Saturday, 24 August 2013

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phụ nữ (Hoàng Ngọc Vĩnh - Đại Học Khoa Học Huế)


Trong di sản vô giá tư tưởng Hồ Chí Minh, có một bộ phận quan trọng là tư tưởng của Người về phụ nữ.
Người đã 745 lần Người nhắc đến từ “nữ” trong các tác phẩm của mình, trong đó có 440 lần là “phụ nữ”,  20 lần là “thiếu nữ”, 3 lần là “thanh nữ” và để chỉ “cán bộ phụ nữ”, “vấn đề phụ nữ”, “công tác phụ nữ”... Có 726 lần Người nhắc đến từ “bà” trong các khái niệm “bà cụ”, “cụ bà”, “bà mẹ”, “bà già, trẻ em”, “Bà Trưng”, “Bà Triệu” và bà với tư cách là một nhân vật cụ thể. Có 255 lần Người nhắc đến từ “gái” trong các khái niệm“em gái”, “cháu gái”, “bé gái”, “dân quân gái”, “thanh niên gái”, “ý tá gái”...  Người cũng có 226 nhắc đến từ “mẹ” và 169 lần nhắc đến từ “vợ”... 
Nghĩa là Người đã quan tâm đến phụ nữ ở trên mọi phương diện biểu hiện của khái niệm này. Dù là phương diện nào thì Người đều thông cảm sâu sắc với nỗi thống khổ của phụ nữ, Người đề cao đức hy sinh của họ, tìm cách thức tỉnh và tạo điều kiện để phụ nữ được giải phóng, tham gia cách mạng với tư cách là nửa quan trọng của thế giới.
Cả cuộc đời phấn đấu hy sinh cho dân tộc, giải phóng phụ nữ luôn là khát vọng cháy bỏng trong tâm nguyện của Người. Nhưng muốn được giải phóng, chị em cũng phải đấu tranh, không ngừng học hỏi, đoàn kết, làm trọn nghĩa vụ, trách nhiệm của mình – đó là quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phụ nữ. 
Nhân ngày phụ nữ Việt Nam 20/10, chị em hãy đọc và suy ngẫm về những điều Bác dạy đối với phụ nữ nhé!
PHỤ NỮ[1] 
Việt Nam phụ nữ đời đời
Nhiều người vì nước, vì nòi hy sinh.
Ngàn thu rạng tiếng bà Trưng,
Ra tay cứu nước, cứu dân đến cùng.
Bà Triệu ẩu thật anh hùng,
Cưỡi voi đánh giặc, vẫy vùng bốn phương.
Mấy năm cách mệnh khẩn trương,
Chị em phụ nữ thường thường tham gia.
Mấy phen tranh đấu xông pha,
Lòng vàng gan sắt nào đà kém ai?
Kìa như chị Nguyễn Minh Khai
Bị làm án tử đến hai ba lần.
Bây giờ cơ hội đã gần,
Đánh Tây, đánh Nhật, cứu dân nước nhà.
Chị em cả trẻ đến già
Cùng nhau đoàn kết đặng mà đấu tranh.
Đua nhau vào hội Việt Minh
Trước giúp nước, sau giúp mình mới nên.
Làm cho thiên hạ biết tên
Làm cho rõ mặt cháu Tiên, con Rồng.

Báo Việt Nam độc lập,
số 104, ngày 1-9-1941.

“Dân ta phải mau mau tổ chức lại. Nông dân phải vào "Nông dân Cứu quốc hội". Thanh niên phải vào "Thanh niên Cứu quốc hội". Phụ nữ vào "Phụ nữ Cứu quốc hội". Trẻ con vào "Nhi đồng Cứu quốc hội". Công nhân vào "Công nhân Cứu quốc hội". Binh lính vào "Binh lính Cứu quốc hội". Các bậc phú hào văn sĩ vào "Việt Nam Cứu quốc hội".
Những hội ấy do Việt Nam độc lập đồng minh lãnh đạo. Người có tiền giúp tiền, kẻ có sức giúp sức. Đồng tâm hợp lực. Muôn người một lòng. Nhân cơ hội này mà khôi phục lại Tổ quốc, mà làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập.
Hỡi đồng bào! Cơ hội giải phóng đến rồi, mau mau đoàn kết lại!!!” [2]
Báo Việt Nam độc lập,
số 113, ngày 21-12-1941

THƯ GỬI PHỤ NỮ VIỆT NAM
NHÂN DỊP XUÂN BÍNH TUẤT (1946)
Năm mới Bính Tuất
Phụ nữ đồng bào
Phải gắng làm sao
Gây "Đời sống mới"
Việc thành là bởi
Chúng ta siêng mần
Vậy nên chữ cần
Ta thực hành trước
Lại phải kiệm ước
Bỏ thói xa hoa
Tiền của dư ra
Đem làm việc nghĩa
Thấy của bất nghĩa
Ta chớ tham thàn
Thế tức là liêm
Đã liêm thì khiết
Giữ mình làm việc
Quảng đại công bình
Vì nước quên mình
Thế tức là chính
Cần, kiệm, liêm, chính
Giữ được vẹn mười
Tức là những người
Sống "Đời sống mới".
HỒ CHÍ MINH
Báo Tiếng gọi phụ nữ, 
số Xuân Bính Tuất, năm 1946.
Hoàng Ngọc Vĩnh sưu tầm, giới thiệu 


[1] Hồ Chí Minh toàn tập,Tập 3, trang 203
[2] Hồ Chí Minh toàn tập,Tập 3, trang 209

Friday, 23 August 2013

Về lá cờ chiến thắng trên nóc hầm Đờ Cát (Nguyễn Đoàn - Lao Động)

Về lá cờ chiến thắng trên nóc hầm Đờ Cát

Trận Điện Biên Phủ là một chiến thắng vĩ đại, chấn động địa cầu. Việc không có cảnh cắm cờ trên nóc hầm Đờ Cát không hề giảm một chút nào ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn của chiến thắng này.
Đồng chí Hoàng Đăng Vinh được
Bác Hồ gắn huân chương và huy hiệu
sau chiến dịch Điện Biên Phủ. 
Từ một bài báo...

Tôi đọc tạp chí "Lịch sử quân sự" số 5-2001 trang 19 có bài của đại tá Trần Quang Vĩ, viết: "14 giờ chiều ngày 7.5.1954, Đại đội 360 vượt hàng rào bùng nhùng, bất ngờ tiến công cứ điểm 507. Địch chống cự yếu ớt rồi bỏ súng giơ tay hàng. Không đầy 15 phút, cứ điểm 507 đã bị đánh chiếm. Ngay sau đó, đài quan sát trung đoàn báo cáo phát hiện có cờ trắng cả hai bên sông Nậm Rốm. Thời cơ đã đến, Ban chỉ huy trung đoàn hạ quyết tâm phải thừa thắng xông lên, lệnh cho Tiểu đoàn 130 và 154 vượt qua các cứ điểm 508, 509, cầu Mường Thanh tiến thẳng vào sở chỉ huy của Đờ Cát.

Nhận lệnh của trung đoàn, Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật chỉ huy trung đội của Chu Bá Thệ vượt cầu Mường Thanh, mặc cho khẩu đại liên 12 ly 7 của địch đang khạc đạn, tiến thẳng vào hầm Đờ Cát. Lúc đầu có đồng chí Vinh và Nhỏ, sau đồng chí Luật tới thì cả năm người (Luật, Vinh, Nhỏ, Lam, Hiếu) xông vào hầm. Đồng chí Luật nói tiếng Pháp bắt tướng Đờ Cát đầu hàng cùng toàn bộ ban tham mưu của ông ta".

Như vậy không có chuyện cắm cờ trên nóc hầm Đờ Cát như trong phim, ảnh. Sự thực thì khi đó mỗi tiểu đoàn chỉ được phát một lá cờ đỏ sao vàng dưới có thêu chữ "Quyết chiến quyết thắng" và không phải chỉ có Đại đội 360 được giao nhiệm vụ đánh vào sở chỉ huy của địch nên đại đội cũng không có lá cờ nào để cắm trên nóc hầm Đờ Cát lúc đó. Ông Vinh cho biết chưa bao giờ, khi kể chuyện bắt sống Tướng Đờ Cát, lại nói đến việc đã cắm cờ trên nóc hầm chỉ huy. Ông cũng đã báo cáo với Tổng cục Chính trị tháng 5.1984, nói với cán bộ Viện Lịch sử Quân sự VN khi về làm việc năm 1983 và trước Hội nghị các nhà báo họp tại Điện Biên tháng 3.1994 về vấn đề này. Ông nói: Sự việc diễn ra vào lúc 5 giờ chiều, ở miền núi đã hết bóng nắng nên cũng không ai cắm cờ để chụp ảnh. Việc chụp ảnh và quay phim là do nhà điện ảnh Karmen (Liên Xô) phối hợp với điện ảnh ta quay phim. Khi quay, kịch bản có cảnh cắm cờ để làm rõ chủ đề chiến thắng. Ba chiến sĩ được chọn ra để phất cờ và vác súng trên nóc hầm Đờ Cát như lâu nay ta thường thấy trong ảnh không phải là nhóm chiến sĩ của đồng chí Luật mà là các chiến sĩ của Đại đoàn 316 dựng lại giờ phút vinh quang của chiến thắng".

... đến việc cố gắng ghi dấu khoảnh khắc lịch sử
Từ bài báo trên, tôi rất băn khoăn về việc có chuyện cắm cờ trên nóc hầm Đờ Cát hay không? Vì từ năm 1954 đến nay, trong ảnh, tranh, cho đến cả con tem bưu chính và các văn hoá phẩm khác khi nói đến chiến thắng Điện Biên Phủ đều lấy cảnh cắm cờ trên nóc hầm Đờ Cát của Karmen quay làm hình ảnh tiêu biểu. Riêng tem bưu chính phát hành 20 mẫu tem trong 6 đợt về Điện Biên Phủ, thì có đến 9 mẫu tem có vẽ hình ảnh cắm cờ. Để tìm hiểu sâu thêm về vấn đề này, tôi đã đi tìm nhân chứng sống là Tạ Quốc Luật, Đại đội trưởng, Hoàng Đăng Vinh và đồng chí Nhỏ, Đào Văn Hiếu và đồng chí Lam ở Đại đội 360, Tiểu đoàn 130, Trung đoàn 209, Đại đoàn 312 hồi ấy thì được biết nay đồng chí Nhỏ và đồng chí Luật đã mất, đồng chí Lam từ khi vào chiến trường miền Nam không rõ nay ở đâu, chỉ còn xác định được địa chỉ của đồng chí Đào Văn Hiếu ở Ngọc Hưng - Nga Sơn - Thanh Hoá, Hoàng Đăng Vinh nay là Chủ tịch Hội Cựu chiến binh thị xã Bắc Ninh. Tôi đến gặp ông Vinh và được ông Vinh kể lại toàn bộ diễn biến trận đánh và khẳng định: "Không có chuyện cắm cờ trên nóc hầm Đờ Cát vì thứ nhất tiểu đội chúng tôi không mang theo cờ, đại đội của tôi cũng không mang theo cờ, thứ hai là lúc đó đã chiều rồi, cả khu trung tâm đó không có một nhà nào, toàn giao thông hào, tù binh đã được áp giải ra hết và đơn vị chúng tôi cũng rút ra theo".

