Về một số thuật ngữ triết học, chính trị - xã hội có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài
Trao đổi về một số thuật ngữ triết học, chính trị - xã hội có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài, trong bài viết này, tác giả đã khẳng định cách phiên âm tên địa phương và tên người ra tiếng Việt tuy đã có nhiều đổi mới, nhưng vẫn còn chưa thống nhất; việc phiên dịch các thuật ngữ thì một số thiếu chính xác, một số sai cơ bản, một số khác tuy không sai nhưng cũng cần phải tìm hiểu mới có thể sử dụng đúng được.
Các thuật ngữ triết học, chính trị - xã hội trong tiếng Việt tuyệt đại đa số có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài, chủ yếu được dịch trực tiếp từ các thứ tiếng: Hy Lạp (H), Latinh (L), Anh (A), Pháp (P), Đức (Đ), Nga (N), hoặc gián tiếp thông qua tiếng Trung Quốc (TQ). Tuy nhiên, việc dịch các thuật ngữ này nhiều khi không chính xác, cách phiên âm không thống nhất, do đó dẫn đến những hiểu lầm hoặc giải thích không đúng. Mặt khác, đa số cán bộ nghiên cứu và giảng dạy các môn lý luận triết học, chính trị, xã hội của chúng ta, do ít am hiểu ngoại ngữ nên không thấy có vấn đề gì trong việc sử dụng các thuật ngữ chuyên môn của mình và cũng không có thói quen tìm hiểu kỹ nguồn gốc của chúng trước khi sử dụng. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ chỉ ra một số trường hợp không thống nhất và bất cập về cách phiên âm, dịch nghĩa các thuật ngữ. 1. Cách phiên âm tên địa phương và tên người ra tiếng Việt tuy đã có nhiều đổi mới, nhưng vẫn còn chưa thống nhất Tên các quốc gia, địa phương trên thế giới mà chúng ta hiện đang sử dụng được phiên âm bằng hai cách: 1) đọc theo phiên âm Hán - Việt từ cách phiên âm của người Trung Quốc; và 2) phiên âm trực tiếp từ tiếng nước ngoài. Nhiều thuật ngữ trước đây được phiên âm theo cách thứ nhất nay đã chuyển sang cách thứ hai. Thí dụ: Mã Khắc Tư nay là Các Mác (Karl Marx), Mã Lai - Malayxia (Malaysia), Phi Luật Tân - Philippin (Philippines), Gia Nã Đại - Canađa (Canada:), Mễ Tây Cơ - Mêhicô (Mexico), v.v.. Tuy nhiên, cũng còn nhiều thuật ngữ đã dùng quen nên khó thay đổi, chẳng hạn: nước Anh (A: England) (thật ra, tên gọi chính thức của quốc gia này là United Kingdom (Vương quốc thống nhất) gồm 4 nước, trong đó có nước Anh) ; Luân Đôn (L: London); Đức (Đ: Deutschland); Tây Ban Nha (TBN: Espana); Bồ Đào Nha (B: Portuguesa), v.v.. Cách gọi này tuy quen thuộc nhưng lại gây không ít khó khăn cho những người đi học tập, tham quan ở những nơi nói trên. Có một số tên người có nguồn gốc từ hai cách phiên âm khác nhau. Thí dụ “Bụt” và “Phật” trong tiếng Việt tuy cùng một nghĩa nhưng có hai nguồn gốc phiên âm khác nhau. “Bụt” được phiêm âm trực tiếp từ tiếng Ấn Độ “Buddha”; còn “Phật” cũng từ “Buddha” nhưng được phiên âm sang tiếng Trung Quốc và đọc theo ngữ âm Hán - Việt là “Phật Đà” rồi sau đó được rút gọn thành “Phật”. Các từ “Kitô” và “Cơ Đốc” cũng có nguồn gốc tương tự như vậy. “Kitô” được phiên âm trực tiếp từ tiếng Hy Lạp "Χριστός” (đọc là Khristós, tiếng Latinh là Christus, tiếng Pháp, Anh là Christ). Kitô là tước hiệu, không phải là họ, Giêxu (Jesus) mới là tên. “Cơ Đốc” cũng từ nguồn gốc đó, nhưng được phiên âm sang tiếng TQ rồi được đọc theo âm Hán - Việt. Rất tiếc là nhiều người đã nghĩ Cơ Đốc giáo và Kitô giáo là hai tôn giáo khác nhau. Ngoài ra, “Thiên Chúa giáo”, “Hồi giáo” là những cách gọi sai của chúng ta. Kitô giáo, Cơ Đốc giáo là tên gọi chung (có thể là Công giáo hay Tin Lành); còn Công giáo, Tin Lành, Chính thống giáo là tên những giáo phái của Kitô giáo, sau đã tách ra thành những tôn giáo độc lập. “Hồi giáo” (tôn giáo của người Hồi) là cách gọi của người Trung Quốc, gọi theo tên một bộ tộc theo tôn giáo này; thật ra, tôn giáo này có tên là Islam. Cũng do việc phiên âm từ các thứ tiếng khác nhau, nên đã xảy ra trường hợp nhầm lẫn, một tác giả được biên soạn thành hai mục từ khác nhau, với hai tên khác nhau. Chẳng hạn, Tômát Aquin trong “Từ điển Triết học” của Cung Kim Tiến. Để hiểu nguồn gốc của sai lầm này, chúng ta hãy trở lại với cách gọi tên các danh nhân phương Tây. Từ Hy Lạp Cổ đại đến thời Trung cổ, các danh nhân chỉ được gọi trực tiếp bằng tên (không có họ), để tránh