Saturday, 2 November 2013

Nguyên tắc đặt tên phố và công viên tại Hà Nội năm 1946 (Hoàng Thị Hằng - Cục Văn Thư và Lưu Trữ Nhà Nước)

Nguyên tắc đặt tên phố và công viên tại Hà Nội năm 1946
Send this page to somebodyPrint this pageFeedback

Năm 1946, Nhà xuất bản Đại La có trụ sở tại số 46, phố Trần Thánh Tôn, Hà Nội đã cho phát hành “Bản đối chiếu tên phố Hà Nội mới và cũ”. Theo đó, nguyên tắc đặt tên phố Hà Nội khi đó được áp dụng như sau:
 A – Tên dùng:
 1 -  Giữ nguyên tên cũ của Hà Nội 36 phố phường
 2 – Tên anh quân, danh tướng, văn gia, chiến công, các nhà cách mệnh cũ và mới.
 3 – Danh nhân ngoại quốc có liên lạc với Việt Nam: Nhâm Diêm, Tôn Trung Sơn, Yersin.
 4 – Chia ra từng khu vực ở đó các tên phố có liên lạc với nhau.
 5 – Tên vườn hoa và khu phố (cité) cũng có liên lạc với phố liền đó.

 
 Phố Cầu gỗ
 Hàng hòm


 B – Tên vườn hoaTrừ tên Pasteur, các tên vườn hoa khác hoặc là một chiến công, hoặc là một nơi hội họp lịch sử. Tên vườn hoa lại liên lạc với tên phố hoặc có ý nghĩa tượng trưng.
 Ví dụ: Vườn Chí Linh ở phố Lê Lai;
 - Vườn Bính Thân ở phố Trần Hưng Đạo;
 - Vườn Ba Đình ở phố Phan Đình Phùng;
 - Vườn Diên Hồng ở trước Bắc Bộ phủ.

 Hàng Bạc


 C – Tên phố  Các vĩ nhân danh tiếng nhất đặt tên phố to nhất.
  Tên phố liên can đến nơi có các việc đã xảy ra.
  Chia ra từng khu vực tên có liên lạc với nhau:
Khu Độc lập có:
 - Vườn Độc lập
- Vườn Dân chủ cộng hoà
- Vườn Nhân Quyền
-  Phố Hùng Vương (tượng trưng độc lập đầu tiên v.v...).
Khu Quốc Tử Giám:
- Phố Sĩ Nghiệp
- Phố Chu Văn An
- Phố Ngô Sĩ Liên v.v...
 Khu trường Đại học:
- Phố Lê Thánh Tôn
- Phố Trạng Trình
- Phố Hàn Thuyên v.v...
Quanh thành cũ:
- Các tướng: Phan Đình Phùng, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu.
- Khu bờ sông: các chiến công ở trên bờ sông như Bạch Đằng, Vạn Kiếp, Vân Đồn v.v...
- Các tướng đã đánh trận đó: Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Nguyễn Khoái v.v...
Khu hồ Hoàn Kiếm: quanh hồ có phố Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi, Lê Lai, Lê Thạch v.v...
Khu giải phóng có phố Giải phóng, phố Đô Lương, phố Thái Nguyên, phố Tân Trào.
D – Tên khu (cité)Quê hương các vĩ nhân hoặc tên có ý nghĩa:
Phố Trần Hưng Đạo có các khu: Tức Mạc, Kiếp Bạc.
Phố Duy Tân có khu Nam Nghĩa.
Phố Trần Thánh Tôn có khu Thiên Trường v.v...
Ngoài ra có mấy khu không liên lạc với tên phố nhưng để nhắc lại cảnh đau đớn của ách nô lệ: Cổ Am, Nghĩa Lộ v.v....

BẢN ĐỐI CHIẾU TÊN PHỐ HÀ NỘI MỚI VÀ CŨ NĂM 1946 
PHỐ MỚI
PHỐ CŨ

A
Phố  Ấu Triệu
Rue Marcel Loget

B
Phố bà Triệu
Rue Lê Lợi
Phố bà Trưng
Boulevard Rollandes
Phố bà huyện Thanh quan
Rue Mạc Đĩnh Chi
Đường Bạch Đằng
Đường cát bờ sông
Phố Bạch Thái Buởi
Rue Hilairet
Phố Bạch Vân
Cité Krug
Phố Bắc Ninh
Rue Maréchal Pétain
Phố Bảo Anh
Voie 206B
Phố Bảo Khánh
Rue Pottier
Phố Bích Câu
Rue Alexandre
Phố Bình Chuẩn
Rue Rondony
Phố Bình Chuẩn
Rue des Scaux
Phố Bùi Bá Kỳ
Rue Capitaine Brusseaux
Phố Bùi Huy Bích
Route de Sinh Từ
Phố Bùi Quang Trinh
Rue Chanceaulme

