Sunday, 21 July 2013

Nguồn gốc chữ Quốc Ngữ (Huỳnh Ái Tông - Chim Việt)

NGUỒN GỐC CHỮ QUỐC NGỮ
A. Đại Cương.
Danh từ chữ Quốc ngữ hay chữ Việt, người Việt chúng ta đã dùng từ lâu, mặc dù nó không được chính danh. Bởi vì danh từ chữ Quốc ngữ là danh từ chung, chỉ cho các thứ chữ của một nước, chẳng hạn chữ Nôm ( 1 ) cũng là chữ Quốc ngữ của nước ta, nhưng do chúng ta dùng lâu đã quen, nên danh từ chữ Quốc ngữ để chỉ cho chữ viết chúng ta dùng ngày nay. Chữ nầy thoạt đầu do những vị giáo sĩ Tây phương truyền đạo tại Việt Nam, họ mượn mẫu tự La tinh, ghép lại để ghi âm địa danh và nhân vật địa phương, từ đó nó đã trải qua các thời kỳ hình thành chữ Quốc ngữ, qua quá trình hình thành, nó đã được sự đóng góp của người Việt cũng như người ngoại quốc, phần chính vẫn là người Việt chúng ta.
Sự hình thành chữ Quốc ngữ có thể chia ra làm ba thời kỳ :
* Thời kỳ sáng tạo từ năm 1621.
* Thời kỳ xây dựng năm 1651.
* Thời kỳ phát triển từ năm 1867.
Chúng ta biết rằng, khoảng giữa thế kỷ XVI, lúc ấy nước ta chia thành Nam, Bắc triều. Năm 1533, có giáo sĩ Irigo (I-Nê-Khu), người Âu, theo đường biển vào nước ta ở Đàng Ngoài, tại Nam Định để giảng đạo. Năm 1596, giáo sĩ Diago Advarte đến Đàng Trong ở một thời gian rồi bỏ đi, cho đến năm 1615, giáo sĩ Francesco Buzomi đến lập Giáo Đoàn Đàng Trong (Mission de la Cochinchine), đến năm 1627, giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) mới lập Giáo Đoàn Đàng Ngoài (Mission de Tonkin).
Cả hai giáo đoàn nầy đều thuộc Dòng Tên, có một trung tâm truyền giáo ở Áo Môn (Macao - Trung Quốc), vì trước kia người Bồ Đào Nha sang Trung Hoa buôn bán, họ ở bán đảo Schangch'nan thuộc Quảng Châu, vào khoảng năm 1557, có bọn cướp biển trú ẩn ở Áo Môn, thường hay khuấy nhiễu Quảng Châu, nên người Trung Hoa nhờ các thương gia Bồ Đào Nha dẹp bọn cướp biển ấy, sau khi dẹp xong bọp cướp, người Bồ Đào Nha xin phép nhà cầm quyền Trung Hoa cho họ trú ngụ ở bán đảo Schangch'nan và Áo Môn, mỗi năm họ đóng thuế cho chánh quyền Trung Hoa, cho đến thế kỷ XX Áo Môn vẫn còn thuộc Bồ Đào Nha.
Thuở đó, các nhà truyền giáo Tây phương muốn sang Viễn đông, họ đều theo các thương thuyền Bồ Đào Nha, cho nên họ chọn Áo Môn làm trung tâm truyền giáo để hoạt động ở Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam, nơi ấy có cả một Viện thần học " Madre de Dieux " (Mẹ Đức Chúa Trời).
Do đó các giáo sĩ người Âu thường từ Áo Môn sang Đàng Ngoài hay Đàng Trong và ngược lại, họ thường dùng ngôn ngữ Bồ Đào Nha để giao dịch với nhau, những phúc trình truyền giáo hay thư từ gửi về La Mã có khi họ viết chữ Bồ, có khi họ viết chữ La Tinh.
B. Sự Hình Thành Chữ Quốc Ngữ
I.- Thời Kỳ Sáng Tạo Chữ Quốc Ngữ
Không phải chữ Quốc ngữ hình thành do sự ngẫu nhiên từ những chữ phiên âm tiếng Việt, thực ra chữ Quốc ngữ hình thành theo hướng chung của các giáo sĩ Tây Phương, họ muốn La Tinh hóa các chữ Á Đông nằm trong địa bàn truyền giáo của họ.
Thật vậy, tại Trung Hoa, Hoa ngữ được các nhà truyền giáo dùng mẫu tự La Tinh phiên âm trước nhất, công việc nầy do hai giáo sĩ Dòng Tên là Micac Ruggieri và Matteo Ricci đã soạn quyển Ngữ vựng hay Tự vựng Bồ-Hoa, quyển nầy mỗi trang chia làm 3 cột : chữ Bồ, chữ Hán, phiên âm Hoa ngữ, tài liệu nầy soạn khoảng năm 1584-1588, bảng viết tay còn lưu trử tại văn khố Dòng Tên ở La Mã (Rome).
Năm 1598, giáo sĩ Ricca và Cateneo đã dùng ký hiệu để ghi các thanh Hoa ngữ.
Tại Nhật Bản, các tác phẩm chữ Nhật đã được La tinh hóa, từ năm 1592 đến năm 1596 có đến 10 tác phẩm loại nầy được in ra, hai tác phẩm quan trọng sau đây đáng được nhắc đến:
1) Cuốn Giáo lý ghi bằng tiếng Nhật theo mẫu tự La Tinh có tên là : Dotrina Jesus no Compania no Collegio Amacusa ni voite superiores no vou xi no comuni core no fan to nasu mono nari, Nengi, 1592.
2) Cuốn tự điển La - Bồ - Nhật: Dictionarium latino lusitanicum ac Japonium (In Amacusa in Collegia Japonico Societa Jesus, Anno 1595)
Ngoài ra còn có sách ngữ pháp Nhật được in theo mẫu tự a, b, c vào năm 1603-1604.
Tại Việt Nam, thời kỳ sáng tạo chữ Quốc ngữ có thể chia ra làm 2 giai đoạn :
* Giai đoạn phiên âm.
* Giai đoạn cấu tạo câu.
1.- Giai đoạn phiên âm.
Về nguồn gốc, có lẽ câu sau đây là một dòng chữ xuất hiện đầu tiên, trong tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ.
" Con gno muon bau tlom laom Hoalaom chian ".
Câu nầy, theo giáo sĩ Christofora Borri ( 2 ), là câu mà các giáo sĩ đàng trong đã dùng trước khi ông có mặt tại đây, nó có nghĩa là : Con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa Lang chăng ?
Danh từ Hoa Lang, không rõ do đâu mà có, nhưng đó là danh từ do người Việt Nam thời bấy giờ dùng để chỉ cho người Bồ Đào Nha, và sau đó được dùng để gọi chung các nhà truyền giáo Tây Phương. Như vậy câu trên là câu các nhà truyền giáo Tây phương muốn hỏi một người Việt rằng : " Muốn vào đạo Thiên chúa chăng ? " Vì lẽ câu nói không diễn tả được rõ ý nên Linh mục Buzomi đã sữa lại như sau : " Muon bau dau Christiam chiam ? " ( Muốn vào đạo Christiang chăng ?).
Đây là câu trích trong quyển sách của Christoforo Borris xuất bản năm 1631 tại La Mã, viết bằng chữ Ý ( 3 ). Tuy vậy, chúng ta có thể coi những chữ phiên âm trong sách nầy đã được ông dùng trong thời gian từ 1618 đến 1621, là thời gian ông sống ở Đàng Trong.
Phiên âm : Nghĩa
Anam : An Nam
Tunchim : Đông Kinh
Ainam : Hải Nam
Kemoi : Kẻ mọi
Cacciam : Cả chàm (Kẻ Chàm)
Sinunua : Xứ Hóa ( Thuận Hóa)
Quamguya : Quảng Nghĩa
Quignin : Qui Nhơn
Dàdèn, lùt : Đã đến lúc
Dàdèn lùt : Đã đến lúc
Scin mocaij : Xin một cái
Chià : Trà
Cò : Có
.......
Onsaij : Ông sãi
Quanghia : Quảng Nghĩa
Nuoecman : Nước mặn
Da, an, nua : Đã ăn nữa,
Da, an, het : Đã ăn hết
Omgne : Ông nghè
Tuijciam,biet: Tui chẳng biết
Onsaij di lay : Ông Sãi đi lại
Bàncò : Bàn Cổ
Maa : Ma
Maqui, Macò : Ma quỉ, ma quái
Bũa : Vua
Chiuna : Chúa
Bản phúc trình của Linh mục João Roig viết bằng chữ Bồ Đào Nha tại Áo Môn ngày 20-11-1621, để gửi về La Mã, trong ấy có phiên âm vài danh từ như sau :
An nam : An Nam
Sinoa : Xứ Hóa
Usai : Ông Sãi
Ungne : Ông nghè
On trũ : Ông trùm
Ca cham : Ca chàm ( kẻ chàm, tức Thanh Chiêm, thủ phủ Quảng Nam Dinh, thời ấy dân chúng gọi là Cả Chàm hay Dinh Chàm)
Nuocman : Nước Mặn
Bafu : Bà phủ
Sai Tubin : Sãi Từ Bình ( ? )
Banco : Bàn Cổ
Oundelinh : Ông Đề Lĩnh
Cùng năm ấy, Linh mục Gaspa Luis cũng viết một bảng tường trình bằng La văn tại Áo Môn ngày 12-12-1621 gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi ở La Mã, để báo cáo về giáo đoàn Đàng Trong, trong ấy có dùng vài phiên âm :
Cacham : Kẻ chàm
Nuocman : Nước Mặn
Ongne, Ungué : Ông nghè
Bancô : Bàn Cổ
Đến ngày 16-6-1625, giáo sĩ Đắc Lộ có viết một lá thư bằng Bồ văn gửi cho Linh mục Nuno Mascarenhas, trong ấy có vài phiên âm :
Ainão : Hải Nam
Tunquim, Tunquin : Đông Kinh
Thêm một tài liệu khác Gaspar Luis viết bằng La văn ngày 1-1-1626 tại Nước Mặn để gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi ở La Mã, trong ấy có phiên âm một số địa danh và danh từ:
Fayfó : Hải phố (Fayfo : Hội An)
Cacham : Kẻ chàm
Nuocman : Nước Mặn
Pullocambi : ?
Dinh cham : Dinh chàm
Quanghia : Quảng Nghĩa
Quinhin : Qui nhơn
Ranran : Ran ran ( tức là sông Đà Rằng ở Phú Yên)
Bendâ : Bến đá
Bôdê : Bồ đề
Ondelimbay : Ông Đề Lĩnh Bảy
Ondedoc : Ông Đề đốc
Unghe chieu : Ông nghè Chiêu
Nhit la khaun, khaun la nhit : Nhứt là không, không là nhứt
Và Linh mục Antonio de Fontes người Bồ Đào Nha, đã có đến ở Đàng Trong năm 1624 và Dinh Chàm với Linh mục Pina và Đắc Lộ, cũng ngày 1-1-1626, Linh mục Fontes viết tại Hội An một bản tường trình bằng Bồ văn gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi là Bề Trên Cả Dòng Tên ở La Mã, bảng tường trình nầy gồm có 3 phần, trong ấy cũng cho chúng ta biết thuở ấy giáo đoàn Đàng Trong có 3 cơ sở: Hội An, Kẻ Chàm (Quảng Nam) và Nước Mặn (Qui Nhơn). Trong bảng tường trình nầy, có các phiên âm :
Digcham : Dinh Chàm
Nuocman : Nước Mặn
Quinhin : Qui Nhơn
Sinua, Sinuâ : Xứ Hóa
Orancaya : ?
Quan : Quảng (Quảng Nam)
Xabin : Xá Bình ?
Bếndá : Bến đá
Bude : Bồ đề
Ondelimbay: Ông Đề Lĩnh Bảy
Ondedóc : Ông đề đốc
Onghe Chieu : Ông nghè Chiêu
Nhít la khấu, khấu la nhít : Nhứt là không, không là nhứt
Dinh Cham : Dinh Chàm
Sinóa : Xứ Hóa
Ngày 13-7-1626, Linh mục Francesco Buzomi viết một lá thư chữ Ý gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi, cách phiên âm có tiến triển phần nào, vì các danh từ ghi theo đơn âm như ngày nay, các chữ phiên âm trong bức thư nầy gồm có:
Xán tí : Xán tí (Thượng đế)
Thiên chu : Thiên chủ (Thiên chúa)
Thiên chũ xán tí : Thiên chủ thượng đế
Ngaoc huan : Ngọc hoàng
Cho đến năm 1631, có thêm hai tài liệu của Đắc Lộ: một vào ngày 16-1-1631, ông có viết một bức thư gửi cho Linh mục Nuno Mascarenhas ở La Mã , trong ấy chỉ tìm thấy có một chữ phiên âm Thinhũa : Thanh Hóa, và một bản văn khác thuật lại việc ông cùng Linh mục Pedro Marques tới cửa Bạng (Thanh Hóa) vào ngày 19-3-1627 cho đến lúc Linh mục Antonio F. Cardin đến Thăng Long ngày 15-3-1631 (trong chuyến đi ấy, có các Linh mục Gasparo d'Amiral, André Palmeiro, Antonio de Fontes), tài liệu nầy gồm 2 trang rưỡi chữ, viết trên giấy khổ 16 x 23 cm, trong ấy chỉ phiên âm có mấy chữ :
Sinoa : Xứ Hóa (thuận Hóa)
Anná : An nam
Sai : Sãi
Mía : Mía ( nhà tạm trú)
Những tài liệu phiên âm trên, cho chúng ta thấy phần nào sự manh nha hình thành chữ Quốc Ngữ trong các năm từ 1621 đến năm 1631. Trong mười năm đó, chúng ta thấy sự phiên âm không mấy tiến triển, chưa có sự thống nhất nào cả, chẳng hạn như danh từ xứ Hóa, họ đã phiên âm :
Sinoa (Jão Roig 20-11-1621)
Sinua, Sinuâ, Sinoá (Antonio de Fontes 1-1-1626)
Sinoa (Đắc Lộ 1631)
Danh từ Ông Nghè :
Omgne (Christoforo Borri 1618-1621)
Ungne (Jão Roig 20-11-1621)
Ongne, Ungué ( Gaspar Luis 12-12-1621)
Unghe (Gaspar Luis 1-1-1626)
Onghe (Antonio de Fontes 1-1-1626)
2.- Giai Đoạn Cấu Tạo Câu.
a.- Sự đóng góp của Gasparo d'Amiral
Giai đoạn kế tiếp được coi như khởi sự từ năm 1632 với những phiên âm của Gasparo d'Amiral, trong giai đoạn nầy, chúng ta thấy vai trò đóng góp cho sự hình thành chữ Quốc ngữ của Gasparo d'Amiral rất quan trọng, ông phiên âm có phương pháp. Tài liệu dẫn sau đây cho chúng ta thấy rõ Đắc Lộ đã theo phương pháp của ông để phiên âm trước khi dựa vào quyển tự điển Bồ Đào Nha - Annam cũng của ông, để Đắc Lộ soạn quyển tự vị "An Nam - Bồ Đào Nha - La Tinh "
Để hiểu rõ điều chúng tôi vừa đề cập tới, không gì hơn là chúng ta nhìn lại cuộc đời và vết đi của họ, chúng ta sẽ thấy ảnh hưởng của Gasparo d'Amiral đối với Đắc Lộ.
Gasparo d'Amiral sinh năm 1592 tại Bồ Đào Nha, gia nhập Dòng Tên ngày 1-7-1608, ông đã làm giáo sư dạy La văn, Triết học, Thần Học tại các học viện và đại học Evora, Braga, Coinbra ở Bồ Đào Nha.
Năm 1623, Gasparo d'Amiral đến Áo Môn, vào tháng 10 năm 1926, ông cùng với Thầy Paulus Saito (1577-1633 người Nhật) đến Đàng Ngoài cho đến tháng 5 năm 1630 cả hai cùng với Linh mục Đắc Lộ và Pedro Marques về Áo Môn. Ngày 18-2-1631 Gasparo cùng 3 Linh mục khác là André Palmeiro, Antonio de Fontes và Antonio F. Cardim từ Áo Môn đáp tàu Bồ Đào Nha đến cửa Bạng (Thanh Hóa) và đến ngày 15-3-1631, các Linh mục nầy mới đến Kẻ Chợ (Thăng Long).
Sau đó Linh mục Palmeiro và Fontes trở về Áo Môn còn Amiral và Cardim ở lại tiếp tục công cuộc truyền giáo tại Đàng Ngoài. Năm 1638, Linh mục Amiral được gọi về giữ chức Viện Trưởng Viện thần học tại Áo Môn, như vậy ông đã ở Đàng Ngoài được 7 năm.