sự nhầm lẫn giữa nhiều người có cùng tên, người ta thêm địa danh quê hương, chẳng hạn Talet ở Milê (Thales of Miletus), Hêraclit ở Êphesơ (Heraclitus of Ephesus), Zênôn ở Elê (Zeno of Elea) để phân biệt với Zênôn ở Xiti (Zeno of Citium), Điôgien ở Laect (Diogenes Laertius) để phân biệt với Điôgien ở Xinôp (Diogenes of Sinope). Tômát - nhà triết học kinh viện Kitô giáo Trung cổ, sinh ở Aquino, Italia nên gọi là Tômat Aquin hay Tômat Aquinô; trong tiếng Anh, tên nhà thần học này là Thomas Aquinas (hayThomas of Aquin, Thomas of Aquino). Trong phần lớn các tài liệu tiếng Việt hiện nay, tên của nhà thần học này được phiên âm từ tiếng Pháp: Thomas d'Aquin (cũng có nghĩa là Tômat ở Aquin) đọc là Tôma Đacanh. Trong tiếng Nga, nhà triết học này được phiên âm là Фома Акви́нский (đọc là Phôma Akvinski, cũng có nghĩa là Tômát ở Aquin), có lẽ vì thế mà Từ điển Triết học Cung Kim Tiến đã nhầm và biên soạn thành hai tác giả (hai mục từ) khác nhau là “Tôma ở Ácvinô” (từ tiếng Nga Фома Акви́нский) và “Tômat Đacanh” (từ tiếng Pháp Thomas d'Aquin) (1). 2. Về việc phiên dịch các thuật ngữ: một số thiếu chính xác, một số sai cơ bản, một số khác tuy không sai nhưng cũng cần phải tìm hiểu thì mới sử dụng đúng được. - Một số thuật ngữ dịch tuy phản ánh được nội hàm của khái niệm gốc, nhưng không sát với thuật ngữ gốc của nó. Nguyên nhân của tình trạng này là do khi dịch một khái niệm, người ta chỉ cố gắng đảm bảo nội hàm, còn về tên thuật ngữ thì lại đi tìm một tên khác, miễn là diễn đạt được nội hàm đó. Thí dụ: Thuyết “Tam quyền phân lập” là một học thuyết chính trị do nhà triết học chính trị Pháp Saclơ Môngtexkiơ (Charles Montesquieu, 1689 - 1755) đưa ra. Trong tiếng Pháp, thuyết này có tên “Séparation des pouvoirs” (A: Separation of powers), nếu dịch sát về thuật ngữ thì phải là “sự chia tách các quyền lực” chứ không phải là “tam quyền phân lập”. Tuy từ dịch này không sai so với nội hàm của khái niệm, nhưng người sử dụng cũng cần phải biết xuất xứ của nó. “Chủ nghĩa thực dụng” (Pragmatism) là một trào lưu triết học đã và đang thịnh hành ở Mỹ. Thuật ngữ “pragmatism” (A) hay “pragmatisme (P) xuất phát từ “pragma” (số nhiều: pragmat) trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “hành động”. Từ “pragma” là nguồn gốc của các từ practice (A), pratique (P), практика (N) dịch ra tiếng Việt là “thực hành” hay “thực tiễn”. Như vậy, “pragmatism” nếu dịch sát nghĩa phải là “chủ nghĩa hành động”, “triết học thực tiễn” chứ không phải là “chủ nghĩa thực dụng” như cách nói hiện nay. Thuật ngữ “chủ nghĩa thực dụng” trong tiếng Việt tuy cách dịch không sai so với thực chất của trào lưu triết học này (lấy công dụng, lợi ích, hiệu quả thực tế làm thước đo cho tất cả), nhưng nó lại được hiểu lệch theo một nghĩa xấu vốn không có trong thuật ngữ gốc của nó. - Một số thuật ngữ dịch sai cả về tên và nội hàm của khái niệm. Không chỉ có thuật ngữ “chủ nghĩa duy tâm”, “chủ nghĩa duy vật”, mà có nhiều thuật ngữ khác cũng được thêm từ “duy” vốn không có trong tiếng nước ngoài, thí dụ “chủ nghĩa duy thực”, “chủ nghĩa duy danh”, “chủ nghĩa duy năng”, “chủ nghĩa duy linh”, “chủ nghĩa duy ý chí”,… Chữ “duy” ở đây làm cho người ta hiểu sai là “chỉ có”, thí dụ, hiểu nhầm chủ nghĩa duy vật cho rằng “chỉ có vật chất”, chủ nghĩa duy tâm cho rằng “chỉ có ý thức”… Thực ra, các trào lưu này không tuyệt đối hóa sự tồn tại của một trong hai nhân tố, mà chỉ nhấn mạnh vai trò quyết định của một trong hai nhân tố đó mà thôi. Thuật ngữ “chủ nghĩa duy tâm” còn sai cả từ và nghĩa nữa. Các từ idealism (A), idéalisme (P), idealismus (Đ) xuất phát từ tiếng Hy Lạp “ιδεα” được dịch sang tiếng Anh là “idea”, “form”; tiếng Việt là “ý niệm”. Platôn - nhà triết học duy tâm khách quan cho rằng “ý niệm” là một thực thể tinh thần có trước, độc lập với sự vật cảm tính. Hêghen cũng kế thừa tư tưởng đó. Còn những nhà duy tâm chủ quan, như Đêvit Hium (David Hume, 1711 - 1776), thì lại cho rằng sự vật chỉ là “tập hợp các cảm giác” hay “tập hợp các ý niệm” (collection of ideas) của con người. Đáng lẽ “idealism” phải được dịch là “chủ nghĩa ý niệm”. Thuật ngữ Hán - Việt, “tâm” tuy cũng có nghĩa là ý thức, tư duy, nhưng chỉ nói về tư duy của con người mà thôi (chỉ có thể áp dụng cho chủ nghĩa duy tâm chủ quan); trái lại, thuật ngữ “ý niệm” (idea) trong từ “idealism” theo quan niệm của các nhà triết học duy tâm khách quan thì lại tồn tại độc lập, ngoài con người. “Chủ nghĩa kinh nghiệm” (empiricism) là khuynh hướng triết học thịnh hành ở nước Anh với Francis Bacon, John Locke, George Berkeley, David Hume trong thế kỷ XVII đến các nhà triết học thuộc chủ nghĩa thực chứng trong các thế kỷ XIX và XX. Thuật ngữ này tuy rất quen thuộc, song thế nào là “kinh nghiệm” thì ít người hiểu đúng, vì từ “kinh nghiệm” trong tiếng Việt và tiếng nước ngoài (εμπειρισμός (H) experientia (L), experience (A, P) không đồng nghĩa với nhau. “Kinh nghiệm” trong tiếng Việt thường được hiểu là những tri thức thu được trong hoạt động thực tiễn. Do đó, chủ nghĩa kinh nghiệm được người Việt hiểu như là khuynh hướng tư tưởng coi kinh nghiệm thực tiễn là tất cả, coi thường lý luận. Tuy nhiên, trong triết học phương Tây, “εμπειρισμός”, “experience” trước hết được hiểu là tất cả những tri thức cảm tính, tức tất cả những gì do quan sát được bằng giác quan đem lại. Như vậy, “chủ nghĩa kinh nghiệm” ở phương Tây là trào lưu triết học chỉ thừa nhận những tri thức có nguồn gốc từ cảm tính hoặc có liên hệ trực tiếp với cảm tính; nó phủ nhận những tri thức do suy lý gián tiếp, phản đối phương pháp tư duy tư biện. Chủ nghĩa kinh nghiệm có thể là duy vật hoặc duy tâm. Đối với các nhà triết học duy tâm chủ quan, các nhà triết học thực chứng và thực dụng thì kinh nghiệm là tất cả, không phân biệt khách quan, chủ quan. Theo họ, vũ trụ, mặt trời, mặt trăng… đều nằm trong kinh nghiệm. “Chủ nghĩa duy lý” (rationalism có gốc từ tiếng Latinh ratio - lý trí, lý tính, reason (A), raison (P)) là trào lưu triết học đối lập với chủ nghĩa kinh nghiệm. Chủ nghĩa duy lý là khuynh hướng triết học coi lý trí là cơ sở của tồn tại, nguồn gốc và tiêu chuẩn kiểm tra chủ yếu của tri thức; đồng thời cho rằng, bằng lý trí và phương pháp suy luận diễn dịch, con người có thể nhận thức được tất cả, không cần đến kinh nghiệm. Đối lập với trào lưu chủ nghĩa duy lý còn có trào lưu “chủ nghĩa phi lý” (phi lý tính hay phi duy lý - irrationalism) phủ nhận vai trò của lý trí, lý tính. Chủ nghĩa hiện sinh là một điển hình. Nó cho rằng tất cả đều là phi lý. Cái phi lý là cái không có bản chất, quy luật, nguyên nhân, quan hệ… và do vậy, không thể dùng lý trí để nhận thức, mà chỉ có thể cảm nhận bằng cảm giác, cảm xúc mà thôi. Đừng nhầm lẫn “phi lý” (absurd) với “vô lý” (illogical). Cái vô lý là cái không hợp lôgíc, nghĩa là có thể nhận thức được bằng lý trí, nên mới biết được nó không hợp với lôgíc khách quan. Còn cái phi lý là cái không thể nhận thức được bằng lý trí, nên không thể nói gì về nó cả. Theo nhà triết học hiện sinh Pháp - Albert Camus, hạnh phúc, ý nghĩa cuộc sống… là những cái phi lý, chúng ta chỉ có thể cảm nhận chúng mà không thể giải thích được chúng. “Chủ nghĩa thực chứng” là gì? Nó là trào lưu triết học thịnh hành ở các nước, như Anh, Mỹ trong thời kỳ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Thuật ngữ “chủ nghĩa thực chứng” (Positivsm, Positivisme trong tiếng Anh, Pháp) xuất phát từ positivus (L) (positive, positif trong tiếng A,P) có nghĩa là xác thực, rõ ràng.Positive - negative là một cặp từ được dùng ở nhiều nghĩa khác nhau, chẳng hạn như dương - âm (cực dương hay cực âm của một nguồn điện). Cặp từ này cũng có nghĩa là khẳng định (nói có) - phủ định (nói không) trong các phán đoán. Thí dụ, trong kết quả xét nghiệm một loại vi rút nếu được ghi là negative (dịch là âm tính) có nghĩa là không có virút đó. Cặp từ này còn có nghĩa là tích cực - tiêu cực. Riêng từ “positive” trong khoa học, triết học, thí dụ “positive knowledge”, “positive thinking”, có nghĩa là xác thực, rõ ràng. Positivism được dịch là “chủ nghĩa thực chứng” vì đây là một trào lưu triết học không thừa nhận lối tư duy tư biện và những tư tưởng tư biện; nó chỉ thừa nhận những tri thức thực chứng, tức là những tri thức xác thực, đã được chứng thực. Tuy nhiên, hạn chế của trào lưu này là chỉ giới hạn việc chứng thực các mệnh đề lý luận bằng kinh nghiệm cảm tính (quan sát, thực nghiệm). “Chủ nghĩa hiện sinh” là gì? Thuật ngữ này