Như vậy, giờ phút cuối cùng của cuộc chiến này, bộ đội ta chỉ xông vào hầm sở chỉ huy của địch bắt sống Đờ Cát và toàn bộ đội ngũ sĩ quan của ông ra rồi áp giải đi, không có chuyện các chiến sĩ xông lên phất cờ trên nắp hầm Đờ Cát, mà đó là cảnh nhà quay phim Karmen dựng thêm khi quay phim.
Nguyễn Đoàn

Sài Gòn biến đổi và hình thành một thành phố theo kiểu phương Tây


Sài Gòn biến đổi và hình thành một thành phố theo kiểu phương Tây
Ngay sau chiếm được thành Gia Định, trên nền binh đao khói lửa vừa tàn phá "của tiền tan bọt nước""tranh ngói nhuốm màu mây", thực dân Pháp đã tính ngay kế sách cắm chốt lâu dài ở đây, muốn lấy đây là bàn đạp, thôn tính Nam Bộ, cướp nước ta. Chúng bắt tay ngay vào xây dựng Sài Gòn như một trung tâm của ba tỉnh miền Đông. Và chừng năm năm sau đó là thủ phủ của cả Nam Kỳ lục tỉnh.
Sài Gòn đổi thay mau chóng trở thành "Hòn ngọc Viễn Đông", cũng mau chóng trở thành cái vòi bạch tuộc của thực dân Pháp vơ vét tài nguyên, sản vật của Việt Nam. Và cũng sớm trở thành một trung tâm bị bóc lột, đầu độc và sa đọa.
Sài Gòn - Những năm đầu thời Pháp chiếm đóng 
- Sài Gòn với những biến đổi 
Sài Gòn là một thành phố nhỏ tọa lạc tại khu vực giới hạn bởi sông Sài Gòn (phía Đông), rạch Thị Nghè (phía Bắc), rạch Bến Nghé (phía Nam). Cư dân sinh sống ở đây ước tính khoảng 100.000 người, phần lớn tập trung tại Sài Gòn và Chợ Lớn. Cho đến năm 1859, Sài Gòn vẫn còn là một trung tâm hành chính quân sự. Các công trình xây dựng lớn chủ yếu phục vụ cho chức năng cai trị và phòng thủ, hoàn toàn chưa có những tiện nghi công cộng, các cơ sở hạ tầng thiết yếu cho một thành phố thương mại, thành phố cảng.

Nhằm thực hiện mưu đồ chiếm đóng toàn bộ lãnh thổ nước ta, tiến tới việc xác lập khu vực ảnh hưởng của đế quốc Pháp tại Viễn Đông, triều đình Paris, đặc biệt là các Đô đốc trực tiếp cai trị tại Nam Kỳ, đã gấp rút xúc tiến việc qui hoạch xây dựng Sài Gòn thành một đô thị lớn nhiều chức năng (hành chính, quân sự, kinh tế, cảng v.v...) với dân số dự kiến lên đến trên nửa triệu người. Mục đích chính của những nổ lực nhằm sớm biến Sài Gòn thành một thành phố sầm uất, ngoài những yêu cầu về lãnh thổ, yêu cầu cạnh tranh ảnh hưởng với các thế lực đế quốc khác ở Viễn Đông, người Pháp còn muốn nhanh chóng khai thác Nam Kỳ, mà các chuyên gia Pháp đã nhìn thấy ở đó tiềm lực kinh tế to lớn. Nguồn lợi kinh tế do Nam Kỳ mang lại sẽ gánh bớt một phần chi phí chiếm đóng Việt Nam, mối băn khoăn của triều đình Napoléon III ngay từ những toan tính ban đầu.

Năm 1862, Dự án thiết kế thành phố Sài Gòn của Coffyn được phê duyệt bao gồm cả vùng Chợ Lớn. Đến năm 1864, do diện tích dự kiến của thành phố quá rộng, đặc biệt tình hình trị an đòi hỏi phải thu hẹp phạm vi thành phố, người Pháp cho tách khu Chợ Lớn ra khỏi thành phố Sài Gòn. Đây là một thay đổi cơ bản và thuận lợi nhất để tập trung đầu tư xây dựng khu trung tâm Sài Gòn.

Vùng Chợ Lớn trước khi người Pháp tới là điểm trung tâm cư dân người gốc Hoa. Họ là các thương nhân năng nổ, chăm chỉ làm ăn tạo cho Chợ Lớn thành một khu vực phát triển rất nhanh, nhất là sau khi người Pháp đến và xúc tiến việc khai thác thuộc địa.

Việc tách Chợ Lớn ra khỏi dự án thiết kế thành phố Sài Gòn còn giúp tạo điều kiện cho khu vực này phát triển nhanh chóng, việc buôn bán ở đây rất thuận lợi, vì khu vực Chợ Lớn khi đã tách ra, đất đai không bị hạn chế do phải dành mặt bằng cho khu hành chánh, công thự, công trình công cộng... những cơ sở thiết yếu của một thành phố thủ phủ.
Trước năm 1859, vùng đất nằm giữa Sài Gòn - Chợ Lớn vốn là vùng nông nghiệp trù phú. Chiến cuộc diễn ra, cư dân tại vùng này phải bỏ đi lánh nạn bất hợp tác với người Pháp, nên vùng đất trên bị hoang hóa. Khi người Pháp hoàn tất việc chiếm đóng Sài Gòn và ba tỉnh miền Đông, họ nhanh chóng tiến hành khai thác kinh tế. Hiện trạng hoang hóa một vùng đất rộng lớn giữa Sài Gòn - Chợ Lớn là phí phạm. Để giải quyết vấn đề này, ngoài việc tách Chợ Lớn ra khỏi Sài Gòn giúp Chợ Lớn mở rộng nhanh về phía Sài Gòn, người Pháp còn thực hiện ở đây chế độ tá canh thu tô hoặc bán rẻ đất hoang cho những ai có nhu cầu làm ruộng, lập vườn, sản xuất các loại rau quả nhiệt đới mà người Âu rất ưa chuộng. Một khi vùng đất hoang hóa dần dần có người cư trú, giá đất Sài Gòn cũng sẽ được nâng lên, tốc độ đô thị hóa cũng tăng theo.

Trước khi người Pháp đến, địa hình phạm vi Sài Gòn gồm một vùng cao ở phía Bắc, trải dài từ vùng lũy thành Sài Gòn đến vùng Mả Ngụy, nơi cư dân hầu hết là các nhà phú hộ đại bộ phận còn gọi là đồng ruộng, ao đìa. Cư dân nghèo sống chen chúc dọc theo rạch Bến Nghé trong các căn nhà nhỏ nửa đất nửa sàn. Giao thông trên bộ thời bấy giờ chủ yếu một số lô đất nhỏ được đắp cao lên vừa quá mức nước lúc triều cường.

Cho nên, khi người Pháp đưa ra dự án thiết kế thành phố, khó khăn đặt ra là làm thế nào cải tạo mặt bằng phục vụ cho việc thiết lập các cơ sở hạ tầng, xây dựng công thự, các công trình công cộng khác. Nói chung là những yêu cầu tối thiểu phải có trước mắt của một thành phố khả dĩ thích nghi với hoạt động thương mại phương Tây.

Giải quyết vấn đề này, người Pháp cho thực hiện một giải pháp tương đối đơn giản. Trước tiên cho đào nhiều kinh ở các chỗ trũng thuộc vùng thấp của thành phố vừa để tạo điều kiện cho ghe thuyền lưu thông thuận lợi, vừa có tác dụng tháo nước làm trong sạch các vùng đầm lầy đồng thời lấy đất lấp các vùng trũng khác. Khi các công trình đầu tiên được xây dựng trên những khu vực vừa được san lấp, người Pháp cho san bằng vùng đồi phía Bắc Sài Gòn, lấy đất lấp các con kinh đào (đường Nguyễn Huệ, đường Lê Lợi, đường vào cổng chính ở Ba Son hiện nay là những kinh đào được lấp lại).

Sau hai năm cải tạo và xây dựng bộ mặt Sài Gòn đã thay đổi hẵn. Các vùng trũng đầm lầy, những đường mòn gồ ghề được thay đằng những công trình mới được xây trên một không gian thoáng đãng, ở đó người ta mở những quãng lộ, những con đường ngang, dọc có trải nhựa phẳng phiu, hai bên vỉa hè rộng rãi được trồng cây xanh thẳng tắp.
Bến cảng, kho bãi được xây dựng gấp rút đúng qui củ để sẵn sàng đón tàu cập bến bốc dỡ hàng.

Từ những thay đổi ban đầu, Sài Gòn đã tự thể hiện là một thành phố đẹp với một hệ thống giao thông thủy bộ hết sức tiện lợi. Ngoài ra nhờ những điều kiện tự nhiên thuận lợi và một hậu phương trù phú đầy tiềm năng, Sài Gòn sớm trở thành một trong những thương cảng quan trọng ở khu vực Viễn Đông.

- Sài Gòn trong cuộc sống
Trần Ngọc Thanh và Nguyễn Đức Tánh (không rõ chức vụ) đã gửi về cho triều đình Huế một bản tường trình đề ngày 9-12-1863 (ngày 18 tháng 10 Quý Hợi, Tự Đức năm 16) được lưu lại trong châu bản (Tự Đức, tập 155 trang 114a). Tình hình Gia Định, Bến Nghé được mô tả khá tỉ mỉ:

"Nhà văn miếu đã dỡ đem về thôn Tân Khai để dựng phủ nha Tân Bình. Phía hữu tỉnh thành cũ có dựng một nhà lầu rất cao rộng đặt danh là lầu xem lễ, bốn mặt có xây đạo đường, đạo quán, nhà phước. Dân đạo thì ở bao bọc phía ngoài, già trẻ, trai gái theo đạo khá đông.

Trường Thi cũ, phía ngoài bốn mặt tường gạch được bồi đắp thêm. Quân xá cũng đều cải tạo. Quan binh Tây ở phía trước Trường Thi, còn nơi phủ Tân Bình cũ có dựng một tòa lầu cho Phủ Soái ở. Bốn bên có nhiều nhà cửa, trại binh, chuồng ngựa. Quan binh lớn nhỏ chia ở chung quanh.

Từ thôn Tân Khai Bến Thành cho tới Điếm Lá, họ xây nhà mới hoặc sửa sang lại để trữ hàng hóa.
Đối diện chợ hội là thôn Khánh Hội thì giáo dân ở. Đối diện với chợ Bến Thành là thôn Nhai Quới... có lập một phố lầu xanh. Nơi đây gái điếm và giáo dân cùng lẫn lộn. Từ xóm Điếm Lá đến Cầu Kênh Chợ Lớn thì nhà dân và các tiệm mua bán. Ơở khu chợ hội đối diện với thôn Khánh Hội mới bắc một chiếc cầu. Chợ Kênh đối diện với Xóm Than cũng có một chiếc cầu. Sang Thị Nghè thông đến sông Xóm Kiều, khúc sông trước bị lấp nay đã cho đào tại, từ cầu Nhiêu Lộc đến chùa Mai Sơn, nối liền hai thôn Bình Tiên và Bình Tây, thông thẳng đến kênh Ruột Ngựa.

