Người lính giáo phái Cao Đài và cuộc truy sát Ngô Đình Diệm
Cập nhật lúc 22:57 16/07/2011
Kỳ án) - Ông Mười Trí đã “đeo” theo Ngô Đình Diệm từ Tòa thánh Tây Ninh đến Nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn, rồi lên Hội chợ Kinh tế Cao nguyên ở Buôn Mê Thuột để thực hiện “phát súng trên cao nguyên” tuy không giết chết được Diệm nhưng đã làm đảo điên chính trường Sài Gòn.
(Phunutoday) - Số phận ly kỳ đã làm cho một cậu bé suýt chết vì nạn đói khủng khiếp năm 1945, phải dắt người bà mù lòa rời vùng quê Nghi Lộc (Nghệ An) về thành phố Vinh để đi ăn xin, trở thành cậu bé chiến sĩ an ninh biệt động ở thành phố biển ở phương Nam Vũng Tàu. Số phận của của cậu bé ấy càng tiếp tục ly kỳ hơn khi sau đó đã trở thành người lính của giáo phái Cao Đài với nhiệm vụ tối quan trọng là ám sát cho bằng được tên Tổng thống tay sai, bù nhìn Ngô Đình Diệm.
[links()]
Ông Mười Trí đã “đeo” theo Ngô Đình Diệm từ Tòa thánh Tây Ninh đến Nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn, rồi lên Hội chợ Kinh tế Cao nguyên ở Buôn Mê Thuột để thực hiện “phát súng trên cao nguyên” tuy không giết chết được Diệm nhưng đã làm đảo điên chính trường Sài Gòn.
Em nuôi người huynh trưởng Cao Đài
Rời thành phố Vũng Tàu vào tháng 8/1948 sau khi đã gây kinh hoàng cho bọn sĩ quan Pháp bằng những lần đánh xuất quỷ nhập thần bằng lựu đạn vào các vũ trường, quán bar, Đình Dũng (tên của Hà Minh Trí khi tham gia vào Đội An ninh biệt động N2 ở Vũng Tàu) được cơ quan An ninh của của ta tổ chức đưa lên Tây Ninh để tham gia vào lực lượng võ trang giáo phái Cao Đài vì những kế hoạch lâu dài.
Bằng sự lanh lợi, tháo vát trời cho, cùng với bản lĩnh, sự từng trải do vào đời quá sớm, cậu bé Đình Dũng đã không mấy khó khăn để lân la làm quen, lấy cảm tình viên thiếu úy Phạm Ngọc Chẩn – một đồn trưởng quân đội Cao Đài ở Tây Ninh. Đình Dũng cải trang là trẻ chăn trâu để có thể lân la tiếp cận vào đồn.
Ban đầu Đình Dũng la cà làm quen với những trẻ chăn trâu quanh đồn, chỉ cần một ít bánh kẹo là cậu bé có thể nhờ những đứa trẻ chăn trâu dạy cho cách cỡi trâu. Chỉ cần vài buổi là cậu bé chưa từng một lần ngồi trên lưng trâu đã có thể “ngồi lưng trâu quất ngọn cờ lau và miệng hát nghêu ngao” lân la quanh đồn.
Viên đồn trưởng Phạm Ngọc Chẩn đã dần có cảm tình với cậu bé chăn trâu lễ phép, dễ mến, biết đánh võ, biết cả tiếng Nhật. Đình Dũng được nhận vào làm thằng nhỏ giúp việc cho đồn trưởng, hàng ngày đi chợ, nấu cơm, giặt giũ cho y, lúc rảnh rỗi thì múa võ, nói tiếng Nhật cho anh ta nghe đỡ buồn.
Ở trong đồn, vừa tranh thủ lấy cảm tình của viên đồn trưởng, theo chỉ thị của cấp trên, Đình Dũng vừa tranh thủ vẽ sơ đồ khu vực đồn, thu thập tin tức về quân đội Cao Đài, hàng ngày báo cho đường dây liên lạc của cơ quan An ninh của Ủy ban Hành chánh kháng chiến tỉnh Tây Ninh.