rất quen thuộc nhưng ít người hiểu đúng thực chất của nó, ngay cả những người nghiên cứu và giảng dạy triết học, vì thuật ngữ này trong tiếng Việt không đồng nhất với thuật ngữ gốc. “Hiện sinh” trong tiếng Việt có nghĩa là “đang sống”, nhưng thuật ngữ gốc của nó không có nghĩa như vậy. Thuật ngữ “chủ nghĩa hiện sinh” (Existentialism (A), Existentialisme (P) xuất phát từ gốc từ Latinh “existentia”, nghĩa thông thường là “tồn tại”. Đây là trào lưu triết học phi lý tính, phát triển mạnh ở Đức và Pháp từ những năm 20 của thế kỷ XX. Thật ra, trong ngôn ngữ thường ngày, being và existence (A) hayêtre và existence (P) đều có chung một nghĩa là “tồn tại”, chẳng hạn, “being and thinking” (tồn tại và tư duy) “the existence of God” (sự tồn tại của Thượng đế). Tuy nhiên, các nhà triết học hiện sinh lại phân biệt hai khái niệm này. Theo họ, être (P); being (A); Sein (Đ) (dịch ra tiếng Việt là “tồn tại”) chỉ đơn giản là “có mặt ở đó”, nhưng không có ý thức nên vô nghĩa, không đáng quan tâm. Chỉ có existence (A&P); Dasein (Đ) (được dịch ra tiếng Việt là “hiện sinh” hay “hiện hữu”) là một thứ tồn tại đặc biệt - tồn tại có ý thức, mới là cái đáng quan tâm. Tuy nhiên, ý thức mà họ nói ở đây không phải là lý trí hay ý thức khoa học, mà là một thứxúc cảm chủ quan (sự lo âu, trăn trở, đau khổ, tự do, nổi loạn…) ở cá nhân riêng lẻ của con người “hiện sinh” và cảm nhận chủ quan mà con người hiện sinh gán cho đồ vật mà thôi. Nhà hiện sinh Pháp - Jean Paul Sartre (1905 - 1980) đưa ra luận điểm nổi tiếng “L'existence précède l'essence” (“hiện sinh có trước bản chất”, nhưng nhiều tài liệu nhầm là “tồn tại có trước bản chất”) nghĩa là con người sinh ra không có một bản chất vốn có nào cả; chỉ khi nào con người “hiện sinh”, tức là có ý thức về bản thân mình, tự do lựa chọn cho mình trở thành một cái gì thì anh ta mới có được một bản chất nào đó. Đồ vật chỉ đơn giản là tồn tại, nó chỉ “hiện sinh” khi con người hiện sinh đem lại cho nó một ý nghĩa nào đó. Nhà hiện sinh Pháp - Simone de Beauvoir (1908 - 1986) có câu nói nổi tiếng “On ne nait pas femme, on le devient” (Người ta không sinh ra là phụ nữ, mà trở thành phụ nữ) cũng được hiểu theo cách tương tự như vậy. Như vậy, chủ nghĩa hiện sinh là trào lưu triết học chỉ quan tâm đến sự “hiện sinh”, một thứ tồn tại đặc biệt, chứ không phải là tồn tại nói chung. Thuật ngữ “chủ nghĩa cộng sản” được dịch từ các thứ tiếng phương Tây (communism (A), communisme (P), Kommunismus (Đ), коммунизм (N). Các thuật ngữ này không hề có từ “sản” mà chỉ gần gũi với từ “chung” (common), “cộng đồng” (community). Không phải ngẫu nhiên mà một tác giả đã giải thích: “communism = common + ism”. Việc dịch thuật ngữ này thành “chủ nghĩa cộng sản” là sai cả về ngữ nghĩa và thực chất của khái niệm. Communism nếu dịch chính xác phải là “chủ nghĩa cộng đồng”, chứ không thể là “chủ nghĩa cộng sản” được. Từ “chủ nghĩa cộng sản” tạo ra một ấn tượng sai lầm rằng xã hội tương lai mà chúng ta phấn đấu xây dựng phải là một xã hội mà mọi tài sản đều là của chung. Mặc dù, sau này, người ta đã cải chính rằng không phải mọi tài sản mà chỉ có tư liệu sản xuất là của chung, nhưng như vậy cũng không phản ánh được thực chất của chủ nghĩa cộng sản. Khái niệm “communism” phản ánh mục đích phấn đấu là cộng đồng xã hội, ưu tiên của cộng đồng xã hội so với cá nhân; còn tư liệu sản xuất chung chỉ là con đường để thực hiện mục đích, chứ không phải là mục đích. Các thuật ngữ “conservatism”, “conservative party” được dịch sang tiếng Việt là “chủ nghĩa bảo thủ”, “đảng bảo thủ”. Các thuật ngữ này xuất phát từ động từ “conserve” (A) hay conserver (P) có nghĩa là giữ gìn, bảo tồn, bảo toàn. Cách dịch này sang tiếng Việt tuy không sai (“bảo thủ” có nghĩa là “bảo vệ, giữ gìn”), nhưng vì trong tiếng Việt, từ “bảo thủ” thường được dùng với một nghĩa xấu, do đó người ta thường hiểu sai khuynh hướng chính trị này. Thực ra, đây là một khuynh hướng triết học chính trị chủ trương giữ gìn, bảo tồn những giá trị, những thể chế (chính trị, văn hóa, đạo đức, tôn giáo, v.v.) đã qua thử thách trong lịch sử. Khi sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa bảo thủ”, vì không hiểu nguồn gốc của nó, nên nhiều người thắc mắc tại