Đại đồn ngày trước chỉ còn lại một tiền đồn do quan binh Tây đóng ước độ 100. Đồn Tây Thới trước nay vẫn còn và lại xây thêm một đồn rất kiên cố có độ 100 lính Tây đồn trú".

Cùng với sự thay đổi về mặt quang cảnh, đường sá, phố phường là sự áp đặt một guồng máy hành chính mới với thuế má, phu dịch.

Tại các phủ huyện, chính quyền thực dân tuyển dụng trong giáo dân hay những cử nhân tú tài hiếm hoi cam tâm theo chúng. Bên cạnh viên tri phủ hay tri huyện người Việt chúng đặt một tham biện huyện vụ. Chúng định lại thuế thân, thuế điền thổ, thuế ghe tàu, thuế thuốc phiện, thuế sòng bạc.

"Nhân dân thì bất luận già trẻ tàn tật mỗi người phải nộp 1 quan 5 tiền và phải phụ thêm 1 quan. Dân xã Minh Hương mỗi năm phải nộp 2 lạng bạc, người Thanh phải nạp thêm 2 quan. Gái điếm mỗi thị phải nộp 10 quan mỗi tháng. Người Thanh lập phố để nấu a phiến, mở sòng bạc thì phải nộp từ 2.000 đến 5.000

Thuyền buôn các tỉnh cập bến, hạng dài 30 trượng thì bề ngang cứ mỗi thước thu thuế 3 quan, dài 40 trượng, bề ngang mỗi thước 5 quan. Hạng thuyền lớn sau khi dỡ hàng phải lấy đất đổ xuống khoang thì đánh thuế 70 quan, hạng trung 50 quan, hạng nhỏ 30 quan. Thuyền ván độc mộc muốn đi lại phải làm tờ khai, hạng lớn nạp 5 quan, hạng nhỏ 3 quan. Hết hạn 3 tháng phải đổi giấy thông hành, quá hạn phải phạt 5 quan".

Tháng 8 âm lịch năm Quý Dậu (1863) giá gạo tăng vọt, mỗi phương hơn 9 quan, dân chúng đói kém, bọn Tây đem bánh mì cũ trong kho đi phát tận các thôn xã. Nhân dân không nhận không được, nhưng khi phái viên của Tây về rồi thì ai cũng vất bánh đó xuống sông hay là cho heo cho chó chứ không thèm ăn.

Tổ chức bộ máy cai trị 

- Phân bố mới về chính trị và hành chính việc cai trị
1. Lục Tỉnh Nam Kỳ, nay là thuộc địa Pháp, được cai trị bởi một thống đốc, với sự trợ tá của một hội đồng tư vấn.

2.
 Trụ sở chính quyền đặt tại Sài Gòn trong tỉnh Gia Định, đây là đô thành thiết kế theo kiểu Âu Châu, nơi đặt văn phòng nhiều cơ quan công vụ như: dinh thống đốc, nha giám độc nội vụ, tòa án, tòa thượng thẩm, tòa sơ thẩm, tòa án thương mại, tòa giám mục, hải quân công xưởng, sở quản trị hải quân và tài chính, sở chỉ huy bộ binh, phòng thương mại, sở điện tín trung ương v.v...

3. Thói quen vẫn giữ cho Nam Kỳ thuộc Pháp cách phân chia các tỉnh như dưới thời quan ta. Nhưng danh xưng đó không bao hàm một nền hành chính riêng hay đặc biệt cho mỗi tỉnh như trong quá khứ. Nay sự cai trị (các tỉnh) hoàn toàn lệ thuộc vào chính quyền ở Sài Gòn.
Việc cai trị bản xứ được trao cho các viên thanh tra hay tham biện, và địa bàn thuộc quyền cai trị của họ gọi là hạt thanh tra (hay là hạt). Giúp việc cho các quan Tây, còn có các quan lại bản xứ, trong đó có những tên tay sai hết sức đắc lực.
Còn việc nội trị tổng quát trong xứ thì tập trung cả ở Sài Gòn, trong các văn phòng của Nha Giám đốc Nội vụ. Tham biện các địa hạt trực tiếp thuộc quyền giám độc nội vụ; giám đốc nội vụ chuyển cho họ mọi chỉ thị và mệnh lệnh hành chính; tham biện phải báo cáo cho giám đốc nội vụ mọi sự việc và tình hình có can hệ đến việc điều hành công tác thuộc địa.

4. Năm 1875, tất cả có 20 địa hạt, do các viên tham biện cai trị

5. Bảng kê lục tỉnh và các địa hạt thống thuộc như sau:

   1. Gia Định - 5: Sài Gòn, Chợ Lớn, Tây Ninh, Tân An, Gò Công

   2. Định Tường -1: Mỹ Tho

   3. Biên Hòa -3: Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một

   4. Vĩnh Long -3: Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre

   5. An Giang -5: Châu Đốc, Long Xuyên, Trà Ôn, Sa Đéc, Sóc Trăng.

   6. Hà Tiên - 3: Hà Tiên, Rạch Giá, Phú Quốc (giải thể ngày 1-7-1875)

6. Những địa hạt trên liên lạc với nhau:

- Bằng các trạm với Sài Gòn làm đầu tuyến và dịch vụ này do lính trạm đảm đương.

- Bằng các trạm điện tín bắt đầu tư Sài Gòn đến Nam Vang. Tất cả có 26 trạm điện tín. Nhiều tuyến điện tín nữa sẽ được đặt liên lạc với đô thành. Chỉ còn địa hạt Cần Thơ là chưa có liên lạc điện tín.

7.
 Riêng thủ phủ Sài Gòn thì liên lạc với chính quốc (Pháp) qua hãng chuyên chở đường biển và bằng một dây cáp điện tín đặt ngầm dưới biển.

8. Chức năng của thống đốc - Thống đốc đại diện cho thủ tướng chính phủ bên chính quốc (Pháp) và nhận quyền lực từ thủ tướng trao phó. Thống đốc cử nhân viên và công chức; việc cử đặt này không dành cho chính quốc. Thống đốc ban hành nghị định và quyết định, thi hành quyền tối cao về hành pháp và tư pháp đối với dân bản xứ, ấn định các sắc thuế địa phương và qui định các tiêu chuẩn thuế khóa cùng nguyên tắc trong việc thâu thuế công cộng.
Tóm lại, thống đốc gồm thâu cả quyền dân sự lẫn quân sự, đồng thời là tổng chỉ huy sư đoàn hải quân ở Nam Kì.

9. Hội đồng tư vấn - Thống đốc được trợ tá bởi một hội đồng riêng chỉ có tính cách tư vấn, hội đồng này gồm: Chỉ huy trưởng bộ binh; Chánh sự vụ hành chính; Giám đốc nội vụ; Chưởng lý tòa án và hai nhân sĩ người Pháp hiện lưu trú trên đất thuộc địa.

10. Hành chính tổng quát:  Bao gồm: 1. Hành chính nội vụ; 2. Hành chính hải quân; 3. Hành chính tòa án; 4. Hành chính quân sự; 5. Giám sát thuộc địa (qui định do nghị định ngày 15-4-1873; giải thể bằng nghị định ngày 16 tháng 6 cùng năm); 6. Kho bạc

11. Giám đốc nội vụ đứng đầu ngành hành chính nội vụ, dưới quyền có các phòng.

12. Cho tới năm 1874, các tham biện lo các sự vụ bản xứ (sau gọi chủ tỉnh) đầu lựa chọn trong giới sĩ quan thuộc mọi ngành (hải quân). Nhưng từ khi công bố nghị định mới ngày 1 tháng 2 năm 1873, các tham biện hậu bổ phải được chọn trong giới thanh niên có cấp bằng đại học và tuổi từ 28 trờ lên.

13. Các sự vụ thuộc phạm vi quản trị hải quân, nghĩa là các sự vụ thuộc trách nhiệm riêng của chính quốc, mà đứng đầu là viên chánh sự vụ hành chính thì coi sóc: Việc điểm binh; Khí giới và đăng ký hải quân; Tài vụ; Kho lẫm và công việc; Binh lương; Bệnh viện. Tất cả các sự vụ trên được điều khiển bởi các sĩ quan thuộc ngành ủy trị hải quân.

14. Đứng đầu nền quản trị tòa án của Pháp là vị chưởng lý có thẩm quyền trên các ngành tư pháp là: Tòa án thương mại; Cảnh sát; Các tham biện giữ nhiệm vụ xét xử mọi vụ kiện bản xứ thuộc tòa sơ thẩm. Chưởng khế (hay công chứng viên) cũng thuộc quyền chưởng lý.

15.
 Việc quản trị quân đội, do thống đốc là tổng chỉ huy trực tiếp, thì gồm có: 1. Dịch vụ bộ binh do một thiếu tướng chỉ huy với một tham mưu trưởng phụ tá. 2. Thủy quân do một sĩ quan thủy sư cầm đầu, ông này coi cả giảm đốc thủy quân công xưởng.

- Địa phận Sài Gòn năm 1861 
Ngày 11-4-1861, Phó Đô đốc Charner, Tư lệnh quân viễn chinh Pháp, ban hành nghị định quy định ranh giới Sài Gòn nằm trong khu vực giới hạn bởi một bên là rạch Thị Nghè (Arroyod' Avalanche) và rạch Bến Nghé (Arroyo Chinois) với một bên là sông Sài Gòn cùng con đường nối liền chùa Cây Mai với những phòng tuyến cũ của đồn Kỳ Hòa. Cụ thể nhất là Quyết định số 145 ngày 14-8-1862 của Đề đốc Bonard - Thống đốc quân sự đầu tiên - quy định tổ chức hành chính tỉnh Gia Định, trong đó có Sài Gòn. Đây là quyết định căn bản mở đầu cho việc tổ chức hành chính Sài Gòn thời Pháp thuộc. Bonard đã chia tỉnh Gia Định ra ba phủ, mỗi phủ có ba huyện, dưới huyện có tổng, dưới tổng có xã, thôn, lý, ấp. Sài Gòn lúc bấy giờ vừa là tỉnh l?ủa Gia Định vừa là phủ l của phủ Tân Bình là huyện l?uyện Bình Dương, còn Chợ Lớn là huyện l?ủa huyện Tân Long, cùng phủ Tân Bình.
Về phương thức cai trị, trong thời gian đầu, thực dân Pháp tạm thời sử dụng các quan phủ, huyện của triều An Nam, cho điều hành công việc tại các phủ, huyện dưới sự chỉ đạo chung của Bố chánh tỉnh Gia Định là một viên chức Pháp ngạch thanh tra các công việc bản xứ (Inspecteur des affaires indigènes). Riêng người Hoa và những người châu Aá khác sống ở Chợ Lớn tuy thuộc huyện Tân Long nhưng được cai trị trực tiếp bởi một thanh tra các công việc của người Hoa (Inspecteur des affaires Chinoises) với sự giúp đỡ của Hội đồng các bang trưởng Hoa Kiều.

- Thành lập Thành phố Sài Gòn

Năm 1864, Chợ Lớn được tách khỏi Sài Gòn về phương diện quản lý địa bạ, vì một trong những lý do chủ yếu là thành phố người Hoa (Ville Chinoise) đang trên đà thịnh vượng, việc quản lý và mua bán đất đai đòi hỏi phải tách Sài Gòn và Chợ Lớn ra thành hai thương điếm (emporium) riêng biệt. Tuy vậy, trước năm 1867, Sài Gòn chưa được chính thức xem như một thành phố.