Đến năm 1641, ông được cử làm Phó Giám Tỉnh Dòng Tên hai tỉnh Nhật và Trung Hoa (gồm các nước Nhật, Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, Thái Lan và Trung Hoa - Áo Môn, Quảng Đông, Quảng Tây). Năm 1645, ông đáp tàu từ Áo Môn đi Đàng Ngoài, khi tàu đến gần đảo Hải Nam bị đắm, do đó ông bị chết đuối vào ngày 23-12-1645.
Trong 7 năm ở Đàng Ngoài, Gasparo d'Amiral còn để lại 2 tài liệu liên quan đến chữ Quốc Ngữ. Tài liệu 1, ông viết bằng Bồ văn tại Kẻ Chợ vào ngày 31-12-1632 nhan đề: " Annua do reino de Annam do anno de 1632, pera o Pe André Palmeiro de Compa de Jesu, Visitator das Provincias de Japan, e China " ( Bảng tường trình hàng năm về nước An nam năm 1632, gửi cha André Palmeiro, Dòng Tên, giám sát các tỉnh Nhật và Trung Hoa). Tài liệu nầy hiện lưu trử tại văn khố Dòng Tên La Mã, trong đó có một số phiên âm như sau:
Tun kim : Đông Kinh, chỉ cho xứ An Nam
Đàng tlão : Đàng Trong
Đàng ngoày : Đàng Ngoài
Đàng tlên : Đàng trên
Oũ nghe : Ông nghè
nhà thượng dày: nhà thượng đài
nhà ti, nhà hién : nhà ti, nhà hiến
nhà phũ : nhà phủ
nhà huyẹn : nhà huyện
oũ khơũ : Ông Khổng ( Khổng Phu Tử)
Đức laõ : Đức Long; niên hiệu Đức Long (1629-1634)
Vĩnh Tộ : Vĩnh Tộ; niên hiệu Vĩnh Tộ (1620-1628)
Bua : Vua
Tế Kì đạo : Tế kỳ đạo
Đức vương : Đức Vương
Chúa oũ : Chúa Ông ( tức Trịnh Tráng)
Chúa tũ, chúa dũ, chúa quành : Chúa Tung (Trịnh Vân; Tung Quận Công)
Chúa Dũng (Trịnh Khải; Dũng Quận Công)
Chúa Quỳnh ( Trịnh Lệ; Quỳnh quận công)
Chúa cả : Chúa cả (Trịnh Tạc, vào thời nầy Đàng Ngoài có 5 chúa là : Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Vân, Trịnh Khải, Trịnh Lệ mà chỉ 2 chúa có quyền hành mà thôi)
Thanh đô vương : Thanh Đô Vương
Chúa triết : Chúa Triết (Trịnh Tùng)
Kẻ chợ : Kẻ Chợ (Thăng Long)
yêu nhău : yêu nhau
oũ phô mả liêu : Ông Phò Mã Liêu (con rễ Trịnh Tráng)
Đàng Ngoằy : Đàng Ngoài
Quãng : Quảng
Tàm đàng : Tàm Đàng
Bên đoũ đa : Bên Đống Đa
tày : Tầy
lằng bôũ bàu : làng Bông Bầu
Cô bệt : Cô Bệt
Tri yếu : Tri yếu
kẻ hằii : kẻ hầu
ăn dương huyẹn : An Dương huyện
coũ thằn : công thành
Thíc ca : Thích Ca ( Phật)
Phổ lô xã : Phổ lô xã
Sãy uãy : Sải vải
Hộy ăn xả : Hội An xã
huyẹn uịnh lạy : huyện Vĩnh Lại
Thầi uăn Chật : Thầy Văn Chật
làng Kẻ tranh xuyên : Làng Kẻ Tranh Xuyên
Kẻ trãng : Kẻ Trang
Sấm phúc xả : Sấm Phúc xã
Nghỹa ăn xả : Nghĩa An xã
huyẹn bạyc hặc : Huyện Bạch Hạc
thầi phù thủi : Thầy phù thủy
Oũ jà nhạc : Ông già Nhạc
Oũ phu mã kiêm : Ông Phò mã Kiêm
bà : bà (?)
chúa bàng : chúa Bằng
thăn khê : Thanh Khê
hàng bè : hàng Bè
hàng bút : hàng Bút
cữa nam : cửa Nam
kẻ ăn lẵng : kẻ An lãng
hàng nấm : hàng nắm
đinh hàng : Đinh hàng
càii iền : Cầu Yên
hàng thuõc : hàng thuốc
oũ đô đốc hạ : Ông Đô Đốc Hạ
Oũ phũ mã nhăm : Ông Phò mã Nhâm
Oũ chưỡng hương : Ông chưởng Hương
Thầi : Thầy
đức oũ hồe : Đức ông Huề
thuyèn thũỉ : thuyền thủy
Quãng liẹt xã : Quãng liệt xã
giỗ : giỗ
chặp : chạp
mă : ma
kẽ uạc : kẻ Vạc
cỗ : cỗ
oũ chưỡng quế : ông chưởng Quế
tình : tình
nhũộn : nhuận
tháng : tháng
cốt bõý : cốt bói
Kẽ lăm huyẹn toũ sơn : kẻ Lâm, huyện Tống Sơn
Nghệ an : Nghệ An
Bố chính : Bố chính
thuặn hốe : Thuận Hóa
huyẹn nghi xuon : huyện Nghi Xuân
huyẹn Thinh Chương : huyện Thanh Chương
làng cầii : làng Cầu
nhà nga : nhà nga
đậii xá : đậu xá
vàng may : Vàng May
đức bà sang phú : đức bà sang phú
oũ bà phủ : ông bà phủ
kẽ mộc : kẻ Mộc
kẽ bàng : kẻ Bàng
an nam : An Nam
Tài liệu thứ hai cũng soạn bằng Bồ văn tại kẻ Chợ ngày 25-3-1637, có nhan đề: " Relacam dos Catequista da Christamdade de Tumk e seu modo de proceder pera o Pe Manoel Dias, Vissitador de Jappão e China " (Tường thuật về các Thầy giảng của giáo đoàn Đàng Ngoài và về cách thức tiến hành của họ, gửi cha Manoel Dias, giám sát Nhật Bản và Trung Hoa), tài liệu nầy hiện lưu trử tại Văn Khố Hàn Lâm Viện Sử Học Hoàng Gia Madrid Bồ Đào Nha. Gồm có một số phiên âm sau đây :
Sãy : Sãi
đức : đức
Chúa thanh đô : Chúa Thanh Đô
thầy : thầy
định : định
nhin : Nhơn (tên)
Nghệ an : Nghệ an
lạy : lạy
tri : Tri (tên)
bùi : Bùi (tên)
Quang : Quảng (tên)
tháng : Thắng (tên)
Coũ thàn : Công Thành
Sướng : Sướng (tên)
đàng ngoài : Đàng Ngoài
già : Già (tên)
Vó : Vó (tên)
nân : Nân (tên)
lồ : Lồ (tên)
đôủ thành : Đông thành (tên)
Kẻ chợ : Kẻ Chợ (tên)
Trong hai tài liệu nầy, tài liệu thứ nhất có gần 400 chữ phiên âm, chưa được thống nhất cách dùng mẫu tự ghi âm. Ví dụ :
Âm a ghi ă (Hội ăn xã) hay ghi a (Nghệ an)
Âm ò ghi ô (oũ phô mả liêu) hay ũ (oũ phũ mả kiêm)
Có một số âm, phụ âm, dấu giọng không như ngày nay :
Các âm â ghi ă (hàng nấm)
----------- ê - e (huyẹn, hién)
----------- y - i (thầi)
----------- o - õ (bõy)
--------- âu - ăii (hầu)
Các phụ âm : ng ghi ũ (oũ)
----------------- ch - yc (bạyc)
Các dấu giọng : ? ghi ~ (cữa nam, phũ)
------------------- ~ - ? (Sấm phú xả, Nghỹa ăn xả)
Tuy nhiên Gasparo d'Amiral cũng ghi được các âm như ngày nay :
a (nghệ an ) ă (hàng nắm) â (thầi)
ê ( nghệ) ô (giỗ) ơ (chợ)
i (nghi xuôn) u (yêu nhău) ư (thương, vương)
Có đủ dấu giọng:
không dấu (nam, đô)
� (Thíc ca)
` (thầi phù thũi)
? (chúa cả)
~ (giỗ)
. (vĩnh tộ)
Tài liệu thứ hai viết sau 5 năm, một số chữ viết ngày nay giống y như vậy: đức, chúa thanh đô, thầy, Nghệ an, lạy, định ... Do đó chúng ta thấy Gasparo d'Amiral ghi âm tiến bộ hơn các giáo sĩ khác, đó cũng là điều dĩ nhiên bởi vì từ tài liệu của Jão Roiz hay Gaspar Luis viết từ năm 1621, đến tài liệu thứ nhất của Gasparo d'Amiral có khoảng cách biệt trên 10 năm.
b.- Sự đóng góp của Linh mục Đắc Lộ.
Linh mục Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes), người được Pháp đề cao đã sáng chế ra chữ Quốc Ngữ, mang lại sự khai hóa cho dân tộc Việt Nam, với chiêu bài nầy để che đậy hành động thực dân, xâm chiếm lãnh thổ và cai trị hà khắc dân tộc chúng ta. Để hiểu rõ vấn đề nầy, chúng ta cần lướt qua tiểu sử và hành trình truyền giáo của Đắc Lộ.
Đắc Lộ sinh ngày 15-3-1591 tại Comtat Venaissin, tỉnh Avignon, miền Nam nước Pháp, tổ tiên ông gốc Do Thái. Tổ phụ của ông đã di cư từ Tây Ban Nha sang Avignon vào giữa thế kỷ XVI, thân sinh ông là Benadin II de Rhodes, được liệt vào hàng thân hào, nhân sĩ trong vùng.
Đắc Lộ gia nhập Dòng Tên ở La Mã ngày 14-4-1612, học tập chuyên về thần học và toán học tại học viện Saint André du Quirinal, thụ phong linh mục tại La Mã năm 1618. Cũng trong năm nầy, ông được phép sang Đông Nam Á truyền giáo, ông đến Lisbonne thủ đô Bồ Đào Nha, rồi từ đây đáp tàu đi Áo Môn ngày 04-4-1619, vì có ghé qua Goa (Ấn Độ) nên ông đến Áo Môn ngày 29-5-1623, ông đặt chân lên Việt Nam lần đầu tiên vào tháng 12 năm 1624 tại Đà Nẳng, cùng với các linh mục Gabriel de Mattos và một giáo sĩ Nhật.
Đắc Lộ đến cơ sở truyền giáo Thanh Chiêm thuộc Quảng Nam Dinh, nơi đây có Linh mục Francisco de Pina (sinh năm 1585 tại Bồ Đào Nha, đến Đàng Trong năm 1617 và chết đuối ở Quảng Nam năm 1625) và Antonio de Fontes (đến Đàng Trong tháng 12 năm 1624), tại đây Đắc Lộ học tiếng Việt với Francisco de Pina, tháng 7 năm 1626 ông rời Đàng Trong về Áo Môn, ngày 19-3-1627, ông cùng với Linh mục Pierre Marquez đến của Bang ( Thanh Hóa), ở đây, hai ông có yết kiến Trịnh Tráng, rồi sau đó theo chúa Trịnh ra Thăng Long, thời gian nầy hai Linh mục lập giáo đoàn Đàng Ngoài, tháng 5 năm 1630, chúa Trịnh cấm đạo, trục xuất các giáo sĩ, Đắc Lộ trở về Áo Môn.
Từ năm 1630 đến năm 1640, Đắc Lộ dạy thần học ở học viện thần học Áo Môn. năm 1640, ông được cử đến Đàng Trong làm Bề Trên, thay thế Linh mục Buzomi vừa từ trần tại Quảng Nam Dinh, ông ở đây cho đến ngày 3-7-1645, bị bắt buộc phải rời cơ sở truyền giáo Thanh Chiêm, theo lệnh của quan Cai bộ áp dụng án trục xuất các giáo sĩ của chúa Nguyễn. Kể từ đó, ông rời hẳn nước Việt Nam, trở lại Áo Môn ông dạy tiếng Việt ở Học viện Thần Học, ngày 20-12 năm 1645 ông đáp tàu từ Áo Môn đi Âu Châu, nhằm mục đích vận động thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam.
Ngày 16-11-1654,Toà thánh La Mã cử Đắc Lộ làm Bề Trên của phái đoàn truyền giáo ở Ba Tư. Đầu tháng 11-1655, ông đáp tàu từ Marseille đi Ispaham thủ đô Ba Tư, và tại đây ông đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 5 tháng 11 năm 1660.
Giai đoạn trước, giáo sĩ Đắc Lộ có để lại 3 tài liệu về chữ Quốc Ngữ vào năm 1625 và 1631 đã dẫn ở trên và giai đoạn sau nầy, ông cũng để lại 3 tài liệu khác viết vào các năm 1636, 1644, 1647.
Tài liệu năm 1634, viết tay có nhan đề: " Tunchinenois Historiae libri duo quorum altero status temporalis hujus Regni, altero mirabiles evangelicae praedications progressus refuruntur. Coeptae per Patres Societatis Jesu, ab Anno 1627 ad Annum 1636 " ( Lịch sử Đàng Ngoài và những bước tiến triển lớn lao mà phúc âm rao giảng đã làm ở nước nầy để cải hóa lương dân, từ năm 1627 đến năm 1636) Bản nầy ghi bằng La văn gồm 2 quyển, lưu trử tại Văn khố Dòng Tên ở La Mã.
Các chữ phiên âm trong quyển một.
Tung : Đông
kin : kinh
Annam : An Nam
Ai nam : Hải Nam
Chúacanh : Chúa Canh
Che ce : kẻ Chợ (Thăng Long)
Chúa bàng : Chúa Bàng (đúng ra là Bình; Bình An Vương Trịnh Tùng)
Chúa õu : Chúa ông
Chúa thanh đô : Chúa Thanh Đô ( Thanh Đô Vương Trịnh Tráng)
uuan : vương
min : minh
bát min : bất minh
thuam : thuận
uan : văn
uu : vũ
gna ti : nhà ti
gna hien : nhà hiến
Cai phu : cai phủ
Cai huyen : cai huyện
Bua ; vua
den : đền
sin do : sinh đồ
huan cong : hương cống
tin si : tiến sĩ
tam iau : tam giáo
dạu nhu : đạo nhu (nho)
dạu thíc ; đạo thích
Thicca, Thic ca, Thiccả : Thích ca
Sai : Sãi
sai ca : Sãi cả
lautu : Lão tử
Giô : giỗ
Cu hồn : Cô hồn
ba hon : ba hồn
Chin via : Chín vía
dum : Đồng (tên)
Các chữ phiên âm trong quyển hai
Cửa bang : Cửa Bạng (Thanh Hóa)
Phạt : Phật
bụt : Bụt
dang : Đàng
ciiia oũ : chúa ông
ciiia ban uuan : chúa Bằng vương
ciii sai : chúa Sãi
ciii canh : chúa canh
thinh hoa : Thanh Hóa
thai : thầy
sai vai : Sãi Vãi
Che vich : kẻ vích (cửa Vích, cửa sông ở phía Bắc Thanh Hóa)
Che no : Kẻ Nộ
Gne an : Nghệ An
bochin : bố chính
Rum : Rum
kiemthuong : Kiêm Thượng
Phuchen : Phục chân
cà : Cà
cã : cả
cá : cá
tlẽ : trẻ
tle : tre
Tài liệu năm 1644, Đắc Lộ viết bằng Bồ văn tại Thanh Chiêm, nhan đề: " Relacão do glorioso Martirio de Andre Cathequista Protomartir de Cochinchiana alanceado, e degolado em Cachão no 26 de Julho de 1644 Tendo de Idade dezanove annos " ( Tường thuật cuộc tử đạo vinh hiển của Thầy giảng An-Rê, vị tử đạo tiên khởi ở Đàng Trong, đã bị đâm chém tại kẻ Chàm ngày 26-7-1644, tử đạo lúc 19 tuổi), tài liệu nầy có những chữ phiên âm và câu phiên âm :
Ounghebo, Oũnghebo : Ông Nghè Bộ
Giũ nghĩa cũ d chúa Jesu cho den het hoy, cho den blon doy : Giữ nghĩ cùng đức chúa Jesu cho đến hết hơi, cho đến trọn đời.
Tài liệu năm 1647, Đắc Lộ viết bằng La văn tại Macassar ngày 4-6-1647 có nhan đề : " Alexandre Rhodes è Societate jesu terra marique decẽ annorũ Itinerarium " ( Cuộc hành trình mười năm trên bộ, dưới biển của Đắc Lộ thuộc Dòng Tên), tài liệu nầy có các phiên âm như sau:
Ciam : Chàm
Ranran : Ran ran
Ké han : Kẻ Hàn
On ghe bo : Ông nghè Bộ
ke cham : kẻ Chàm
halam : Hà Lan
Cai tlam, Caitlam : Cát Lâm
ben da : Bến đá
Qui nhin : Qui Nhơn
Nam binh : Nam Bình
Bao bom : Bầu vom
Quan Ghia : Quảng Nghĩa
Nuoc man : Nước Mặn
bau beo : Bầu Bèo (?)
liem cum ; Liêm công
Quanghia : Quảng Nghĩa
Baubom : Bầu Vom
bochinh : Bố chính
Oũ ghe bo : Ông nghè Bộ
Sau khi đối chiếu tiểu sử của Gasparo d'Amiral và Đắc Lộ cùng các tài liệu phiên âm như trên, chúng ta có nhận định sau :
1) Linh mục Gasparo d'Amiral phiên âm có tự dạng gần với chữ Việt chúng ta viết ngày nay, hơn là các phiên âm của Đắc Lộ, thử so sánh :
Tài liệu Gasparo d'Amiral 1632 : Tài liệu Đắc Lộ 1636
----------------- Thanh đô vương -------- thanh đô
----------------- Nhà ti --------------------- gna ti