sao trong nhiều nước tiên tiến, đảng “bảo thủ” lại có thể được quần chúng ủng hộ, như Đảng Bảo thủ Anh đã nhiều lần nắm được ghế thủ tướng; Đảng Bảo thủ Canađa hiện nay đang nắm chính quyền ở nước này từ năm 2006 đến nay. Không chỉ các thuật ngữ được dịch từ các tiếng phương Tây, mà ngay cả một số thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Nga, tiếng Trung Quốc cũng không phải đã được hiểu đúng. Tác phẩm của V.I.Lênin “Империализм, как высшая стадия капитализма” được dịch ra tiếng Việt là: “Chủ nghĩa đế quốc - giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản”. Đúng ra phải dịch là: “Chủ nghĩa đế quốc - giai đoạn cao nhất của chủ nghĩa tư bản”. Cần lưu ý, hai thuật ngữ “tột cùng” và “cao nhất” không hoàn toàn trùng khớp với nhau về ngữ nghĩa. “Tột cùng” còn có nghĩa là cuối cùng; còn “cao nhất” chưa hẳn là cuối cùng (vì còn có quá trình đi xuống, suy vong nữa rồi mới chấm dứt). Thuật ngữ “умирающий капитализм” được dịch ra tiếng Việt là “chủ nghĩa tư bản giẫy chết” cũng không hoàn toàn sát nghĩa. умирающий (động tính từ của động từ умирать) có nghĩa là đang chết. “Đang chết” diễn đạt một quá trình lâu dài, chết dần dần; còn “giẫy chết” cho ta ý niệm về một cái chết diễn ra rất nhanh chóng. Câu nói của Khổng Tử: “Tính tương cận, tập tương viễn” thường được giải thích là: Tính người vốn sinh ra là gần nhau nhưng do nhiễm những thói quen, tập quán xấu ngoài xã hội, nên vì thế mà tính người trở nên xa nhau. Ta thử đối chiếu với cách dịch câu nói này trong một giáo trình triết học ở Mỹ: “By nature, men are nearly alike; by practice, they get to be wide apart" (Về bản tính, con người gần giống nhau; bằng sự rèn luyện mà họ trở nên xa nhau) (2). Tính người (human nature) phải được hiểu là bản tính tự nhiên của con người, chứ không phải là ý thức hay nhân cách, vì khi mới sinh ra, con người chưa có được những yếu tố này. “Nature” là tự nhiên khác với “culture” (văn hóa, giáo dục). Bản tính tự nhiên của con người xuất phát từ bản năng động vật, tức yếu tố “con” ở trong con người (bản năng ăn uống, tự vệ, sinh dục …) đòi hỏi phải được thỏa mãn cho cá nhân một cách tối đa, bất chấp lợi ích của người khác (từ đó sinh ra tính tham lam, ích kỷ, lánh nặng tìm nhẹ, v.v.). Tuy nhiên, nhờ lớn lên và rèn luyện trong môi trường văn hóa mà con người kìm chế được những bản năng này và phát triển những phẩm chất xã hội. Nhưng, những phẩm chất xã hội ở mỗi người là không giống nhau vì việc rèn luyện của mỗi người là khác nhau. Bài thơ “Dạ bán” (Nửa đêm) trong “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh có hai câu: “Thiện, ác nguyên lai vô định tính, Đa do giáo dục đích nguyên nhân”,được Nam Trân giải thích: “Thiện, ác vốn chẳng phải là bản tính cố hữu, phần lớn đều do giáo dục mà nên”. Cách giải thích này đúng, nhưng khi dịch ra thơ, để đảm bảo vần điệu, Nam Trân dịch: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, Phần nhiều do giáo dục mà nên” (3). Thật ra, thiện, ác dịch là hiền, dữ thì không chuẩn. Vì thiện, ác là thuộc về đạo đức; còn hiền, dữ là thuộc về cá tính; “hiền” chưa hẳn là “thiện”, “dữ” chưa hẳn là ác. Qua một số ví dụ nêu trên, chúng tôi cho rằng, để hiểu được thực chất và vận dụng đúng các thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài, chúng ta không có cách nào khác là phải truy tìm ngôn ngữ gốc của chúng. Mặt khác, chúng tôi đề nghị Nhà nước nên có những quy định thống nhất về cách phiên âm tên người, tên địa phương và cách dịch các thuật ngữ triết học, chính trị, xã hội tương đối thông dụng. -------------------------------------------------------------------------------- (1) Cung Kim Tiến. Từ điển triết học. Nxb Thông tin, Hà Nội, 2002, tr.1200 -1201. (2) Douglas J. Soccio, Archetypes of Wisdom: An Introduction to Philosophy, Wadsworth Publishing, Ohio, 2006. Giáo trình này cũng được Trường Đại học Towson sử dụng trong chương trình đào tạo quốc tế ở Việt Nam. (3) Xem: Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.283. |
Thursday, 27 February 2014
Về một số thuật ngữ triết học, chính trị - xã hội có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài (Nguyễn Tấn Hùng - Tạp Chí Triết Học)
Wednesday, 26 February 2014
Đơ Bê là gì?