Phải đến năm 1867, việc quản lý Sài Gòn mới được chính thức giao phó cho một tổ chức riêng biệt là Ủy ban thành phố, được thành lập do Nghị định số 53 ngày 4-4-1867 của Thống đốc Pháp De La Grandière. Uủy ban thành phố gồm 1 ủy viên và 12 hội viên. Ủy viên được chọn trong số những cư dân châu Á cũng như châu Âu cư trú tại Sài Gòn, không phân biệt quốc tịch.
Ủy ban thành phố biểu quyết về các vấn đề: quản lý tài sản công, ngân sách, biểu thuế, những quy định về việc thu thuế, các dự án xây dựng, sửa chữa lớn, bảo trì, mở mang đường sá, v.v. Ngoài ra, Ủy ban còn được hỏi ý kiến về một số vấn đề liên quan đến hoạt động của thành phố. Mọi hoạt động của Ủy ban thành phố đặt dưới sự giám sát trực tiếp của Đổng lý Nội vụ (Directeur de l'intérieur)- một chức danh quan trọng được thiết lập vào năm 1864, có nhiệm vụ phụ giúp viên Thống đốc trong việc điều khiển chung nền hành chính của những vùng đất đã nằm trong tay thực dân Pháp.

Đến ngày 8-7-1869, tổ chức thành phố Sài Gòn được sửa đổi bởi Nghị định số 131 của Thống đốc Ohier, theo đó, Ủy ban thành phố được cải danh thành Hội đồng thành phố với một chủ tịch hay ủy viên trưởng và 13 ủy viên. Ủy viên trưởng hội đồng thành phố được gọi là Đốc lý Sài Gòn (Maire de Saigon) do Thống đốc bổ nhiệm trong số những công chức Pháp. Thể thức cử nhiệm các ủy viên Hội đồng cũng thay đổi: 6 ủy viên do Thống đốc Nam Kỳ chỉ định, 7 do bầu cử trực tiếp. Nhiệm kỳ của Hội đồng nâng từ 1 năm lên 2 năm. Pétrus Trương Vĩnh Ký là người Việt Nam đầu tiên tham gia vào Hội đồng thành phố Sài Gòn do Nghị định đề cử số 210 ngày 27-9-1869 của Thống đốc Ohier. 8 năm sau, sắc lệnh ngày 8-1-1877 của Chính phủ Pháp thay đổi thành phần của Hội đồng thành phố gồm 13 hội viên: 7 do dân bầu và 6 do chính quyền đề cử: Viên đốc lý cũng do Thống đốc Nam Kỳ bổ nhiệm, có thể chọn trong số các công chức. Sở dĩ có thay đổi hệ thống cấp ban hành văn kiện sửa đổi tổ chức Hội đồng thành phố (sắc lệnh của Tổng thống Pháp thay vì Nghị định của Thống đốc Nam Kỳ) vì lần này sắc lệnh dự liệu việc người nước ngoài có thể tham gia vào Hội đồng thành phố lên 15 người gồm 11 hội viên là người Pháp, 4 hội viên là người bản xứ. Viên đốc lý và hai phụ tá do Thống đốc Nam Kỳ bổ nhiệm.
Trong thập niên 1860 và nửa đầu thập niên 1870, thành phố Sài Gòn vẫn nằm trong địa hạt hành chính tỉnh Gia Định. Năm 1880, ngoài Hội đồng thành phố Sài Gòn đang hoạt động, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh ngày 8-2-1880 thành lập một Hội đồng quản hạt (Conseilconlonia) trụ sở đặt tại Sài Gòn có chức năng bao trùm toàn thể thuộc địa Nam Kỳ. Và với sắc lệnh ngày 22-4-1880, Chính phủ Pháp đi thêm một bước nữa bằng cách áp dụng hình luật của Pháp trên toàn bộ Nam Kỳ. Hai năm sau (1882) là sự ra đời của các hội đồng hàng huyện (Conseild'arrondissement) do Nghị định ngày 12-6-1882 của Thống đốc Nam Kỳ. Với tổ chức này, thực dân Pháp đã tạm hoàn chỉnh bộ máy cai trị của họ tại Sài Gòn và các địa phương khác để có điều kiện toan tính nốt những phần còn lại của miếng mồi Đông Dương béo bở là Trung và Bắc Kỳ.

- Quy hoạch thành phố. 
Chỉ hai tháng sau khi Chí Hòa thất thủ, Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp đã ký nghị định ngày 11-4-1861 ấn định phạm vi thành phố Sài Gòn. Song quy hoạch này đã không thể thực hiện vì thiếu ngân sách.
Lần quy hoạch thứ hai, do nghị định ngày 3-10-1865, trên cơ sở thành thị Bến Nghé và Sài Gòn cũ. Sài Gòn chỉ rộng không quá 3 cây số vuông và Chợ Lớn chỉ hơn một cây số vuông. Sài Gòn bấy giờ nằm gọn trong quận 1 bây giờ, còn Chợ Lớn là quận 5 hiện nay. Giữa hai thành phố là vùng thuộc địa hạt Sài Gòn. Năm 1885 địa hạt được đổi tên là Gia Định và đến năm 1889 được gọi là tỉnh Gia Định.

Ngày 15-3-1874, Tổng thống Cộng hòa Pháp ký sắc lệnh chính thức thành lập thành phố Sài Gòn. Thành phố được điều hành bởi một viên thống lý, hai viên phó đốc lý và một hội đồng thành phố. Còn Chợ Lớn, chậm hơn hai năm được thành lập do nghị định của thống đốc dân sự đầu tiên là Le Myre de Vilers, ký năm 1879.

Theo thời gian phát triển, dân số tăng lên. Sài Gòn và Chợ Lớn xích lại gần nhau và thực sứ tiếp giáp ở khoảng đường Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thiện Thuật bây giờ vào năm 1910.

Trong thời gian nửa thế kỷ, Sài Gòn đã thay đổi, hình thành nên một thành phố Tây Phương. Đường sá được thiếp lập. Dinh thự, phố xá, các khu dân cư cùng với các chợ... được xây dựng. Từ thủ phủ của Gia Định ngũ trấn (Gia Long), Nam Kỳ lục tỉnh (Minh Mạng), Sài Gòn theo thời gian đã trở nên trung tâm của ba tỉnh miền Đông (1862), rồi thủ phủ của Nam Kỳ (1867) và dần trở nên một trung tâm chính trị, kinh tế quan trọng cho toàn Đông Dương.
Trong thời gian đầu, Pháp xây dựng một khu hành chính làm trung tâm cho thành phố. Chung quanh có rào, bên trong là các dinh Thống đốc, các cơ quan hành chính, nhà dây thép, nhà thương, nhà thờ... tất cả đều làm bằng gỗ. Khu hành chính này ở gần Đồn Đất, trên gò cao. Phía sau là những trại lính, trước mặt nhìn ra sông Sài Gòn là các nhà kho của hải quân.

Dọc theo dông Bến Nghé, Pháp cho đào các kinh cũ sâu và rộng hơn lấy đất đắp lên bờ. Sau nữa ban đất trên các đồi cao xuống mé sông, lấp kênh đắp đường. Rồi nhà lá gỗ được thay bằng nhà gạch ngói. Chỉ trong hơn ba thập niên, đa số các kiến trúc tiêu biểu của thành phố Sài Gòn như dinh Toàn quyền, dinh Thống đốc, dinh Xã Tây, Nhà hát lớn, Nhà thờ... đã được xây dựng.

Xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà máy 
- Đẩy mạnh khai thác

Cùng với sự phát triển đô thị, nền kinh tế cũng biến đổi theo chiều hướng mới. Trước hết, Sài Gòn là một thương cảng.
Ngay sau khi đặt chân đến Sài Gòn, mặc dù tình hình chưa ổn định, thực dân Pháp đã quyết định thành lập cảng Sài Gòn (22-2-1860)

Tài nguyên Nam Kỳ đã được liệt kê ngay và một chương trình khai thác cụ thể trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, và thương nghiệp được Phó Đô đốc Bonard vạch ra đã gửi về Pháp và được chấp thuận.

Vị trí của cảng được xác định: nằm trên sông Sài Gòn. Ăn sâu 80 km vào đất liền, sông Sài Gòn vào năm 1628 là một điểm chính về thương mại, có thể thông thương với tất cả các vùng phía Nam với 2.000 km luồng lạch chảy qua tất cả các đồng bằng lớn. Về vị trí quân sự đây có thể là bàn đạp tấn công mở rộng xuống cả vùng Đông Nam Á. Cảng Sài Gòn từ những ngày đầu dài 4km, tập trung bên phải của sông giới hạn thượng lưu là quân cảng xuống đến Rondpoint (một vị trí trên bản đồ hồi đó) gồm có một bến đậu dài và một ụ để sửa chữa tàu từ Rondpoint đến Canal de dérivation là thương cảng. Đoạn này có Rạch Tàu (Arroyo Chinois) nối liền Sài Gòn với Chợ Lớn, một trung tâm kinh tế, và lúc bấy giờ, con rạch này là đường giao lưu chính về hàng hóa nối liền hai trung tâm Sài Gòn - Chợ Lớn khi các phương tiện khác chưa thịnh hành. Là cảng sông, cảng thiên nhiên kín đáo, cảng Sài Gòn tránh được những cơn bão mà miền Viễn Đông thường xuyên gặp, lại nằm ăn sâu trong thành phố nên mọi sự vận chuyển hàng đều thuận lợi và ít tốn kém. Lòng sông rộng và sâu (trung bình 300m chiều rộng và từ 9 đến 12m sâu) tàu lớn 180m x 9m tránh nhau dễ dàng.

Năm 1860, cảng Sài Gòn chính thức mở cửa. Ngày 25-8-182, quy chế của thương cảng được ban hành. "Tất cả tàu biển, trừ tàu Pháp và Y Pha Nho, đều phải nộp thuế bỏ neo, tính 50 xu trên 1 tonneau hàng". Sài Gòn được mở cửa, tàu bè các nước ra vào buôn bán, thương vụ mỗi ngày một tăng.
Năm 1860, Sài Gòn tiếp nhận 246 tàu, trong đó có 111 tàu từ châu Âu mang đến nửa triệu quan thuốc phiện và một triệu quan các loại hàng hóa khác cùng chở đi 535.939 tấn gạo trị giá hơn 5 triệu quan và 1 triệu quan các loại hàng hóa khác. Doanh số mậu dịch năm 1860 của cảng Sài Gòn là 7,7 triệu franc (frs)

Năm 1862, có 117 tàu châu Âu (có 11 tàu của Pháp) đến Sài Gòn với tổng trọng tải là 53.200 tấn, 129 tàu châu Âu rời cảng Sài Gòn (trong đó có 51 tàu của Pháp) chở đi 42.470 tấn gạo, 1.023 kiện bông, 1.746 kiện vải và 357 tấn lúa.

Năm 1866, trọng tải hàng hóa qua cảng Sài Gòn là 600.000 tấn, xuất khẩu 100.000 tấn gạo, 2.687 tấn bông, 42 tấn tơ lụa, 150 tấn muối. Qua năm sau, 1867, Sài Gòn đã xuất khẩu 193.000 tấn gạo.

