiều bản lĩnh chứ không non gan thì tôi đã không trao hai chiếc cặp cho ông Hồ Tuấn Niêm, vì trong hai chiếc cặp tôi giữ đâu có gì là tài liệu của Viện. Đó chỉ là tài liệu riêng của Trần Thanh Mại về Lưu hương ký đã được sao thành 5 bản kèm theo bản dịch và phiên âm đầy đủ (cặp thứ nhất) và một tập chuyên luận về Miên Thẩm đang viết dở gồm Chương I: Thời đại, Chương II: Thân thế và hành trạng, đều đã viết xong, và Chương III: Sự nghiệp văn học, mới viết được một phần (cặp thứ hai). Nguyễn Văn Hoàn nói Trần Thanh Mại viết một tiểu luận về Miên Thẩm 34 trang và dịch được một tập thơ Miên Thẩm 47 trang là nói ở đâu đấy chứ không phải nói về chiếc cặp mà ông không hề biết và tôi từng giữ bên mình gần ba năm. Chính trong cái hôm tôi và một vài người khác ở Tổ văn học Cổ cận đại đến nhà Trần Thanh Mại chừng mươi lăm ngày sau khi ông mất để nhận lại tài liệu ông mượn của Viện, tự tay Trần Tuấn Lộ đã trao riêng cho tôi hai chiếc cặp này. Theo di chúc của Trần Thanh Mại, tôi có thể giữ mà không giao cho Hồ Tuấn Niêm, đấy là quyền của tôi. Nhưng tôi đã không làm thế (tuổi trẻ, lại không đảng viên, sao khỏi chút tâm lý sợ hãi trước các bậc đàn anh). Và Hồ Tuấn Niêm khi nhận cặp cũng không làm biên bản giao nhận. Song điều tôi muốn nhắc lại trong bài viết của mình không phải chỉ bấy nhiêu chuyện đó. Điều từng đè nặng lên tôi như một nỗi niềm canh cánh muốn đem ra chia sẻ với bạn đọc, là sau khi nhận hai chiếc cặp của tôi một thời gian, những người có trách nhiệm giữ gìn chúng làm tài sản chung cho cán bộ Viện tham khảo, đã để cho hai chiếc cặp... không cánh mà bay mất tăm mất tích, từ đó đến nay không một ai được tham khảo chúng nữa. Cho hay, chỉ một việc mà giữa tôi và Nguyễn Văn Hoàn hoàn toàn khác nhau trong cách nghĩ. Nguyễn Văn Hoàn nghĩ đến mục đích cao đẹp trong việc thu hồi hai chiếc cặp tư liệu (mục đích cao đẹp thể hiện ở những chủ trương hay, những lời nói đẹp). Tôi, tôi chỉ nghĩ đến hậu quả cụ thể của việc thu hồi hai chiếc cặp là làm chúng biến mất khỏi Viện, khiến cho không những di cảo chưa hoàn thành của Trần Thanh Mại bị mất, mà ước mong của ông về việc tiếp tục hai công trình ông ôm ấp cũng bị đứt đoạn giữa chừng. “Đừng xem lời nó nói, hãy xét việc nó làm” - dẫu không “của đau con xót” đi nữa, chẳng biết Nguyễn Văn Hoàn có thấm thía cái chân lý ẩn sau những lời khuyến dụ đầu miệng ấy của dân gian hay chăng.


3.

Một chuyện rất nhỏ: cuốn Giai thoại văn học Việt Nam. Nguyễn Văn Hoàn nói rằng tôi đã đưa ra một ý kiến sai khi cho rằng Trần Thanh Mại là người Chủ biên cuốn sách, từ đó dẫn đến chỗ một người yêu quý Trần Thanh Mại là Hồng Diệu (người biên soạn Trần Thanh Mại toàn tập) phải “viết những lời phê phán nặng nề” về việc tên Trần Thanh Mại chỉ còn được ghi như một người viết lời giới thiệu trên bìa cuốn sách in ra sau ngày ông mất. Và đáng phàn nàn hơn là sau này khi cuốn sách được tái bản, lời giới thiệu của Trần Thanh Mại cũng bị tước đi. Thực tế có đúng như vậy không? Tôi không có gì xích mích với Kiều Thu Hoạch từ trước tới nay. Chúng tôi bao giờ cũng là những người bạn tốt. Việc Kiều Thu Hoạch cộng tác với Hoàng Ngọc Phách và Trần Thanh Mại soạn Giai thoại văn học Việt Nam ra sao, tuy là một thành viên trong Tổ nhưng tôi cũng không để tâm cho lắm, vì giai thoại vốn không thuộc chuyên môn của tôi, hơn nữa sách lại không nằm trong kế hoạch chính thức của Tổ. Nhưng điều này thì tôi phải khẳng định: thuở ấy chúng tôi đều đinh ninh Trần Thanh Mại là người đóng vai trò quyết định thành công của cuốn sách (hẳn ai cũng biết có được một cán bộ đầu đàn có sức hút như Trần Thanh Mại là chuyện hiếm, nên những cán bộ trẻ - rất trẻ - trong Tổ bấy giờ hễ làm gì đều xin Tổ trưởng mách đường chỉ lối, đều lấy những gợi ý của Tổ trưởng làm chỗ dựa; một cuốn sách do người trẻ làm dưới danh nghĩa Chủ biên của ông chúng tôi coi là điều hợp lý; có khi sách còn không đứng tên ai mà chỉ ký tên chung: Tổ văn học Cổ cận đại, như trường hợp cuốn Mấy vấn đề về sự nghiệp và thơ văn Nguyễn Trãi của tôi [7] ). Mà bản thân Trần Thanh Mại trong các cuộc gặp gỡ anh chị em trẻ, mỗi lần nói đến Giai thoại văn học cũng thừa nhận vị trí đứng mũi chịu sào của mình. Chính vì cái ấn tượng đã in sâu vào tâm trí nên năm 1979 (cách đây chẵn 26 năm), khi viết bài Trần Thanh Mại trong những bước đi đầu tiên của Viện Văn học đăng trên Tạp chí văn học của Viện, tôi đã nói ông là người Chủ biên Giai thoại văn học Việt Nam mà không chút phân vân, cũng không hề xem lại mặt mũi cuốn sách. Có thể tôi đã nhầm, hồn nhiên mà nhầm, nhưng nếu đối chiếu với bức thư Trần Thanh Mại gửi cho Hồng Diệu ngày 1-VI-1964 thì tự tôi cũng phải lấy làm lạ: có một sự trùng khớp giữa ấn tượng của tôi và lời khẳng định của chính Trần Thanh Mại: “Mặc dù ốm nhiều như vậy tôi cũng đã tranh thủ làm việc và đã hoàn thành một cuốn sách nhan đề là Giai thoại văn học Việt Nam dày chừng 400 trang. Viết chung với hai người nữa. Hiện đang đánh máy để đưa nhà in” (Toàn tập, tập III, trang 759). Nguyễn Văn Hoàn nói Trần Thanh Mại là người trung thực. Tôi khẳng định điều ấy, và các bức thư gửi Hồng Diệu cũng soi tỏ điều ấy. Vậy thì ở đây phải chăng cả Trần Thanh Mại và tôi đều đã nhầm lẫn, do những gì in quá đậm vào trí óc khi còn sinh hoạt chung trong Tổ? Rất mong bạn Kiều Thu Hoạch hiểu được chỗ vô tình chứ không cố ý của tôi.