Tiểu thuyết viết về cuộc kháng
chiến chín năm hay nhắc đến đơ bê:
Orion cầm máy điện thoại và gọi sang
văn phòng của viên sĩ quan Đơ bê Giô dép Mai:
(Tô Đức Chiêu, 2008:78)
Từ
đó Thanh Tùng gia nhập làng báo, hắn bộ hắn bộ quân phục, không lái xe Jeep,
không dùng cái tên nhà binh Đại úy “Đơ Bê” hắn lấy bút hiệu Mão Đen.
(Nhị Hồ - Điệp viên giữa sa mạc lửa
– chương 13)
Đơ Bê là cách phát âm tiếng Pháp của 2B, tức deuxième bureau, nghĩa
là phòng hai hay phòng nhì, bộ phận chuyên trách quân báo trong cơ quan tham mưu Pháp
Với
thằng Thiêm, bọn “Đơ-bê Zốt” đã nhẵn mặt, nhưng khi nghe được tin báo thì đã
muộn, không xoay chuyển được tình thế nữa, chúng liền cho câu pháo lên để trả
thù.
Đơ-bê
Zốt (2B/ZOT) là phòng nhì khu chiến Bắc Kỳ (Zone Opérationnelle du
Tonkin).
Tuesday, 25 February 2014
Albert Clavier đã trúng đòn nghiệp vụ của Việt Minh như thế nào?
Albert Clavier đến Sài Gòn đầu năm 1947.
Sau mấy tuần ở trại Galliéni, anh được đưa ra Hải Phòng, từ đây cùng với đơn vị
của mình (trung đoàn 3 pháo binh thuộc địa Ma-rốc – 3e RACM) lên đóng ở Lạng
Sơn. Albert giữ nhiệm vụ văn thư, kế toán cho một pháo đội, không tham gia các
cuộc chém giết cũng không rượu chè, trai gái như nhiều bạn đồng ngũ. Tự nhiên trở
thành một kẻ cô độc giữa đám lính tráng, anh quay ra kết bạn với một số người
Việt trong khu vực đóng quân. Những người này nói được tiếng Pháp lại có chức
có phận nên André không mảy may nghi ngờ điều gì.
Những
người bạn Việt (Minh) và Albert dần dần hiểu rõ về nhau. Theo lời kể của chính
Albert (do Claude Collin, 2004 ghi lại) thì:
Lúc ấy tôi ở Việt
Nam cũng được hơn một năm rồi. Tôi đã chuẩn bị trở về Pháp, gặp lại gia đình, gặp
lại Solange. Lúc tôi nói chuyện với Bat, anh yêu cầu tôi chưa nên đi ngay: “Bọn
mình cần những người như cậu tố cáo những việc mà cậu đã chứng kiến. Khoan rời
Việt Nam, hãy ở lại thêm ít lâu nữa!” Tôi đã cân nhắc rất, rất là lâu vì thật sự
là tôi rất muốn về Pháp, nhưng sau cùng tôi quyết định hoãn ngày hồi hương. Lúc
đó có thể xin gia hạn hai lần, mỗi lần sáu tháng. Để cho Solange khỏi thắc mắc,
tôi bịa ra lý do tiền bạc, bảo rằng bằng cách đó có thể để dành thêm được nhiều
hơn, tôi đang kiếm được tiền, lương lính cũng được kha khá.
Vẫn
theo lời đương sự:
Trong suốt thời
gian ấy, tôi gặp Bat thường xuyên hơn và cung cấp cho anh một số thông tin. Tôi
vẽ lại bản đồ một số cứ điểm phòng thủ ở Lạng Sơn. Tôi đi chơi với anh, chụp ảnh
(gọi là) làm kỷ niệm, nhưng hậu cảnh luôn luôn là một địa điểm mà người của anh
quan tâm.
Đó
là hoạt động gián điệp. Nhưng có vẻ như Albert vẫn không thấy mình đã trở thành
một kẻ phản bội:
Ngoài việc đó ra,
anh ấy chẳng bao giờ hỏi tôi về lịch trình các đoàn công-voa để Việt Minh có thể
tấn công. Mà dù có hỏi, tôi cũng không cung cấp những thông tin như thế. Tôi
không thể làm thế. Cũng như khi chạy sang Việt Minh rồi, chưa bao giờ có chuyện
tôi cầm vũ khí chống lại đồng bào mình. Lúc ấy tôi vẫn nghĩ là mình sắp về Pháp.
Thật
là chữ trinh còn một chút này...
Việt
Minh quyết định ra đòn nghiệp vụ để anh chàng hết lừng khừng.