Nhiều tàu buôn châu Âu thường xuyên thực hiện những chuyến đi về Sài Gòn với các thương cảng khác trong vùng như Singapore, Amoy, Quảng Đông, Macao, Hong Kong... Vào thời gian có gió mùa Đông Bắc trong năm, thuyền bè từ miền Bắc Trung Quốc chở những chuyến hàng đầu tiên đến Sài Gòn để từ đó đưa đi Singapore và khi gió mùa Tây Nam bắt đầu thổi, họ đưa hàng từ Singapore đến Sài Gòn rồi về lại Trung Quốc.

Để tiện cho tàu bè ra vào cảng Sài Gòn, hải đăng Cap Saint-Jacques (Vũng Tàu) cũng được xây dựng xong và hoạt động kể từ ngày 15-8-1862. Hải đăng cao 8m, xây trên một vùng đất cao 139m và có một tầm trông thấy khoảng 28 dặm. Cảng Sài Gòn trên đường phát triển đòi hỏi phải có dịch vụ sửa chữa tàu. Năm 1864, xưởng Bason - một công binh xưởng do hải quân Pháp quản lý - được thiếp lập. Đây là xưởng cơ khí đầu tiên của thành phố Sài Gòn, quy tụ nhiều thợ lành nghề của nhiều ngành khác nhau, ngoài việc sửa chữa, xưởng Bason còn đóng mới các tàu có trọng tải nhỏ.
Các nhà máy xay lúa được xây dựng phục vụ cho việc xuất cảng gạo mỗi năm một tăng. Nhà máy Xóm Chiếu, thành lập năm 1869, do công ty Alphonse Cahusac quản lý. Đây là nhà máy xay lúa đầu tiên của Sài Gòn. Công ty Speidel của Đức có hai nhà máy xay lớn là Riserie de l'Union và Riserie de l'Orient.

Đến năm 1895, Nam Kỳ có 200 xưởng thủ công và nhà máy xay thì phần nhiều tập trung ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Riêng nhà máy xay chạy bằng hơi nước thì Sài Gòn có 2, Chợ Lớn có 7. Ước tính đến năm 1906, số công nhân ở Sài Gòn đã lên đến 25.000 người.

Để đáp ứng nhu cầu thợ lành nghề, Pháp mở trường Bá Công Kỹ Nghệ năm 1897, đào tạo thợ vừa lành nghề vừa có ít nhiều văn hóa phương Tây. Đây là trường kỹ thuật dạy nghề đầu tiên ở Nam Kỳ đã đào tạo các công nhân kỹ thuật đầu tiên của nước ta.

Giao thông là huyết mạch của kinh tế. Năm 1881 Pháp bắt đầu làm đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho, bắc hai cầu lớn qua sông Vàm Cỏ.

Năm 1902, cầu Bình Lợi được xây dựng. Năm sau, đường tàu điện Sài Gòn - Gò Vấp, Sài Gòn -- Chợ Lớn, Gò Vấp - Hóc Môn được thiết lập và vào năm 1910 Sài Gòn được nối với Nha Trang bằng đường xe lửa.

- Những kiến trúc tiêu biểu
Dinh Thống đốc Nam Kỳ (nay là Bảo tàng Cách mạng) xây dựng xong vào năm 1864, phỏng theo kiến trúc của Bảo tàng hội họa Munich do kiến trúc sư Foulhou thiết kế. Trước năm 1879, Nam Kỳ đặt dưới quyền cai trị của các đô đốc hải quân nên dinh Thống đốc được gọi là dinh Đề đốc hay dinh Phó soái.

- Dinh Toàn quyền (nay là Hội trường Thống Nhất): Lễ đặt viên đá đầu tiên cho công trình kiến trúc đồ sộ này được cử hành vào ngày 23-2-1868. Viên đá đầu tiên hình lập phương, mỗi cạnh 50cm, bên trong có chứa các đồng tiền vàng, bạc, đồng. Công trình hoàn tất vào năm 1873. Đồ án do kiến trúc sư Hermitte vẽ.
Đầu thế kỷ XX, Nguyễn Liên Phong đã mô tả dinh:

Toàn quyền tổng thống đại dinh
Tứ vi song sắt, tiền đình nghiêm trang
Ngoài thời có cửa tam quan
Trong thời lầu các dọc ngang nhiều từng 

Dinh Xã Tây
 (nay là Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh), còn gọi là Sở Xã Tây. Lễ đặt viên đá đầu tiên vào năm 1873 nhưng vì thiếu ngân sách nên mãi đến năm 1898 mới thực sự được xây dựng. Năm 1909, nhân kỷ niệm 50 năm (1859-1909) chính quyền thực dân được thiết lập, dinh Xã Tây được tổ chức lễ khánh thành. Họa đồ kiến trúc do kiến trúc sư P.Gardès vẽ.

Nhà hát Tây (Nhà hát thành phố bây giờ) xây dựng năm 1898 theo đồ án của kiến trúc sư Berger và được khánh thành vào ngày 1-1-1900. Đầu thế kỷ XX, các đoàn hát Tây thường từ chính quốc sang Sài Gòn biểu diễn vào tháng 5 đến tháng 1 và vào các ngày thứ ba, thứ năm, thứ bảy và tối chủ nhật.

Bưu điện Sài Gòn
: Dân chúng đương thời quen gọi là Nhà dây thép, Sở dây thép. Khởi công xây dựng năm 1886 và hoàn thành vào năm 1891. Dịch vụ bưu điện là dịch vụ mới lạ đối với dân chúng và rất gây ấn tượng.

Nhà thờ Thiên chúa (Nhà thờ Đức Bà hay Vương cung Thánh đường) được khởi công xây dựng ngày 1-10-1877 và khánh thành vào ngày 11-4-1880 với tổng kinh phí 2,5 triệu franc theo thời giá lúc bấy giờ. Hai tháp chuông nhọn, cao 57m được xây thêm vào năm 1895.

Chợ Bến Thành
 (cũ): Chợ Bến Thành ở vị trí ngày nay, mới được xây dựng vào năm 1911. Trước đó chợ Bến Thành nằm ở mé sông, đầu các con đường lớn, ghe thuyền có thể cập bến, thuận tiện bốc hành lên chợ. Chung quanh chợ có nhiều cửa hiệu của người Việt, Hoa, Âởn, Pháp... Hàng hóa phong phú. Các cửa hàng ăn lúc nào cũng tấp nập đông đúc. Các đường phố như Catinat (Đồng Khởi), Bonard (Lê Lợi), Charner (Nguyễn Huệ), De La Somme (Hàm Nghi)... là các đường phố lớn ở khu trung tâm tiêu biểu cho thành phố Sài Gòn. Đầu thế kỷ XX, Catinat là trung tâm sinh hoạt, mua bán của giới thượng lưu thuộc địa, nổi tiếng thanh lịch.

Nguyễn Liên Phong đã mô tả:

Nhứt là đường Catinat
Hai bên lầu các, phố nhà phân minh
Bực thềm lót đá sạch tinh
Các cửa hàng bán lịch thanh tốt đều
Máy may mấy chỗ quá nhiều
Các tiệm tủ ghế dập dìu phô trương
Đồ sành, đồ cẩn, đồ đương
Đồ thêu, đồ chạm trữ thường thiếu chi
Những đồ Đại Pháp, Huê Kỳ
Ăng-lê, Nhựt Bổn món gì cũng sang
Hàng Tây các sấp nhẩy tràn
Xiêm, Miên, Bắc thảo đồ đoàn bố vi 

Biến đổi Văn hóa - Xã hội

- Văn hóa - Giáo dục
Do hoàn cảnh lịch sử, chữ quốc ngữ được phổ biến sớm nhất ở nước ta trước hết là tại Sài Gòn. Trước khi Pháp xâm lược, chữ quốc ngữ chỉ dùng trong phạm vi truyền bá đạo Thiên Chúa.

Chiếm Sài Gòn và các tỉnh Nam Kỳ, người Pháp không muốn duy trì nền giáo dục Hán học vì họ xem là nguồn đào tạo những sĩ phu yêu nước. Lấy chữ quốc ngữ thay chữ Hán, người Pháp muốn cắt đứt truyền thống yêu nước, xem chữ quốc ngữ như là một vũ khí xâm lược về tinh thần. Cũng chính vì thế lúc đầu nhân dân Sài Gòn và lục tỉnh tẩy chay không chịu học chữ quốc ngữ. Nhưng trái với mục đích của thực dân Pháp, chữ quốc ngữ đóng một vai trò quan trọng trong việc phổ cập kiến thức cho đông đảo quần chúng, làm cho báo chí có điều kiện phát triển và vào đầu thế kỷ, chữ quốc ngữ đã làm công việc chuyển tải tư tưởng yêu nước đến với đồng bào qua báo chí và văn thơ. Chữ quốc ngữ trong tay những sĩ phu yêu nước trở thành một vũ khí đấu tranh như Trần Quý Cáp nhận định: "Chữ quốc ngữ là hồn trong nước".
Mười bốn năm sau khi đánh chiếm Gia Định, người Pháp mới mở ngôi trường đầu tiên lại là trường Hậu bổ (Collège des Stagiaires) để đào tạo những viên chức trong bộ máy hành chính thuộc địa.

Sở Học chính Nam Kỳ chỉ được thành lập vào năm 1879, năm chính quyền Nam Kỳ được chuyển giao cho các thống đốc dân sự, cùng với một chương trình giáo dục Pháp - Việt.

Vào đầu thế kỷ XX, 5 quận của thành phố Sài Gòn lúc bấy giờ đều có một trường sơ cấp cho nam học sinh và một tường sơ cấp cho nữ học sinh.

Theo Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca được viết vào năm 1902, Sài Gòn có các trường:

- Trường "Bổn Quốc" Chasseloup Laubat (nay là trường Lê Quý Đôn): dành cho học sinh Pháp. Đây là trường trung học công lập đầu tiên của Sài Gòn.

- Trường Taberd (nay là trường Trung học Sư phạm): do linh mục Henri de Kerlan thành lập năm 1874, do các linh mục giảng dạy. Đến năm 1889, các sư huynh được mời dạy.
- Trường nam tiểu học Sở Cọp: gọi như vậy vì trường ở sát vườn bách thảo, dành cho trẻ em bản xứ thành lập năm 1862.

- Trường nữ tiểu học: ở gần trường nam

- Trường nữ trung học, trường Áo Tím: đến năm 1915 mới thành lập.

- Trường đào tạo linh mục mà Nguyễn Liên Phong gọi theo thời bấy giờ là trường Latinh.

Xem như thế, hệ thống giáo dục ở Sài Gòn sau hơn 60 năm còn rất nhỏ nhoi nhằm phục vụ quan chức và binh lính viễn chinh, đồng thời lôi kéo thanh thiếu niên, thực dân Pháp bước đầu cũng tổ thức nhà hát, các loại hình thể thao như bóng đá, quần vợt, đua ngựa....