C
Phố Cao Bá Quát
Rue de Tuyên Quang
Phố Cao Thắng
Rue Destenay
Phố Cầu Đất
Digue Fellonneau
Đường Cách mệnh tháng 8
Route de Cóng Vọng
Đường Cát Linh
Route de Cát Linh
Phố Chu Mạnh Trinh
Rue Berthe de Villiers
Phố Cấm Chỉ
Rue Llonde
Phố Chùa Quan Thượng
Rue Boissière
Phố Chùa Vua
Voie 230
Phố Chả Cá
Rue de la Laque
Phố Cầu Gỗ
Rue du Pont en bois
Ngõ Châu Long
Ruelle Châu Long
Ngõ Chúc Lạc
Impasse Chúc Lạc
Phố Chân Cầm
Rue Lagisquet
Phố chợ Đồng Xuân
Rue du Riz
Phố Cổng Đục
Ruelle des Etoffres
Phố Cửa Bắc
Rue Đỗ Hữu Vị
Phố Cửa Đông
Rue Général Bichot
Phố Cửa Nam
Rue Neyret
Đường Cổ Ngư
Avenue Maréchal Lyautey
Khu Cổ Am
Cité Tràng Khánh

D
Đường Dân Quyền
Avenue Honoré Tissot
Đường Dân Quyền
Rue de la République
Đường Dân Chủ Cộng Hoà
Avenue Puginier
Phố Duy Tân
Route de Huế
Ngõ Duy Tân
Rue Sergent Giác

Đ
Đường Đại La
Route Circulaire
Phố Đào Duy Từ
Rue de l’ancien canal
Phố Đào Duy Từ
Rue Đào Duy Từ
Phố Đỗ Quyên
Rue Hà Văn Ký
Đường Đô Lương
Voie 267
Phố Đặng Tất
Rue Mme Autigeon
Phố Đặng Dung
Rue Dieulefils
Phố Đoàn Thị Điểm
Rue Auguste Tholance
Phố Đồn Thuỷ
Rue de France
Phố Đặng Đình Nhân
Rue Enseigne Hautefeuille
Phố Đặng Trần Côn
Rue Maurice Graffeuit
Phố Đặng Thái Thân
Rue Laubarède
Phố Đình Ngang
Rue Tour Citadelle
Đường Đại Cồ Việt
Voies 164-202-220
Ngõ Đông Thái
Ruelle Đông Thái
Phố Đội Cung
Rue Chapuis
Đường Đội Cấn
Route Champ des Courses
Phố Đường Thành
Rue de la Citadelle
Phố Đinh Tiên Hoàng
Rue Đinh Tiên Hoàng

G
Phố Gia Ngư
Rue Nguyễn Du
Phố Gia Ngư
Rue Tirant
Đường Giải Phóng
Voie 232

H
Phố Hàng Bát Đàn
Rue Vieille des Tasses
Phố Hàng Bè
Rue des Radeaux
Phố Hàng Bồ
Rue des Paniers
Phố Hàng Bún
Rue des Vermicelles
Phố Hàng Bút
Rue Cambanière
Phố Hàng Bông
Rue du Coton
Phố Hàng Bông Thợ Ruộm
Rue Jean Soler
Phố Hàng Bông Thợ Ruộm
Rue des Teinturiers
Phố Hàng Bạc
Rue des Changeurs
Phố Hàng Bột
Rue Soeur Antoine
Phố Hàng Buồm
Rue des Voiles
Phố Hàng Cá
Rue de la Poissonnerie
Phố Hàng Cót
Rue de Takou
Phố Hàng Chai
Ngõ Ngang
Phố Hàng Chĩnh
Rue des Vases
Phố Hàng Chiếu
Rue des Nattes
Phố Hàng Chỉ
Impasse Hàng Chỉ
Phố Hàng Cân
Rue des Balances
Phố Hàng Da
Rue des Cuirs
Phố Hàng Dầu
Rue du Lac
Phố Hàng Đậu
Rue des Graines
Phố Hàng Đào
Rue de la Soie
Phố Hàng Điếu
Rue des Pipes
Phố Hàng Đường
Rue du Sucre
Phố Hàng Đồng Bát Sứ
Rue des Tasses
Phố Hàng Gà
Rue de Tiên-tsin
Phố Hàng Gai
Rue du Chanvre
Phố Hàng Giấy
Rue du Papier
Phố Hàng Hành
Ruelle des Oignons
Phố Hàng Hòm
Rue des Caisses
Đường Hạnh Phúc
Rue Ollivier
Phố Hàng Khoai
Rue des Tubercules
Phố Hàng Lọng
Route Mandarine
Phố Hàng Lược
Rue Sông Tô lịch
Phố Hàng Mã
Rue du Cuivre
Phố Hàng Mành
Rue des Stores
Phố Hàng Mắm
Rue de la Saumure
Phố Hàng Muối
Rue du Sel
Phố Hàng Ngang
Rue des Cantonnais
Phố Hàng Nón
Rue des Chapeaux
Phố Hàng Phèn
Rue du Vieux Marché
Phố Hàng Quạt
Rue des Eventails
Phố Hàng Rươi
Rue des Vers Blancs
Phố Hàng Than
Rue du Charbon
Phố Hàng Tre
Rue des Bambous
Phố Hàng Trống
Rue Jules Ferry
Phố Hàng Thiếc
Rue des Ferblautiers
Phố Hàng Vôi
Rue de la Chaux
Ngõ Hàng Vôi
Passage de la Chaux
Phố Hàn Thuyên
Rue Pavie
Phố Màn Chiểu
Rue Jean Dupuis
Phố Hàng Vải
Rue des Etoffes
Khu Hàng Cỏ
Cité Chấn Hưng
Phố Hà Trung
Rue Hà Trung
Ngõ Hà Trung
Impasse Hà Trung
Phố Hai Hiên
Rue Grappin
Phố Hai Tượng
Ruelle Hai Tượng
Khu Hà Hồi
Cité Jauréguiberry
Phố Hàm Long
Rue Doudart de Lagrée
Đường Hàm Tử Quan
Route Cầu Đất
Phố Hàm Nghi
Voie 143
Phố Hồ Xuân Hương
Rue Pierre Jahouille
Phố Hoả Lò
Rue de la Prison
Đường Hoàng Diệu
Rue Pierre Pasquier
Đường Hoàng Hoa Thám
Digue Parreau
Ngõ Hội Vũ
Ruelle Hội Vũ
Phố Hồng Đức
Rue Capitaine Pouligo
Phố Hoà Mã
Rue Amiral Sénès
Ngõ Hoà Mã
Rue Alfred Logerot
Phố Hùng Vương
Avenue Brière de l’Isle
Phố Hoa Giai
Voie 34
Phố Huấn Quyền
Voie 170b