Ở trong đồn được gần 2 tháng, không hiểu vì lý do gì, Đình Dũng và đồn trưởng Phạm Ngọc Chẩn bất ngờ bị đội công tác đặc biệt của quân đội Cao Đài Tây Ninh bắt đưa về tạm giam ở Tòa thánh Tây Ninh. Mãi cho tới bây giờ ông Mười Trí vẫn không giải thích được vì sao ông và viên đồn trưởng Phạm Ngọc Chẩn bị bắt, có thể do một bản báo cáo vẽ sơ đồ khu vực đồn cùng những số liệu về quân đội Cao Đài đã bị lọt vào tay quân Pháp, rồi đến tay quân đội Cao Đài cũng nên.
Đình Dũng và đồn trưởng Phạm Ngọc Chẩn bất ngờ bị bắt rồi cũng bất ngờ được thả ra nhờ sự can thiệp của Trung tá Phạm Ngọc Chấn - Tư lệnh quân đội Cao Đài Miền Tây, là anh ruột của đồn trưởng Phạm Ngọc Chẩn.
Trở về tiếp tục giúp việc cho đồn trưởng Phạm Ngọc Chẩn và ngày càng gắn bó với giáo phái Cao Đài, Đình Dũng được yêu cầu tạm dừng cung cấp thông tin ra ngoài để tránh bị lộ. Đến giữa năm 1953, do thấy dấu hiệu bị thực dân Pháp theo dõi, Đình Dũng được tổ chức bí mật rút ra căn cứ công tác trong Ban An ninh tỉnh Tây Ninh.
Chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, thực dân Pháp phải cuốn gói về nước, trả lại quyền tự quyết cho dân tộc Việt Nam. Đình Dũng có tên trong danh sách cán bộ tỉnh Tây Ninh tập kết ra Bắc theo tinh thần Hiệp định Giơ-ne-vơ.
Nhưng Đình Dũng đã bí mật ở lại, được tổ chức sắp xếp đưa vào hoạt động trong nội thành Tây Ninh với tư cách là tín đồ thành viên của lực lượng vũ trang Cao Đài ly khai với cái tên lạ hoắc trong thẻ tín đồ là Triệu Thiên Thương, cái tên đã gắn bó với ông suốt cả cuộc đời với cách gọi thân mật “Mười Thương”.
Từ lúc này, người thanh niên mới 19 tuổi mà đã trải qua rất nhiều môi trường sống, công tác, chính thức trở thành tín đồ Cao Đài, là người lính của giáo phái Cao Đài. Vì nhiệm vụ cách mạng mà ông trở thành tín đồ của một giáo phái có đông tín đồ nhất ở Việt Nam thời đó, ông cũng bỏ công học tập giáo lý, tôn chỉ của những người sáng lập ra giáo phái.
Trong thâm tâm, ông rất trân trọng, có cảm tình với những định hướng chân, thiện, mỹ của đạo Cao Đài và ông đã hành đạo như một tín đồ ngoan đạo thực thụ. Đó là cơ duyên để sau ngày miền Nam giải phóng, ông từ ngành công an được chuyển về phụ trách Ban Tôn giáo tỉnh Tây Ninh.
Giáo phái hùng mạnh và “tiểu quốc” Cao Đài
Đạo Cao Đài được ngài Ngô Văn Chiêu sáng lập năm 1926 tại Chợ Lớn. Khi ấy trên toàn cõi Việt Nam chỉ có 2 tôn giáo chi phối mạnh mẽ lòng tín ngưỡng của người dân là Phật Giáo và Thiên Chúa giáo, cùng với những dấu ấn của Nho giáo đã in sâu từ hàng ngàn năm trong đời sống người dân.
Đạo Cao Đài ra đời là sự kế thừa, tổng hợp của của các tôn giáo đang chi phối mạnh mẽ đời sống người dân. Biểu tượng thiêng liêng của đạo Cao Đài là hình Một Mắt, tượng trựng cho sự thấu suốt mọi lẽ huyền vi của vũ trụ và thế giới tâm linh.