[1]Ba tập, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2004.
[2]Trong khi biên tập Từ điển văn học bộ mới, nhận lời ủy thác của người bạn quá cố Văn Tâm, tôi đã bổ sung và chỉnh sửa lại mục từ Phan Khôi do Văn Tâm viết từ nhiều năm trước mà chính anh về sau không hài lòng, nhưng bệnh tật khiến anh không tự tay mình viết lại được nữa. Tuy giúp Văn Tâm, trong thâm tâm, tôi đã làm theo lời bố dặn. Cũng trong Từ điển văn học bộ mới, tôi đã tự nguyện đảm nhiệm mục từ Hồ Thích, để giải oan phần nào cho cái gọi là “chủ nghĩa thực dụng của Hồ Thích” mà bố tôi từng cực lực phê phán.
[3]Bài Quan điểm phản động, phản khoa học của Phan Khôi phải chăng là học mót của Hồ Thích. Văn sử địa, số 41, tháng VI-1958.
[4]Thời gian này bố tôi công tác ở miền Nam, vì đã có kinh nghiệm về thời kỳ Cải cách ruộng đất, ông hết sức tìm cách giúp đỡ để một số trí thức như nữ sĩ Mộng Tuyết, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Y... cứu được kho sách của mình.
[5]Còn nhớ ngày 9-V-1963, tôi đến thăm cụ Lê Thước ở chợ Hôm, gặp lúc nghệ sĩ nhiếp ảnh Nguyễn Bá Khoản cũng đến, trình bày với cụ việc một ngôi đền thờ nữ tướng của Hai Bà Trưng ở Mai Động bị Đảng bộ địa phương chỉ đạo đem hoành phi, câu đối và cỗ kiệu ra đóng xe phân cho hợp tác xã. Ông Nguyễn Bá Khoản đã chụp trộm được mấy tấm ảnh và suýt bị dân quân tự vệ bắt, tịch thu máy ảnh. Tối hôm đó, tôi ghi vào nhật ký: “Có thể có một chủ nghĩa duy vật cuồng tín hoành hành trên đất nước ta như thế hay sao?”. Tôi chắc rằng trong kho ảnh của gia đình cố nghệ sĩ Nguyễn Bá Khoản vẫn còn lưu những tấm ảnh mà cụ Lê Thước và tôi được xem hôm đó.
[6]Xin dẫn chứng một sự kiện xảy ra ở nước Nga: cuối những năm 30 thế kỷ XX, trong “khí thế cách mạng ngùn ngụt, rất nhiều gương tốt được khái quát hóa, nhân điển hình, dấy lên các phong trào học tập”, chú đội viên thiếu niên tiền phong Pavlik Morozov, 13 tuổi, ở làng Gerasimovka thuộc thị trấn Tavda, Ural, viết thư tố cáo người bố của mình, Trofim là địa chủ phản động khiến ông bị chính quyền làng bắt và xử bắn, một năm sau đó chú bị ông nội đập chết, đã được nêu gương như một anh hùng, “một người hy sinh vì nghĩa cả, một con ngoan trò giỏi, một chú bé tóc vàng đẹp trai”, được báo chí trong cả nước nhắc đến suốt nhiều tháng của năm 1931 và được giới văn nghệ sĩ hết lời ca ngợi, viết tiểu thuyết, dựng tượng, dựng phim. Mới đây một nhà điều tra xã hội học, bà Catriona Kelly, đã về tận quê hương chú bé, lần tìm lại các tài liệu gốc, kể cả lá đơn của chú, hỏi han kỹ những người cùng thời may mắn còn sống, rồi cho công bố cuốn sách Đồng chí Pavlik, thăng trầm của một anh hùng thiếu niên Liên Xô, chỉ rõ Pavlik thực tế chỉ là một đứa bé “mặt đầy tàn nhang, chẳng thông minh và vô duyên, không phải là học sinh giỏi, cũng không phải là đội viên, thậm chí bị tâm thần”, là một “trường hợp cá biệt, đầu óc bã đậu và hai anh em từng vạch quần đái vào nhau”. Còn người bố thì có thể liên quan đến bệnh nghiện rượu làm cho con oán ghét và là một nông dân vẫn quen giữ súng ở trong nhà. Việc Pavlik tố cáo bố nằm trong bối cảnh của một thời kỳ hết sức phức tạp, “tại các nông trang vùng sâu vùng xa, không chỉ có chính quyền chụp mũ “địa chủ phản động” thậm chí “gián điệp nước ngoài” lên đầu nông dân mà còn nhiều mối bất hòa giữa dân làng với nhau: những tranh chấp cá nhân, chuyện thù vặt... đều bị chính trị hóa”. “Khí thế cách mạng bị lạm dụng vào những việc tư thù”, đến nỗi “trẻ con ghét người lớn cũng có thể làm đơn tố cáo để mượn tay người khác xử lý”. Cuốn sách của Catriona Kelly là một cách lấy lại sự công bằng cho lịch sử, đưa đến những thanh lọc cần thiết trong lương tâm cộng đồng, bởi không một xã hội nào “chấp nhận khuyến khích con đấu cha mẹ”, nhưng hẳn bà chỉ làm được với điều kiện các tài liệu gốc chưa bị hủy bỏ. Xin xem thêm Diên Hy tổng thuật tài liệu của Nga trong bài Khi khí thế bị lạm dụng... Thế giới, phụ san báo Quốc tế, số 187 (22), Thứ Hai, 30-V-2005; trang 13.
[7]Nxb. Khoa học, Hà Nội, 1963. Trong bài viết của mình, Nguyễn Văn Hoàn nói: “Trong số các cán bộ trẻ của Tổ Cổ cận đại Viện Văn học những năm đầu thập kỷ 60, chỉ có Kiều Thu Hoạch là đã có thể sử dụng được chữ Hán”. Không đúng. Trong Tổ bấy giờ còn có Trần Nghĩa, học 5 năm ở Đại học Thanh Đảo (Trung Quốc) về, là người đã ghi được rất nhiều tư liệu của Trung Quốc thời cổ có liên quan đến Việt Nam, như Sứ Giao Châu tập của Trần Cương Trung, hay 6 bức thư đối đáp giữa các Thiền sư Việt Nam với quan lại Trung Quốc ở Giao Chỉ vào thời Bắc thuộc mà sau này anh đã công bố trong công trình có giá trị Sưu tầm và khảo luận tác phẩm chữ Hán của người Việt Nam trước thế kỷ X; Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2000. Ngay như tôi, tuy lúc ấy chưa học Lớp đại học Hán học như mấy năm sau, nhưng đã học xong chương trình Trung văn liền ba năm ở Khoa Ngữ văn Trường đại học Tổng hợp Hà Nội. Trong công trình Mấy vấn đề về sự nghiệp và thơ văn Nguyễn Trãi, một mình tôi đã lục tìm và sao chép bằng hết những tài liệu chữ Hán có liên quan đến Nguyễn Trãi ở Thư viện Khoa học để mang về cho cụ Nguyễn Văn Huyến dịch (thuở ấy đã làm gì có máy photocopy). Mặt khác, tự tôi đã đối chiếu Đại Việt sử ký toàn thư (đầu những năm 60 chưa được dịch ra tiếng Việt) với Việt sử thông giám cương mục để viết bài so sánh tư liệu về Nguyễn Trãi giữa hai bộ sách ấy. Nguyễn Văn Hoàn nói Trần Thanh Mại không đọc được chữ Hán, tôi không tin lắm, nhưng có phần chắc ở trong Tổ, Nguyễn mới là người không biết chữ Hán. 



***

4.