K
Phố Ký Con
Rue Général Constant
Phố Kinh Dương Vương
Ruec Jacquin
Phố Khâm Thiên
Route Khâm Thiên
Khu Kiếp Bạc
Cité Thịnh Đức
Phố Khuông Việt
Rue Jouhaux
Phố Khúc Hạo
Rue Leblanc

L
Phố Lãn Ông
Rue Calmette
Phố Lạc Long Quân
Rue Hérel Brisis
Đường Lê Đại Hành
Boulevard Hoàng Cao Khải
Phố Lê Bình
Rue Charron
Phố Lê Lai
Avenue Dominé
Phố Lê Cảnh Tuân
Rue Général de Badens
Phố Lê Hữu Cảnh
Rue Monseigneur Deydier
Phố Lê Ninh
Rue Odendhal
Phố Lê Chân
Rue Paul Simoni
Phố Lê Như Hổ
Voie 203
Phố Lê Phụng Hiểu
Voie 209
Phố Lê Quý Đôn
Rue Général de Beylié
Phố Lê Trực
Rue Général Leblois
Phố Lê Thạch
Rue Chavassieux
Phố Lê Thái Tổ
Avenue Beauchamps
Phố Lê Thánh Tôn
Avenue Bobillot
Phố Lê Thái Tổ
Rue Francis Garnier
Phố Lê Văn Hưu
Rue Laveran
Phố Lò Rèn
Rue des Forgerons
Phố Lữ Gia
Rue Luro
Phố Lục Tỉnh
Rue Bonhour
Phố Lò Đúc
Rue Armand Rouseau
Phố Lương Văn Can
Rue Lê Quí Đôn
Phố Lương Ngọc Quyến
Rue Nguyễn Khuyến
Phố Lý Thái Tổ
Boulevard Amiral Courbet
Phố Lý Quốc Sư
Rue Lamblot
Phố Lý Thường Kiệt
Boulevard Carreau

M
Phố Mã Mây
Rue des Pavillons Noirs
Phố Mai Hắc Đế
Boulevard Gia Long
Phố Mai Xuân Thưởng
Rue Hậu Quân Chất
Phố Minh Khai
Rue Duvigneau
Phố Một Cột
Rue Elie Groleau

N
Đường Nam Bộ
Route Bạch Mai
Phố Nhà Thờ
Rue de la Cathédrale
Phố Nhà Hoả
Rue Feisamel
Phố Nhà Chung
Rue de la Mission
Phố Nam Ngư
Rue Nam Ngư
Khu Nam Nghĩa
Cité Tràng An
Đường Nhân Quyền
Avenue Paul Doumer
Phố Nhâm Diên
Rue Van Vollenhoven
Phố Ngô Sĩ Liên
Voies 210 - 237
Phố Ngô Sĩ Liên
Rue Lý Thường Kiệt
Phố Ngõ Gạch
Rue des Briques
Phố Ngõ Trạm
Rue Bourret
Phố Ngô Quyền
Boulevard Henri Rivière
Khu Nghĩa Lộ
Cité Thuận Lợi
Đường Ngũ Xã
Rue Trần Hưng Đạo
Phố Nguyễn Biểu
Rue des Frères Schneider
Phố Nguyễn Chế Nghĩa
Rue Bernard Debeaux
Phố Nguyễn Du
Rue Dufourcq
Phố Nguyễn Du
Rue Halais
Phố Nguyễn Đình Chiểu
Rue Julien Blanc
Phố Nguyễn Du
Rue Riquier
Phố Nguyễn Công Trứ
Voie 268
Phố Nguyễn Công Trứ
Cité Văn Tân
Phố Nguyễn Huy Tự
Rue Barona
Phố Nguyễn Huy Tự
Rue Trạng Trình
Phố Nguyễn Mại
Ngõ Huyện – Voie C
Phố Nguyễn Mậu Kiên
Rue Duranton
Phố Nguyễn Phạm Tuân
Rue Galet
Phố Nguyễn Phạm Tuân
Rue Gelet
Phố Nguyễn Thị Bình
Rue Gauducheau – Voie 163
Phố Nguyễn Thị Kim
Rue du docteur Constant Mathis
Phố Nguyễn Thành Hiền
Rue Capitaine Labrousse
Phố Nguyễn Thượng Hiền
Rue Mongrand
Phố Nguyễn Thái Học
Rue Blockhaus Nord
Phố Nguyễn Trãi
Rue Albert Pouyane
Phố Nguyễn Tri Phương
Rue Maréchal Joffre
Phố Nguyễn Trường Tộ
Rue Jambert
Phố Nguyễn Văn Trạch
Rue de l’Hôpital chinois