Đức Ngô Văn Chiêu không tạo ra một vị thánh nào của riêng cho đạo Cao Đài, mà chọn lựa nhiều hình tượng đang có sức chi phối lớn tình cảm dân chúng để tôn vinh và thờ phượng, từ những bậc thánh nhân như Đức Phật Thích Ca, Đức Chúa Jesus, Lão Tử, Khổng Tử, cho đến những những nhân vật đời thường như Victor Hugo (văn hào Pháp) cùng nhiều nhân vật lịch sử, tôn giáo và văn hóa khác trong và ngoài nước để thờ phượng như những thánh nhân.
Ra đời trong bối cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, nhiều cuộc khởi nghĩa của các sĩ phu yêu nước lần lượt bị thất bại, con đường giải phóng dân tộc đang bị bế tắc, đạo Cao Đài cũng mang trong mình tinh thần yêu nước, có xu hướng chống đối thực dân xâm lược.
Với một đạo pháp chủ trương hòa đồng, mang tính dân tộc như thế, tuy rất dễ được quần chúng quan tâm và chấp nhận, nhưng thực tế giai đoạn đầu đạo Cao Đài không có gì nổi bật, chưa thu hút được nhiều tín đồ.
Dưới ách thống trị hà khắc của thực dân xâm lược, người dân sống lầm than kiếp nô lệ kéo dài, trong khi các tôn giáo lớn khác không có chủ trương gì rõ ràng giúp cứu nguy, chấn hưng dân tộc, nên càng ngày càng mất sức hấp dẫn đối với người dân.
Nhờ vậy mà khi đạo Cao Đài có những biểu hiện đối lập với thực dân xâm lược, cổ súy độc lập dân tộc, tôn giáo mới mẻ này đã thu hút được rộng rãi các tầng lớp nhân dân. Đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, khi Cao Đài Cứu Quốc được thành lập đứng về phía cuộc kháng chiến chống Pháp cứu nước của dân tộc, đạo Cao Đài càng được nhân dân ủng hộ.
Một người con của Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương (đứng đầu Cao Đài Bến Tre, một hệ phái lớn tách ra từ Cao Đài) là kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhựt đã từ bỏ cuộc sống phồn hoa bên Pháp để trở về nước tham gia kháng chiến theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi bị thực dân Pháp bắt, anh chấp nhận hi sinh chứ không chịu cộng tác với kẻ thù, Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương cũng từ chối lời khuyến dụ của thực dân Pháp khuyên nhủ con mình từ bỏ con đường kháng chiến để được sống.
Tất cả những yếu tố đó đã giúp cho đạo Cao Đài có bước phát triển mạnh mẽ chỉ trong một thời gian ngắn, đạo Cao Đài lan rộng ra toàn khắp lục tỉnh Nam Kỳ và phát triển ra đến Nam Trung Bộ. Đầu những năm 1950, tổng số tín đồ Cao Đài lên gần 2 triệu, chiếm gần 20% dân số khu vực miền Tây Nam Bộ và Nam Trung Bộ, nơi mà đạo Cao Đài đã truyền bá đến, vượt xa số lượng tín đồ các tôn giáo khác.
Tòa Thánh Cao Đài trung tâm đặt tại Tây Ninh, phần lớn các xã ở Nam Bộ đều có thất Cao Đài, sinh hoạt nội bộ của hàng giáo phẩm và giáo dân Cao Đài rất chặt chẽ, công phu. Tiến thêm một bước, giáo phái Cao Đài chủ xướng tình trạng “cát cứ”, tổ chức Tòa Thánh Tây Ninh gần giống hình thức bán tự trị, một lãnh thổ trong một quốc gia, có quân đội riêng lên đến 25 ngàn người với trang bị vũ khí không thua kém quân đội quốc gia.
Cùng với giáo phái Cao Đài ở Tây Ninh, giáo phái Hòa Hảo ở miền Tây cũng thành lập lực lượng võ trang cho riêng mình cùng với ý đồ “cát cứ” một vùng lãnh thổ. Sự phát triển vượt bậc của giáo phái Cao Đài, giáo phái Hòa Hảo, nhất là khi hai tôn giáo này thành lập cả quân đội, rồi xu hướng chống thực dân trong các giáo phái, đã làm thực dân Pháp rất lo lắng, tìm cách khống chế. Pháp thua ở Điện Biên Phủ, buộc phải cuốn cờ về nước.