- Và... đầu độc

Sự phát triển của Sài Gòn dưới chế độ thuộc địa là để phục vụ cho thực dân. Có hiểu các mục đích cuối cùng đó mới giải thích được sự kinh doanh thuốc phiện, một thứ ma túy độc hại ảnh hưởng đến sức khỏe và tiền đồ của cả một dân tộc. Thuế thuốc phiện là một nguồn tài chính quan trọng mà ngay từ năm 1860 Pháp đã thu được hơn 13.000 đồng bạc, chiếm gần một phần mười tổng số thu nhập. Sang năm 1861, thuế thuốc phiện thu được đã tăng gấp đôi. Tóm lại, trong hai năm đầu, nguồn thuế này đã đem lại cho ngân sách một số tiền khổng lồ.
Ngày 28-12-1861, Đô đốc Bonard đã ký nghị định thiết lập cho trưng thầu độc quyền khai thác thuốc phiện. Gần mười năm sau, 5-10-1871 Đô đốc Ohier ký nghị định thiết lập chế độ độc quyền rượu và cho đấu thầu khai thác từ ngày 1-1-1872.

Vậy là từ năm 1874, chính quyền thuộc địa đã mở đấu thầu buôn bán rượu và thuốc phiện vào một mối.

Số thuốc phiện mà Sài Gòn nhập mỗi năm một tăng. Năm 1871 là 359 thùng (tương đương 22 tấn), năm 1875 con số đó là 549 thùng và năm 1879 đã tăng lên 861 thùng (52 tấn). Đến cuối năm 1881, chính quyền thành lập ngành thuế gián thu khai thác độc quyền rượu và thuốc phiện, khởi công xây dựng xưởng nấu thuốc phiện.

Xưởng nấu thuốc phiện tọa lạc trên diện tích một mẫu tây ở đầu đường Hai Bà Trưng hiện nay, là "niềm hãnh diện" của chính quyền thuộc địa, là một trong những "kỳ quan" của Sài Gòn:
"Trong không khí thanh bình của những buổi mai rạng rỡ, du khách, ngự trên những chiếc xe có cu ly kéo, đi du ngoạn từ phía châu thành ra mé bờ sông, dưới những rặng cây xanh màu cẩm thạch, khi đến gần những cầu tàu của Hải quân thì bỗng dưng mũi bị kích thích bởi một mùi vị lạ lùng, vừa ẩm ướt vừa độc địa, vừa êm dịu vừa say mê. Đối với những người đã nhập đạo, thì mùi vị đó mách bảo rằng du khách đang ở cạnh công xưởng yên tĩnh nấu thuốc phiện của Đông Dương, một cơ quan nhà nước duy nhất vào loại này..." (Dr.A.Hesnard - La Fabrication de l'Opium à Saigon).

Số thuốc phiện sản xuất ở đây được bán khắp Đông Dương và số tiền thu được do việc đầu độc người bản xứ này thật là lớn lao: 6,8 triệu đồng năm 1902, tăng lên 13 triệu đồng năm 1914, chiếm từ 25% (1902) đến 36,9% (1914) tổng số thu nhập chính của ngân sách Đông Dương !

Năm 1894, Pháp khai trương nhà máy rượu.

- Báo chí - xuất bản
Về báo chí, báo tiếng Pháp xuất hiện khá sớm trên đất Sài Gòn, ngay cả khi Pháp chưa chiếm trọn Nam Kỳ. Đó là các tờ Le bulletin officiel de l'expédition de la Cochinchine (1861 - 1888), Le bullentin des Communes (1862). Tờ báo tiếng Việt đầu tiên là tờ Gia Định báo (1865) tiếp đến là các tờ Phan Yên báo (1868), Thông loại khóa trình (1888). Đến đầu thế kỷ XX, báo chí mới thật sự có vai trò vận động quần chúng như tờ Nông Cố Mín Đàm (1901 - 1924) và tờ Lục Tỉnh Tân Văn (1907 - 1943)

Trước hết là tờ báo tiếng Việt đầu tiên của Sài Gòn mà cũng là của Việt Nam. Gia Định báo lúc đầu ra mỗi tháng một kỳ, 4 trang, khổ 25x32. Mục đích của tờ báo được Đề đốc G.Roxe trình bày rõ trong văn thư gửi Bộ trưởng Bộ Thuộc địa ngày 9-5-1865:

"Tờ báo này nhằm phổ biến trong các giới dân bản xứ tất cả những tin tức đáng cho họ lưu ý và cho họ có một kiến thức về những vấn đề mới có liên quan đến văn hóa và những tiến bộ về canh nông... Nó sẽ góp phần vào việc thay thế chữ của chúng ta vào chữ Hán, một thứ chữ mà chỉ có một thiểu số quan lại hiểu biết mà thôi".

Từ khi Trương Vĩnh Ký được giao làm giám đốc Gia Định báo (1869) và Huỳnh Tịnh Của làm chủ bút thì Gia Định báo đã cổ động cho lối học mới, phát triển chữ quốc ngữ và khuyến khích dân chúng học chữ quốc ngữ:
"Nông Cố Mín Đàm đã đăng nhiều bài tiến bộ, có ít nhiều ý thức về vai trò văn hóa và tư tưởng của một cơ quan ngôn luận. Chính nó đăng những bài đầu tiên về Duy Tân, Minh Tân..."

Báo Lục Tỉnh Tân Văn từ khi Trần Chánh Chiếu làm chủ bút đã kêu gọi cuộc Minh Tân, góp phần trong phong trào Duy Tân của cả nước đầu thế kỷ XX. Cùng với sự ra đời rất sớm của các tờ báo Việt ngữ, các sách Nôm và sách Hán được phiên âm và dịch ra quốc ngữ khá nhiều: Đại Nam quốc sử diễn ca (1871), Gia huấn ca (1882), Phan Trần (1889), Lục Vân Tiên (1889), Tam Tự Kinh (1887), Đại học, Trung Dung (1889), Minh Tâm bửu giám (1891). Và cũng trong thời gian đó, nhiều tác phẩm, nhiều công trình biên soạn đã được xuất bản, đáng chú ý là cuốn Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của.

Hoạt động kinh tế Sài Gòn từ sau 1859

Sài Gòn nằm trên khúc uốn thuộc hữu ngạn sông Sài Gòn, một phụ lưu của sông Đồng Nai, cách biển 100km thủy trình. Sông Sài Gòn bắt nguồn từ vùng đất cao Đông Nam Bộ, độ dốc sông nhỏ, sức xâm thực kém, nước sông chứa ít phù sa. Vùng cửa sông có rừng sác giữ vai trò siết dòng, hạn chế việc lắng tụ phù sa ở cửa sông. Lòng sông sâu 8m lúc triều cường, cho phép các tàu trọng tải lớn ra vào Sài Gòn dễ dàng. Hơn nữa, vùng biển Nam Bộ thuộc chế độ thủy triệu bán nhật, nên các tàu lớn có mực nước lòng tàu sâu chỉ mất tối đa 12 giờ để có thể vào cảng. Nghĩa là không phải mất nhiều thời gian neo tàu ở tiền cảng Vũng Tàu.

Từ những thuận lợi trên đây, Sài Gòn dần dần trở thành một thương cảng quan trọng trên hải trình châu Âu - Viễn Đông.

Hoạt động kinh tế của Sài Gòn trong những năm đầu Pháp thuộc chủ yếu là hoạt động xuất nhập khẩu.

Ngay năm 1860, đã có 246 tàu phương Tây và thuyền buồm của Trung Hoa chuyển vận hàng đến Sài Gòn và bốc dỡ hàng đi. Tổng số hàng chuyển đi lên tới 63.299 tô-nô, trong đó có 53.939 tô-nô gạo trị giá 5.184.000 quan Pháp. Trị giá hàng nhập khẩu cùng năm là 1,5 triệu quan Pháp (thuốc phiện chiếm 0,5 tấn). Việc bốc xếp hàng tại cảng Sài Gòn do các "chánh" người Hoa đảm nhận.
Các mặt xuất khẩu gồm lúa gạo, cá khô (chở từ biển hồ ở Cao Miên về) dầu thực vật, đường mía, rau sấy khô, gòn.

Từ 1863, hàng xuất khẩu có thêm một số mặt hàng truyền thống như tơ tằm, muối, đay. Các sản phẩm này phục hồi và phát triển nhanh, sản lượng đã vượt nhu cầu nội địa, còn thừa để xuất khẩu.

Một mặt hàng xuất khẩu mới cũng phát triển rất nhanh từ 1863 là gỗ chất đốt và gỗ xây dựng. Thực tế nhu cầu gỗ để xây dựng đã có từ khi Pháp chiếm Sài Gòn. Do chiến sự tiếp diễn người Pháp chưa khai thác gỗ ở rừng Nam Kỳ nên phải nhập từ Singapore.

Năm 1863, tình hình ở ba tỉnh miền Đông ổn định, người Pháp mới xúc tiến việc khai thác gỗ rừng vừa đổ cung cấp cho nhu cầu tại chỗ vừa để xuất khẩu. Trị giá gỗ xuất khẩu vào 1864 lên đến 11 triệu quan Pháp.

Hàng nhập khẩu vào Sài Gòn gồm ba nhóm:

Nhóm 1: Thực phẩm và hàng hóa nhập từ Trung Hoa do Trung Hoa sản xuất, cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng của người Hoa tại Chợ Lớn, người Việt ở Sài Gòn và vùng phụ cận.

Nhóm 2: Thực phẩm và các sản phẩm phục vụ cho yêu cầu xây dựng thành phố Sài Gòn.

Nhóm 3: Thực phẩm và các sản phẩm do chính quyền thuộc địa cho nhập để nuôi quân, cung cấp cho các cửa hàng, cung cấp chất đốt cho các tàu hơi nước.

Tổng tải trọng hàng nhập và cảng Sài Gòn 1862 là 53.201 tônô. Trong số ba nhóm hàng nhập khẩu, nhóm hai là nhóm có nhiều mặt hàng phong phú với khối lượng lớn.
Việc phát triển mậu dịch giữa Sài Gòn với bên ngoài dần dần kéo theo sự phát triển nhiều ngành sản xuất mới. Trường hợp người Hoa ở Chợ Lớn nhập đường kết tinh để tái xuất sang Trung Quốc dẫn đến việc người Pháp cho thành lập nhà máy lọc đường tại Sài Gòn là một ví dụ. Trước đây việc đan bao đệm chủ yếu dùng để đựng hàng xuất khẩu, đến nă, 1862 bao đệm thành một mặt hàng xuất khẩu: năm 1862 xuất 417.998 chiếc; năm 1863 xuất 2.305.190 chiếc. Tương tự đối với muối ăn, tơ tằm, gỗ xây dựng....

Có thể nói thời điểm quân Pháp doàn tất việc chiếm đóng ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, hoạt động xuất nhập khẩu tại Sài Gòn càng lúc càng tấp nập. Hoạt động này là một trong số ít nguồn thu chính yếu của thuộc địa. Tính từ 1-7-1866 đến 30-6-1867 số tàu cập và rời bến Sài Gòn là 887 chiếc, với tổng giá trị hàng xuất nhập khẩu lên đến 53 triệu quan Pháp.

Như vậy cho đến giữa thập niên 60 của thế kỷ XIX Sài Gòn thực sự là một thành phố thương mại phồn thịnh, một thương cảng có sức thu hút mạnh, có đủ điều kiện bước vào cuộc đua tranh với các đô thị lớn ở khu vực Đông Nam Aá thời bấy
giờ như Singapore, Batavia (Djakarta), Manile.