Về việc Trần Thanh Mại không công bố được những bài viết của mình về Miên Thẩm, tôi đã giải thích là “bắt nguồn từ hòn đá tảng “quan điểm giai cấp” mà ai cũng không được vi phạm”, một người như ông tất nhiên làm gì có thể “chuyển lay”. Để dẫn chứng, tôi nói thêm: “Ngay như trong chiếc tủ tư liệu của Tổ tôi vào lúc đó vẫn chất đầy những bài viết, do Viện đặt cho nhiều nhà nghiên cứu “tên tuổi”, tuy không in ra nhưng là những bài được xếp vào hồ sơ nghiên cứu, có ý nghĩa “điểm tựa” cho việc viết văn học sử cận đại, mà bài nào cũng mang dòng tít “sắt đá”: Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh chỉ là những con số không trong lịch sử văn học (ĐĐH); Bộ mặt phản động của Trương Tửu trong cuốn Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam” (VT); Trương Vĩnh Ký, nhà bác học hay là kẻ đóng vai đặc vụ, tình báo, làm tay sai đắc lực cho thực dân Pháp (MQ); Triều Nguyễn, một thời đại phản động và thoái hóa trong lịch sử dân tộc (TC); Thơ văn Phan Thanh Giản chỉ là tiếng thở dài của chủ nghĩa đầu hàng (TC)...”. Nguyễn Văn Hoàn quả quyết: hoàn toàn không có những bài như Huệ Chi kể trong tủ tư liệu của Tổ hồi đó. Vậy sự thực thế nào? Lời phản bác quả đặt tôi vào một tình thế nan giải, vì sau bao cuộc biến thiên: mấy phen tách nhập từ Tổ văn học Cổ cận dân (Cổ đại, Cận đại, Dân gian) sang Tổ văn học Cổ cận đại, rồi sang Ban văn học Việt Nam, lại trở về Ban văn học Cổ cận đại; mấy phen chuyển đổi nơi làm việc từ tầng hai nhà chính xuống tầng một, rồi lại lên tầng hai nhà phụ; ba lần sơ tán hết Hà Bắc đến Hà Tây lại trở lại Hà Bắc; một lệnh quy tập mọi thứ Tổ đang giữ về Phòng Tư liệu thư viện... cũng đủ cho mớ tài liệu mà Tổ sở hữu từ đầu những năm 60 không còn nguyên vẹn mặt mũi thuở xưa. Nhưng tôi nhớ không sai khi mình vừa về Tổ, được phép mở tủ tư liệu của Tổ ra thì trong tủ chứa đầy các bài viết ở dạng bản thảo, trong đó có các bài mà tôi đã dẫn. Khi chị Lê Ngọc Chương xin chuyển sang Tổ văn học Hiện đại (1962), và tôi được Tổ tin cậy, giao cho việc thay chị phân loại lại các tài liệu này, tôi đã tìm thấy chúng xuất phát từ hai nguồn: 1. Những di sản do Ban Văn thuộc Ban nghiên cứu Văn sử địa cũ chuyển giao lại mà ông Vũ Ngọc Phan - nguyên Tổ trưởng tổ văn học Cổ cận dân của Viện - mang về: một bài phê phán Trương Tửu của VT (Nguyễn Văn Hoàn đã nói rõ là Văn Tân nên tôi cũng không cần giữ ý nữa, còn những tên viết tắt về sau, người nào Nguyễn chưa công bố vẫn xin cứ giữ nguyên như cũ), một bài lên án Trương Vĩnh Ký của MQ (Mẫn Quốc), một cụm sưu tập văn thơ Cần vương của Đinh Xuân Lâm, và một số bài của những người khác; 2. Những bài vở do các cán bộ Ban Tu thư Bộ Giáo dục cũ chuyển tới: hai bài về Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh của ĐĐH, hai bài về triều Nguyễn và Phan Thanh Giản của TC, một bài về tuồng của Huỳnh Lý, một tập biên khảo về Huỳnh Thúc Kháng của Lê Trí Viễn, một tập sưu tầm và giới thiệu thơ văn Phan Châu Trinh của Huỳnh Lý và Hoàng Ngọc Phách, một xấp tư liệu về Đông Kinh nghĩa thục của Hoàng Ngọc Phách. Vân vân. Bài Văn Tân đã in trên tập san Văn sử địa cũng có lưu bản đánh máy trong tủ tư liệu của Tổ chính là từ Ban nghiên cứu Văn sử địa chuyển sang, còn bài Mẫn Quốc mãi về sau mới in nhưng đã có ngay từ dạo ấy [1] , và đây là một trong những bài gây “sốc” cho tôi rất mạnh - cũng như hai bài của ĐĐH - khiến tôi nhớ lâu nhất, và đã phải đắn đo không dám mạnh dạn đề cao đúng mức Trương Vĩnh Ký khi viết về ông trong Từ điển văn học (bộ cũ).

Mấy ký ức vừa viện dẫn có lẽ chưa đủ sức thuyết phục bạn đọc tin vào sự tồn tại có thực của những bài viết mà tôi nhắc tới. May sao mới đây, khi kiên nhẫn bỏ ra ngót một tuần lễ để lục tìm lại trong ba tủ tư liệu của Ban Văn học Cổ cận đại Viện Văn học (tức là Tổ văn học Cổ cận đại cũ), tôi đã gặp đúng cái mình định tìm. Trong một cặp tư liệu có ghi ở ngoài “Tài liệu văn học sử cận đại”, tuy không còn đủ hết những bài đã nêu, song hai bài của ĐĐH - cái đinh của vấn đề - cùng với các bài của Huỳnh Lý, Lê Trí Viễn, Hoàng Ngọc Phách, Đinh Xuân Lâm... thì còn đầy đủ. Chỉ thiếu hai bài của TC. Hai bài của ĐĐH nằm chung trong một phong bì bằng giấy xi măng, ngoài bì đề: Ghi chép, sưu tầm, nhận định về Nguyễn văn Vĩnh và Phạm Quỳnh: 1. Tối phản động về chính trị; 2. Số không về học thuật; 3. Lỗi thời về dịch thuật - ĐĐH. Bên trong phong bì là hai tập bản thảo liên hoàn, bài trước có tên Đông-dương tạp chí và Nguyễn văn Vĩnh, 22 trang, dưới ghi rõ Ghi chép của ĐĐH; bài sau có tên Tài liệu về Phạm Quỳnh, 27 trang, dưới ghi ĐĐH sưu tầm. Cả hai đều được đánh máy trên giấy pơ-luya, đã ố vàng, trên góc bên phải đầu mỗi bài đều có đánh chữ H, tên tắt của Từ Quang Hàm, một cán bộ đánh máy lão luyện lâu năm của Viện đã quá cố. Tuy chia thành hai song hai bài có nội dung liền mạch, vì ở một trang gần cuối bài thứ hai, người viết nhắc lại luận điểm “phản tác dụng” mà ông nói “đã trình bày bên trên” (trang 23), tuy vậy lần ngược trở lên thì phải đến trang 20 của bài thứ nhất ta mới bắt gặp luận điểm ấy. Có lẽ cũng vì thế, cuối bài thứ hai tác giả mới ghi thời gian biên soạn: 8-1960, là thời gian chung cho cả hai bài.

Nội dung hai bài viết của ĐĐH nói gì? Trong bài Đông-dương tạp chí và Nguyễn văn Vĩnh, tác giả chia ra ba phần: “1. Mở đầu; 2. Đông-dương tạp chí; 3. Nguyễn văn Vĩnh dịch thuật”. Phần nào cũng khảo sát tỷ mỷ có kèm theo trích dẫn. Để khỏi làm bạn đọc vất vả, chỉ xin chọn ra dưới đây vài đoạn có tính chất đánh giá, tổng kết của người viết:

“Từ hành vi làm mật thám cho thực dân, Vĩnh thoạt tiên dùng con đường văn học, báo chí để leo lên thang giàu sang, danh vọng, bợ đỡ chính sách của thực dân, tuyên truyền cho sự “bảo hộ” của Pháp. Năm 1907, Vĩnh làm Chủ bút tờ Đại Nam đăng cổ tùng báo, là một thứ công báo, tuyên truyền chính sách thuộc địa của Pháp tại Đông-dương. Những tờ báo tiếng Việt hoặc tiếng Pháp do Vĩnh chủ trương đều là tiếng nói của tư tưởng thực dân, được thực dân đứng đầu hoặc được trợ cấp của chúng: Đông-dương tạp chí (1913-1917), Annam Nouveau (1931). Tủ sách Âu Tây tư tưởng, được thành lập dưới sự chỉ huy của E. Vayrac, từ năm 1927, nhằm truyền bá tư tưởng phục tùng văn minh Tây Âu, khinh miệt tư tưởng dân tộc. Từ 1930 trở đi, Vĩnh từ bỏ dần dần con đường tiến thân bằng văn học để trực tiếp tham gia chính trị; y chủ trương thuyết “trực trị” tức là muốn mời thực dân Pháp cai trị trực tiếp toàn Đông-dương như ở Nam-kỳ dạo ấy. Y được thực dân cử vào Đại Hội đồng kinh tế lý tài Đông-dương. Sau đó ít lâu, con đường “trực trị” không thực hiện được, Vĩnh bỏ cả nghề báo, nghề chính trị đi sang Lào tìm mỏ vàng và chết ở đấy. Vết nhơ cuối cùng trong cuộc đời bợ đỡ thực dân Pháp của Vĩnh là việc y phỉ báng nhà ái quốc Phan bội Châu đang bị giam lỏng ở Huế” (trang 1).
“Nhận định chung cả cuộc đời và tất cả “sự nghiệp” văn học của Nguyễn văn Vĩnh, ta thấy Vĩnh đại biểu cho từng lớp tư sản mại bản khoảng những năm 1910-30. Suốt đời Vĩnh ca ngợi nền thống trị của thực dân Pháp, phản lại dân tộc, khinh miệt dân tộc. Con đường tiến thân của Vĩnh không phải con đường quan lại như Quỳnh, kẻ đại diện cho tư tưởng phong kiến bảo thủ. Cuộc tranh giành địa vị trong cuộc cãi vã “trực trị” biểu hiện rõ điều ấy. Ta biết rằng thực dân Pháp lấy cơ sở thống trị của chúng trong chế độ phong kiến, lấy bọn vua quan làm tay sai, để dìm nhân dân ta trong ngu dốt, cho nên con đường của Vĩnh gặp nhiều khó khăn; chính Phạm Quỳnh mới là kẻ tay sai đắc lực, hợp thời nhất của thực dân Pháp. Mâu thuẫn giữa Quỳnh và Vĩnh phản ánh những cuộc tranh giành quyền lợi bỉ ổi giữa những bọn tay sai khác nhau của chính sách thực dân. Ngay từ những năm đầu, trước Đại chiến I, con đường “nghiên cứu”, “dịch thuật” văn học của hai người ấy cũng biểu lộ rõ con đường [chính trị] của mình. Quỳnh dịch những tư tưởng bảo thủ, thần bí, phong kiến trong văn học Pháp (Pascal, Bossuet), còn Vĩnh lại chuyên dịch những loại văn khác, bề ngoài có vẻ tiến bộ, như Balzac, Molière, La Fontaine, nhưng sự thực bị Vĩnh xuyên tạc, lấy nó làm lợi khí tuyên truyền cho tư tưởng đầu hàng, cho chính sách thực dân của Pháp [...] Cuộc đời chính trị và “sự nghiệp” văn học của Vĩnh không thể tách rời nhau. Nói chung, đó là tư tưởng đầu hàng, phản dân tộc, bợ đỡ thực dân, biểu hiện dưới nhiều hình thức, khi trắng trợn, khi tinh vi” (trang 2-3).


Còn về bài Tài liệu về Phạm Quỳnh, tác giả cũng chia ra làm 6 mục: “1. Con người Phạm Quỳnh; 2. Chính trị; 3. Nghiên cứu văn học Việt-nam; 4. Nghiên cứu văn học Pháp; 5. Dịch thuật; 6. Triết học”; và một lời kết luận. Giống như trên, chỉ xin dẫn 2 đoạn:

“Nhận định chung về tiểu sử Phạm Quỳnh, ta thấy những hoạt động văn học cũng như chính trị của hắn chỉ phục vụ cho một mục đích là cố hết sức duy trì nền thống trị của thực dân ở Việt-nam, dưới nhiều hình thức, khi thì bằng con đường văn hóa, khi thì “đấu tranh” chính trị, khi thì bằng thực tế hành động. So sánh với những tay sai khác ta thấy Phạm Quỳnh có mấy đặc điểm sau đây: Phạm Quỳnh là một tên tay sai phản động nhất về mặt tư tưởng; những năm 30 là những năm “gay go” nhất cho thực dân - vì nhân dân đứng lên đấu tranh rất anh dũng ở khắp nơi - hắn vẫn tỏ ra một tên bảo thủ, hắn đối lập cả với bọn cải cách nhỏ giọt chủ trương “trực trị”; và những năm 40, quay trở về với chế độ quân chủ độc tài thối nát. Hắn cũng là một tay sai nguy hiểm nhất; dưới chiêu bài “gây một nền văn hóa tiến bộ”, hắn một phần nào đã đạt mục đích ru ngủ thanh niên, trí thức ta suốt gần 20 năm trời; hắn dùng vũ khí văn hóa để đè bẹp ý chí dân ta, chống lại tinh thần dân tộc của ta, tuyên truyền cho nền “văn minh” châu Âu, đặc biệt cho “văn minh” Pháp. Nói tóm lại, cả “sự nghiệp văn học” của Quỳnh, ngày nay ta nghiên cứu lại, đã soi tỏ những chính sách thâm độc của thực dân Pháp từ giữa cuộc Đại chiến thứ I đến Cách mạng tháng Tám” (trang 4).
“Qua một số tài liệu trên, ta có thể kết luận rằng sự nghiệp văn học của Phạm Quỳnh, đến nay, về mặt tích cực, là một con số không (chúng tôi in đậm - NHC), còn về mặt tác hại thì quả là lớn; phải công nhận rằng ảnh hưởng của Phạm Quỳnh đối với thanh niên, trí thức từ 1917 đến 1930 không phải là nhỏ. Hắn dựa vào uy thế của thực dân, chiếm được địa vị lớn trong làng báo lúc bấy giờ, có cơ quan ngôn luận được thực dân nuôi dưỡng, nên đã hoành hành một thời, dù có bị các nhà cách mạng công kích cũng chỉ bị sứt mẻ ít nhiều. Nhân dân ta đã xử tử Phạm Quỳnh, tưởng cũng đã đến lúc kết án toàn bộ “sự nghiệp” văn học của hắn một cách có hệ thống và xứng đáng với tội của hắn” (trang 27).