O
Phố Ôn Như Hầu
Rue Bonifacy
Phố Ông Ích Khiêm
Rue Général Mangin

P
Phố Phan Bội Châu
Rue Colomb
Phố Phan Đình Phùng
Boulevard Carnet
Phố Phan Chu Trinh
Rue Duvillier
Phố Phan Thanh Giản
Rue Leclanger
Phố Phan Thanh
Rue Nguyễn Trãi
Phố Phan Huy Chú
Rue Raffanel
Phố Phan Phú Tiến
Voie 206
Phố Phạm Đình Hổ
Rue Administrateur Cheon
Phố Phạm Ngũ Lão
Rue de la Concession
Phố Phạm Phú Thứ
Rue Phạm Phú Thứ
Phố Phạm Cập Trai
Voie 205
Phố Phạm Sư Mạnh
Rue de la Sapèquerie
Phố Phất Lộc
Ruelle Phất Lộc
Phố Phó Đức Chính
Rue Antoine Bonnet
Phố Phó Đức Chính
Rue Nguyễn Công Trứ
Phố Phúc Kiến
Rue des Phúc Kiến
Phố Phù Đổng
Rue des Pescadores
Phố Phùng Hưng
Rue Henri d’Orléans
Phố Phương Đình
Rue Án sát siêu

Q
Phố Quán Sứ
Rue Richaud
Đường Quan Thánh
Boulevard Grand Bouddha
Phố Quang Trung
Boulevard Jauréguiberry
Đường Quốc Tử Giám
Voie 238

S
Phố Sĩ Nhiếp
Rue Cao Đắc Minh
Đường Sơn Tây
Route de Sơn Tây

T
Phố Tạ Hiện
Rue Géraud
Ngõ Tân Trào
Voies 233 – 260b
Đường Tao Đàn
Voie 106
Phố Tản Đà
Voie 103
Phố Tăng Bạt Hổ
Voie 140 - 162
Ngõ Tạm Thương
Ruelle Tạm Thương
Phố Tô Hiệu
Rue Wiélé
Ngõ Tô Tịch
Ruelle Tô Tịch
Phố Tế Sinh
Voie 237
Phố Thi Sách
Rue Rodier
Ngõ Thanh Hà
Ruelle Thanh Hà
Ngõ Thanh Miện
Ruelle Thanh Miện
Đường Thái Nguyên
Voie 262
Đường Thuý Ái
Voie 159
Phố Thủ Khoa Trung
Rue Trippenbach
Ngõ Thọ Xương
Voie 13 Ngõ Huyện
Phố Thái Phiên
Rue Goussard
Phố Tân Trào
Rue Gustave Dumoutier
Phố Thuốc Bắc
Rue des Médicaments
Phố Thủ Khoa Huân
Rue de la Pépinère
Phố Tô Hiến Thành
Rue Fourès
Phố Tôn Thất Thuyết
Rue Félix Faure
Phố Tôn Thất Thuyết
Rue Galliéni
Phố Tôn Trung Sơn
Rue Giovanninelli
Phố Tống Duy Tân
Rue Henri de Monpezat
Phố Tôn Đản
Rue Lambert
Phố Tán Thuật
Rue Nguyễn Duy Hàn
Phố Tán Thuật
Rue Lataste, Lepage
Khu Thiên Trường
Cité Đại Lợi
Phố Triệu Quang Phục
Boulevard Đồng Khánh
Phố Trần Hưng Đạo
Boulevard Gambetta
Phố Tăng Bạt Hổ
Rue Commandant Révérony
Phố Trần Nguyên Hãn
Rue Balny
Phố Trần Nhật Duật
Rue Clémenceau
Phố Trần Quý Cáp
Rue Crévot
Phố Trần Bình Trọng
Rue Delorme
Phố Trần Quang Khải
Quai Guillemoto
Phố Trần Thánh Tôn
Rue Harmand
Phố Trần Cao Vân
Rue Nguyễn Trọng Hiệp
Phố Trần Quốc Tonả
Rue Reinach
Phố Trần Phú
Rue René Daurelle
Phố Trần Nhân Tôn
Rue Résident Miribel
Phố Trần Khánh Dư
Quai Rheinart
Phố Tràng Thi
Rue Borgnis Desbordes
Phố Tràng Tiền
Rue Paul Bert
Phố Trạng Trình
Rue Rialan
Phố Trương Hán Siêu
Rue Robert
Phố Trương Vĩnh Ký
Voie 221
Phố Trúc Bạch
Voie des 2 soeurs Trưng
Ngõ Trung Yên
Ruelle Trung Yên
Khu Tức Mạc
Cité Tân Hưng
Phố Tự Do
Rue Président Morel
Phố Tích Quang
Rue Ch. Coulier

V
Đường Vân Đồn
Đường đất ra sông
Khu Văn Thân
Cité Vĩnh Thái
Ngõ Vọng Đức
Rue Vọng Đức

X
Phố Xứ Nhu
Rue Tiền Quân Thành

Y
Phố Yên Ninh
Rue Bourrin
Phố Yên Đổ
Rue Dutreuil de Rhins
Phố Yên Thế
Place Foch
Phố Yết Kiêu
Rue Bovet
Đường Yên Bái
Voie 233
Ngõ Yên Thành
Impasse Yên Thành
Ngõ Yên Thái
Ruelle Yên Thái
Phố Yersin
Rue Sergent Larrivé
Đê Yên Phụ
Digue Yên Phụ