Ngô Đình Diệm về nước làm Thủ tướng rồi hạ bệ Bảo Đại để làm “Quốc trưởng”, ông ta bộc lộ ngay là kẻ tay sai ôm gót ngoại bang, vì vậy mà bị sự chống đối của giáo phái Cao Đài nói riêng và các tôn giáo nói chung.
Tín đồ Triệu Thiên Thương trong cơn lốc thời cuộc
Không tập kết ra Bắc, bí mật ở lại miền Nam trong vỏ bọc tín đồ Cao Đài Tây Ninh có cái tên là Triệu Thiên Thương, ông Mười Trí đã sống trong cơn lốc thời cuộc rất đặc biệt trong những năm từ 1954 đến 1957. Ngô Đình Diệm đã ngấm ngầm, rồi công khai phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, quyết tâm ôm gót ngoại bang Hoa Kỳ, chia cắt lâu dài đất nước ta.
Trong khi đó, Chính phủ VNDCCH ở miền Bắc và Cách mạng miền Nam vẫn kiên trì đấu tranh chính trị đòi chính quyền Ngô Đình Diệm thi hành Hiệp định, thực hiện tổng tuyển cử, thống nhất đất nước. Ta chủ trương không dùng bạo lực, chưa cho phép đấu tranh vũ trang, tự giác chấp hành nghiêm túc tinh thần Hiệp định Giơ-ne-vơ. Vừa lật lọng phản bội Hiệp định, phản bội Tổ quốc, Diệm vừa tranh thủ thời cơ Cách mạng miền Nam chỉ đấu tranh chính trị, đã ra sức lùng sục, bắt giết, tra tấn, tù đày những người kháng chiến cũ còn ở lại miền Nam.
Đồng thời Diệm cũng mua chuộc, tấn công, tiễu trừ quân đội các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên. Bình Xuyên thì nhanh chóng qui hàng Diệm với sự đầu hàng của thủ lĩnh Bảy Viễn. Quân đội Hòa Hảo bị đánh tan tác ở miền Tây, thủ lĩnh Năm Lửa rút quân về Đồng Tháp Mười cố thủ.
Chỉ có giáo phái Cao Đài còn tiếp tục cầm cự sau cùng. Nhưng với sự giúp sức của CIA Mỹ, qua trung gian của Đại tá Lansdale, chính quyền Diệm đã mua chuộc được các tướng lĩnh Cao Đài là Trịnh Minh Thế và Nguyễn Thành Phương với cấp hàm và lợi ích vật chất rất hậu hĩnh trong chính quyền Ngô Đình Diệm.
Trong tình hình đó, cuối năm 1955, quân đội VNCH của Diệm đã tấn công vào chiến khu Cao Đài Tây Ninh. Tương quan lực lượng quá chênh lệch, quân đội gíao phái Cao Đài không đương đầu nổi, Hộ Pháp Phạm Công Tắc buộc phải đào thoát sang Cao Miên sống lưu vong trong tháng 2/1956. Phần lớn binh sĩ Cao Đài buông súng xin quy hàng, số còn lại tản mác về miền Tây tiếp tục chiến đấu nhưng rồi cũng tan rã dần, không để lại dấu ấn nào.
Như chúng ta đã biết, mãi đến khi phong trào Đồng Khởi diễn ra vào đầu năm 1960, cách mạng miền Nam mới chính thức tổ chức đấu tranh vũ trang chống lại chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, quyết tâm giải phóng miền Nam.
Suốt những năm dài từ 1955 đến phong trào Đồng Khởi, những cán bộ cách mạng còn lại ở miền Nam phải vất vả lẩn tránh sự truy lùng của chính quyền Diệm, nhưng phần lớn đều bị bắt, tù đày, giết chóc. Diệm cho lê máy chém khắp miền Nam để trấn áp ý chí đấu tranh đòi thống nhất đất nước của nhân dân ta.