----------------- Nhà hién ----------------- gna hien
----------------- Nghệ ăn, nghệ an ------ Gne an
----------------- Bố chính ----------------- bochin
2) Gasparo d'Amiral phân biệt được một số dấu giọng như đã vạch ra ở phần trước, trong khi Đắc Lộ lại ít dùng dấu giọng.
3) Ngay trong cách phiên âm của Đắc Lộ, tài liệu sau phiên âm kém hơn tài liệu trước. Trái lại, Gasparo d'Amiral phiên âm tài liệu năm 1637 khá hơn tài liệu năm 1632.
Năm 1632, bảng tường trình của Gasparo d'Amiral gửi cho Linh mục André Palmeiro, giám sát các tỉnh Nhật, trung Hoa lúc đó Đắc Lộ cũng ở tại Áo Môn (1630-1640), là người tha thiết với các giáo đoàn truyền giáo tại Việt Nam, chắc chắn Đắc Lộ có xem qua bảng tường trình nầy.
Từ năm 1638-1645 Gasparo d'Amiral ở tại Áo Môn, như vậy họ đã có thời gian ở bên nhau 2 năm 1638-1640, rồi tháng 7 năm 1645 đến 20-12-1645 Đắc Lộ từ Việt Nam trở lại Viện Thần Học Áo Môn, phụ trách dạy tiếng Việt, còn Gasparo d'Amiral đã soạn quyển Tự vựng Việt La, như vậy cả hai có thêm thời gian ở bên cạnh nhau, lại cùng hoạt động chung bộ môn tiếng Việt, điều đó cho ta thấy chắc chắn Đắc Lộ có chịu ảnh hưởng của Gasparo d'Amiral về lãnh vực tiếng Việt.
Tài liệu Đắc Lộ viết năm 1647 tại Macassar, chứng tỏ rằng sau khi ông rời Việt Nam ngày 20-12-1645, ông vẫn chưa có được một hệ thống phiên âm vững chắc và gần gủi với chữ Quốc ngữ ngày nay.
c.- Sự đóng góp của Linh mục Antonio Barbosa
Antonio sanh năm 1594 tại ville de Arrifana de Sonza, Bồ Đào Nha, gia nhập Dòng Tên vào ngày 13-3-1624. Năm 1629, ông được cử đến truyền giáo ở Đàng Trong và đến tháng 4 năm 1636, ông có đến Đàng Ngoài truyền giáo. Cho đến tháng 5 năm 1642, vì lý do sức khỏe, ông phải trở về Áo Môn tịnh dưỡng. Cũng do tình trạng sức khỏe không tốt nên sau một thời gian tịnh dưỡng, ông rời Áo Môn đi Goa và ông đã từ trần trên đường đến Goa năm 1647.
Mặc dù ngày nay Antonio không có để lại tài liệu Quốc ngữ nào, nhưng Đắc Lộ đã cho biết : " Tôi lợi dụng công việc của các giáo sĩ khác cũng thuộc Dòng Tên, nhất là của Gasparo d'Amiral và Antonio Barbosa. Cả hai ông nầy, mỗi ông đều làm một cuốn tự điển. Ông Gasparo d'Amiral làm cuốn Annamiticum - Lusitanium; ông Antonia Barbosa làm cuốn Lusitanum - Annamiticum. Nhưng tiếc rằng cả hai ông đều chết sớm. Tôi lợi dụng công việc của cả hai ông viết ra cuốn tự điển mới, có chua thêm tiếng La tinh, mục đích để giúp người bản xứ học tiếng La tinh theo lệnh của các đức hồng y." ( 4 )
d.- Sự đóng góp của người Việt
Dù sao, khởi thủy chữ Quốc ngữ hình thành cũng nằm trong mục đích chánh là phương tiện truyền giáo cho các giáo sĩ thuộc Dòng Tên ở Việt Nam. Bên cạnh các giáo sĩ, giáo dân Việt Nam thời đó không nhiều thì ít cũng có đóng góp trong lúc hai linh mục Gasparo và Antonio soạn hai quyển tự điển của họ, điều đó tuy không có chứng cứ, nhưng theo suy luận hợp lý, cho phép chúng ta tin như vậy.
Ngoài ra trong thời kỳ nầy còn có tài liệu của 14 giáo dân Việt Nam ghi bằng chữ Quốc ngữ, về việc họ xác nhận tán đồng ý nghĩa mô thức rửa tội, do 31 linh mục Dòng Tên thảo luận ở Viện Thần Học tại Áo Môn năm 1645
Tài liệu nầy là một bản La văn do các linh mục Dòng Tên soạn, để trả lời cho Linh mục Sebastião de Jonaya, nhan đề: " Cirra formam Baptismi Annamico Idiomate prolatam' ( Chung quanh mô thức rửa tội bằng thổ ngữ An Nam). Phần chữ Quốc ngữ của 14 giáo dân Việt Nam ghi như sau:
" Nhin danh Cha uà con uà Su-phi-ri-to-sang-to í nài An-nam các bỏn đạo thì tin ràng ra ba danh ví bàng muốn í làm một thì phải nói nhin nhít danh cha etc.- tôy là Giu ão câi trâm cũ nghi bậi - tôy là An re Sen cũ nghi bậi - tôy là Ben tò vẫn triền cũ nghi bậi - tôy là Phe ro uẫn nhit cũ nghi bậi - tôy là An jo uẫn tãu cũ nghi bậi - tôy là Gi-ro-ni-mo cũ nghi bậi - tôy là I-na sô cũ nghi bậi - tôy là tho-me cũ nghi bậi - tôy là Gi-le cũ nghi bậi - tôy là lu-i-si cũ nghi bậi - tôy là Phi-lip cũ nghi bậi - tôy là Do-minh cũ nghi bậi - tôy là An-ton cũ nghi bậi - tôy là Giu ão cũ nghi bậi " ( nhân danh Cha và con và Su-phi-ri-to Sang-to Spirito Santo ý nầy An nam các bổn đạo thì tin rằng ra ba danh. Ví rằng muốn ý làm mộy thì phải nói : nhân danh Cha vân vân. Tôi là Giu an Cai (?) Trâm cũng nghĩ vậy - Tôi là An rê Sen cũng nghĩ vậy - Tôi là Ben tô Văn Triều cũng nghĩ vậy - Tôi là Phê rô Văn Nhất cũng nghĩ vậy - Tôi là An gio Văn Tang cũng nghĩ vậy - Tôi là Gi-rô-i-mô cũng nghĩ vậy - Tôi là Gi le cũng nghĩ vậy - Tôi là lu-i-si cũng nghĩ vậy - Tôi là Phi líp cũng nghĩ vậy - Tôi là Đô Minh cũng nghĩ vậy - Tôi là An ton cũng nghĩ vậy - Tôi là Giu an cũng nghĩ vậy).
Như thế, chúng ta thấy rõ đây là một bản văn Quốc ngữ của 14 người Việt Nam xác nhận mô thức rửa tội năm 1645 của các linh mục Dòng Tên và đây là tài liệu cho chúng ta thấy sự đóng góp của người Việt Nam trong tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ.
Qua so sánh, chúng ta có thể thấy rằng chữ Quốc ngữ năm 1645 chỉ giống chữ viết ngày nay khoảng 45%, và thời kỳ sáng tạo chữ Quốc ngữ khởi đầu từ năm 1621 đến đây đã chấm dứt, để chuyển sang thời kỳ kế tiếp.
Tưởng cũng nên nhắc lại, từ khi khởi đầu phiên âm cho đến khi hình thành chữ Quốc ngữ, không phải là sự ngẫu nhiên, bởi vì giáo đoàn truyền giáo Dòng Tên trước đó đã hoàn tất việc việc La tinh hóa chữ Nhật, để truyền giáo tại Nhật Bản. Nhật Bản cũng như Việt Nam ta, thuở đó mỗi nước đều có chữ Quốc ngữ biến chế từ chữ Hán, nước ta gọi là chữ NÔM, muốn biết chữ Nôm, đòi hỏi người ta phải am tường chữ Hán, chữ Hán vốn đã khó học rồi thì chữ Nôm lại càng khó hơn, chính vì thế mà các linh mục đã La tinh hóa chữ viết của Nhật cũng như Việt Nam, để cho công việc truyền giáo của họ được dễ dàng hơn.
*
II. Thời Kỳ Xây Dựng
1. Khái Quát.
Theo tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ, cho đến khi quyển Dictionarium Annamaticum Lusitinum et Latinum của Alexandre de Rhodes được in tại La Mã năm 1651, chữ Quốc ngữ đã bước sang giai đoạn mới. Giai đoạn nầy bắt đầu từ công trình của hai Linh mục Antonio Barbosa và Gasparo d'Amiral khi hai ông biên soạn Dictionarium Lusitanum - Annamaticum và Annamiticum - Lusitanum nhưng cả hai quyển nầy ngày nay chưa được khám phá.
Các nhà nghiên cứu cho rằng hai quyển tự điển vừa kể, có thể đã bị thất lạc do các cuộc di chuyển văn khố Dòng Tên từ Áo Môn qua Manila khoảng năm 1759-1760, và sau đó nhà cầm quyền Tây Ban Nha tịch thu các tài liệu ở văn khố Dòng Tên tại Manila vào khoảng năm 1770 đem về Madrid, nên ngày nay không tìm thấy vết tích 2 quyển tự điển nầy ở Áo Môn, Manila và ở Madrid cũng không tìm thấy chúng.
Linh mục Thanh Lãng có cho biết tại Tòa Thánh La Mã hiện có 2 cuốn tự điển do Linh mục Philipphé Bỉnh sao lục, không đề tên tác giả, đó là quyển : Dictionarium Annamiticum - Lusitanum ký hiệu Borg Touch 23 dầy 288 trang và Dictionarium Lusitanum - Annamiticum ký hiệu Touch 23 dầy 324 trang.
Philipphé Rosario Bỉnh sanh tại Hải Dương năm 1759, vào chủng viện năm 1775. Được phong Thầy Cả sau khi mãn khóa học.
Ngày 20-6-1796, ông đến Lisbonne thủ đô Bồ Đào Nha, tại đây ông theo dõi tình hình giáo hội và sáng tác gồm 23 tác phẩm gồm Bồ văn, La Tinh, Nôm và Quốc ngữ, trong số ấy có tác phẩm " Truyện An-nam Đàng ngoài chí Đàng trão ". Ông mất tại Lisbonne năm 1832.
Căn cứ vào công trình của Philipphé Bỉnh, vào những điều của Linh mục Thanh Lãng cho biết, chúng ta có thể đi đến kết luận là quyển Dictionarium Annamiticum - Lusitanum của Gasparo d'Amiral và Dictionarium Lusitanium - Annamiticum của Antonio Barbosa đều có ở tại Lisbonne nơi mà Philipphé Bỉnh đã ở và làm việc, nên ông đã sao chép lại quyển tự điển, nó cũng chứng tỏ rằng Linh mục Đắc Lộ đã mang 2 quyển sách trên từ Áo Môn về Âu châu, có lẽ trước tiên ông định in 2 quyển tự điển nầy, về sau ông đã dựa vào đó soạn và in ra quyển Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum, nên 2 quyển tự điển kia không cần thiết phải in nữa.
Chọn năm 1651 là năm đánh dấu sự hoàn tất công trình điển chế chữ Quốc ngữ, nhằm mục đích làm phương tiện truyền giáo của các giáo sĩ Tây Phương, bởi vì chẳng những quyển tự điển Dictionarium Annamiticum Lusitinum et Latinum được in mà còn có quyển " Cathéchismus " (Phép giảng tám ngày), cũng được in trong năm nầy.
2. Thời kỳ soạn thảo quyển tự điển An Nam - Bồ Đào Nha - LaTinh
Cho đến nay, chưa có tài liệu nào công bố thời gian và địa điểm Đắc Lộ đã soạn quyển Dictionarium Annamiticum Lusitinum et Latinum. Theo đoạn văn trích dịch ở trên, chúng ta biết rằng Đắc Lộ soạn quyển tự điển nầy dựa vào công trình hai quyển tự điển của Gasparo d'Amiral và Antonio Barbosa.
Nhưng công trình của 2 linh mục nầy không được in ra, chưa tìm thấy bản gốc, cũng chưa tìm thấy tài liệu nào cho biết thời gian biên soạn hay hoàn tất của chúng, để từ đó có thể giúp chúng ta xác định thời gian Linh mục Đắc Lộ soạn quyển tự điển của ông. Đặt ra vấn đề nầy để xác nhận thời điểm, trong những giai đoạn của tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ.
Theo vết chân của Đắc Lộ, chúng ta biết ông có thể soạn quyển tự điển, trong khoảng năm 1630-1640 là thời gian ông dạy thần học ở Học viện thần học tại Áo Môn. Nhưng mà thời gian nầy không chắc Linh mục Antonio Barbosa đã soạn xong quyển Tự điển Bồ Đào Nha - An Nam, vì thời gian 1620-1642 ông đang truyền giáo Đàng Trong rồi Đàng Ngoài, thời gian nầy Linh mục Antonio học hỏi tiếng Việt, và từ năm 1642 đến năm 1647 ông có ở Áo Môn để dưỡng bệnh, có lẽ thời gian nầy Linh mục Antonio đã biên soạn và hoàn tất quyển tự điển của mình trước tháng 12 năm 1645.
Còn Linh mục Gasparo d'Amiral sau thời gian ở Đàng Ngoài 7 năm, từ năm 1638-1645 ông ở tại Áo Môn giữ chức Viện trưởng Viện thần học kiêm Phó Giám Tỉnh Nhật và Trung Hoa, chắc chắn thời gian nầy ông đã phối hợp với Linh mục Antonio Barbosa để biên soạn và hoàn tất quyển tự điển An Nam - Bồ Đào Nha.
Tóm lại các quyển tự điển An Nam Bồ Đào Nha và Bồ Đào Nha An Nam được soạn trong khoảng 1638-1645. Vì năm 1645, Linh mục Gasparo bị đắm tàu chết đuối và trước đó ít hôm, Linh mục Đắc Lộ đã rời Áo Môn trở về Âu Châu, chúng ta lại biết thêm rằng, thời gian từ 3-7-1645 đến 20-12-1645 là thời gian cả 3 linh mục Đắc Lộ, Gasparo d'Amiral và Antonio Barbosa đều có mặt tại Thần Học Viện ở Áo Môn, chắc chắn họ đã có quyết định giao cho Đắc Lộ mang 2 quyển tự điển của họ về nhà in của Bộ Truyền giáo ở La Mã để in, cho nên ngày nay bản gốc 2 quyển tự điển trên không tìm thấy ở Áo Môn, Manilia hay Tây Ban Nha.
Linh mục Đắc Lộ rời Áo Môn ngày 20-12-1645, và đến La Mã ngày 27-6-1649, có lẽ thời gian nầy ông bắt đầu soạn quyển Tự điển An Nam - Bồ Đào Nha - La Tinh, nhằm mục đích để cho các Linh mục truyền giáo ở Việt Nam được dễ dàng hơn. Ý ấy đã được các Hồng y chấp thuận như ông đã ghi ở bài tựa quyển Tự điển.
Vậy thời điểm Đắc Lộ soạn quyển Dictionarium Annamaticum Lusitinum et Latinum là khoảng năm 1645- 1649, và ngày 5-2-1651 quyển nầy được Linh mục F. Piccolomineus Bề Trên Cả Dòng Tên cho phép xuất bản. Và sau đó quyển Cathéchismus được soạn trong khoảng năm 1649 - 1651, cuốn nầy được Linh mục L. M. Gosswinus Nickel quyền Bề Trên Cả cho phép xuất bản ngày 8-7-1651, nó đóng vai trò quan trọng trong công cuộc truyền giáo, nên trong phiên họp các Hồng Y và giáo chủ ngày 2-10-1651 đã quyết định ra lệnh cho nhà in của Bộ Truyền giáo ngưng in các ấn phẩm khác, để nhanh chóng in cho xong quyển Cathéchismus.
3. Nội Dung Quyển Dictionarium Annamaticum et Latinum
Quyển sách nầy trừ lời tựa, nó được chia thành ba phần chính:
a. Phần I. Linguae Annamaticae seu Tunchinensis brevis declaratio ( tức là phần Ngữ Pháp Việt Nam được soạn bằng La văn gồm 31 trang, chia thành 8 chương:
Chương I .- De literis et syllabis quibus hase lingue constat (chữ và vần trong tiếng Việt)
Chương II.- De Accentibus et aliis signis in vocalibus dấu nhấn và các dấu)
Chương III.- De Nominibus (Danh từ)
Chương IV.- De Pronominibus (Đại danh từ)
Chương V.- De Aliis Pronominibus (các Đại danh từ khác)
Chương VI.- De Verbis (Dộng từ)
Chương VII.- De Reliquis oratiomis indeclinabilibus (những phần bất biến)
Chương Chót.- Pracepta quacdam ad syntaxim pertinentia (cú pháp)
b. Phần II. Dictionarium Annamiticum seu Tunchinense cum lusiatna, et latina declaratione.
Phần nầy không đánh số trang, chỉ đánh số cột, mỗi trang chia làm 2 cột, có tất cả 900 cột, nhưng từ mẫu tự nọ sang mẫu tự kia thường để một vài trang giấy trắng. Chúng ta cũng nên chú ý, mẫu tự b (phụ âm v ngày nay, vì có tự dạng gần giống như mẫu tự b, nên được xếp tiếp sau mẫu tự b)
Mỗi chữ Việt được giải nghĩa theo thứ tự chữ Bồ rồi mới đến chữ La tinh.
c. Phần III. Index Latini sermonis.
Phần nầy mỗi trang chia làm 2 cột, không có ghi số trang và số cột, nhưng có tất cả 350 cột, tức là 175 trang. Trong mỗi cột, tác giả liệt kê các chữ La tinh, bên cạnh mỗi chữ có ghi số cột của chữ La tinh ấy ở Phần II. Như vậy người biết chữ La tinh sẽ tra cứu được chữ Việt tương ứng.
Sau khi biết khái quát về quyển tự điển nầy, chúng ta có những nhận định sau đây :
* Công trình điển chế Việt ngữ của Đắc Lộ chẳng những đã hệ thống hóa phương pháp ghi âm ngôn ngữ Việt Nam mà còn là một tác phẩm căn bản, để từ đó Việt ngữ được hợp lý hóa các âm thể như ngày nay.
* Dù sao thì công trình của Đắc Lộ cũng chỉ nhằm giúp những người biết chữ La tinh hay Bồ Đào Nha học Việt ngữ, Đắc Lộ không có công trình nào nhằm vào sự phổ biến chữ Quốc ngữ nầy cho người Việt, cũng vì thế mà từ 1651 đến 1866, hơn 2 thế kỷ chữ Quốc ngữ chỉ được phổ biến giữa các giáo sĩ và một ít giáo dân mà thôi.
* Cho đến khi quyển " Chuyện Đời Xưa " của Trương Vĩnh Ký ra đời năm 1866, vẫn còn ghi ở lời Tựa "... cùng là có ý cho người ngoại quốc muốn học tiếng An Nam, coi mà tập hiểu cho quen. " Điều nầy đủ chứng tỏ chữ Quốc ngữ trước đó, có mục đích giúp cho người ngoại quốc học tiếng Việt.
* Ngày nay một số tự điển nhằm mục đích giảng giải, phần đầu của tự điển có phần tóm lược ngữ pháp, chẳng hạn như quyển Anh Việt, Việt Anh Tiêu Chuẩn Tự Điển của Lê Bá Kông, sự trình bày cũng giống như hình thức trình bày ở phần đầu quyển Tự điển Việt - Bồ - La của Đắc Lộ.
4. Các Tác Phẩm Tiêu Biểu Khác.
a. Quyển Cathéchismus
Ngay trong năm 1651, Quyển Cathéchismus ( Phép Giảng Tám Ngày) là một bản văn chữ Quốc ngữ xưa nhất còn lại ngày nay, nó cũng là bản văn được nhiều người biết đến, đấy là công trình của Đắc Lộ, tuy chỉ nhằm mục đích truyền giáo, nhưng ngày nay nó đã trở thành một chứng liệu quý giá để xác định một bản văn hoàn toàn dùng Quốc ngữ.
Cathéchismus là một quyển sách giáo lý, viết cho người giảng dạy giáo lý dùng để truyền giáo. Mỗi trang sách chia làm 2 cột, cột bên trái là chữ la tinh và cột bên phải là chữ Quốc ngữ. Sách có 319 trang, không có lời tựa.
Sách không chia từng chương, mà chia thành ngày học, gồm có 8 ngày, cho nên còn được gọi tên là " Phép giảng tám ngày " , phân chia như sau :
- Ngày thứ nhất : Đạo thánh đức Chúa Trời.
- Ngày thứ hai : Đức Chúa Trời.
- Ngày thứ ba : Đức thợ cả
- Ngày thứ tư : Những đạo vạy
- Ngày thứ năm : Một đức chúa Trời ba ngôi - Đức chúa Trời ra đời cứu thế.
- Ngày thứ sáu : Thầy thuốc cả.
- Ngày thứ bảy : Con chiên lành.
- Ngày thứ tám : Một bậc thang lên Thiên đàng.
Sách không chia ra các tiểu mục, trong khi sao lục để tái bản, André Marillier dựa vào nguyên tắc để chia ra các tiểu mục. Chẳng hạn như Ngày thứ tư : Những đạo vạy :
* Con cháu ông Adam.
* Ông Noe và lụt cả
* Tháp Babel
* Nước đại minh phân ra nhiều đạo vạy
* Đạo bụt : giáo ngoài và giáo trong
* Đạo lão
* Đạo Nho : Việc thờ ông Khổng.
* Những sự dối trá của Thích Ca về linh hồn ta
* Những điều lầm lỗi trong việc thờ cúng cha mẹ
* Linh hồn ta chẳng hay chết.
Quyển Cathéchismus là một quyển sách Quốc ngữ được in đầu tiên vào năm 1651, nó mở đầu cho công cuộc truyền bá giáo lý Thiên chúa giáo bằng sách Quốc ngữ tại Việt Nam.
b. Các Tài Liệu Viết Tay
Ngày nay tại văn khố Dòng Tên ở La Mã còn có 2 tài liệu viết tay của 2 người Việt, đó là Igesico Văn Tín và Bento Thiện.
Tài liệu của Igesico Văn Tín là một lá thư viết ngày 12-9-1659, không đề nơi chốn gửi, mà cũng không ghi tên người nhận, nhưng do những chi tiết trong thư, người ta hiểu được là Văn Tín viết tại kẻ Vó, gửi cho Linh mục Marini lúc đó dang ở La mã. Nội dung thư, đại ý nói về các hoạt động truyền giáo tại kẻ Vó ( Đàng Ngoài), sau khi các giáo sĩ Tây phương bị chúa Trịnh trục xuất khỏi Đàng Ngoài, và bày tỏ lòng thành kính đối với Linh mục Marini ( 5 )
Còn tài liệu của Bento Thiện gồm có một bức thư viết tay, viết năm 1659 và một tập tài liệu. Cả hai đều lưu trử tại Văn khố Dòng Tên ở La Mã. Về bức thư, tuy không có ghi ngày, nhưng mở đầu bức thư, ông có ghi ngày viết là ngày lễ Daria tức là 25 tháng 10.
Ở hàng trên cùng hay dòng thứ nhất của bức thư nầy, có ghi dòng chữ Bồ " Ao Pe Philipe Marino " ( Gửi cho cha Philipe Marino - Marini), dòng thứ hai ghi bằng chữ La Tinh " Pax Christi " ( Bằng an chúa Ky-tô), từ dòng thứ ba trở đi là chữ Quốc ngữ.( 6)
Nội dung bức thư nầy, ông nói về tình hình truyền giáo tại Đàng Ngoài, cùng những lời ca ngợi của chính Bento Thiện cũng như của những giáo dân đã nhờ ông chuyển lời thăm hỏi đến Linh mục Marini.
Ngoài ra Bento Thiện cũng có đề cập tới việc Marini nhờ ông viết một số tài liệu về Việt Nam, ông cho biết đã làm xong " hai vở " ( 7 ), và gửi nơi Linh mục Onofre để nhờ chuyển tới cho Marini.
Còn về tập tài liệu (hai vở) ( 8 ), nó gồm có 2 phần, phần trước gồm có : Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy cho đến Trịnh Nguyễn phân tranh, tuy tóm lược nhưng cũng khá đầy đủ, phần nầy gồm có 6 trang khổ 20 x 29 cm. Phần sau cũng gồm có 6 trang cùng khổ giấy, nội dung gồm có : Ghi chép phong tục, tổ chức quan lại, thi cử, tổ chức hành chánh, kể ra các xứ, phủ, huyện, châu, động, xã, thôn ở Đàng Ngoài và phần cuối cùng là tín ngưỡng.
Những tài liệu nầy có chụp hình và in lại trong quyển Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659 của Linh mục Đỗ Quang Chính, nói chung thì chữ Quốc ngữ viết vào thời kỳ nầy rất khó đọc, chỉ có chừng 50% là có tự dạng giống như ngày nay.
Qua những lời lẽ viết trong thư của Văn Tín và Bento Thiện cho chúng ta thấy rằng, sự diễn đạt bằng Quốc ngữ thời ấy không được suông sẻ, dữ kiện nầy không thể kết luận rằng trình độ văn hóa của người viết kém, vì Bento Thiện đã viết được lịch sử Việt Nam ... chẳng qua chữ Quốc ngữ chưa được phổ biến, chưa có quy củ để có thể diễn đạt tư tưởng dễ dàng, trong sáng, cho nên câu văn kém văn hoa.
5. Thời kỳ của Pièrre Joseph Georges Pigneau de Béhaine và J. L. Tabert.
a. Pierre Joseph Georges Pigneau de Béhaine (1741-1799)
Ông là Giám mục d'Adran, người Pháp thuộc dòng Thừa sai, trong thời gian ở chủng viện Virampatman gần Pondichéry (Ấn Độ), ông có nghiên cứu về Khổng Mạnh và có soạn bộ tự vị Việt - La tinh (Dictionarium Annamatica - Latinum). Bản sao ghi năm 1772, còn lưu trử tại văn khố của hội Thừa sai Paris. Sách chưa kịp in ra thì ông mất.
b. J. L. Tabert (1794-1840).
Giám mục Tabert cũng thuộc dòng Thừa sai, ông có ở Sàigòn và soạn hai quyển tự vị : Dictionarium Annamatico - Latinum và Dictionarium Latino - Annamaticum, theo các nhà nghiên cứu như Adrien Launay, Linh mục Lepold Cadière đều cho rằng Tabert đã dựa vào công trình của d'Adran để soạn thảo. Quyển Dictionarium Annamatico - Latinum (Nam Việt Dương Hiệp Tự Vựng) được ấn hành do nhà Serampore, Extypis J. C. Marshman năm 1838.
Đến thời kỳ nầy các phụ âm đầu bl (blõ : trở), ml (mlòy: lời), tl (tlẽi : trẩy) vận cản /~/ (oũ : ông) đều được cải tiến như tự dạng ngày nay.
Nói chung đến thời kỳ nầy, chữ Quốc ngữ đã hoàn bị, hay nói khác hơn là chữ Quốc ngữ trong quyển Nam Việt Dương Hiệp Tự Vựng của Linh mục Tabert và chữ Quốc ngữ ngày nay không mấy khác biệt, và chữ Quốc ngữ cũng chỉ là phương tiện truyền giáo, cũng giống như tình trạng trước kia, nó chỉ được phổ biến giữa các giáo sĩ truyền giáo ở Việt Nam và một số rất ít giáo dân người Việt.
Phải đợi đến năm 1866, năm quyển " Chuyện Đời Xưa " của Trương Vĩnh Ký ra đời, chữ Quốc ngữ mới được phổ biến với mục đích truyền bá cho người Việt, và phải đợi đến năm 1882, nhà cầm quyền Pháp ban hành Nghị định, bó buộc các viên chức hành chánh xã thôn trong khắp cõi Nam Kỳ, phải thông hiểu chữ Quốc ngữ, nó đánh dấu thời điểm chữ Quốc ngữ được sử dụng chính thức tại miền Nam. Như vậy, từ khi manh nha cho đến khi được dùng làm văn tự chính thức trên vùng đất thuộc địa của Pháp, chữ Quốc Ngữ phải trải qua một thời gian trên hai thế kỷ rưỡi để hoàn thiện cấu trúc tự dạng.
C. Kết Luận
Do các Linh mục dùng chữ Quốc ngữ, để truyền bá đạo Thiên chúa, thực dân Pháp sử dụng chữ Quốc ngữ thành công cụ cai trị. Người miền Nam sống trên dải đất Nam Kỳ tuy mới thành lập, nhưng họ cũng đã chịu nhiều ảnh hưởng của đạo Phật, Khổng hay Lão, lại có cá tính hào hùng, cho nên những người yêu nước, người bình dân chống lại việc học chữ Quốc ngữ nầy, tinh thần ấy được ghi lại trong Ca dao:
Khuyên anh về học lấy chữ Nhu, ( 9 )
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ.
Biết được tiến trình hình thành của chữ Quốc ngữ, chúng ta mới hiểu rằng không phải chỉ có Linh mục Đắc Lộ, là người có công sáng chế ra chữ Quốc ngữ, mà trước đó còn có nhiều người khác, gồm các giáo sĩ Tây phương vàngười Việt Nam.
Phải đợi đến những nhà văn tiền phong như Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh Của, sáng tác văn chương, đẩy mạnh việc truyền bá chữ Quốc ngữ, trong đó Huình Tịnh Của soạn quyển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, in năm 1896. Họ đã là những nhà văn lớn, gây thành những phong trào tiên phong sau nầy về các địa hạt: báo chí, dịch truyện tàu, viết tiểu thuyết và ngay cả phong trào thơ mới cũng bắt đầu từ miền đất Nam Kỳ nầy.
Huỳnh Ái Tông
Memoiry Day 2000
Source : Hậu Giang
*
(1). Chữ Nôm là mượn âm Hán Việt để ghi âm tiếng Việt.
(2). Christofora Borri đến Đàng Trong năm 1618, ông theo Linh mục Buzomi và Pina đến lập cơ sở ở Nước Mặn, ông rời Đàng Trong năm 1621 về Áo Môn, rồi sau đó về Âu Châu.
(3). Borri, Relation della nuova missione delli PP. della Compania di Giesu, al regno della Cocincina, scritta dal Padre Christoforo Borri, Milanese della medesima Compania, Roma, 1631 ( Sự liên hệ về giáo đoàn mới của các linh mục Dòng Tên, ghi bởi linh mục Christoforo Borri người Milan thuộc giáo đoàn nầy).
(4). Võ Long Tê, Lịch sử Văn học công giáo Việt Nam, Tư Duy, Sàigòn 1965 trang 192-193.
(5). Đỗ Quang Chính Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659, Ra Khơi, Sàigòn 1972, trang 92-98.
(6). Sách Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659 đã dẫn trên, trang 100-107
(7). Bento Thiện gọi là 2 vở, đó là 2 tập vở. Xưa kia chuyển vận Âu- Á bằng đường thủy, có lẻ sợ bị nạn đắm tàu, nên sao thêm 1 tập, để gửi 2 chuyến tàu khác nhau, cho nên tuy 2 nhưng chúng chỉ là một, ngày nay cả 2 tập vở ấy, tồn trử tại Văn Khố Dòng Tên ở La Mã.
(8). Sách Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659 đã dẫn trên, trang 108-109 và phụ lục.
(9). Chữ Nhu là âm Hán Việt, âm Nôm đọc là Nho, chỉ cho chữ Hán