Các công viên
Ba Đình
Hàng Đậu
Bắc Sơn
Cửa Nam
Bính Thân
Trước nhà thuơng Đồn thuỷ, đầu đường Trần Hưng Đạo
Bãi Sậy
Cạnh Phủ Toàn quyền cũ
Chi Lăng
Canh Nông
Chí Linh
Cạnh Bưu điện
Độc Lập
Trước Phủ Toàn quyền cũ
Diên Hồng
Trước Bắc Bộ phủ
Hoa Lư
Trước trường Đại học
Kính Thiên
Giữa đường Hùng Vương
Lam Sơn
Bách Thú
Lãng Bạc
Trông ra Hồ Tây
Mê Linh
Góc hàng Bông thợ ruộm
Pasteur
Trước trường Pasteur
Vũ Quang
Phố Tăng Bạt Hổ cạnh nhà thương Đồn thuỷ
Yên Thế
Cạnh Nhà hát lớn
Tây Sơn
Cạnh Thư viện

Hoàng Thị Hằng - Phòng Tổ chức sử dung tài liệu Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I

Friday, 1 November 2013

Mộng tinh là gì?


Mộng tinh là chứng xuất tinh khi nằm mơ giao hợp (Hoàng Phê, 2006:642). Giao hợp là giao cấu (chỉ nói về người) (Hoàng Phê, 2006:392 và Nguyễn Kim Thản, 2005:671). Nhà soạn từ điển lại chỉ công nhận sự giao cấu giữa một động vật giống đực và một động vật giống cái. Như vậy người đàn ông đồng tính luyến ái không thể mộng tinh. Nhà thuốc chỉ làm thuốc chữa mộng tinh cho người đàn ông mơ ngủ tưởng như mình giao hợp với người đàn bà.

Wednesday, 30 October 2013

Hiến binh Pháp ở Đông Dương giai đoạn 1945-1955 được tổ chức như thế nào?



Khi Pháp mới mon men trở lại xứ Đông Dương, ngoài số quân cảnh (prévôté) tháp tùng đoàn quân viễn chinh của tướng Leclerc, có một nhúm hiến binh thuộc địa (gendarmerie coloniale)  được Leclerc giải thoát khỏi các trại giam Nhật Bản và tổ chức thành một phân đội hiến binh Nam Đông Dương (gendarmerie de l’Indochine sud). Chính quốc phải rút số vệ binh cộng hòa (garde républicaine) đang làm nhiệm vụ chiếm đóng ở Đức, Bắc Phi cộng với quân ở Pháp, thành lập ba đoàn (légion – tương đương trung đoàn) vệ binh cộng hòa gửi qua Đông Dương. Vào đầu năm 1947, ba đoàn này có 3095 quân (95 sĩ quan + 2840 hạ sĩ quan).
Đoàn 1 làm nhiệm vụ tổ chức, huấn luyện và chỉ huy lính gạc (Garde civile de Cochinchine, sau đổi tên là Garde Républicaine de Cochinchine – Vệ Binh Cộng Hòa Nam Kỳ, năm 1948 lại đổi tên thành Garde du Viêt-Nam Sud – Vệ Binh Nam Việt. Năm 1950, khi các tiểu đoàn Việt Nam (bataillon vietnamien - BVN) được thành lập, chỉ huy trưởng đoàn 1 cũng là trưởng phái bộ tổ chức lực lượng vũ trang Nam Việt Nam kiêm tham mưu trưởng bộ quốc phòng của chính phủ (ngụy) Việt Nam.
Đoàn 2 được triển khai quanh Sài Gòn với nhiệm vụ rất đa dạng: chỉ huy hiến binh Lào, quân đội hoàng gia Khờ me (ARK), coi tù quân sự (PIM), chỉ huy thân binh bảo vệ các đồn điền cao su của hãng Michelin, hộ tống các đoàn yếu nhân và các nhiệm vụ an ninh khác.
Đoàn 3 được triển khai ở Bắc Kỳ với nhiệm vụ tương tự nhiệm vụ của đoàn 1.
Từ 1946 đến 1956 có 14 000 lượt người sang Đông Dương phục vụ trong lực lượng hiếnbinh. Thời hạn phục vụ được quy định là hai năm. Trước năm 1955, trên lãnh thổ Đông Dương thường xuyên có mặt khoảng ba ngàn hiến binh quốc gia Pháp.
Trong suốt cuộc chiến ở Đông Dương có 654 vệ binh cộng hòa tử trận hoặc mất tích (trong đó có 62 sĩ quan) và 1500 người bị thương.

Tuesday, 29 October 2013

Kỵ binh nào đánh nhau với Việt Minh ở Vĩnh Yên?



Đêm ngày 14, tại Vĩnh Yên, ngoài tiểu đoàn Mường bị thiệt hại nhẹ, Vanuyxem chỉ còn thu thập được 240 lính ky binh Angiêri và 280 lính Ma rốc, đều kiệt sức, đạn dược đã cạn, thấp thỏm chờ đợi từng phút một đợt tiến công mới của bộ đội ta.