Rõ ràng, những gì tôi dẫn ra trong bài hồi ức về Trần Thanh Mại, tuy dựa vào trí nhớ nên không thật chính xác về câu chữ, song tuyệt nhiên không phải là tùy tiện. Nguyễn Văn Hoàn nói dứt khoát rằng “chưa bao giờ bắt gặp một ý kiến thô thiển, giản đơn” đại loại như thế trong “các công trình nghiên cứu về văn học cận đại” Nguyễn đã được đọc, và đặt câu hỏi: “Nguyễn Huệ Chi nói các bài trên đây “có ý nghĩa “điểm tựa” cho việc viết văn học sử cận đại” vậy thì chương nào, sách nào do Tổ Cổ cận đại biên soạn đã tỏ ra có chịu ảnh hưởng các tài liệu mà Huệ Chi vừa kể?”. Muốn phân giải cho thật thứ lớp, câu chuyện tôi sẽ thuật chắc có hơi dài. Đầu tiên là cuốn Sơ thảo lịch sử văn học Việt-nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX do Tổ biên soạn với sự cộng tác của một số người ngoài Viện. Cuốn này được Nhà xuất bản Văn học in xong vào cuối tháng Năm năm 1964, nhưng đã được chuẩn bị ròng rã trong hai năm 1962-1963, dưới sự chỉ đạo chung của Đặng Thai Mai, mà phần trông nom và biên tập cụ thể thì phải nói do Trần Thanh Mại đảm nhiệm. Giáo sư Đặng Thai Mai nhận viết Chương khái quát bao gồm hai mục: “Bối cảnh lịch sử” và “Tình hình văn học”. Để giúp đỡ ông, Tổ cử tôi làm một tư liệu viên, có nhiệm vụ vào thư viện đọc trong sách sử và các văn tập của thế kỷ XIX, rút lấy những đoạn có thể gợi ý cho người chấp bút nắm được quang cảnh chung về lịch sử và về văn học trong vòng gần năm thập kỷ. Sau nhiều tháng trời khổ công lục lọi ở cả hai Thư viện Khoa học và Quốc gia, tôi biên soạn xong đâu vào đấy, đem về đánh máy được ngót nghét 100 trang, nộp lên cho Tổ và Đặng Thai Mai. Nhưng điều không ngờ - và bởi thế cũng đặt tôi vào một tình thế khó khăn - là sau khi đọc xong, Đặng Thai Mai cho họp Tổ lại, đánh giá cao việc tôi làm, rồi đi đến quyết định: phân công tôi viết luôn Chương khái quát. Trần Thanh Mại cũng đồng ý. Tôi lại đành phải gò gẫm thêm mấy tháng nữa để hì hục viết, một bài viết mà về tư tưởng chủ đạo chính mình không thực hiểu rõ, dù đã làm tư liệu không kém công phu. Kết quả thế nào cũng đã đoán được: bài viết hoàn thành, đem ra Tổ đọc, bị đánh giá là yếu về quan điểm và không chặt về lập luận, nên không thể dùng. Giữa tình hình một bài viết then chốt bị đổ, lại rất bức bách về thời gian, tất nhiên chỉ có một người là Trần Thanh Mại mới làm được việc “chữa cháy”. Ông thoải mái nhận, và yêu cầu tôi cung cấp bài đã viết cho ông, đưa cho ông cả 100 trang tư liệu mình làm, cùng với một số tài liệu khác mà Tổ có sẵn, trong đó có hai bài của TC về nhà Nguyễn và về Phan Thanh Giản. Và ông chỉ viết trong vòng một tháng rưỡi là xong [2] .

Gần đây, đọc lại Chương khái quát trong Sơ thảo lịch sử văn học Việt-nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX, tôi còn nhận ra dấu vết khá nhiều đoạn trích từ tập tư liệu của tôi (tập tư liệu này vẫn còn lưu một bản trong cặp hồ sơ văn học sử của Ban văn học Cổ cận đại ngày nay); một vài nhận định non nớt của tôi trong bản thảo bài viết bị Tổ bác bỏ cũng được Trần Thanh Mại dùng lại sau khi đã nâng cấp; và nhất là một số đoạn ông thâu tóm ý kiến cốt tủy từ hai bài của TC:

“Nền kinh tế dưới chế độ nhà Nguyễn ở vào một tình trạng sút kém thảm hại. Vẫn là nền kinh tế phong kiến già cỗi, dựa trên cơ sở bóc lột tô tức, với hạn hán, sâu bọ, bão lụt, vỡ đê xảy ra thường xuyên. Nhà nước phong kiến chỉ bó tay ngồi nhìn, hoàn toàn bất lực. Những năm gặp hạn thì phương pháp duy nhất là từ vua đến đình thần ăn chay, lập đàn cầu mưa! Riêng một con đê Văn-giang (Hưng-yên) bị vỡ mười tám năm liền trong đời Tự Đức. Nạn đói, dịch tả, đậu trời hàng năm làm chết hàng vạn, có khi hàng chục vạn người. Theo Thực lục chính biên, vào khoảng năm Tự Đức thứ 10-11, nghĩa là trong lúc giặc Pháp đang hoành hành ở miền Nam (1858-1859), số người trong nước chết vì bệnh thiên thời lên đến 60 vạn. Cảnh tượng dân lưu vong bỏ làng kéo đi từng đoàn dăm bảy trăm người, có khi vài ba nghìn người, để rồi chết dần, chết mòn nơi ven đường góc bụi là cảnh tượng thường thấy. Phong kiến thống trị nhà Nguyễn đề ra chính sách trọng nông ức thương. Với chính sách ấy, không những thương nghiệp bị ức chế, mà chính cả nông nghiệp lẫn công nghiệp đều không thể phát triển được, mà hiệu quả của nó là đưa xã hội vào một tình trạng bần cùng hóa nặng nề. Người dân ở đâu thường ở đấy, đa số suốt đời chưa ra khỏi làng mình. Đói, ít khi được ăn no; ốm, ít khi được chữa thuốc. Luật pháp nghiêm cấm nhân dân không được làm nhà cao rộng, mặc áo tơ lụa, nhiễu vóc. Làm nhà có gác, mặc áo sắc (trừ màu nâu và màu đen) là bị tội “lộng hành”, bị tù đày, có khi bị xử tử. Những điều ấy Minh Mạng cho ghi rõ trong một điều luật mà ông ta cho dịch ra vè quốc ngữ, bắt nhân dân học tập” (trang 10-11).
“Đời sống văn hóa đã hết sức tệ lậu trong buổi đầu triều Nguyễn, càng về sau càng có xu hướng suy sụp hơn. Những năm 30 của thế kỷ, Minh Mạng còn có ý định cho người ra nước ngoài học, và xét lại lối học cử nghiệp, nhưng rồi cũng đánh trống bỏ dùi, không vươn nổi ra khỏi tập tục bảo thủ. Từ đó về sau, trong nước ngày càng đi sâu vào lối học nhồi sọ. Vua và triều đình mỗi khi bàn chính sự thì chỉ biết có Tứ thư, Ngũ kinh, cho đó là thiên kinh địa nghĩa, tin rằng bất luận vấn đề lớn nhỏ nào cũng được giải đáp trong ấy. Họ đem những châm ngôn của Khổng Mạnh Chu Trình ngày xưa để làm phương sách giải quyết mọi vấn đề đang đặt ra. Như ếch ngồi đáy giếng, giai tầng trí thức nho sĩ vẫn tự cao tự đại với cái mà họ gọi là “thánh đạo nho phong” và coi các nước không “đồng chủng đồng văn” với mình là chó dê, mọi rợ. Có ai đi ra ngoài về kể chuyện đời sống đó đây thì cho là đi xa về khỏe bề nói khoác, hoặc vu khống là có ý mê hoặc lòng người, hủy hoại kỷ cương. Rốt cục lại, trình độ hiểu biết về đời sống, về thiên nhiên thuở bấy giờ thấp kém một cách khủng khiếp. Do đó, trong lề lối xử thế, trong quan hệ giữa con người và con người, chúng ta thấy nhiều điều ngu xuẩn, u mê, thậm chí vô nhân đạo” (trang 12-13).

“Loạt đại bác bắn vào cửa Hàn ngày 31-VIII-1858 quả đã gây một nỗi kinh khủng khó tả cho bọn người cầm đầu chế độ phong kiến. Những người đứng đầu triều đình như Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành, Nguyễn Bá Nghi, Đoàn Thọ đều chủ trương “nghị hòa” nghĩa là đầu hàng. Trương Đăng Quế và Phan Thanh Giản dẫn sách cũ, phát biểu: “Nhược bằng cho rằng lũ chúng tôi (chủ trương hòa nghị) là làm cho Đức vua phải lo lắng, thì thử hỏi từ xưa nhà Hán chẳng đã tự hòa với Hung-nô đó hay sao? Nhà Tống chẳng đã tự hòa với Khiết-đan đó hay sao? Nhiều lập luận lẩm cẩm ngớ ngẩn chứng tỏ những người đưa nó ra đã hốt hoảng đến mất hết lý trí bình thường” (trang 17).