Saturday, 20 July 2013

Ai dốt?



Trong bài ChữViệt Gốc Pháp Còn Tồn Tại Đến Ngày Nay, Nguyễn Đức Tuấn có nhận xét như sau:
Số chữ Việt gốc Pháp có hơn trăm và hiện tại vẫn còn được sử dụng ở nhiều nơi, kể cả ở miền Bắc, nơi đả phá việc sử dụng tiếng nước ngoài. Bạn nên biết rằng sau khi Hồ Chí Minh lên nắm chính quyền, việc sử dụng tiếng Anh, tiếng Pháp bị cấm tuyệt đối, thuở ấy, miền Bắc rất cực đoan, những gì thuộc về thực dân đều bị kịch liệt đả phá. Thế nhưng vẫn có nhiều chữ lọt lưới. Lấy ví dụ: PHANH (cái thắng), LốP (vỏ xe), SăM (ruột xe), CUốC (chuyến đi bộ hay xe), Xà CộT (cái bọc đựng đồ phụ tùng), BI đôNG (bình nước), CồN (alcool)..., dân vẫn thản nhiên nói, không những thế, xí nghiệp Nhà nước còn sản xuất SăM, LốP, PHANH... và để nguyên xi các chữ đó trên bao bì.
ông kết luận luôn:
Thì ra có cả một tập thể dốt, thấy đó mà không biết gốc gác.

Thứ nhất, không có chuyện sau khi Hồ Chí Minh lên nắm chính quyền, việc sử dụng tiếng Anh, tiếng Pháp bị cấm tuyệt đối. Có chuyện đại học chỉ dùng tiếng Việt để giảng dạy không dùng tiếng Pháp, nhưng chuyện đó có gì xấu xa? Người Pháp đi rồi, cũng là chuyện tự nhiên nếu tiếng Pháp nhường chỗ cho tiếng Việt trên sách báo, giấy tờ, trong giao thiệp hàng ngày, cần ai phải ra lệnh cấm?

Thứ hai, có thể nghĩ rằng thuở ấy, miền Bắc rất cực đoan, những gì thuộc về thực dân đều bị kịch liệt đả phá. Nhưng từ ngữ gốc Pháp không thuộc về thực dân mà thuộc về từ vựng tiếng Việt. Có nhà ngôn ngữ học đầu ngành (Tập SanNghiên Cứu Văn Sử Địa số 26 (1957:68, Hồng Giao) chủ trương không dùng ghi đông (thay bằng tay lái), juýp (thay bằng váy), phờ-ri-dê (thay bằng uốn tóc)..., nhưng đây thực chất là thanh toán tập quán nói năng của một bộ phận dân cư (nói trắng ra là trí thức cũ), tiến đến thống nhất ngôn ngữ (thống nhất ý thức là chuyện sẽ bàn sau) không phải là chống những gì thuộc về thực dân. Vì vậy mà HồngGiao (1957:68) không thích đui xết, nhưng lại chấp nhận 12 ly bảy (li là một từ gốc Pháp, millimètre), không thích pu-lô-vơ nhưng chấp nhận áo len cộc tay (len cũng là từ gốc Pháp laine).

Hồng Giao (1957:68) không điên cũng không dốt. Ông không đả phá từ gốc Pháp. Ông đánh từ ngữ (gốc Pháp hay gốc gì cũng thế) của ai đó (trí thức cũ), nhưng ông ủng hộ từ ngữ (gốc Pháp hay gốc gì cũng thế) của chính ông (và các đồng chí của ông). Bởi vậy mới có chuyện giữ lại PHANH (cái thắng), LốP (vỏ xe), SăM (ruột xe), CUốC (chuyến đi bộ hay xe), Xà CộT (cái bọc đựng đồ phụ tùng), BI đôNG (bình nước), CồN (alcool)... Nhưng không phải các từ ngữ đó lọt lướicả một tập thể dốt, thấy đó mà không biết gốc gác. 

Friday, 19 July 2013

Cam Ranh xưa và nay (Nguyễn Man Nhiên)

Cam Ranh xưa và nay
Nguyễn Man Nhiên
CAM RANH QUA NHỮNG THỜI KỲ LỊCH SỬ
Từ năm 1653 - khi chúa Nguyễn Phúc Tần lập đơn vị hành chính dinh Thái Khang trên vùng đất nay là tỉnh Khánh Hòa - đến đầu thế kỷ XX, Cam Ranh là một phần đất của huyện Vĩnh Xương, phủ Diên Khánh (sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn chép địa giới của huyện Vĩnh Xương như sau: phía đông giáp biển, phía tây giáp động Mán, phía nam giáp đạo Ninh Thuận, phía bắc giáp huyện Phước Điền).
Những phát hiện khảo cổ học gần đây đã khẳng định vùng đất này từ hàng ngàn năm trước đã có con người sinh sống. Năm 1979, di chỉ khảo cổ học Xóm Cồn bên bờ vịnh Cam Ranh (thuộc phường Cam Linh, thị xã Cam Ranh) đã được phát hiện và sau đó được khai quật hai lần vào các năm 1980 và 1992. Hiện vật thu được trong các hố khai quật rất phong phú với các công cụ đá (rìu, bôn, công cụ chặt, bàn mài, hòn kê, hòn ghè, mũi khoan), rất nhiều đồ gốm, các loại xương thú, vỏ các loại nhuyễn thể biển ken dày giữa các tầng văn hóa. Năm 1990, trên các địa điểm thuộc đảo Bình Ba và Bình Hưng trong vịnh Cam Ranh, các nhà khoa học cũng đã tiến hành khai quật với quy mô lớn, kết quả thu được gồm nhiều loại rìu đá, đồ gốm, đồ trang sức bằng lõi ốc… Trên cơ sở đó, các nhà khoa học đã xác lập được một văn hóa khảo cổ mang tên địa điểm đầu tiên được phát hiện: văn hóa Xóm Cồn, có niên đại 4140 ± 80 năm cách ngày nay. Văn hóa Xóm Cồn không thuộc hệ thống văn hóa Sa Huỳnh, song chắc chắn có nhiều đóng góp vào sự hình thành văn hóa Sa Huỳnh sau này.

Di chỉ khảo cổ học Hòa Diêm (xã Cam Thịnh Đông, Cam Ranh) - cách di chỉ Xóm Cồn khoảng 5km về phía Nam - được khai quật lần đầu tiên vào tháng 4-1998, và sau đó lần thứ hai vào tháng 4-2002. Hàng chục mộ chum, hàng ngàn tiêu bản gốm cùng nhiều di vật bằng đá, đồng, sắt, thủy tinh, mã não… có niên đại từ 2000 - 2500 năm cách ngày nay đã được tìm thấy. Kết quả thu được tại Hòa Diêm cho thấy đây là một di chỉ cư trú xen lẫn mộ táng. Những đặc điểm về di vật ở đây phản ánh sự tiếp nối văn hóa với một số truyền thống từ Xóm Cồn trong sự phát triển lên giai đoạn Sa Huỳnh sau này ở Khánh Hòa.