Cuối năm 1949, quân
Mao Trạch Đông tiến đến sát biên giới Trung – Việt. Bộ chỉ huy Pháp ở Hà Nội
quyết định tái phối trí các đơn vị pháo binh. Pháo đội của
tôi phải rời Lạng Sơn, đi Tiên Yên. Ít hôm trước ngày tôi lên đường, Bat cho
người nhắn tôi có việc gấp. Tôi thuộc hạng có lon có chậu, đi ra ngoài trại không vấn đề gì. Gặp Bat tôi thấy anh có vẻ lo lắng. Anh sợ rằng tôi có thể đã bị lộ.
Không
có tội gì thì sợ lộ cái gì?
Một điệp viên của Bat
bị phòng nhì Pháp bắt cùng với một bức thư có nhắc đến tôi, dĩ nhiên chỉ là tên
giả. Nhưng Bat nghĩ là phòng nhì sẽ lần ra tới tôi. Anh nói thẳng là các bạn của
anh đã sẵn sàng đưa tôi ra vùng Việt Minh.
Albert xin được suy nghĩ, cân nhắc một đêm. Sau cùng viễn cảnh phải ra tòa án binh
lãnh mười hai viên kẹo đồng vượt lên mọi
lẽ thiệt hơn, Albert đồng ý ra đi, chỉ yêu cầu Việt Minh dàn dựng thành một vụ bắt
cóc để người thân ở Pháp không gặp phiền toái.
Nếu
việc đi lại với Việt Minh bị phòng nhì Pháp phát giác thì màn kịch này hóa ra
thừa. Nhưng nếu không sợ phòng nhì tóm thì việc gì phải trốn chạy? Điều đó cho
thấy đến lúc dứt áo ra đi, Albert Clavier vẫn chưa hết lừng khừng. Tuy nhiên Việt
Minh cũng làm theo yêu cầu của anh và suốt một thời gian dài Albert được quân đội
Pháp xem là thất tung. Mãi cho đến cuối năm 1950, khi Albert tham gia quản lý số
tù binh Pháp bị Việt Minh bắt trong chiến dịch Biên Giới, thân phận của anh mới
bị bộc lộ. Trong số tù binh có hai sĩ quan vượt ngục thành công, về tố cáo với
Hà Nội. Ngày 27/12/1950 tòa án quân sự miền Bắc Đông Dương kết án tử hình Albert Clavier vì tội đào ngũ sang phía địch.
Tư liệu về Albert CLAVIER, người Pháp, Thiếu tá QĐND Việt Nam (Triệu Xuân Info)
| ||||||||
|
Monday, 24 February 2014
Có bao nhiêu phần trăm sự thật trong những câu chuyện về Platôn Nguyễn Văn Thành (Thành Nga)
Có nhiều câu chuyện về Platôn
Nguyễn Văn Thành (Thành Nga) do chính những người thân thiết của ông kể lại trực
tiếp (bạn chiến đấu (Nguyễn Kế Nghiệp), bạn văn (Tô Hoài) hay gián tiếp (con gái
Janine). Platôn hẳn đã nếm trải nhiều đắng cay từ khi rơi vào tay quân Đức năm
1942. Người chấp bút có lẽ vì tế nhị, không muốn xát thêm muối vào vết thương,
tùy tiện nghĩ ra đủ cách lướt qua một giai đoạn mà họ nghĩ chẳng có liên quan
gì với người Việt. Nhưng chính vì sự tùy tiện đó mà các câu chuyện về Platôn
Nguyễn Văn Thành bộc lộ nhiều chi tiết mâu thuẫn lẫn nhau và hết sức thú vị:
Câu dưới đây chấm phẩy tù mù:
Không sao hiểu được quan hệ giữa
hai địa danh Khacốp (Liên Xô) và Đan Mạch. Cũng không thể hiểu được chuyện tù
binh trong tay Đức tự nhiên bị động viên
vào đội quân lê-dương của Pháp. Platôn là công dân của Pháp hay sao mà bị Pháp hốt
đi nghĩa vụ quân sự?
Chuyện trước giờ thua trận, phát xít Đức ngấm ngầm chuyển tù binh sang choAnh. Cùng phường xâm lược với nhau, Anh giao số tù binh này cho Pháp để bổ sungvào đội quân Lê Dương nghe có vẻ hợp lý hơn nhưng thuần túy là sản phẩm của trí tưởng tượng. Đúng là Pháp
đã mộ được nhiều lính lê dương từ các trại tù binh nhưng người muốn đăng lính lê dương phải tự nguyện điền đơn, ký hợp đồng chứ không phải Đức đá ai qua cho
Anh, Anh đá qua cho Pháp là người đó thành lính lê dương. Chi tiết này cũng mâu
thuẫn với chuyện Platôn bỏ trốn trên đường bị giải về Liên Xô rồi bị người dân địa phương bắt giao cho chính quyền, bị sung vào đội quân lê dương (lại bị sung vào đội quân lê
dương mà không phải là điền đơn tình nguyện).
Có vẻ như những người kể chuyện thấy
cần phải nhấn mạnh việc Platôn bị cưỡng ép cầm súng đi đánh Việt Nam. Có thể là
đúng là Platôn không thích cầm súng đánh nhau với ai. Ông vào lính lê dương chẳng
qua chỉ đế trốn sự truy bắt của Liên Xô. Nhưng không có ai cưỡng ép ông đầu
quân. Người ta chỉ cưỡng ép ông trở về Liên Xô thôi.