“Có những phần tử thất bại chủ nghĩa đứng hẳn về phía giặc, thúc giục Tự Đức xuống chỉ dụ giải tán tất cả các cuộc khởi nghĩa chống ngoại xâm. Phan Thanh Giản nhiều lần viết thư cho Trương Định yêu cầu bãi binh. Năm 1860, Trịnh Quang Nghi, một thủ lĩnh nghĩa quân, thấy một đoàn dân quê gồm 44 người bị tuyên truyền xuyên tạc kéo nhau đi tìm đồn Pháp để đầu hàng. Trịnh Quang Nghi cho quân giữ lại, hết lời thuyết phục nhưng họ nhất định không nghe. Biết thế giam họ thì không có cơm nuôi, không có người canh giữ, Trịnh cho quân mang ra giết hết. Phan Thanh Giản hay biết chuyện đó, gửi sớ về triều đòi trị tội Trịnh Quang Nghi, không phải vì tội giết người hàng loạt không thỉnh mệnh vua, mà là vì tội làm mất lòng người Pháp (!), nhưng Tự Đức đã phê vào sớ: “Đó là nghĩa cử, không nên bắt tội” (trang 18-19).


Nếu nói quan điểm của TC đã làm “điểm tựa” cho Trần Thanh Mại thì hẳn là hơi quá, song thực tế là như vậy đấy - hai ông đã “gặp nhau” bởi đều cùng bắt nguồn từ “hòn đá tảng” quan điểm giai cấp của chủ nghĩa Mác-Lênin vốn thấm sâu trong lòng họ .

Sau cuốn Sơ thảo lịch sử văn học Việt-nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX, cả Tổ bắt tay vào cuốn Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1900-1930. Bấy giờ Trần Thanh Mại đã mất rồi. Cơ quan cũng có những đổi thay, như việc chuyển lên vùng sơ tán ở Hà Bắc, tránh cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ. Tổ chỉ định ba người: Nguyễn Văn Hoàn, Trần Nghĩa và tôi, đảm nhiệm cuốn sách mới. Suốt trong hai năm 1965-1966, sau nhiều ngày trao đổi, thảo luận về nội dung, phân công biên soạn và từng người một trình bày đề cương chi tiết, ngày 1-XI-1966, chúng tôi đi đến thống nhất được một một bản đề cương tổng quát, gồm Lời nói đầu, bốn chương và Kết luận, được Viện thông qua. Cụ thể là: Chương I “Tình thế chính trị mới, xu hướng văn học mới” (Nguyễn Văn Hoàn viết); Chương II “Văn học cách mạng” (Nguyễn Huệ Chi viết); Chương III “Văn học hợp pháp”, có hai mục: Mục 1 “Văn học hợp pháp với hai khuynh hướng nô dịch và cải lương” (Nguyễn Văn Hoàn viết phần nô dịch; Trần Nghĩa viết phần cải lương); và Mục 2 “Cuộc đấu tranh chống chính sách nô dịch hóa của thực dân Pháp” (Nguyễn Văn Hoàn viết); Chương IV “Văn học hợp pháp, tiếp theo” (Trần Nghĩa viết).

Nhìn vào đề cương ta thấy ngay cách định danh “văn học nô dịch” là nói về Đông-dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh và Nam phong tạp chí của Phạm Quỳnh. Điều đáng buồn là mãi mấy năm sau bộ sách vẫn không dứt điểm được, không phải vì Trần Nghĩa và tôi không viết xong (chúng tôi đã nộp đầy đủ bản thảo, và bản thảo của tôi hiện còn lưu trong cặp hồ sơ của Ban văn học Cổ cận đại), mà vì những phần của Nguyễn Văn Hoàn mãi vẫn... không thấy. Ngẫm lại câu hỏi có vẻ như thách thức của Nguyễn, tôi cứ nghĩ bụng: giá như thuở ấy ai cũng viết kịp thời hạn, cuốn sách hoàn thành và may mắn ra mắt bạn đọc, thì giờ đây sẽ đỡ vất vả biết bao trong việc so sánh phần “Văn học nô dịch” với ý kiến của ĐĐH.

Nhưng cũng chẳng sao, bởi ngay khi Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1900-1930 còn dang dở, Tổ và Viện đã lại phải bắt tay vào một công việc quy mô hơn: biên soạn bộ Lịch sử văn học Việt Nam ở cấp quốc gia, dưới sự chỉ đạo của Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn. Nhóm biên soạn là một tập thể đông đảo gồm nhiều cán bộ ở hai Trường đại học Tổng hợp và Sư phạm Hà Nội, về phía Viện có Cao Huy Đỉnh (văn học dân gian) Nguyễn Văn Hoàn (văn học cổ cận đại), Vũ Đức Phúc (văn học hiện đại). Sách chia làm hai tập, Tập I từ khởi thủy đến giữa thế kỷ XIX; Tập II từ nửa cuối thế kỷ XIX đến tận thập kỷ 70 thế kỷ XX. Công việc chuẩn bị được tiến hành trong nhiều năm, với rất nhiều loại đề cương, rất nhiều hội thảo, viết đi viết lại nhiều lần, cuối cùng in ra được Tập I [3] , còn Tập II thì không hiểu vì sao sau bao nhiêu rục rịch khởi động vẫn phải dừng. Mặc dầu thế, qua mỗi chặng, mỗi lần góp ý, bản thảo đều được Nhóm biên soạn chỉnh lý, viết lại khá công phu. Cũng trong một cặp hồ sơ khác của Ban văn học Cổ cận đại hiện còn lưu giữ mấy tập in rô nê ô các đề cương và sơ thảo của Tập II, trong đó có nguyên 58 trang hai chương đầu cuốn sách: Chương I “Văn học Việt-nam nửa sau thế kỷ XIX” và Chương II “Văn học Việt-nam từ đầu thế kỷ XX đến trước ngày thành lập Đảng” do Ủy ban Khoa học xã hội gửi xuống trưng cầu ý kiến (khoảng trước năm 1975). Lại xin trích dẫn dưới đây một số đoạn trong tập bản thảo đó, phần nói về Tự Đức, về Trương Vĩnh Ký, về Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh:

“Riêng Tự Đức trong đời làm vua, cũng viết không ít. Một số bài biểu dương các lãnh tụ nghĩa quân hy sinh trong công cuộc chống Pháp ở Nam-kỳ, một số bài phê phán bọn quan lại mải ăn chơi, quên việc nước... mới đọc, tưởng như cũng gần với tinh thần dân tộc trong thơ văn của một số vua chúa thời Lý, Trần, Lê sơ, nhưng té ra lại là tiếng nói của một con người quen độc quyền xương máu nhân dân, nay chưa chịu nhả phần cho bọn cướp mới đang đến tranh ăn trong buổi đầu mà thôi” (trang 11).
“Cuối cùng có thể kể đến những mầm mống văn học nô dịch mà thực dân Pháp đang cố sức gieo rắc. Ai cũng biết, từ lâu thực dân Pháp đã dùng văn học Thiên chúa giáo nô dịch nhiều người Việt-nam. Nay cướp được nước ta chỗ nào, thì chúng càng ra sức thực hiện đường lối văn hóa của chúng ở chỗ đấy. Đào tạo thông ngôn người Việt, khuyến khích người Pháp học tiếng Việt, ra báo chí quốc ngữ, dịch văn thơ Việt-nam ra tiếng Pháp, dùng tiếng Pháp để viết về Việt-nam, đưa một số người Việt-nam sang Pháp, sang La-mã học... tất cả là nằm trong âm mưu văn hóa của chúng. Tư tưởng chủ đạo trong chính sách văn hóa của Pháp ngay từ đầu là nhằm kéo Việt-nam ra khỏi ảnh hưởng văn hóa lâu đời của Trung-quốc để đi vào vòng ảnh hưởng văn hóa Pháp. Quyết tâm của chúng là phải tạo ra trên đất nước Việt-nam một nền văn hóa nô dịch. Pôn Be (Paul Bert) rất có vai trò trong việc vạch ra đường lối văn hóa của Pháp ở Việt-nam. Nhưng không dễ gì chúng làm ngay được điều chúng muốn. Kết quả bước đầu của chúng ở hồi này là đào tạo được một số người phục vụ văn hóa cho chúng như Trương Vĩnh Ký, Paulus Của... Nhưng khi mà cuộc kháng chiến của dân tộc ta còn có uy thế, những người này cũng chưa thể trắng trợn như bọn bồi bút về sau. Trương Vĩnh Ký, xét bề ngoài vẫn có vẻ là một “học giả”. Kể ra, đã phục vụ cho kẻ thù thì chẳng cần phân biệt ai ít xấu xa hơn ai, nhưng nói về văn chương nịnh Tây, hồi này, cái xấu xa dễ thấy nhất lại là giọng lưỡi của những đứa như Tôn Thọ Tường, Hoàng Cao Khải. Các nhà văn đương thời chĩa mũi nhọn vào bọn Tôn Thọ Tường, phải chăng là vì như thế. Văn học nô dịch là hiện tượng quái thai trong lịch sử văn học nước nhà. Số phận của nó sẽ là số phận của kẻ thù cướp nước, đã bị quét sạch, sẽ bị quét sạch” (trang 14).