Trong tình thế ấy, nhiều cán bộ không thể ngồi yên chờ chết, quyết đánh trả chính quyền phản động Ngô Đình Diệm, nhưng để không vi phạm qui định chung, họ đã có sáng kiến mượn danh các giáo phái để đánh lại Diệm. Trong giai đoạn ấy, tại chiến khu Rừng Sác, dọc theo sông Soài Rạp, bỗng xuất hiện Tiểu đoàn 508 mang danh giao phái Bình Xuyên, mặc dù Bảy Viễn đã “ra thành” đầu hàng Diệm.
Tiểu đoàn thiện chiến ấy do Sáu Nam và Chín Râu chỉ huy, là những cán bộ cách mạng không đi tập kết. Tiểu đoàn 508 đã đánh những trận vang dội, như trận đánh chiếm đồn Lý Nhơn của quân đội Diệm, bắt hơn 100 lính ngụy, thu hàng tấn vũ khí. Diệm lồng lộn tức tối, ra rả trên đài tố cáo phía cách mạng phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ (?)
Ông Sáu Nam, người chỉ huy Tiểu đoàn “Bình Xuyên” 508 năm nào hiện vẫn còn sống, ông cho biết, dù cán bộ chiến sĩ của tiểu đoàn 508 lúc ấy cải trang giống hệt quân đội Bình Xuyên, nhưng tính cách “anh bộ đội Cụ Hồ” thì không thể lẫn vào đâu được, vì vậy mà nhân dân biết là “người mình”, họ phấn khởi khi biết lực lượng cách mạng vẫn còn ở miền Nam.
Cùng lúc ấy ở vùng Đồng Tháp Mười cũng xuất hiện Tiểu đoàn 509, là lực lực cách mạng nhưng mượn danh giáo phái Cao Đài, đánh cho quân đội Diệm những trận tơi bời. Không chỉ mượn danh các giáo phái để đánh Diệm, tự bảo vệ mình, những nhà lãnh đạo cơ quan An ninh của cách mạng miền Nam khi ấy còn định đi xa hơn, khi lên kế hoạch ám sát Ngô Đình Diệm, bởi tay Tổng thống bù nhìn này là nguyên nhân chính làm cho Hiệp định Giơ-ne-vơ không thể thực thi, đất nước bị chia cắt.
Và để không vi phạm chủ trương chung, ngay cả kế hoạch táo bạo ám sát Ngô Đình Diệm cũng phải mượn danh giáo phái. Và không ai có thể đảm nhận nhiệm vụ tối quan trọng này tốt hơn người chiến sĩ an ninh cách mạng nhưng đang khoác áo lính giáo phái Cao Đài, đó là tín đồ Triệu Thiên Thương, tức chiến sĩ an ninh Đình Dũng ngày trước, và là người tử tù Hà Minh Trí sau này.
Ông Hà Minh Trí cho biết, đích thân những người lãnh đạo cơ quan an ninh của cách mạng miền Nam khi ấy như ông Mai Chí Thọ, ông Mười Hương đã vạch ra kế hoạch này và giao nhiệm vụ đặc biệt này cho ông Mười Trí. Trận địa ban đầu được giăng ra để chờ đón Ngô Đình Diệm là Tòa Thánh Tây Ninh, sau chuyển xuống Nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn, cuối cùng là vùng đất cao nguyên Buôn Mê Thuột.
Điểm hẹn Buôn Mê Thuột
Kế hoạch của Ngô Đình Diệm đến Tòa Thánh Tây Ninh để thị uy sau khi quân đội của ông ta dẹp tan quân đội giáo phái Cao Đài, ông Mười Trí và cơ quan an ninh của ta ở Tây Ninh biết trước là sẽ diễn ra trong tháng 10/1956 và giăng bẫy chờ sẵn. Nhưng Ngô Đình Nhu và cơ quan mật vụ của Diệm quá cẩn trọng và cao tay, đã bất ngờ tổ chức chuyến đi cho Diệm không kèn không trống, làm quá bất ngờ, ông Mười Trí và các đồng đội không thể trở tay kịp.