Di chỉ khảo cổ học Văn Tứ Đông (xã Cam Hòa, Cam Ranh), cách Nha Trang 30km về phía Bắc và cách thị xã Cam Ranh 30km về phía Nam, thuộc loại hình di tích cồn sò điệp hay “đống rác bếp” (kjikkenmodding) lần đầu tiên được phát hiện và khai quật tại Khánh Hòa (tháng 7-2006). Toàn bộ di chỉ được bao bọc bởi một khe suối cổ được gọi là suối Bến Cọp. Địa tầng di chỉ Văn Tứ Đông có cấu trúc chủ yếu là vỏ sò điệp ken dày do người cổ thải ra sau khi bắt về ăn. Trong 2 hố khai quật có địa tầng sâu trung bình 120 cm với tổng diện tích 75m2 của đợt khảo sát này đã thu được 261 hiện vật (gồm 151 đồ đá, 84 mũi tên bằng xương và 26 đồ gốm), hàng vạn mảnh gốm, nhiều xương động vật, 4 vết tích bếp lửa và 1 hố đất đen. Di tích Văn Tứ Đông là một làng chài cổ ven biển có niên đại vào khoảng 3.000 - 3.500 năm trước.
Trong Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thưtập bản đồ đường xá Việt Nam do nho sinh trúng thức họ Đỗ Bá tự Công Đạo soạn vào khoảng nửa cuối thế kỷ XVII, đã thấy có tên Cam Ranh môn (cửa biển Cam Ranh). Trong một bản đồ khác cũng có niên đại cuối thế kỷ XVII mang tên Giáp Ngọ niên bình Nam đồ của Đoan Quận công Bùi Thế Đạt cũng thấy chép địa danh Cam Linh môn (cửa biển Cam Ranh) và còn ghi chú: Cam Linh môn thâm đại (cửa biển Cam Ranh rất sâu). Đây có lẽ là những tài liệu sớm nhất của người Việt ghi  chép về địa danh này.
Về mặt ngôn ngữ, Cam Ranh  (tên Nôm) chắc chắn có trước Cam Linh (tên Hán-Việt). Dưới thời phong kiến, khi hệ thống làng Việt đã hình thành và tương đối ổn định, các tên Nôm làng xã đã được Hán hóa để tạo ra một lớp địa danh Hán-Việt tiện lợi cho việc khai báo, ghi chép vào sổ bộ phục vụ yêu cầu quản lý của chính quyền các cấp. Trong mối tương quan giữa các địa danh thuần Việt và địa danh Hán-Việt, ta thường thấy có sự chuyển đổi giữa cặp phụ âm đầu l, chẳng hạn: Nha Ru / Nha Lỗ (tên cổ của huyện Ninh Hòa); Phan Rang / Phan Lang… Từ đó có thể thấy tênCam Linh là kết quả của sự Hán hóa Cam Ranh theo  cách:
- Cam ---> Cam (một yếu tố của tên Nôm được chuyển sang Hán-Việt bằng cách dùng một ký hiệu Hán đồng âm nhưng không đồng nghĩa)
- Ranh ---> Linh (một yếu tố của tên Nôm được phiên âm Hán-Việt bằng một ký hiệu Hán tương ứng).
Đến nay chúng ta vẫn chưa biết rõ nguồn gốc và ý nghĩa của địa danhCam Ranh hoặc Cam Linh, ngoại trừ những lý giải mang tính “từ nguyên học dung tục” rất võ đoán và khó kiểm chứng, như thuyết cho rằng tên Cam Linh là do chúa Nguyễn Ánh đặt cho vùng đất này với ý nghĩa là “vùng đất ngọt linh thiêng” - từ sự việc thủy quân Nguyễn đổ bộ lên bán đảo Cam Ranh tìm nước ngọt và phát hiện ra hồ nước trên núi Phượng Hoàng (?). 
Một tài liệu khác có thể cho ta biết tường tận xã hội Đàng Trong vào đầu thế kỉ XVIII là sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn (viết năm 1776 khi ông trấn nhậm hai đạo Thuận - Quảng). Qua sự ghi chép tỉ mỉ của tác giả, chúng ta biết được tuần Cam Ranh (thuộc phủ Diên Khánh) tiền thuế là 105 quan 3 tiền, một mức thuế khá cao so với nhiều cửa biển lân cận, cho thấy quy mô giao thông, buôn bán, khai thác thủy sản ở cửa biển Cam Ranh vào thời đó đã khá tấp nập, sầm uất.
Trong các bài vè các lái kể lại thủy trình của những người đi buôn hoặc chuyên chở hàng hóa bằng ghe bầu trên tuyến đường biển Bắc-Nam vào các thế kỷ trước cũng thấy nhắc đến địa danh Cam Ranh hoặc Cam Linh, chẳng hạn như đoạn sau đây:
“… Ngó mù mù Hòn Nồm chỗ đó
Qua Hòn Nồm mới tỏ Cam Ranh
Vũng Găng đá vách như thành
Vũng Găng đá vách xung quanh như buồm …”
Hoặc:
“… Nhìn ra Nội, Ngoại sóng xao
Vát mũi chạy vào Bãi Dài, Con Nghê
Chụt đèn ngó xuống chỉnh ghê
Ngó về Hòn Tý dựa kề Cam Linh
Mò O, Dỏ Tó rất xinh
Lại thêm Đá Vách dựa kề Vũng Găng
Vũng Găng Đá Vách tựa thành
Hai bên núi tấn vây quanh như buồng…”
Sách Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn (được xem là tài liệu địa dư quan trọng nhất của nước ta ở thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX) cung cấp nhiều dữ kiện về địa lý tự nhiên của vùng đất Cam Ranh:
1. Về núi non, có:
Núi Yên Đỗ: ở phía nam huyện Vĩnh Xương 50 dặm, phía tây liền với thôn Diêm Nại, bắc tiếp trạm Hòa Du (ở thôn Thủy Triều, huyện Vĩnh Xương, nay thuộc địa bàn xã Cam Hải Đông, thị xã Cam Ranh - NVT), đông gối bờ biển, tả hữu có gò cát. Thế núi rộng lớn, đỉnh đồi trùng điệp, rất nhiều hòn nhỏ, duy lấy ngọn núi này làm chủ.
Núi Hòa Quân: ở phía nam huyện Vĩnh Xương 91 dặm, phía đông sông Tam Độc (Ba Ngòi), làm trấn cho cửa tấn Cam Ranh.
Núi Lữ: ở phía nam huyện Vĩnh Xương 115 dặm. Thế núi sừng sộ cao lớn, phía tây có các dẫy núi liên tiếp, đều là chỗ mán lèo cư trú, phía đông gần đường trạm.
Núi Hiệp Mỹ: ở phía tây nam huyện Vĩnh Xương 111 dặm. Trước kia tên là núi An Mỹ, năm Tự Đức thứ 5 (1852) đổi lại tên này, vì giới hạn của núi ở giữa 2 hộ Khánh Hiệp và Khánh Mỹ. Thế núi quanh co, đi xuống đông chia làm núi Phong Lãnh và núi Hòa Quân, gối trên cửa biển lớn Cam Ranh. Có bãi cát kéo dài vài mươi dặm.
Núi Thạnh Đức (hiện nay có tên là núi Phượng Hoàng - NVT): ở phía đông nam huyện Vĩnh Xương 88 dặm. Trước kia tên là núi Đông An, năm Tự Đức thứ 15 (1862) đổi lại tên này. Mạch núi từ núi Hoàng Ngưu (Đồng Bò) trải qua một dãy bãi cát, nối liền bờ biển rồi chạy xiên về phía nam, đột khởi lên một ngọn núi cao che kín cửa biển Cam Ranh. Quanh núi bày ra những động cát trùng điệp, có một cái hồ ở dưới chân núi, nước rất trong mà phẳng lặng tục danh là Ao Tương (nay gọi là Ao Hồ - NVT). Phía tây núi này nứt ra một núi nhỏ che cửa biển gọi là Hòn Lang, phia nam nứt ra một núi nhỏ che cửa biển gọi là Hòn Tranh, ở đây có dân cư, phía đông nam cũng nứt ra một núi gọi là Hòn Khô, ở phía bắc có Cửa Bé, ngoài cửa biển ấy có các đảo nhỏ là Hòn Nội, Hòn Ngoại.
Núi Phong Lãnh: ở phía đông nam huyện Vĩnh Xương 163 dặm, giáp giới huyện An Phước đạo Ninh Thuận. Phía đông gối bãi cát, có đầm Vũng Găng, phía nam tiếp giáp mỏ cát đảo Hòn Tai.
2. Về sông ngòi, có:
Sông Tam Độc (tức Ba Ngòi): ở phía nam huyện Vĩnh Xương 85 dặm. Phát nguyên từ trong các động Mán Bồng Lam, Bạch Cân, chảy xuống đông nam chia làm 3 chi: một chi theo thôn Thượng Nguyên  chảy xuống đông nam 11 dặm; một chi theo thôn Diêm Nại chảy xuống đông nam 4 dặm; một chi theo thôn Nhược Đỗ chảy xuống đông nam 4 dặm, rồi có Khe Dầu từ thôn Hiệp Mỹ đến nhập lại, chảy ra đầm Thủy Triều, chuyển qua hướng đông chảy đến thôn Thạnh Đức phóng ra cửa biển Cam Ranh.
3. Về đầm, vịnh, cửa biển, có:
Đầm Thủy Triều: ở phía nam huyện Vĩnh Xương 43 dặm, bốn phía là bãi cát, dồn nước sông Ba Ngòi chảy ra cửa biển Cam Ranh.
Đầm Vũng Găng: ở cực nam huyện Vĩnh Xương, cách huyện 113 dặm, chu vi hơn 20 dặm.
Vịnh Cam Ranh: ở phía đông nam huyện Vĩnh Xương 88 dặm, chu vi 79 dặm. Trong vịnh có đá rạng.
Cửa tấn Cam Ranh: ở phía đông huyện Vĩnh Xương 88 dặm, rộng 400 trượng, sâu 50 trượng. Phía tả có Mũi hòn Lang, phía hữu có Hòn Lang, ngoài có Hòn Tranh, chu vi dài 19 dặm, có dân cư thôn Bình Ba ở đấy. Thuở xưa có đặt 1 chức Thủ ngự và 1 chức Hiệp thủ, sau bãi bỏ.
Đến đầu thế kỷ XIX, Cam Ranh - Ba Ngòi hầu như vẫn còn là một vùng đất hoang vu, hẻo lánh, nơi triều đình đày các tù phạm bị tội lưu đến khai khẩn, làm ruộng. Cho đến cả trăm năm sau đó, dân cư vùng này vẫn còn khá thưa thớt. Rải rác vài thôn làng người Việt ở Hòa Tân, Lập Định, Thủy Triều, Ba Ngòi, Cam Linh, Bình Ba… Ở vùng Ba Ngòi, Đá Bạc trở vào, cư dân chủ yếu là đồng bào dân tộc Raglai vốn là dân bản địa lâu đời, sinh sống chủ yếu dựa vào nương rẫy. Ở Cồn Sung (bán đảo Cam Ranh) và Bãi Lao (bán đảo Mũi Hời) có độ vài nhóm người Đàng Hạ. Cả một vùng đất rộng lớn phía nam huyện Vĩnh Xương thời đó mà Đại Nam nhất thống chí chỉ ghi nhận có một ngôi chợ nhỏ là chợ Thủy Triều, ở thôn Thủy Triều ven biển.
Mãi đến đầu thế kỷ XX, năm 1901 một người Pháp là hầu tước De Barthelemy đến lập nghiệp ở Cam Ranh. Nhìn thấy triển vọng rực rỡ của vùng vịnh này, ông ta xin cấp nhượng mấy ngàn héc-ta đất để khai khẩn, lập nhà cửa, mở ruộng muối, khuếch trương nghề cá, lại in hình ảnh, bản đồ cửa biển Cam Ranh để quảng cáo ra nước ngoài. Tuy nhiên ý định mở mang Cam Ranh của ông đã thất bại vì không được chính quyền thuộc địa và giới tư bản mẫu quốc ủng hộ.
Tuy vậy, vùng đất Cam Ranh cũng đã có những bước phát triển nhất định để trở thành một đơn vị hành chính độc lập. Dưới thời Duy Tân (1907-1916), chính quyền thực dân cắt một phần đất huyện Vĩnh Xương lập thành tổng Cam Ranh.
Ngày 8/ 6/ 1939 Toàn quyền Đông Dương ra Nghị Định lập Nha Đại lý hành chính Ba Ngòi trực thuộc tỉnh Khánh Hoà.
Dưới thời chính quyền Ngô Đình Diệm, vùng đất này trải qua nhiều lần tách, nhập, đổi tên. Tháng 7/1951 huyện Cam Lâm gọi là Nha kiêm ký Bang tá Cam Lâm, trực thuộc Tòa Tỉnh trưởng Khánh Hòa. Đến tháng 12/1954 Nha Bang tá Cam Lâm đổi là Nha Đại diện hành chánh Cam Lâm.
Ngày 17/5/1958 Nghị định số 216-BNV/NĐ giải thể Nha Đại diện hành chánh Suối Dầu, sáp nhập vào địa hạt Cam Lâm lập thành một quận mới gọi là quận Cam Lâm, gồm cả vùng bán đảo Cam Ranh và vịnh Cam Ranh.
Ngày 6/ 4/ 1960 sắc lệnh số 84-BNV tách các xã Cam Thọ, Cam Ly, 2 thôn Ma Dú và Sông Cạn (xã Cam Lục), thôn Trại Láng (xã Cam Lương) và một phần đất thôn Hòa Diêm (xã Cam Lộc) thuộc quận Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa sáp nhập vào quận Du Long thuộc tỉnh Ninh Thuận.
Tháng 10/ 1965, theo sắc lệnh số 209-NV, lấy 8 xã của quận Cam Lâm là Suối Vĩnh, Suối Hòa, Suối Hải, Cam Phúc, Cam Ranh, Cam Bình, Cam Linh, Cam Lộc, thêm núi Hòn Rồng thuộc ấp Văn Thủy Hạ (xã Cam Phú) giáp đường xe lửa xuyên Việt, cùng các phần đất đã sáp nhập vào quận Du Long (tỉnh Ninh Thuận) trước đó là các thôn Hoà Diêm, Trại Láng, Ma Dú, Sông Cạn, Mỹ Thạnh thành lập thị xã Cam Ranh. Quận lỵ Cam Lâm dời tới Suối Dầu.
Nghị định số 620 BNV/NC/NĐ ngày 6-7-1966 đổi các  thuộc thị xã Cam Ranh thành khu phố.
Sắc lệnh số 17-SL/NV ngày 20-2-1968 lấy thêm xã Cam Sơn và một phần xã Cam Phú, Cam Thượng của quận Cam Lâm sáp nhập vào thị xã Cam Ranh.
Đến Nghị định số 1048-NĐ/NV ngày 7-11-1970, thị xã Cam Ranh chia thành 2 quận là quận Bắc và quận Nam. Quận Bắc gồm các khu phố: Suối Hoà, Suối Vĩnh, Suối Hải, Suối Cam; quận Nam gồm các khu phố: Cam Phúc, Cam Bình, Cam Ranh, Cam Phú, Cam Lộc, Cam Sơn, Cam Thịnh.
Dưới chính quyền cách mạng, địa giới hành chính huyện Cam Ranh cũng nhiều lần thay đổi. Tháng 6/ 1946 ở đồng bằng Ninh Thuận thành lập 6 khu hành chính, trong đó khu 6 là Ba Ngòi (Cam Ranh). Tháng 2/ 1947 đổi khu 6 thành vùng 6. Tháng 8/ 1948 vùng 6 được bàn giao cho tỉnh Khánh Hòa. Cuối năm 1949, nhập tổng Hòa Tân vào huyện Ba Ngòi. Đầu năm 1951 tách huyện Ba Ngòi thành hai khu: khu đặc biệt Cam Ranh và huyện miền núi Khánh Sơn.
Ngày 29-10-1975, theo Quyết định của Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa được hợp nhất thành một tỉnh mới lấy tên là tỉnh Phú Khánh, Cam Ranh là một huyện của tỉnh.
Quyết định số 49-CP ngày 10-3-1977 nhập 2 đơn vị hành chính Cam Ranh và Khánh Sơn thành một huyện mới lấy tên là huyện Cam Ranh. Đến quyết định số 268-CP ngày 23-10-1978 thành lập thị trấn Ba Ngòi.
Quyết định số 100-HĐBT ngày 30-9-1981 chia xã Cam Thành thành 2 xã Cam Thành Bắc và Cam Thành Nam; chia xã Cam Phúc thành 2 xã Cam Phúc Bắc và Cam Phúc Nam.
Đến Quyết định số 189-HĐBT ngày 27-6-1985 huyện Cam Ranh lại tách thành 2 huyện: huyện Cam Ranh và huyện miền núi Khánh Sơn. Huyện Cam Ranh gồm thị trấn Ba Ngòi và 16 xã có tên bắt đầu bằng chữ Cam.
Ngày 1-7-1989, Nghị quyết kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa 8 nước CHXHCN Việt Nam đã quyết định chia tỉnh Phú Khánh thành 2 tỉnh mới là tỉnh Phú Yên và tỉnh Khánh Hòa. Huyện Cam ranh thuộc tỉnh Khánh Hòa.
Ngày 07-7-2000, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị Định số 21/2000/NĐ-CP thành lập thị xã Cam Ranh và các phường thuộc thị xã.
Địa giới hành chính thị xã Cam Ranh hiện nay: phía bắc giáp huyện Diên Khánh và thành phố Nha Trang, phía tây giáp huyện miền núi Khánh Sơn, phía nam giáp huyện Ninh Hải thuộc tỉnh Ninh Thuận, phía đông giáp biển Đông và huyện đảo Trường Sa. Diện tích tự nhiên: 690 km2, dân số: 209.000 người (năm 2002), gồm 9 phường và 18 xã. 9 phường nội thị là: Ba Ngòi, Cam Lộc, Cam Lợi, Cam Linh, Cam Thuận, Cam Phú, Cam Phúc Nam, Cam Phúc Bắc, Cam Nghĩa. 18 xã ngoại thị là: Cam Tân, Sơn Tân, Cam Hòa, Cam Hải Đông, Cam Hải Tây, Cam Hiệp Bắc, Cam Hiệp Nam, Cam An Bắc, Cam An Nam, Cam Thành Bắc, Cam Thành Nam, Cam Phước Đông, Cam Phước Tây, Cam Thịnh Đông, Cam Thịnh Tây, Cam Đức, Cam Bình, Cam Lập.