(Võ Nguyên Giáp – Đường tới Điện Biên Phủ)

Trong thành phần của binh đoàn cơ động / liên đoàn lưu động số 3 (GM3) của trung tá Vanuxem có một đơn vị kỵ binh mang phiên hiệu 8e G(E)SAP. Về thực chất, đó là một đơn vị bộ binh tương đương tiểu đoàn. Phiên hiệu đầu tiên của 8e G(E)SAP  lúc đổ bộ lên Đông Dương (18/4/1949) là 8ème Groupe (d’Escadrons) de Spahis Algériens à Pieds họ không cưỡi ngựa cũng chẳng có xe pháo gì và mang danh là kỵ binh nhưng toàn đi bộ (tiếng Pháp là à pieds, tiếng Anh gọi là dismounted) và cho tới tháng 12/1951 chiến đấu không khác gì bộ binh (Michel Bodin, 2000:22 ; Michel Bodin, 2007:63-79). Các đơn vị khác rất ngán hành quân chung với 8e G(E)SAP vì bọn này có huông đánh đâu thua đó (une réputation de scoumoune tenace). Trong trận Bảo Chúc (Vĩnh Yên, ngày 14/1/1951)  8e G(E)SAP mất 40% lực lượng (8 sĩ quan, 24 hạ sĩ quan và 163 binh lính). Tàn quân được tổ chức lại thành 2 chi đoàn tạm (escadron de marche) cầm cự cho đến khi quân của tướng Giáp rút lui.

Sau trận Vĩnh Yên 8e G(E)SAP được bổ sung một chi đoàn người Mường và ba biệt đội phụ lực quân, nhưng vẫn giữ phiên hiệu 8e G(E)SAP của kỵ binh xpahi An-giê-ri. Tên mới đầy đủ là 8ème Groupe (d’Escadrons) de Spahis Algériens Portés (liên chi đoàn số 8 [kỵ binh] xpa-hi An-giê-ri thiết vận). Nhiệm vụ mới là làm bộ binh tùng thiết cho hai chi đoàn chiến xa Chaffee M-24 của thiết đoàn  số 1 (1er Chasseurs).

Tháng 1-1953 8e G(E)SAP trở thành 8e RSA (régiment de spahis algériens – trung đoàn kỵ binh xpahi An-giê-ri số 8, một phiên hiệu đã bị xóa bỏ vào tháng 5-1946) để trở thành một trung đoàn kỵ binh thực thụ. Thành phần mới có 1 chi đoàn chiến xa (4 chi đội, mỗi chi đội 4 xe tăng M24), 3 chi đoàn bộ binh cơ giới ngồi xe GMC (mỗi chi đoàn có 4 chi đội bộ binh và 1 chi đội trợ chiến), 1 chi đoàn thiết vận (4 chi đội, mỗi chi đội 4 xe háp-trắc + 1 chi đội súng cối 81), 1 chi đoàn văn phòng.

Monday, 28 October 2013

Nổ tung hay nổ văng miểng?



Đối với các tướng của ta (Lê Hồng Anh, Nguyễn Quang Phòng, Chu Duy Kính...), chiến hạm Amyot d’Inville (A-mi-ô-đanh-vin) đã thực sự nổ tung như xi-la-ma trong đêm 26 rạng ngày 27 tháng 9 năm 1950 ở ngoài khơi Sầm Sơn:

Chuyện chiến hạm Pháp bị điệp viên Việt Minh mang chất nổ đánh đắm được sách báo chính thức của ta hiện nay (Nhân Dân) xem là sự thật lịch sử khách quan, bất khả hồ nghi. Gần nửa thể kỷ sau chiến công lẫy lừng đó, nữ tìnhbáo viên Nguyễn Thị Lợi bỗng... được phong anh hùng và được dựng tượng (như Lê Văn Tám), dựng bia ghi công. Người ta còn đưa ra được bức quyết tâm thư của chị Lợi, chứng tỏ chuyện chị thanh thản đi vào chỗ chết không có liên quan gì tới những lần tự tử bất thành trước đó vì đau buồn riêng tư.
Christopher E. Goscha (2007:124) bảo rằng Hoàng Đạo đưa chị Lợi thuốc ngủ. Nói như vậy là làm giảm tầm vóc chiến công của ta. Sách báo của ta chỉ thừa nhận chuyện Chị Lợi lên tàu lấy lý do bị mệt vì say sóngdo đi từ bờ ra nên xin phép được về phòng nghỉ trước.

Giặc Pháp không công nhận tàu Amyot d’Inville bị nổ tung và bị đánh chìm cùng với thủy thủ đoàn. Trên bản tin tháng 10/1950 (trang 26) của Bộ Pháp Quốc Hải Ngoại, chúng chỉ nói là một vụ nổ xảy ra trên tàu Amyot d’Inville làm hạm trưởng thiếu tá Aubin (ông này xui: vừa lên hạm trưởng vài ngày thì mất mạng) và một thủy thủ thiệt mạng, không nhắc gì đến điệp viên Việt Minh (Le 27 septembre, à bord de l’aviso “Commandant Amyot d’Inville” une explosion s’est produite causant la mort du capitaine de corvette Aubin et d’un matelot;). Thông tin như thế cũng là gian dối, nhưng tàu chỉ có 8 sĩ quan, 32 hạ sĩ quan, 61 thủy thủ thành ra muốn chết đến 200 người (gồm một trung tá, hai đại úy và tám trung úy) cũng không được vì là tàu chiến, không nhồi nhét người như tàu đưa người vượt biên. Và một con tàu dài 78 mét, ngang 8,48 mét với 1 tháp pháo 2 khẩu 105 mm, 1 khẩu 40 mm, 6 khẩu phòng không 20 mm, 4 súng cối, 2 súng phóng lựu không thể chìm xuống biển khơi rồi lại trồi lên để về neo đậu tại Sài Gòn, sau đó túc tắc sang Nhật sửa chữa.