Sau đó là kế hoạch ám sát Ngô Đình Diệm tại đêm hành lễ Giáng Sinh 24/12/1956 tại Nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn. Kế hoạch này được chuẩn bị công phu, rất hoàn hảo, ông Mười Trí và 1 đồng đội đã thực hiện được phương án áp sát Ngô Đình Diệm từ phía sau, chỉ cách 4 – 5 mét, hai khẩu súng ngắn sẽ cùng nhả đạn nhắm vào đầu vị Tổng thống tay sai bù nhìn khi ông ta đứng dậy hành lễ.
Thế nhưng, hai sát thủ sau khi vượt qua bao hàng rào kiểm soát ngặt nghèo, đã vào sẵn vị trí, đạn đã lên nòng, chỉ còn chờ đúng nửa đêm Ngô Đình Diệm bước vào nơi hành lễ là ra tay, thì cuối cùng Diệm lại không đến Nhà thờ Đức Bà như đã định, mà “giở chứng” cùng đoàn tùy tùng đi về dự lễ nơi biên giới xa xôi ở huyện Đức Huệ, tỉnh Hậu Nghĩa (Long An ngày nay). Lại thêm một lần nữa ông Mười Trí “lỡ hẹn” với Ngô Đình Diệm.
Đến lần thứ ba, ông Mười Trí và cơ quan an ninh của ta đã phân tích, đánh giá tình hình và đưa ra nhận định Ngô Đình Diệm sẽ đến Hội chợ Kinh tế Cao Nguyên ở Buôn Mê Thuột, và ông Mười Trí đã không “quá tam ba bận” đón hụt tay Tổng thống ma mãnh này. Một cuộc chạm trán trong tích tắc ở Buôn Mê Thuột đã làm sôi động cả miền Nam, làm thay đổi chính trường Sài Gòn sau đó và làm thay đổi lịch sử cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam.
Đầu tháng 2 năm 1957, đài phát thanh Sài Gòn và nhiều tờ báo đưa tin Hội chợ Kinh tế Cao Nguyên tại Buôn Mê Thuột sẽ khai mạc vào ngày 22/2/1957. Hội chợ mang tính toàn vùng, nhằm tạo thanh thế cho chính quyền Ngô Đình Diệm trên vùng đất Tây Nguyên giàu tiềm năng.
Phân tích, đánh giá sự kiện, nghe ngóng diễn biến trong “Phủ Đầu rồng”, ông Mười Trí và các đồng đội nhận định Diệm sẽ có mặt ở Buôn Mê Thuột vào ngày khai mạc hội chợ để cắt băng khai mạc. Vậy là, trên những chuyến xe đò ngược xuôi Sài Gòn – Buôn Mê Thuột lúc ấy, thường xuyên có một hành khách là tín đồ Cao Đài.
Người ấy đến Buôn Mê Thuột, xong đến lân la ở nơi sẽ diễn ra hội chợ, rồi tìm đến một người quen cũng là tín đồ Cao Đài ở đây. Xong, người ấy quay về Sài Gòn cùng các cộng sự vẽ lại sơ đồ, tính toán phương án đột nhập vào Hội chợ Kinh tế Cao Nguyên.
Chỉ trong vòng nửa tháng mà ông Hà Minh Trí đã có 3 chuyến đi về giữa Sài Gòn và Buôn Mê Thuột xa xôi, cùng lúc với việc dựng thử sa bàn hội chợ, tính toán phương án hành động, những tình huống có thể diễn ra...
Chiều 21/2/1957, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Trần Kim Tuyến, Phạm Ngọc Thảo (nhân vật Nguyễn Thành Luân trong phim Ván bài lật ngửa) và đoàn tùy tùng đã có mặt ở Buôn Mê Thuột để sáng sớm hôm sau dự lễ khai mạc hội chợ. Cũng vào lúc 5 giờ chiều ngày 21/2/1957, tại bến xe Chợ Lớn, có 2 người khách, một nam một nữ, lấy vé xe tuyến Sài Gòn – Buôn Mê Thuột.