CAM RANH - NHỮNG SỰ KIỆN LỊCH SỬ
Cam Ranh gồm có hai phần: phần đất liền và phần bán đảo. Bên ngoài bán đảo Cam Ranh là vịnh Cam Ranh sâu, rộng, từ xa xưa đã nổi tiếng là nơi trú đậu an toàn, tránh gió bão cho các loại tàu bè, một trong số rất ít cảng biển tự nhiên tốt nhất thế giới, đồng thời cũng có vị trí rất quan trọng về mặt quân sự. Nhiều nhà chiến lược phương Tây đã đánh giá Cam Ranh là một “pháo đài tự nhiên lý tưởng”, “một đồn phòng vệ của Thái Bình Dương”...
Vì vậy, ngay sau khi đánh chiếm Khánh Hòa (1886), thực dân Pháp đã chiếm đóng Cam Ranh và biến vùng đất này thành một đồn binh, một căn cứ hải quân cho các lực lượng của họ ở Đông Dương.
Đầu thế kỷ XX, vịnh Cam Ranh nổi tiếng do sự kiện hạm đội Baltic, tức hạm đội Thái Bình Dương II của Nga hoàng, gồm 45 chiến hạm và nhiều tàu tiếp viện dưới quyền chỉ huy của đề đốc Rozhestvensky, đã ghé vào tạm trú trước trận hải chiến ở eo biển Đối Mã (Tsushima) trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật. Trong thời gian hạm đội lưu lại Cam Ranh (tháng 4-1905), ba nhà chí sĩ yêu nước đất Quảng Nam là Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng, trên đường “Nam du” đi qua Khánh Hòa, đã ghé vào vịnh Cam Ranh xem tàu chiến. Cuộc tham quan tận mắt hạm đội khổng lồ của người Nga - một cường quốc Châu Âu thời đó - có thể đã gây những suy tư trong chí hướng cứu nước của các cụ.
Trước cuộc đại chiến thế giới thứ nhất, năm 1911, Pháp quyết định xây dựng Cam Ranh thành một quân cảng để củng cố sự hiện diện của họ ở Nam Thái Bình Dương. Tuy nhiên, việc đầu tư xây dựng Cam Ranh thành một quân cảng chưa có gì đáng kể.
Cho đến giữa năm 1939, thực dân Pháp mới thực sự xây dựng Cam Ranh thành một căn cứ hải quân lớn trong kế hoạch “phòng thủ chung” ở Đông Dương hòng đối phó trong cuộc đại chiến thứ hai sắp xảy ra.
Nhưng từ tháng 7-1940, Nhật đã ép Pháp để Nhật cùng “phòng thủ Đông Dương” và ngày 15-9-1940, Nhật gửi tối hậu thư đòi kiểm soát các căn cứ hải quân, trong đó có cảng và vịnh Cam Ranh. Trên thực tế, đến năm 1942, phát xít Nhật đã độc chiếm cảng và vùng vịnh đồng thời xây dựng thêm sân bay làm bàn đạp để tiến đánh các thuộc địa của Anh, Mỹ ở Thái Bình Dương cho đến năm 1945.
Năm 1946 thực dân Pháp lại tiếp tục gây chiến tranh xâm lược đất nước ta. Cao ủy Pháp lúc đó là D’Argenlieu, với cái nhìn chiến lược của một đô đốc hải quân, sau khi chiếm được Sài Gòn đã nhanh chóng cho quân ra chiếm Cam Ranh.
Ngày 18/10/1946, trên chiếc thiết giáp hạm Suffren neo ngoài khơi vịnh Cam Ranh, đã diễn ra cuộc hội kiến giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh (đang trên đường từ Pháp trở về nước sau khi dự cuộc đàm phán Fontainbleu) và Cao ủy Pháp D’Argenlieu, trở thành một cột mốc lịch sử trên con đường thương thuyết hòa bình của Hồ Chủ tịch nhằm gìn giữ nền độc lập thống nhất Tổ quốc. Về sự kiện lịch sử này, báo chí  đương thời đã đưa tin bằng những đầu đề lớn, như báo Le Monde (Thế giới) của Pháp số ra ngày 21/10/ 946 đăng bài có nhan đề “Sur l’entre vue de Cam Ranh” (Cuộc gặp gỡ Cam Ranh).
Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Cam Ranh là một trong những vị trí bị quân đội Hoa Kỳ xâm chiếm đầu tiên. Từ năm 1965 đến 1972, Mỹ đã xây dựng Cam Ranh thành một căn cứ quân sự  được bảo vệ “bất khả xâm phạm” để làm căn cứ tiếp liệu và khí tài quân sự cho chiến tranh, đồng thời khống chế hành lang phía tây Thái Bình Dương. Ngày 10-6-1965, Lữ đoàn 106 gồm 4.000 công binh Mỹ đến Cam Ranh xây dựng căn cứ quân sự. Tháng 8-1965, 4.000 lính Mỹ thuộc Lữ đoàn 1 Sư đoàn dù 101 đến Cam Ranh. Tháng 10-1965, Trung đoàn 30 Sư đoàn Bạch Mã Nam Triều Tiên đến Cam Ranh. Từ đó, quân Mỹ và chư hầu liên tiếp đổ quân vào Cam Ranh, năm cao nhất (1968) có tới 2 vạn quân Mỹ và 1 vạn quân của các nước chư hầu. Cam Ranh thật sự trở thành một căn cứ quân sự liên hợp hải, lục, không quân và khu hậu cần lớn cho cả chiến trường Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Tại đây chúng đã xây dựng sân bay cấp 1 có thể sử dụng cho các loại máy bay hiện đại và hệ thống đường sá với tổng chiều dài 260km. Vào lúc cao điểm, sân bay quân sự Cam Ranh có tần suất hạ cánh và cất cánh cao nhất thế giới. Tháng 3-1967, Ngụy quyền Sài Gòn đã ký hiệp định bán đứng cho Mỹ vùng bán đảo và vịnh Cam Ranh trong 99 năm và Mỹ đã biến Cam Ranh thành căn cứ hải quân lớn nhất Đông Nam Á.
Tháng 12-1968, Tiểu đoàn Đặc công 407 của Liên khu V đã được điều động về Cam Ranh, chuyên trách đánh căn cứ này. Mở đầu là trận đánh đêm ngày 6 rạng ngày 7-8-1969 tại Lỗ Đất, ta đã tiêu diệt 550 tên, hầu hết là sĩ quan và giặc lái Mỹ, phá hủy 9 kho chứa 350 tấn hàng quân sự, 2 kho xăng 1 triệu lít, 5 xe quân sự và 25 căn trại. Ngày 18-7-1971, ta tấn công kho xăng Quảng Cơ, đốt cháy 45 triệu lít xăng, diệt 30 tên Mỹ. Ngày 21-9-1971, tấn công kho bom Núi Ké, diệt 55 tên Mỹ, phá hủy 32 kho đạn gồm 55 vạn tấn, trong đó có 1 kho bom loại 7 tấn, 1 hầm tên lửa, 12 xe quân sự, 55 dàn tên lửa bảo vệ căn cứ. Đêm 8-4-1972, tập kích kho Suối Mốc, phá hủy hơn 35.000 tấn bom đạn, diệt 300 quân Mỹ. Đêm 11-6-1972, đánh kho xăng Ô Vũ, thiêu hủy 20 triệu lít xăng. Đêm 5-8-1972, diệt 200 quân ngụy, phá hủy 14 căn trại lính… Trong chiến dịch mùa xuân 1975, ngày 3-4-1975, Sư đoàn 10 tiến vào giải phóng Cam Ranh và tổ chức tiếp quản toàn bộ khu vực Cảng. Cam Ranh trở thành một bàn đạp chiến lược, căn cứ hậu cần của ta phục vụ cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Ngày 2-4-1975, quân dân ta giải phóng thành phố Nha Trang, ngày 3-4-1975 giải phóng cảng Cam Ranh và ngày 29-4-1975 giải phóng quần đảo Trường Sa.
Sau năm 1975, Cam Ranh được tổ chức lại là đơn vị hành chính cấp huyện, đến năm 2000  thị xã Cam Ranh được thành lập trên cơ sở thị trấn Ba Ngòi.
Năm 1978, Liên Xô thuê lại căn cứ Cam Ranh trong vòng 25 năm (đến 2004) nhưng đã kết thúc hợp đồng trước 2 năm. Ngày 2-5-2002, theo thỏa thuận giữa Việt Nam và Liên bang Nga, Cảng Cam Ranh đã được bàn giao lại cho ta.
Cam Ranh như một bán đảo giàu tiềm năng đã ngủ vùi khá lâu, từ sau thời điểm trở thành thị xã đã mở cửa để phát triển kinh tế, đặc biệt là du lịch. Việc sử dụng sân bay Cam Ranh vào khai thác thương mại (5-2004) cùng với việc nâng cấp hệ thống cảng biển, hệ thống giao thông đường bộ (Đại lộ Nguyễn Tất Thành nối từ sân bay Cam Ranh đến TP. Nha Trang chỉ 30 km), sẽ là cầu nối giao thông quốc tế thuận lợi, góp phần tạo ưu thế trong việc cải thiện môi trường đầu tư, thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Xây dựng khu vực Bắc bán đảo Cam Ranh (Bãi Dài) thành trung tâm du lịch dịch vụ, xây dựng vịnh Cam Ranh thành khu kinh tế tổng hợp đa ngành: thương mại, công nghiệp, du lịch vv… Những chính sách mới được ban hành cho phép chúng ta tin vào một tương lai phát triển tốt đẹp của Cam Ranh.
Nguyễn Man Nhiên