“Giặc Pháp tỏ ra ân hận về sự sơ hở, chậm chạp của mình. Quyết tâm mới của chúng là phá hoại cho kỳ được phong trào cách mạng, đồng thời cố gắng kéo Việt-nam đi nhanh vào vòng ảnh hưởng của đường lối văn hóa thực dân bằng mọi cách: thành lập Ban Tu thư của Phủ Thống sứ Bắc-kỳ, nắm chặt việc thi cử chữ Hán hơn, hạn chế đến mức tối thiểu chương trình chữ Hán trong các trường Pháp Việt, đưa học thuật Pháp Việt lên địa vị chính thống, đào tạo gấp số người biết chữ Pháp và trọng tâm là đào tạo bồi bút. Nhưng ở một đất nước kiên cường như đất nước ta, trên lãnh vực văn học, dễ gì chúng làm nên trò trống. Có một Trần Tán Bình lên giọng “bình tán” sau ngày “Đại Pháp” cho sang tham quan “mẫu quốc” về (1906), nhưng anh chàng này về sau lại mê chơi mà lười tán. Có một Hoàng Cao Khải cuối thế kỷ XIX đã úng ắng trước ý chí đánh giặc của nhà lãnh tụ Cần vương Phan Đình Phùng, vào khoảng 1910 lại cho ra Gương sử Nam để “sủa với phong trào bài Pháp một cách ngao ngán”. Tiếp đó (1915-1916) ra thêm mấy thứ nữa cũng là cho trọn đạo thờ Tây. Chứ quan thầy của hắn trước đó đã nghĩ đến một kiểu bồi bút “hiện đại” hơn. Năm 1913, Đông-dương tạp chí ra đời với tên kép mới là Nguyễn Văn Vĩnh, từng chui vào phá hoại Đông-kinh nghĩa thục, với vị cha đỡ đầu là Rơ-nê Rô-bin (René Robin), Thống sứ Bắc- kỳ. Đông-dương tạp chí tập hợp được một số nhà nho vừa mới “vứt bút lông... nắm bút chì” và một số tân học, kẻ viết người dịch, cũng có chút rôm rả. Riêng Vĩnh thì chuyên nguyền rủa cách mạng, tuyên truyền chủ nghĩa đầu hàng và dịch tác phẩm văn học phương Tây, trước hết là văn học Pháp. Có thể nói, sau mấy năm cố gắng, giờ đây có được tờ Đông-dương tạp chí và kèm theo một vài món hàng khác nữa, thực dân Pháp đã khai trương được quầy hàng sách báo nô dịch theo kiểu “quy mô”, “hiện đại” (trang 41).

“Trong khi đó, kẻ thù ngay khi chiến tranh thế giới chưa kết thúc đã ra sức củng cố quyền lợi ở Đông-dương. Trên mặt trận văn hóa, tư tưởng, chúng sẽ có âm mưu với nhiều biện pháp mới quy mô hơn, triệt để hơn và cũng xảo quyệt hơn. An-be Xa-rô (Albert Sarraut) sang nhậm chức Toàn quyền lại ở Đông-dương cố gắng thực hiện âm mưu đó. Một số trường đại học được thành lập thêm. Việc thi chữ Hán bị chấm dứt hoàn toàn. Hội Khai trí tiến đức theo lệnh Pháp ra đời, tập hợp đủ mặt bọn quan lại, tư sản hòng lũng đoạn đời sống tinh thần, văn hóa của xã hội. Quầy hàng Đông-dương tạp chí sẽ được xếp lại để thay thế bằng quầy hàng Nam phong tạp chí với tên chủ quán mới là Phạm Quỳnh và vị cha đỡ đầu khác là Mac-ty (L. Marty) trùm mật thám Đông-dương. Quỳnh khoác lốt “nhà học giả kính trắng”, là người tôn thờ chủ nghĩa quốc gia, bảo vệ quốc hoa, quốc hồn, quốc túy (!). Quỳnh viết đủ các thứ: chính trị, triết học, sử học, kinh tế, giáo dục, khoa học, văn học..., nói đủ chuyện cổ, kim, đông, tây, trên tờ Nam phong. Nhất thời và bề ngoài, quầy hàng buôn bán có vẻ khấm khá. Nhiều người lui tới. Có người choáng ngợp (chú thích: hiện nay, ở Sài-gòn tạm chiếm vẫn có kẻ tôn Phạm Quỳnh lên địa vị “nhà khai sáng của thế kỷ XX”. Chẳng cần nói nhiều mọi người đều thừa biết, bọn họ là thứ người gì mà tán tụng nhau rồi). Nhưng không ổn cho chúng rồi. Cụ Phan Châu Trinh năm 1922 từ bên Pháp đã cảnh cáo khẽ Quỳnh. Năm 1924, chí sĩ Ngô Đức Kế vừa mười ba năm Côn-đảo trở về, đang sống ở Hà-nội, với tờ báo Hữu thanh, nhân lúc Quỳnh hương hoa khấn vái Nguyễn Du nài mượn văn chương Truyện Kiều làm liều thuốc ru ngủ thanh niên, đã căm giận dương cung “chánh học”. Quầy hàng Nam phong vẫn mở cho tới sau ngày chủ quán Phạm Quỳnh bỏ nghiệp “văn chương” vào Huế, đội mũ cánh chuồn làm Thượng thư Bộ Học (1933) ít lâu, nhưng thực thì từ sau khi phát tên chánh học của cụ Nghè Ngô cắm trúng đầu vị chủ quán, nó trở thành lao đao. Nhất là sau đó, phong trào yêu nước ngày một phát triển lại thì ảnh hưởng của Nam phong bị giảm sút rõ rệt. Nhiều người còn nhớ năm 1926 sinh viên Cao đẳng Hà-nội chặn đánh Phạm Quỳnh ở phố Hàng Gai về tội nói xấu phong trào truy điệu Phan Châu Trinh. Dĩ nhiên, kẻ thù vẫn tiếp tục dùng bọn bồi bút để phá hoại cách mạng Việt-nam, ngăn chặn ảnh hưởng cách mạng tháng Mười Nga, cách mạng Trung-quốc, ngăn chặn học thuyết Mác Lê-nin lúc này đang truyền đến nước ta” (trang 43-44).