Thursday, 22 August 2013

Phe phẩy (An Chi/Huệ Thiên - Năng Lượng Mới số 240 ,19-7-2013).


Phe phẩy (Năng Lượng Mới số 240 ,19-7-2013).

July 19, 2013 at 3:10am
Bạn đọc : Xin ông An Chi cho biết trong hai tiếng “phe phẩy”,  chỉ những phi vụ mua đi bán lại để  kiếm chác, thì “phẩy” nghĩa là gì và “phe” có phải là tiếng Pháp? Xin cám ơn.
                                                                      Tư Chạy Hàng, Bình Thạnh, TPHCM.
An Chi : Thực ra thì, trong trường hợp mà bạn hỏi, “phe” là một từ tiếm vị (tạm gọi là “phe2”) và “phẩy” chỉ còn là một từ ký sinh mà thôi. Mọi sự bắt đầu ở từ tổ vị từ “phe phẩy” gốc, trong đó “phe” là một từ cổ (tạm gọi là “phe1”) còn “phẩy” vẫn là một “sinh từ”, có tần số không phải là quá thấp, bây giờ vẫn còn xuất hiện trong danh ngữ “dấu phẩy”.
Ở đây, “phe1” là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ [披], mà âm Hán Việt hiện đại là “phi”, có nghĩa là “mở ra”, ‘banh ra”, “chia ra”, ‘xé ra”, v.v.. Chữ “phi” [披] gốc này đã đưa đến cho tiếng Việt bốn điệp thức: phayphephơiphui.
        “Phơi” thì nghĩa đã rõ ràng, như trong “phơi khô”, “phơi nắng”,v.v.. (Muốn phơi thì phải banh ra, trải ra). “Phui” là một từ cổ, vẫn còn tồn tại trong ngữ vị từ đẳng lập  “phanh phui” (“Phanh” và “phui” là hai từ gần nghĩa). “Phay” là “xắt lát”, “xé thành từng miếng”, như trong “thịt phay”, “gà xé phay”, v. v.. “Phe1” hiện nay đã trở thành một từ cổ nhưng nó còn để lại lưu tích trong văn thơ xưa, như trong câu “Mình cài xiêm lục phe đuôi phượng” của bài 57, tả cây cau, trong Hồng Đức quốc âm thi tập, hoặc trong câu “Chào người quân tử chẳng phe đuôi” của bài 70, tả con chó đá. Tiếc rằng có quyển như Từ điển từ cổ của Vương Lộc ( Nxb Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, 2001) lại không ghi nhận nó. Còn Từ điển từ Việt cổ của Nguyễn Ngọc San – Đinh Văn Thiện (Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2001) thì giảng là “khe khẽ lay đi lay lại”. Chúng tôi không phủ nhận nghĩa này nhưng, với chúng tôi thì nghĩa gốc của “phe1” là “mở ra”, xoè ra”. “Phe đuôi phượng” chẳng qua là “xoè đuôi phượng”. Theo chúng tôi thì “phe phẩy” vốn là một ngữ vị từ dùng để nói về cái động tác mà người ta thực hiện với chiếc quạt. “Phe” là  mở quạt, xoè quạt (loại quạt có nan) còn “phẩy” là phất qua phất lại. Chính là từ cái nghĩa gốc này mà về sau, từ “phe1” mới có nghĩa là “khe khẽ lay đi lay lại”.
Trở lại với trường hợp mà bạn hỏi, xin nói rằng “phe2” đã được Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học (Vietlex) do Hoàng Phê chủ biên (Nxb Đà Nẵng – Vietlex, 2007) giảng là thuộc về khẩu ngữ và có nghĩa là “làm việc mua đi bán lại bất cứ hàng hoá gì để kiếm lãi [hàm ý coi thường]”. Tiền thân của từ “phe2” đã có từ thời còn mồ ma thực dân Pháp: đó là hai tiếng “áp-phe” mà dân ta đã phiên âm từ tiếng Pháp “affaire” để chỉ những vụ làm ăn lớn. Sau giải phóng, cái đầu “áp” đã bị chặt bỏ nhưng cái đuôi “phe” thì vẫn được giữ lại để chỉ cái nghĩa mà từ điển Vietlex đã giảng. Vậy thì dù từ “áp-phe” đã mất đầu nhưng cái đuôi “phe” còn lại vẫn là một hình vị gốc Pháp, đúng như bạn đã nêu trong câu hỏi. Chúng tôi đã dùng danh ngữ “tiếng ngoại tịch” làm thuật ngữ để chỉ loại hình vị này, một thuật ngữ mà TS Lê Trung Hoa cho là ngữ học không có nói đến.
Bạn cũng đã đặt vấn đề: Trong trường hợp đang xét thì “phẩy” nghĩa là gì? Xin trả lời rằng từ này chỉ có nghĩa khi nó đi đôi với ‘phe1” để tạo thành từ tổ đẳng lập “phe1 phẩy”, mà Từ điển tiếng Việtcủa Trung tâm Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên giảng là “đưa qua đưa lại vật mỏng, nhẹ một cách nhẹ nhầng [nói khái quát]”. Nhưng khi đứng bên cạnh “phe 2” thì “phẩy” không có vai trò gì về tạo từ và ngữ nghĩa. Vì vậy nên chúng tôi mới gọi nó là một từ ký sinh ( còn “phe2” là một từ tiếm vị). Sự chiếm chỗ kiểu này – như của “phe2” đối với “phe1” – là một  điểm đặc biệt trong tiếng Việt để tạo ra tính xấu nghĩa mà thỉnh thoảng chúng tôi có nói đến.

Wednesday, 21 August 2013

Địa danh Việt Nam có thành tố "Bến" - Lê Trung Hoa


Địa danh Việt Nam có thành tố "Bến"