Thursday, 18 July 2013

GS. TS. Lưu Vân Lăng (1928-1997) - Viện Ngôn Ngữ Học

Cập nhật: 3/4/2013 - 12:17:32 AM
                                 GS. TS. Lưu Vân Lăng
                                                     (Nguyễn Danh Khuê)
                                                              (1928-1997)
                                           Bút danh: Lưu Vân Lăng, Vân Lăng
                                           Sinh năm: 1928, tại Nghệ An
                                           Công tác tại Viện Ngôn ngữ học từ 1964 đến 1997
         GS.TS Lưu Vân Lăng tên thật là Nguyễn Danh Khuê, sinh ngày 5 tháng 1 năm 1928 tại xã Yên Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.
Trong cuộc đời hoạt động khoa học của mình, GS TS Lưu Vân Lăng đã:
- Là một trong những người khởi đầu việc xây dựng ngành nga ngữ học ở nước ta.
- Là một trong các tác giả đầu tiên viết giáo trình ngôn ngữ học ở bậc đại học.
- Là một trong các tác giả các công trình về thuật ngữ.
- Là người đã dành tâm huyết cho việc nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt theo quan điểm "tầng bậc có hạt nhân".
          Các công trình khoa học đã công bố:
1. Tự học tiếng Nga / Lưu Vân Lăng. - H. : Hội Việt Xô hữu nghị, 1955. - 106tr. T. 1
2. Tự học tiếng Nga / Lưu Vân Lăng. - H. : Hội Việt-Xô hữu nghị, 1955. - 104tr. T. 2
3. Nga văn-để nghiên cứu khoa học / Lưu Vân Lăng. - H. : ĐHTH, 1956. - 156tr.
4. Nghiên cứu hình thái học tiếng Nga / Lưu Vân Lăng. - H. : ĐHTH Hà Nội, 1956. - 160tr.
5. Tự học tiếng Nga / Lưu Vân Lăng. - H. : Hội Việt-Xô hữu nghị, 1956. - 144tr. T. 3
6. Nghiên cứu vấn đề Ngôn ngữ thuộc thượng tầng kiến trúc hay không? / Lưu Vân Lăng // Tập san Văn Sử Địa. - 1957. - số 32, tr.: 19-37; 34, tr.: 31-42; 36, tr.: 32-47. - 1958. - số 37, tr.: 64-72; số 38, tr.: 24-33; số 39, tr.: 19-32.
7. Tự học tiếng Nga / Lưu Vân Lăng. - H. : Hội Việt-Xô hữu nghị, 1957. - 176tr. T. 4
8. Khái luận ngôn ngữ học / Lưu Vân Lăng (đồng tác giả). - H. : Giáo dục, 1960. - 285tr ; 20cm.
9. Nghiên cứu các phạm trù nhỏ trong danh từ tiếng Việt : BCKH / Lưu Vân Lăng // HNKH Khoa Ngữ văn ĐHTH Hà Nội. - 1960.
10. Xây dựng ngôn ngữ dân tộc là nhiệm vụ của mọi người / Lưu Vân Lăng // Báo Nhân dân. - 1960.
11. Qui tắc phiên thuật ngữ khoa học nước ngoài ra tiếng Việt / Lưu Vân Lăng (đồng tác giả). - H. : KHXH, 1966. - 16tr.
12. Hệ thống ngữ pháp tiếng Việt trên quan điểm ngữ đoạn tầng lớp : BCKH / Lưu Vân Lăng // Viện Nghiên cứu phương pháp và chương trình. - H.: Bộ Giáo dục, 1968.
13. Về vấn đề dùng thuật ngữ khoa học nước ngoài / Lưu Vân Lăng // Về vấn đề dùng thuật ngữ khoa học nước ngoài. - H. : KHXH, 1968. - tr.: 17-156.
BCKH tại Hội nghị ’Thuật ngữ Khoa học toàn quốc’, H., 1964.
14. Thuật ngữ ngôn ngữ học Nga-Việt / Lưu Vân Lăng trưởng ban hiệu đính. - H. : KHXH, 1969. - 124tr; 19cm.
15. Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt trên quan điểm ngữ đoạn tầng bậc có hạt nhân / Lưu Vân Lăng // Ngôn ngữ. - 1970. - số 3. - tr.: 49-62.
16. Các đơn vị cú pháp / Lưu Vân Lăng // Ngôn ngữ học đại cương. - H. : ĐH và THCN, 1970. - tr.: 11-361.
17. Thuật ngữ âm nhạc / Lưu Vân Lăng, (đồng tác giả). - H. : Văn hoá, 1970.
18. Lí luận ngữ pháp học / Lưu Vân Lăng. - H. : ĐHSP Ngoại ngữ Hà Nội, 1971. - 98tr.
19. Tình hình và xu hướng phát triển thuật ngữ tiếng Việt trong mấy chục năm qua / Vân Lăng, Như Ý // Ngôn ngữ. - 1971. - số 1. - tr.: 44-54.
20. Tiếng là đơn vị cơ sở trong ngữ pháp tiếng Việt : BCKH / Lưu Vân Lăng // Hội nghị Khoa học Viện Ngôn ngữ học. - 1972.
21. Từ tổ hay cụm từ đến không phải là một cấp đơn vị cú pháp : BCKH / Lưu Vân Lăng // Hội nghị Khoa học Viện Ngôn ngữ học. - 1973.
22. Về vấn đề ranh giới từ trong tiếng Việt : BCKH / Lưu Vân Lăng // Hội nghị Khoa học Viện Ngôn ngữ học. - 1974.
23. Một số mâu thuẫn trong quan niệm ’cụm từ là trung tâm của ngữ pháp tiếng Việt’ / Lưu Vân Lăng // Ngôn ngữ. - 1975. - số 1. - tr.: 35-44.
24. Chuẩn hoá và thống nhất thuật ngữ khoa học trong cả nước / Lưu Vân Lăng // Thống nhất đất nước trên cơ sở chủ nghĩa xã hội. T.2. - Tp.HCM : Viện Khoa học xã hội Tp. Hồ Chí Minh, 1976. - tr.: 191-198.
25. Chuyển chữ Nga sang chữ Việt / Lưu Vân Lăng // Tiêu chuẩn nhà nước, TCVN 2243-77. - 1977.
26. Thống nhất quan niệm về tiêu chuẩn của thuật ngữ khoa học / Lưu Vân Lăng // Ngôn ngữ. - 1977. - số 1. - tr.: 1-11.
27. Về vấn đề xây dựng thuật ngữ khoa học / Lưu Vân Lăng // Về vấn đề xây dựng thuật ngữ khoa học. - H. : KHXH, 1977. - tr.: 25-168.
28. Thử đưa lí luận tín hiệu điển hình với nghĩa hạt nhân vào từ điển học : BCKH / Lưu Vân Lăng // Hội nghị Ngôn ngữ học ngành đại học lần thứ nhất. - Tp.HCM, 1978.
Cũng đăng trong ’Một số vấn đề ngôn ngữ học Việt Nam’, H. ĐH và THCN, 1981, tr.: 298-311.
29. Từ và các đơn vị dưới từ trong tiếng Việt : BCKH / Lưu Vân Lăng // Hội nghị Khoa học Viện Ngôn ngữ học. - 1978.
30. Về vấn đề chuẩn hoá chính tả / Lưu Vân Lăng // Ngôn ngữ. - 1979. - số 3-4. - tr.: 180-183.
Tham luận tại Hội nghị ‘Chuẩn hoá chính tả và thuật ngữ khoa học, 1978-1979’.
31. Từ điển thuật ngữ khoa học xã hội Nga-Pháp-Việt / Lưu Vân Lăng hiệu đính. - H. : KHXH, 1979. - 161tr; 19cm.
32. Cần phân biệt ’Hình’ (trong từ vựng) với ’Tiếng’ (trong ngữ pháp) / Lưu Vân Lăng // Ngôn ngữ. - 1980. - số 4. - tr.: 29-33.
33. Một số mâu thuẫn khi xếp các đơn vị ngữ pháp vào các bình diện đối lập nhau : BCKH / Lưu Vân Lăng // Hội nghị Ngữ pháp tiếng Việt. H.: Viện Ngôn ngữ học, 1981.
34. Nhìn lại tình hình nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt trong thời gian qua : BCKH / Lưu Vân Lăng // Hội nghị Ngữ pháp tiếng Việt. H. : Viện Ngôn ngữ học, 1981.
35. Những cơ sở của lí thuyết tầng bậc hạt nhân trong ngôn ngữ : BCKH / Lưu Vân Lăng // Viện Tiếng Tiệp và Trung tâm nghiên cứu các ngôn ngữ nước ngoài thuộc Viện HLKH Tiệp Khắc. - 1981. (Bằng tiếng Pháp).
36. Thử đưa lí thuyết tầng bậc hạt nhân vào việc giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài : BCKH / Lưu Vân Lăng // Kỉ yếu HNKH kỉ niệm 25 năm thành lập trường ĐHTH Hà Nội, Khoa tiếng Việt tổ chức. - 1981. - tr.: 22.
37. Xác định quan niệm từ, ngữ trong tiếng Việt : BCKH / Lưu Vân Lăng // Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ. T.2. - H. : KHXH, 1981. - tr.: 9-15.
38. Về vấn đề dạy tiếng Việt cho học sinh các dân tộc thiểu số : BCKH / Lưu Vân Lăng // Kỉ yếu Hội nghị khoa học về Vấn đề dạy tiếng Việt cho học sinh các dân tộc thiểu số. H. : Bộ Giáo dục, 1982.
39. Đơn vị cú pháp trực tiếp trên từ là ngữ : BCKH / Lưu Vân Lăng // Hội nghị Ngôn ngữ học Xô-Việt. - M. - 1983. (Bằng tiếng Nga).
40. Một số ý kiến về việc giảng dạy ngữ pháp tiếng Việt trong các trường phổ thông : BCKH / Lưu Vân Lăng // HNKH Dạy và học tiếng Việt trong nhà trường. Tp.HCM : ĐHSP Tp. HCM - Sở Giáo dục Tây Ninh, 1983.
41. Vì tương lai con em chúng ta, hãy giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt / Lưu Vân Lăng // Báo Khoa học và đời sống. - 1983.
42. Đối chiếu các ngôn ngữ khác nhau về mặt từ vựng trên quan điểm tín hiệu điển hình : BCKH / Lưu Vân Lăng // Kỉ yếu Hội thảo quốc tế lần thứ IV về vấn đề đối chiếu ngôn ngữ. - Bungari : Xôphia, 1984. - tr.: 103.
43. Vị trí của từ và những đơn vị cấu tạo từ trong hệ thống ngôn ngữ / Lưu Vân Lăng // Ngôn ngữ. - 1984. - số 3. - tr.: 51-59.
44. On multi-strata nuclear grammar / Lưu Vân Lăng // Social Sciences. - 1985. - số 2. - tr.: 78-91.
Cũng đăng trong ‘Sciences sociales’, 1985, s. 2, tr.: 80-94.
Tên bài dịch ra tiếng Việt: Về ngữ pháp tầng bậc hạt nhân.
45. Cú là đơn vị chuyển tiếp từ ngữ sang câu / Lưu Vân Lăng // Ngôn ngữ. - 1985. - số 4. - tr.: 30-32.
46. Con đường xây dựng hệ thống các đơn vị ngữ pháp / Lưu Vân Lăng // Những vấn đề ngôn ngữ về các ngôn ngữ phương Đông. - H. : Viện Ngôn ngữ học, 1986. - tr.: 151-157.
47. Về vấn đề xây dựng thuật ngữ khoa học : Luận án Phó tiến sĩ khoa học ngữ văn / Lưu Vân Lăng. - H. : Viện Ngôn ngữ học, 1987. - 155tr ; 30cm.
48. Những vấn đề ngữ pháp tiếng Việt / Lưu Vân Lăng (chủ biên). - H. : KHXH, 1988. - 184tr ; 19cm.
49. Về nguyên tắc phân định từ loại tiếng Việt / Lưu Vân Lăng // Tiếng Việt và các ngôn ngữ Đông Nam Á. - H. : KHXH, 1988. - tr.: 108-116.
50. The theory of typical sign with nuclear meaning in semantics and lexicography / Lưu Vân Lăng // Social Sciences. - 1989. - số 1-2. - tr.: 44-61.
Tên bài dịch ra tiếng Việt: Lí luận tín hiệu điển hình với nghĩa hạt nhân trong ngữ nghĩa học và từ điển học.
51. Nguyên tắc xếp loại các từ tiếng Việt : BCKH / Lưu Vân Lăng // Hội thảo ngôn ngữ học Xô-Việt "Cái mới trong nghiên cứu tiếng Việt và các ngôn ngữ khác ở Đông Nam Á”. - M. - 1989. - tr.: 67-71. (Bằng tiếng Nga).
52. Trạng ngữ có phải là thành phần ngoài nòng cốt câu hay không? : BCKH / Lưu Vân Lăng // HNKH Ngôn ngữ và đời sống xã hội-văn hoá. - H. : Viện Ngôn ngữ học-Tạp chí Ngôn ngữ, 1990. - tr.: 16.
53. Áp dụng lí thuyết tầng bậc hạt nhân vào việc giảng dạy ngữ pháp ở nhà trường : BCKH / Lưu Vân Lăng // Kỉ yếu HNKH quốc tế ‘Language education: Interaction and development’. - Tp.HCM, ĐHSP Huế và Hội Ngôn ngữ học Việt Nam. - 1991. - tr.: 84.
54. Áp dụng lý luận tín hiệu điển hình với nghĩa hạt nhân vào từ điển tường giải / Lưu Vân Lăng // Ngôn ngữ. - 1991. - số 2. - tr.: 32-39.
55. On the viewpoint regarding functional grammar / Lưu Vân Lăng // Social Sciences. - 1992. - số 3. - tr.: 35-43.
Tên bài dịch ra tiếng Việt: Về một quan điểm ngữ pháp chức năng.
56. Một số ý kiến thêm về vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ : BCKH / Lưu Vân Lăng // Hội thảo về sự La tinh hoá tiếng Việt, Câu lạc bộ Italo-Iberico, 1992.
57. Đọc cuốn ’Tiếng Việt-sơ thảo ngữ pháp chức năng’ của Cao Xuân Hạo / Lưu Vân Lăng // Ngôn ngữ. - 1992. - số 1. - tr.: 57-61.
Cũng đăng trong ’Ngôn ngữ và đời sống’ . H.: Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, 1992, tr.: 67-68.
58. Nguyên tắc xác định hệ thống thành tố cú pháp : BCKH / Lưu Vân Lăng // Hội nghị Khoa học Viện Ngôn ngữ học. - 1992.
59. Về cách viết tên riêng nước ngoài trong Từ điển bách khoa : BCKH / Lưu Vân Lăng // HNKH Trung tâm Quốc gia biên soạn Từ điển bách khoa. - 1992.
60. Lí luận dịch thuật trước hiện tượng di chuyển, đảo thành tố cú pháp : BCKH / Lưu Vân Lăng // HNKH Những vấn đề ngôn ngữ và dịch thuật. - H. : Hội Ngôn ngữ học Việt Nam-ĐHSP Ngoại ngữ Hà Nội, 1993.
61. Những vấn đề ngữ pháp tiếng Việt hiện đại : thành tố cấu tạo câu / Lưu Vân Lăng (chủ biên). - H. : KHXH, 1994. - 210tr ; 19cm.
62. Hệ thống thành tố cú pháp với nòng cốt câu / Lưu Vân Lăng // Ngôn ngữ. - 1995. - số 1. - tr.: 1-10.
63. Không nên nhầm lẫn phần đề là trạng đề với trạng ngữ đảo / Lưu Vân Lăng // Tiếng Việt và việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài. - H. : ĐHQG Hà Nội, 1997. - tr.: 145-151.
64. Một số vấn đề về loại từ trong tiếng Việt / Lưu Vân Lăng // Ngôn ngữ. - 1997. - số 2. - tr.: 23-32.
Cũng đăng trong ‘Loại từ trong các ngôn ngữ ở Việt Nam’. T.1. H.: KHXH, 2000, tr.: 9-31.
65. Ngôn ngữ học và tiếng Việt / Lưu Vân Lăng. - H. : KHXH, 1998. - 464tr ; 20cm.