Ngày 3 tháng 8 năm 1951 tàu Amyot d'Inville được tuyên dương cấp quân đoàn. Phó đô đốc Ortoli, tư lệnh hải quân tại Viễn Đông viết trong bản tuyên dương như sau:


Sous les commandement successifs des capitaines de corvette Rieu, Majoyer, Maget et Roux a effectué des opérations fructueuses de surveillances en mer ayant abouti à la destruction de plusieurs centaines de tonnes de jonques rebelles et à la capture d'armes, de matériel et de ravitaillement au cours des 850 journées de mer représentant un parcours de plus de 75000 nautiques dans les eaux indochinoises entre le 1er février 1948 et le 1er juin 1951.
(Roux là hạm trưởng của Amyot d'Inville sau khi thiếu tá Aubin chết)
...
En dépit d'une grave explosion à son bord, du fait de l'ennemi, par un effort de tout son personnel a retrouvé très rapidement sa disponibilité et repris son activité.
(Mặc dù bị địch gây ra một vụ nổ nghiêm trọng trên tàu, nhờ nỗ lực của toàn thể nhân viên, tàu đã nhanh chóng phục hồi tình trạng khiển dụng và hoạt động trở lại)

Chỉ hơn một năm sau khi bị công an ta đánh chìm, tàu Amyot d’Inville từ Nhật trở về làm nhiệm vụ canh phòng trên biển như trước. Tháng 7-1966 nó mới bị hải quân Pháp khai tử (https://memorial-national-des-marins.fr/j/3625-amyot-d-inville). 

Sunday, 27 October 2013

Một cách nhìn chủ quan, phiến diện (Phùng Kim Lân - Quân Đội Nhân Dân)


Làm thất bại chiến lược "Diễn biến hòa bình"
QĐND - Chủ nhật, 27/01/2013 | 21:25 GMT+7
QĐND - Gần đây, trên một số trang mạng và cơ quan truyền thông ở nước ngoài, trong đó có hãng BBC xuất hiện bài viết dưới nhan đề “So sánh hai biến cố tháng Tám”- so sánh Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam và cuộc chính biến tháng 8-1991 ở Liên Xô dựa vào những cảm nhận của ông Nguyễn Minh Cần - theo bài viết là người đã chứng kiến cả hai sự kiện đó. Đọc bài viết nói trên, những người Việt Nam yêu nước và có lòng tự trọng không khỏi bức xúc, bất bình trước sự so sánh khập khiễng với dụng ý xuyên tạc sự thật và những ý kiến cá nhân mang tính tư biện, suy diễn một cách chủ quan, phiến diện của ông Cần.
Khi được hỏi cảm nhận về Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam, ông Nguyễn Minh Cần nói rằng: “Chúng tôi tham gia Cách mạng tháng Tám với ý nghĩ chân thành, đất nước được tự do, độc lập với những lời hứa hẹn của Việt Minh lúc bấy giờ là mở rộng dân chủ, tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, hội họp, ngôn luận… Đáng tiếc là khi Đảng Cộng sản lên cầm quyền những điều đó đã không được thực hiện”. Ông Cần càng tỏ rõ sự hồ đồ khi cho rằng: Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam và "cách mạng Dân chủ" (theo cách nghĩ của ông Cần) ở Nga năm 1991, đều thất bại (!), vì đã "không đem lại dân chủ, tự do thực sự cho người dân...". Không hiểu ông Cần lấy tư cách gì mà phán như vậy?      
 