Họ lên xe, người khách nam ngồi băng ghế trước, mặc áo khoác, không mang theo hành lý gì, vẻ mặt ung dung tự tại. Người khách nữ ngồi băng ghế sau, trên đùi có giỏ hành lý, bên trong là khẩu súng tiểu liên MAT-49 đã được cửa nòng, cưa báng súng (cho gọn nhẹ) và băng đạn 21 viên đã tháo rời khỏi súng.
Chiếc xe đò khởi hành khỏi Sài Gòn, băng mình trong đêm tối hướng về cao nguyên, trên xe mọi người đều ngủ do mệt nhọc trên chuyến đi dài, chỉ duy hai người hành khách nọ là không ngủ. Họ không hề trò chuyện gì nhau, chỉ thỉnh thoảng đưa mắt ra ám hiệu cho nhau, mỗi người đều theo đuổi những kế hoạch của riêng mình, mắt họ nhìn ra những đồi núi trập trùng trong màn đêm. Chiếc xe đò đến Buôn Mê Thuột lúc 5 giờ sáng, còn cách 2 tiếng nữa là tới giờ khai mạc Hội chợ Kinh tế Cao Nguyên.
Hai người hành khách nói trên ghé vào một quán ăn sáng gần bến xe, người hành khách nữ kín đáo trao súng đạn cho người hành khách nam, người nam nhanh chóng giắt vũ khí vào người, bên trong lớp áo khoác. Xong người nam ra lệnh: “Cô lấy vé lên xe đò về ngay Sài Gòn”. Người nữ nhẹ nhàng nói: “Tôi ở lại, có thể hỗ trợ anh được chuyện gì...”.
Người nam ra lệnh dứt khoát: “Sau khi súng nổ, tôi hoặc hi sinh, hoặc bị bắt, không còn khả năng khác, cô ở lại có thể cũng bị bắt theo, chẳng ích gì”. Người khách nam ấy là tín đồ Cao Đài Triệu Thiên Thương, người vừa mới cầm trong tay giấy căn cước giả mang tên Hà Minh Trí, ông sắp thực hiện vụ ám sát lừng danh trong lịch sử cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta, vụ ám sát sau này được gọi bằng cái tên “Phát súng trên cao nguyên”.
Sau khi người đồng đội nữ lên xe quay về Sài Gòn, ông Hà Minh Trí với khẩu tiểu liên giấu trong người đi về phía Hội chợ Kinh tế Cao Nguyên sắp khai mạc. Cùng lúc, Ngô Đình Diệm cùng đoàn tùy tùng cũng rời khỏi khách sạn đi đến hội chợ...
[links()]
Ông Mười Trí đã “đeo” theo Ngô Đình Diệm từ Tòa thánh Tây Ninh đến Nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn, rồi lên Hội chợ Kinh tế Cao nguyên ở Buôn Mê Thuột để thực hiện “phát súng trên cao nguyên” tuy không giết chết được Diệm nhưng đã làm đảo điên chính trường Sài Gòn.
Em nuôi người huynh trưởng Cao Đài
Rời thành phố Vũng Tàu vào tháng 8/1948 sau khi đã gây kinh hoàng cho bọn sĩ quan Pháp bằng những lần đánh xuất quỷ nhập thần bằng lựu đạn vào các vũ trường, quán bar, Đình Dũng (tên của Hà Minh Trí khi tham gia vào Đội An ninh biệt động N2 ở Vũng Tàu) được cơ quan An ninh của của ta tổ chức đưa lên Tây Ninh để tham gia vào lực lượng võ trang giáo phái Cao Đài vì những kế hoạch lâu dài.
Bằng sự lanh lợi, tháo vát trời cho, cùng với bản lĩnh, sự từng trải do vào đời quá sớm, cậu bé Đình Dũng đã không mấy khó khăn để lân la làm quen, lấy cảm tình viên thiếu úy Phạm Ngọc Chẩn – một đồn trưởng quân đội Cao Đài ở Tây Ninh. Đình Dũng cải trang là trẻ chăn trâu để có thể lân la tiếp cận vào đồn.