Platôn đã đắc tội thế nào với đồng
bào, đồng chí khiến ông không còn đường quay lại tổ quốc? Sự thật có phải, theo
như lời kể của con gái ông, là ông chỉ thực tập tiếng Pháp với tên cai ngục người
Đức, làm cho đồng đội hiểu lầm? Tô Hoài kể khác:
Platôn có tham gia lính ngụy
không? Trong số những câu chuyện về Platôn Nguyễn Văn Thành, câu chuyện của Tô
Hoài có lẽ không được tròn trịa mấy, nhưng đáng tin nhất, gần với sự thật nhất:
Nguyễn Kế Nghiệp, người đồng ngũ
của Platôn ở tiểu đoàn 307, kể một cách khác, ở đâu đó giữa một cực là Tô Hoài
và cực kia là sự hoang tưởng:
Nhiều tác giả cho rằng Platôn đến
Sài Gòn vào tháng 4-1946. Cuối năm 1946 một phái bộ quân sự Xô Viết đến Sài Gòn,bắt được 15 cựu tù binh Liên Xô trong hàng ngũ quân lê dương. Chúng ta không biết
bằng cách nào Platôn lại một lần nữa thoát khỏi tay đồng bào, đồng chí cũ của
ông. Những người kể chuyện cũng không nói rõ ông đã tìm cách liên hệ với Việt
Minh từ lúc nào, trước, trong hay sau khi phái bộ quân sự Xô Viết đến Việt Nam /
đi khỏi Việt Nam. Không trả lời được những câu hỏi này, chúng ta chưa thể tin là
ông chuyển sang hàng ngũ Việt Minh vì giác ngộ lý tưởng cao đẹp của những người
kháng chiến hay chỉ vì muốn cao chạy xa bay hơn nữa.
Giấy trắng mực đen khẳng định chắc
chắn:
Hai đoạn dưới đây được cho là lời
phát biểu của chính Platôn Nguyễn Văn Thành về khoảnh khắc giác ngộ trong tâm hồn
người lính lê dương gốc Liên Xô:
Trước tháng 8-1947 (thời điểm
Platôn vượt thoát sang phía Việt Minh), việc quân Pháp tịch thu được ảnh của đủ
bộ tam sên Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông ở chỗ Việt Minh quả là một việc hãn hữu
vô song. Tìm thấy chỉ mỗi ảnh của Lênin thôi cũng đã là sự lạ, mặc dù đỡ xạo
hơn một chút. Những sự việc như vậy, nếu có xảy ra trong muôn một, đương nhiên
phải khiến cho Platôn hiểu được những người ở phía bên kia là ai. Hiểu được rồi
vẫn nhào qua thì trốn sang tận Đông Dương để làm gì?
Nguyễn Kế Nghiệp, đồng ngũ của
Platôn ở 307, kể rằng khoảnh khắc giác ngộ đó xảy ra ở Bến Tre. Từ đó Platon tìm cách
lân la đến gần những người Việt. Anh tận dụng mọi cơ hội, chọn một quán nước để
"ngồi đồng", biểu lộ tâm tư bất mãn, chán nản của mình. Nhưng cả
tháng vẫn không thấy tín hiệu khả quan, Platon sốt ruột đánh liều, anh lấy mảnh
giấy viết một câu tiếng Pháp: "Tôi muốn liên lạc với Việt Minh" để lên bàn trước khi rờiquán. Mảnh giấy lập tức được bà con chuyển đến ban công tác thành Bến Tre.
Theo các chi tiết đăng trên Trang
Thông Tin Điện Tử của Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh Bến Tre, Platôn đã tìm cách liên lạc
với Việt Minh từ hồi còn ở Vĩnh Long nhưng không thành.
Qua lời kể của Janine (con gái),
sự kiện (các) tấm ảnh được dời trở lại trước Vĩnh Long:
Một ngày
kia, trong mớ chiến lợi phẩmquân lê dương Pháp thu về có một tập tài liệu và mấy tấm ảnh.
Sau này ông kể lại trên một tờ báo Nga: “Thoáng thấy mấy tấm hình bọn chúng giơ
cao, tôi suýt nữa bật đứng nghiêm chào như thói quen ở Liên Xô. Đó là ảnh
Lênin. Ngay lập tức tôi hiểu VN đứng về phía nào. Những tấm ảnh đã cứu linh hồn
tôi”.
Tại Vĩnh
Long, ông đã bắt liên lạc với một số người hoạt động bí mật trong thành phố,
nhưng chưa nhận được tín hiệu trả lời thì họ đã bị mật thám bắt.
Con đường dẫn Platôn đến với Việt
Minh nhờ vậy hợp lý hơn, dễ hình dung hơn, thuận tiện hơn cho giả thuyết giác
ngộ lý tưởng cao đẹp. Duy có sự tồn tại của mấy tấm ảnh là bất khả kiểm chứng.
Platôn có trúng mỹ nhân kế của Việt
Minh không? Người phụ nữ móc nối với anh ở Bến Tre (Colette Nguyễn Thị Mai) đã
trở thành vợ anh sau khi anh chạy sang Việt Minh.
Một năm sau Janine ra đời. Bến
Tre bị chiếm đóng khắp nơi, Hai Thành chuyển về Trà Vinh hoạt động.
Và vợ Hai Thành đi lấy chồng khác. Chấm dứt chóng vánh một cuộc tình (không) nghĩa.
Cô Mai đi đường của cô Mai. Ông Platôn hết lối để quay về. Ông có đau không?
Mục đích dĩ nhiên trở nên rõ ràng
khi ta chỉ còn một đường mà đi.
Subscribe to:
Posts (Atom)