 Ảnh minh họa/Internet.
Nhiều người đặt câu hỏi: Ông Nguyễn Minh Cần là người như thế nào mà cố tình bóp méo lịch sử, ngoảnh mặt, quay lưng lại với đất nước, xúc phạm lòng tự tôn dân tộc như vậy? Được biết, ông Nguyễn Minh Cần sinh ra ở Huế, năm nay 85 tuổi, từng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam và là Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội... Đầu những năm 60 của thế kỷ trước, trong khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta dốc lòng, dốc sức xây dựng và bảo vệ miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam và thống nhất Tổ quốc, Nguyễn Minh Cần được Nhà nước ta cử ra nước ngoài học tập để trở về phục vụ đất nước, nhưng với những toan tính cá nhân cơ hội, thực dụng, ông ta đã xin cư trú tại nước ngoài từ đó đến nay. Những tưởng ở tuổi xế chiều, Nguyễn Minh Cần sẽ sống yên phận và nuôi hy vọng có cơ hội trở về quê hương - nơi chôn nhau cắt rốn, nhưng ông ta đã đăng đàn trên một số trang mạng với giọng điệu hằn học, cay độc, cố tình bôi đen lịch sử và xuyên tạc tình hình ở Việt Nam, phủ nhận những thành quả của cách mạng, bài xích vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, đập tan ách thống trị của thực dân và phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa XHCN Việt Nam), một nhà nước với thể chế chính trị dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do và CNXH. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đoàn kết một lòng vượt qua những chặng đường đầy gian khổ, hy sinh, đánh thắng những kẻ thù xâm lược mạnh hơn mình gấp nhiều lần về tiềm lực kinh tế và tiềm lực quân sự, khẳng định bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước lên CNXH.
Vào giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, dân tộc ta tiếp tục vượt qua “cơn lốc lớn” làm sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, giữ vững chế độ XHCN ở Việt Nam, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát huy dân chủ XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hơn 25 năm qua, công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo được thế và lực mới để xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Những thắng lợi đó đã tạo nên sự tiến bộ rõ nét của con người và xã hội Việt Nam, đưa nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến trở thành một quốc gia độc lập, tự do, ổn định và phát triển theo con đường XHCN; nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân, chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, do nhân dân làm chủ; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện…” và nhấn mạnh: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể của phát triển”, "Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước". Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có những cố gắng rất lớn trong thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Việt Nam đã hoàn thành sớm một số mục tiêu như: Xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực; phổ cập giáo dục tiểu học; cơ bản hoàn thành mục tiêu về bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ; bước đầu ngăn chặn được sự lây lan HIV và đang ở “ngưỡng cửa” hoàn thành mục tiêu giảm tử vong ở trẻ em v.v... Mặc dù phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức nhưng với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, năm 2012, nước ta đã đạt được những chuyển biến tích cực trên tất cả các lĩnh vực. Chúng ta đã cơ bản thực hiện được mục tiêu tổng quát đề ra, đặc biệt đã thực hiện được mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý (tăng trưởng hơn 5%); các chính sách an sinh xã hội được quan tâm, bảo đảm (tỷ lệ hộ nghèo giảm được 1,76%); chính trị xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững; vai trò và vị thế của đất nước tiếp tục được nâng cao.     
Dù còn không ít khó khăn và hạn chế, song những thành tựu của Việt Nam về phát triển con người, thực thi dân chủ đã và đang được thực tiễn chứng minh và khẳng định, không thể phủ nhận. Không phải ngẫu nhiên, ngày 28-5-2012, khi trả lời phỏng vấn của phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam thường trú tại Mỹ, Thượng nghị sĩ John McCain - người từng là ứng cử viên tổng thống của Đảng Cộng hòa - đã đánh giá cao những thành tựu phát triển của Việt Nam, nhất là những tiến bộ đáng kể trong đời sống của nhân dân. Thượng nghị sĩ John McCain nhấn mạnh: “Với những bước tiến đó đã tạo nên hình ảnh và tầm ảnh hưởng của Việt Nam không chỉ trong khu vực ASEAN, mà còn ở các tổ chức quốc tế khác”. Rồi nữa, ngay tướng Nguyễn Cao Kỳ - người từng được coi là có tư tưởng chống Cộng cực đoan - đã xúc động không cầm nổi nước mắt khi lần đầu tiên được trở về cội nguồn (tháng 1-2004), sau 30 năm ở nơi đất khách quê người. Từ đó, sau nhiều lần về thăm quê hương, cảm nhận trực tiếp những phát triển của đất nước và đời sống của nhân dân, Nguyễn Cao Kỳ bày tỏ niềm tin tưởng: “Các nhà lãnh đạo Việt Nam đủ trí tuệ để chèo chống và đưa đất nước tiến lên” và nguyện vọng của ông ta là sau khi nhắm mắt, xuôi tay được yên nghỉ nơi quê cha đất tổ.
Nếu thực sự còn tỉnh táo thì tại sao ông Nguyễn Minh Cần,  “người được chứng kiến cả hai sự kiện lịch sử” nói trên, lại có thể đánh đồng Cách mạng tháng Tám 1945 - một sự kiện lịch sử hào hùng, thiêng liêng của dân tộc và có ý nghĩa thời đại sâu sắc với cuộc chính biến tháng 8 -1991 ở Liên Xô - một trang sử đau buồn của nhân dân Xô-viết và của nhân loại tiến bộ? Chính những nhận định hồ đồ này cho thấy ông chỉ là người “cưỡi ngựa xem hoa”, đứng ngoài những sự kiện lịch sử trọng đại, thờ ơ, vô cảm với vận mệnh của dân tộc và sự thịnh suy của đất nước. Tuy vậy, ông đã ngộ nhận, lầm tưởng mình là một “vĩ nhân am hiểu thời thế”, lại thêm những bức xúc cá nhân do quá đề cao “cái tôi” mà cố tình tráo trở phương pháp, rắp tâm lợi dụng những khó khăn, hạn chế trong quá trình đi lên của đất nước để phủ nhận sạch trơn những thành tựu mà cách mạng đã mang lại cho đất nước và dân tộc.
Những tiếng nói lạc điệu của ông Nguyễn Minh Cần có thể ít nhiều tác động đến một số người nhẹ dạ, cả tin và sự “trở cờ” của ông càng làm cho chúng ta cảm nhận sâu sắc thêm về cuộc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ không chỉ mang tính cấp thiết, mà còn rất gay go, quyết liệt, lâu dài, liên quan trực tiếp đến sự sống còn của chế độ và sự an nguy của đất nước.
PHÙNG KIM LÂN

Lính lê dương nào đội mũ đỏ?

Lính lê dương chưa bao giờ đội mũ đỏ. Nghe các nhân chứng lịch sử thuật chuyện đánh nhau với bọn lính lê dương mũ đỏ, con cháu đâm ra hoang mang. Thật ra các cụ đã đánh nhau với bọn nào? Vì sợ mang tội bất kính nên không dám hỏi sự thật là các cụ có đánh nhau hay không. Nhưng nhân chứng đã kể như thế thành ra sách báo đời sau cứ ghi như thế. Cứ biết như thế. Chẳng chết thằng Tây nào cả.