EmailIn
      
1.Theo số liệu sưu tập chưa thật đầy đủ của chúng tôi, trong địa danh Việt Nam có ít nhất 40 đơn vị có thành tố Bến ở trước. Bến là chỗ bờ sông, thường có bậc lên xuống để lấy nước, tắm giặt. Bến còn là nơi quy định cho tàu thuyền, xe cộ dừng lại để hành khách lên xuống, xếp dỡ hàng hoá.
2. Thành tố đứng sau có thể chia thành nhiều nhóm, như tên người, tên cây, tên  công trình xây dựng,…
2.1. Thành tố sau chỉ tính chất, chúng tôi mới tìm được một địa danh.
Bến En là vườn quốc gia bảo tồn rừng ở huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hoá, diện tích  16.634ha. Bến En là “bến lạnh”. Tiếng Việt có thành ngữ:“Run en phát rét”.
2.2. Thành tố thứ hai là một yếu tố ghép.
Bến Thủ là huyện cũ của tỉnh Long An, được lập ngày 11 – 3 – 1977 do nhập hai huyện Bến Lức và Thủ Thừa; đến ngày 14 – 1 – 1983 lại tách thành hai huyện như cũ. Bến Thủ là tên ghép chữ đầu của hai huyện [5].
2.3. Thành tố sau chỉ tên các con vật có mặt trong hai địa danh.
Bến Trâu là rạch ở phường 14, quận Sáu, tp. HCM, dài 1.400m. Tại rạch này có một bến nước trước đây người địa phương thường thả trâu xuống tắm.
Bến Nghé là tên một khúc sông Sài Gòn chảy qua tp. HCM. Bến Nghé là nơi trâu thường ngâm mình ở đây.
2.4. Yếu tố đứng sau có thể là tên các địa hình nơi ấy.
Bến Đầm  là khu công nghiệp và dịch vụ cảng ở huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bến Đầm  là “bến tại đầm nước”.
Bến Ghềnh là cầu trên quốc lộ 21, tỉnh Khánh Hoà, dài 167,8m. Bến Ghềnh vì tại bến này có một cái ghềnh.
Bến Hải là tên sông chảy giữa hai huyện Gio Linh và Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, dài 65km, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, chảy ra biển Đông tại cửa Tùng. Bến Hải cũng là tên  huyện cũ của tỉnh Quảng Trị, do nhập ba huyện Cam Lộ, Gio Linh và Vĩnh Linh ngày 11 – 3 – 1977, đến các năm 1990 – 1991, lại tách ra thành ba huyện như cũ. Bến Hải nửa thuần Việt nửa Hán Việt, nghĩa là “bến ở gần biển”. Âm gốc là Bến Hói (bến ở gần hói nước) [6]. Thuyết này có lý vì để ghi chữ Hói, người ta phải mượn âm chữ Hải [5].
2.5. Tiếp theo, thành tố sau có thể là tên các công trình xây dựng ở gần đối tượng.
Bến Cầu là huyện của tỉnh Tây Ninh, diện tích 233,3 km2, dân số 59.000 người (2006), gồm một thị trấn và 8 xã. Tên huyện ra đời năm 1961. Bến Cầu là “bến nằm cạnh cái cầu”.
Bến Dựa là địa điểm ở làng Bình Thuyên, tỉnh Định Tường, nay là tỉnh Tiền Giang. Bến Dựa vốn là Bến Vựa, vì tại bến này có vựa chứa hàng trước khi chuyển vào chợ Thuộc Nhiêu [5].
Bến Đình là địa điểm đậu thuyền ở tp. Vũng Tàu. Sau vì khi thuỷ triều xuống, ghe thuyền không vào được nên bỏ. Bến Đình, vì “bến ở gần đình làng Thắng Nhì”, Vũng Tàu. Bến Đình  cũng là vùng đất ở xã Lý Nhơn, huyện Cần Giờ, tp. HCM. Bến Đình làbến sông Soài Rạp, gần bến có một ngôi đình thờ ông Dương Văn Hạnh, một phó xã ở làng Lý Nhơn, kiên quyết không chỉ nơi ẩn núp của Trương Định nên bị Pháp chém đầu. Trong đình còn hai câu đối:
Kim trung báo chủ tâm hà cải;
Bỉnh tiết thù dân chí bất suy.
(Kiên trung báo chủ lòng không đổi;
Khí tiết vì dân chí chẳng suy).
Bến Kho là địa điểm ở khu Đồng Quan, làng Hoà Thuận, nay thuộc xã Long Khánh, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Bến Kho vì dưới thời Thiệu Trị, Tự Đức, ông Trâu Văn Điền, nhờ thế lực của người cô, được chọn làm quản lý khu Đồng Quan, làm kho chứa lúa tại đây trước khi nộp cho triều đình [11].
Bến Thành là chợ ở quận 1, tp. HCM.  Trước kia gọi là chợ Bến Nghé,  vì vào đầu tk. 19, chợ nằm sát bến Bạch Đằng nay. Cuối tk. 19, chợ được dời đến trên bờ kinh Lấp (đường Nguyễn Huệ nay). Năm 1870, chợ bị cháy. Năm 1911, chợ dời về vị trí hiện nay, đến tháng 3 – 1914 thì khánh thành. Bến Thành vì ban đầu chợ nằm gần bến Nghé và thành Gia Định [4].
2.6. Yếu tố sau có thể là tên người hoặc thần thánh.
Bến Dược là vùng đất ở xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi, tp. HCM, rộng 200ha. Trong những năm kháng chiến chống Pháp và Mỹ, dân địa phương đã đào nhiều đường hầm dưới lòng đất (địa đạo) dài hàng trăm cây số để đánh địch. Bến Dược do bến Bà Dược (tại đây có xóm Bà Dược) rút gọn mà thành [4].
Bến Giằng là thị trấn của huyện Nam Giang, tỉnh  Quảng Nam. Bến Giằng có lẽ nói tắt của bến Giằng Xay. Giằng xay là tên một loại cây, dùng làm thuốc dân tộc. Hoặc Giằng là biến âm của Giàng, tiếng dân tộc, nghĩa là “thần”, vì nơi đây có sông Giàng, huyện Giàng [5].
Bến Hiên vừa là bãi bồi vừa là thị trấn thuộc huyện Hiên, tỉnh Quảng Nam. Bến Hiên là dạng rút gọn của bến Ông Hiên, người đầu tiên đến đây khai phá, dựng nhà, là nơi gửi hàng hoá của người Kinh để trao đổi với đồng bào Cơ Tu  [9].
Bến Ma là cầu bắc qua sông Vũng Bầu, ở tp. Nha Trang, tỉnh  Khánh Hoà. Bến Ma là nơi tương truyền trước đây có nhiều ma [10].
Bến Quân là hồ ở xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Bến Quân, vì nơi đây quân Tây Sơn từng đóng trại khi ra Bắc đánh quân Thanh [2…, 688].
2.7. Thành tố sau chỉ những hoạt động của con người.
Bến Bối là rạch ở quận Bình Thạnh, tp. HCM, dài độ 700m. Bối là “ăn trộm trên sông”. Có lẽ tại bến này trước kia có nhiều kẻ trộm trên sông.
Bến Đổi là địa điểm nay thuộc xã Cẩm Giàng, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh. Cũng gọi Trường Đổi. Bến Đổi là “nơi trao đổi hàng hoá giữa người Việt và người Chăm” lúc quân Pháp mới xâm chiếm vùng này [3, 83 – 84].
Bến Kéo la địa điểm thuộc xã Long Thành, tỉnh Tây Ninh, trên quốc lộ 22, cách tỉnh lỵ 8km. Vì trước kia đường sá khó đi nên hàng hoá từ Sài Gòn chở đến đây phải tập trung lại để thuê xe bò chở tiếp. Bến Kéo là “bến tập trung xe để kéo hàng” [3, 66].
Bến Lội là cầu trên quốc lộ 1A, bắc qua suối Chai và suối Sâu, ở tp. Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, dài 37,8m, mới xây trước năm 1975. Bến Lội còn  địa điểm nằm sát bờ biển, thuộc xã Bình Châu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Vì nơi đây nước cạn, có thể lội qua suối dễ dàng [7;8].
Bến Ngự là vùng đất thuộc các phường Phước Vĩnh, Vĩnh Ninh, Trường An, tp. Huế. Nơi đây, Cụ Phan Bội Châu, một nhà ái quốc, bị thực dân Pháp giam lỏng trong thời gian 1925 – 1940. Bến Ngự là nơi các vua nhà Nguyễn tiến hành lễ tế Giao.
Bến Rớ là ngã ba nơi gặp nhau của sông Ba Tri cá trại và rạch Bần Quỳ, thuộc xã Châu Hoà, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Bến Rớ, vì nơi đây ngư dân có dựng một số rớ giàn để đánh bắt tôm cá.
Bến Thuỷ là cảng bên bờ sông Lam, nằm cách tp. Vinh, tỉnh Nghệ An 5km về hướng đông nam. Bến Thuỷ có nghĩa là “bến đóng tàu thuỷ” nói gọn lại.
2.8. Một số yếu tố vốn là sự vậtđặc sản hoặc  đặc điểm của nơi đó.
Bến Cát là huyện của tỉnh Bình Dương, mới tách ra từ huyện Bến Cát cũ năm 1999, diện tích 588,4km2, dân số104.900 người (2006), gồm thị trấn Mỹ Phước và 14 xã. Bến Cát là “bến có nhiều cát”.
Bến Dầu là chơ ở xã Đại Thạnh, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Bến Dầu là “bến chuyên bán dầu rái” [9].
Bến Đá là đèo ở chỗ giáp giới hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định, gần Tam Quan. Tên chữ là Thạch Tân. Bến Đá là “bến có nhiều đá” [5].
Bến Gỗ là địa điểm ở xã Hoà Hưng, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, có một di chỉ khảo cổ học thuộc văn hoá Chăm. Bến Gỗ  là “bến tập trung gỗ khai thác ở miền Đông để chở bằng thuyền về miền Tây tiêu thụ”.
Bến Phân là cầu nằm trên đường Thống Nhất, quận Gò Vấp, tp. HCM, dài 84,2m, rộng 7m. Bến Phân  ngày xưa là bến bánphân tằm để bón cho trầu và thuốc lá nên có tên trên [4].
Bến Súc là địa điểm bên quốc lộ 51, thuộc thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bến Súc xưa kia là nơi tập trung gỗ rừng để chở về miền Tây Nam Bộ tiêu thụ [8].
Bến Súc còn là cảng ở trên sông Sài Gòn, tại chỗ giáp giới của hai tỉnh Bình Dương và Tây Ninh. Bến Súc chỉ “bến chứa những khúc gỗ lớn”.
Bến Ván là sông chảy qua An Tân và đầm An Thái, tỉnh Quảng Nam, dài độ 6km. Tên chữ Hán là Bản Tân. Bến Ván cũng làcầu xe lửa bắc qua sông Bến Ván, tỉnh Quảng Nam, dài 1.640m [1]. Bến Ván  là “bến chứa nhiều ván”.
Bến Kiền là cảng trên sông Cấm, tp. Hải Phòng. Tại đây có khu công nghiệp đóng tàu đánh bắt cá lớn. Bến Kiền có lẽ là “bến có nhiều khúc gỗ cây kiền kiền” [5].
2.9. Sau cùng, thành tố sau là tên các loại cây cối ở địa điểm đó.
Bến Lức là tên sông nhánh của sông Vàm Cỏ Đông, dài 19km, chảy trên địa bàn huyện Bến Lức, tỉnh Long An và huyện Bình Chánh, tp. HCM. Bến Lức cũng là tên huyện của tỉnh Long An, diện tích 289,3km2, dân số 126.100 người (2006), gồm một thị trấn và 14 xã. Bến Lức còn là tên hai chiếc cầu trên quốc lộ 1A, bắc qua sông Vàm Cỏ Đông, chiếc cũ  dài 549m, chiếc mới dài 400m, rộng 12m. Bến Lức vừa gốc thuần Việt vừa gốc Khmer, là “bến có nhiều cây lứt”. Lứt (lức) gốc Khmer Rolưk [12], là một loại cỏ lá nhỏ, mọc theo bờ nước, rễ là vị thuốc sài hồ. Tên dịch ra từ Hán Việt của Bến Lức là Lật Giang [4].
Bến Tắt là địa điểm trên sông Bến Hải, thuộc huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Bến Tắt cũng là tên cầu bắc qua sông Bến Hải, trên đường Hồ Chí Minh, do Cu Ba xây dựng năm 1973, dài 150m, rộng 6m, được công nhận là di tích quốc gia năm 1986, bị lũ cuốn trôi năm 1985, được trục vớt tháng 12 – 2006. Bến Tắt là “bến có mọc nhiều mây tắt” [1].
Bến Tre là tỉnh ở Nam Bộ, diện tích 2.310km2, dân số 1,299 triệu người (2006), gồm 1 thị xã và 7 huyện. Tỉnh được thành lập ngày 1 – 1 - 1900. Tên dịch sang chữ Hán lá Trúc Giang (dịch không sát). Có hai cách lý giải: 1. Bến Tre là “bến có nhiều cây tre mọc”. Người Khmer cũng gọi tương tự Prêk Rưsei “rạch Tre”  [12]. 2. Dạng gốc là Srok Kompon Trey/Treay “xứ bến cá” [13]. Tại Bến Tre, người ta không thấy có nhiều tre, nên thuyết 2 có lý hơn.
Bến Lạc là đảo nhỏ ở phía bắc quần đảo Trường Sa, tỉnh Khánh Hoà. Bến Lạc vì bến ở vị trí tách ra khỏi quần đảo như bị lạc giữa biển khơi.
3. Hầu hết các địa danh trong bài này đều là từ thuần Việt. Chúng phản ảnh những con người, địa hình, cảnh vật, động vật… nơi chúng chào đời. Vì vậy, chúng như những bức tranh giúp chúng ta hiểu rõ hơn đất nước, lịch sử, văn hoá dân tộc.


  TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.      Đinh Xuân Vịnh, Sổ tay địa danh Việt Nam, HN, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2002.
2.      Đỗ Hữu Thích (trưởng ban biên tập), Địa chí Thanh Hoá, tập 1. Địa lý và lịch sử, HN, Nxb Văn hóa – Thông tin, 2000.
3.  Huỳnh Minh, Tây Ninh xưa, HN, Nxb Thanh niên, 2001.
4.  Lê Trung Hoa, Từ điển địa danh thành phố Sài Gòn – Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, 2003.
5.  Lê Trung Hoa, Từ điển từ nguyên địa danh Việt Nam, bản đánh máy, chưa xuất bản.
6.  Lê Văn Đức, Việt Nam từ điển, SG, Khai trí, 1970.
7. Phan Minh Đạo, Địa danh ở tỉnh Bình Thuận, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Sở, 2005.
8. Thạch Phương – Nguyễn Trọng Minh (chủ biên), Địa chí Bà Rịa – Vũng Tàu, HN, Nxb KHXH, 2005.
9. Thạch Phương – Nguyễn Đình An (chủ biên), Địa chí Quảng Nam, bản đánh máy, chưa xuất bản.
10. Trần Việt Kỉnh, Nha Trang có những dòng sông cổ, trong “Văn hoá sông nước miền Trung”, HN, Nxb KHXH, 2006, tr. 381 – 380.
11. Trương Ngọc Tường, Một số địa danh ở Tiền Giang, Văn hoá nghệ thuật Tiền Giang, tháng 11 – 2000, tr.27 – 31.
12. Trương Vĩnh Ký, x. Lê Hương, Người Việt gốc Miên, tr. 253 – 264. TS.Thái Văn Chải dịch phần Địa danh.
13. Vương Hồng Sển, Tự vị tiếng Việt miền Nam, HN, Nxb Văn hoá, 1993.

Tuesday, 20 August 2013

Thạch nữ là gì?



Thạch (âm Hán Việt của) là đá. Đá là biểu tượng của vô sinh, vô dụng.
Người vô dụng không khác gì con chó đá (thạch cẩu, 石狗) không biết giữ nhà, không biết đi săn.
Thạch nhân  (石人) là người ngu ngốc, không biết gì cả (như cái tượng đá).
Ruộng đất cày cấy được gọi là điền (). Thạch điền (石田) là ruộng không canh tác được, không thể sản sinh ra bất cứ thứ gì.
Thạch nữ () là người đàn bà không sinh đẻ được gì cả (femme stérile) (Đào Duy Anh,  (2005:809). Từ này cũng được dùng để chỉ người phụ nữ không có âm đạo hoặc dị tật âm đạo (màng trinh quá dày, ống âm đạo dính chặt...) nên không thể sinh hoạt chăn gối bình thường và không thể sinh con đẻ cái. Theo quan điểm đời xưa cũng là vô dụng.