Còn nhiều nữa nhưng thiết tưởng thế cũng đủ. Không phải vô cớ khi tôi nói những bài lưu trong tủ hồ sơ của Tổ văn học Cổ cận đại Viện Văn học đầu những năm 60 là “điểm tựa” cho người viết văn học sử thuở ấy. Có thể tập thể soạn giả viết những trang vừa dẫn trên đây chưa hề được đọc các tài liệu của ĐĐH, của Mẫn Quốc. Vậy mà họ vẫn không khác ĐĐH, Mẫn Quốc bao nhiêu ở cách nhìn, cách suy nghĩ, ở lời lẽ lên án có tính chất quy chụp nặng nề, ở giọng điệu thậm xưng, bêu riếu... đối với bộ phận văn học mà một thời chúng ta đều nhất trí gọi là văn học nô dịch. Chính chỗ thống nhất về “quan điểm giai cấp” bắt buộc phải dùng làm hành trang tư tưởng đối với nhà nghiên cứu, và phương pháp nghiên cứu đồng nhất văn học với chính trị một cách tuyệt đối, đã dẫn đến một sự gặp gỡ căn bản giữa mọi người cầm bút: “Hễ thấy địch là đánh, đánh bao nhiêu cũng chưa đủ”. Nói đâu xa, ngay trong cuốn Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX của nhà nghiên cứu đáng kính Đặng Thai Mai, ta cũng bắt gặp những lời đánh giá chưa thỏa đáng lắm về Phạm Quỳnh, khi ông gọi Phạm Quỳnh là “tên Việt gian đội lốt “học giả” nguy hiểm”, hoặc “cái mà Phạm Quỳnh giới thiệu lên trên tờ báo Nam phong không hề có một mặt nào có thể gọi là có hệ thống, và cũng chưa hề có một phần nào đã đi sâu vào vấn đề mà phê phán, mà nghĩ đến việc áp dụng vào thực tế Việt-nam. Ông Chủ bút Nam phong, nói cho cùng chỉ là một ông tham biện của tòa Liêm phóng, đủ tư cách để chiếu theo mặt hàng mà quảng cáo cho chính sách thực dân”, hoặc nữa “Phạm Quỳnh đã đọc khá nhiều sách, đã viết về rất nhiều vấn đề. Nhưng y chưa hề nghiên cứu về một vấn đề gì. Và về mọi mặt, chỗ “độc đáo” của y là điểm lạc hậu của bọn học giả phản động Pháp! Cảm tưởng cuối cùng của người đọc Nam phong, nếu họ chịu khó suy nghĩ, thì Phạm Quỳnh là một người đã đọc khá nhiều sách và đã đem học thức ra bán rẻ cho bọn thống trị; là một nhà “học giả” có đủ chữ Hán và tiếng Việt để bịp người Tây; và cũng có đủ chữ Tây để lòe người “An-nam” [4] .

Xin Nguyễn Văn Hoàn và bạn đọc rộng lượng thông cảm, tôi không có ý trưng ra đây để châm chích gì Đặng Thai Mai. Tôi cũng không nghĩ những gì Phạm Quỳnh và cả những người như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh từng nói, viết và làm đều hay đều tốt. Từ bình diện lịch sử văn học mà xét, vốn là sản phẩm của một giai đoạn giao thời, đầy éo le bất trắc: đất nước mất chủ quyền, chuyển đổi không triệt để từ mô hình phong kiến sang mô hình thuộc địa tư bản, và trong tư cách những nhân vật ngẫu nhiên được lịch sử lựa chọn để đóng vai trò tiêu biểu trong giao thoa văn hóa Á-Âu - một nhu cầu tất yếu của mô hình xã hội ấy, những giá trị tinh thần do họ tạo ra có phần được và phần không được, có mặt thật và mặt ảo, có cái đẹp và cái chưa đẹp, có chỗ đáng ghi nhận và chỗ phải gạn lọc, phê phán, chuyện đó rất bình thường. Tôi chỉ muốn lưu ý rằng vào những năm 60-70 trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa, khi nhìn lại những hiện tượng văn hóa nói trên, cách tư duy của rất nhiều người trong giới nghiên cứu chúng ta đều rốt ráo theo hướng “căng”, “cương” như đã dẫn. Nó là phương pháp tư tưởng quen thuộc của một thời, tưởng chừng trở thành máu thịt, là sự tự nguyện, và cũng là bắt buộc. Giữa người này người khác mức độ đánh giá có thể có những cung bậc khác nhau, nhưng ai mà nói khác, nói ngược lại được cơ chứ! Nói khác, nói ngược và nghĩ ngược, dầu chỉ là một thủ pháp lật đi lật lại cho sâu sắc thêm vấn đề mình nghĩ, như Nguyễn Ngọc Côn nói về tình yêu của cô Mỵ Nương trong Truyện Trương Chi là “một yêu cầu tự nhiên” “gắn liền với bản chất con người” (hiểu ngầm là phi giai cấp), trong cuốn Giảng văn của Trường đại học Sư phạm Hà Nội [5] , lập tức đã bị coi là một nhận định “duy tâm”, “một biểu hiện của một nhận thức ít nhiều còn mơ hồ về tư tưởng và còn bấp bênh về học thuật” [6] , một xu hướng muốn quay “trở lại con đường mòn của thuyết tính người chung chung mà kẻ bảo dưỡng hiện nay là chủ nghĩa xét lại” [7] , bị “thổi còi” và chuyển sang một công việc khác “hợp với khả năng hơn”. Cho nên trước việc Trần Thanh Mại không được in bài nghiên cứu Miên Thẩm mà Nguyễn Văn Hoàn giải thích: lãnh đạo Viện Văn học đã trả lời ông “phải chờ lúc nào tình hình chung thuận lợi hơn” và ông liền “tâm phục khẩu phục”, thì không hiểu có đúng thế thật hay không nhưng theo tôi, lối nói đó (của Viện hoặc của Nguyễn Văn Hoàn cũng vậy) chỉ là của người quen làm công tác quản lý - lối nói ngọt ngào chính trị đấy thôi. Với tôi, một người làm khoa học không quen nói chính trị kiểu ấy, tôi ngờ rằng, nếu không có sự sụp đổ của cả hệ thống xã hội chủ nghĩa và những bức xúc trong đời sống xã hội đưa đến chủ trương đổi mới, dám chắc đến nay vẫn chưa một người nào trên đất nước ta liều lĩnh bỏ hết tâm huyết vào tìm tòi, nghiên cứu Miên Thẩm như Trần Thanh Mại thuở trước từng làm. Hãy gọi sự vật bằng tên của nó, tôi vẫn mong Nguyễn Văn Hoàn nhớ lời người xưa từng dặn.

Hà Nội 15/30-V-2005

© 2005 talawas


[1]Có thể tôi nhớ nhầm vì bên cạnh bài này còn có bài Võ Văn Nhung gửi đến Viện muộn hơn.
[2]Sau khi viết xong, Trần Thanh Mại đã quên không trả tôi bản viết tay Chương khái quát do tôi thảo ban đầu. Hiện trong cặp hồ sơ “Văn học sử Cận đại” không có bản thảo ấy. Hai bài của TC có thể thất lạc cùng một nguyên cớ. Còn tập tư liệu 100 trang vì đánh máy nhiều bản nên vẫn còn một bản rõ nhất mà tôi dành lại.
[3]Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980.
[4]Xin xem Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX. Nxb. Văn học, Hà Nội, 1964; trang 97-98.
[5]Xin xem bài giảng Truyện Trương Chi của Nguyễn Ngọc Côn trong sách Giảng văn. Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1963.
[6]Xem Trần Thanh Mại. Đọc hai cuốn Giảng văn của Tổ Văn học Việt-nam Trường đại học Sư phạm, Tạp chí văn học, số 1-1965.
[7]Xem Hoàng Tuấn Phổ. Bàn thêm về cuốnGiảng văncủa Trường đại học Sư phạm, Tạp chí văn học, số 4-1965. Xin tự bạch là bản thân tôi cũng đã có bài góp ý với Nguyễn Ngọc Côn trên Tạp chí văn học số 5-1965, tuy cách nói nhẹ nhàng nhưng cũng đã quy kết tác giả mơ hồ về quan niệm tính người. Theo tôi biết, sau cuộc trao đổi ý kiến trên Tạp chí văn học trong gần suốt năm 1965, Nguyễn Ngọc Côn đã phải làm kiểm điểm và chuyển sang dạy ở Khoa Ngoại ngữ.