Ban đầu Đình Dũng la cà làm quen với những trẻ chăn trâu quanh đồn, chỉ cần một ít bánh kẹo là cậu bé có thể nhờ những đứa trẻ chăn trâu dạy cho cách cỡi trâu. Chỉ cần vài buổi là cậu bé chưa từng một lần ngồi trên lưng trâu đã có thể “ngồi lưng trâu quất ngọn cờ lau và miệng hát nghêu ngao” lân la quanh đồn.
Viên đồn trưởng Phạm Ngọc Chẩn đã dần có cảm tình với cậu bé chăn trâu lễ phép, dễ mến, biết đánh võ, biết cả tiếng Nhật. Đình Dũng được nhận vào làm thằng nhỏ giúp việc cho đồn trưởng, hàng ngày đi chợ, nấu cơm, giặt giũ cho y, lúc rảnh rỗi thì múa võ, nói tiếng Nhật cho anh ta nghe đỡ buồn.
Ông Hà Minh Trí |
Ở trong đồn, vừa tranh thủ lấy cảm tình của viên đồn trưởng, theo chỉ thị của cấp trên, Đình Dũng vừa tranh thủ vẽ sơ đồ khu vực đồn, thu thập tin tức về quân đội Cao Đài, hàng ngày báo cho đường dây liên lạc của cơ quan An ninh của Ủy ban Hành chánh kháng chiến tỉnh Tây Ninh.
Ở trong đồn được gần 2 tháng, không hiểu vì lý do gì, Đình Dũng và đồn trưởng Phạm Ngọc Chẩn bất ngờ bị đội công tác đặc biệt của quân đội Cao Đài Tây Ninh bắt đưa về tạm giam ở Tòa thánh Tây Ninh. Mãi cho tới bây giờ ông Mười Trí vẫn không giải thích được vì sao ông và viên đồn trưởng Phạm Ngọc Chẩn bị bắt, có thể do một bản báo cáo vẽ sơ đồ khu vực đồn cùng những số liệu về quân đội Cao Đài đã bị lọt vào tay quân Pháp, rồi đến tay quân đội Cao Đài cũng nên.
Đình Dũng và đồn trưởng Phạm Ngọc Chẩn bất ngờ bị bắt rồi cũng bất ngờ được thả ra nhờ sự can thiệp của Trung tá Phạm Ngọc Chấn - Tư lệnh quân đội Cao Đài Miền Tây, là anh ruột của đồn trưởng Phạm Ngọc Chẩn.
Trở về tiếp tục giúp việc cho đồn trưởng Phạm Ngọc Chẩn và ngày càng gắn bó với giáo phái Cao Đài, Đình Dũng được yêu cầu tạm dừng cung cấp thông tin ra ngoài để tránh bị lộ. Đến giữa năm 1953, do thấy dấu hiệu bị thực dân Pháp theo dõi, Đình Dũng được tổ chức bí mật rút ra căn cứ công tác trong Ban An ninh tỉnh Tây Ninh.
Chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, thực dân Pháp phải cuốn gói về nước, trả lại quyền tự quyết cho dân tộc Việt Nam. Đình Dũng có tên trong danh sách cán bộ tỉnh Tây Ninh tập kết ra Bắc theo tinh thần Hiệp định Giơ-ne-vơ.
Nhưng Đình Dũng đã bí mật ở lại, được tổ chức sắp xếp đưa vào hoạt động trong nội thành Tây Ninh với tư cách là tín đồ thành viên của lực lượng vũ trang Cao Đài ly khai với cái tên lạ hoắc trong thẻ tín đồ là Triệu Thiên Thương, cái tên đã gắn bó với ông suốt cả cuộc đời với cách gọi thân mật “Mười Thương”.
Từ lúc này, người thanh niên mới 19 tuổi mà đã trải qua rất nhiều môi trường sống, công tác, chính thức trở thành tín đồ Cao Đài, là người lính của giáo phái Cao Đài. Vì nhiệm vụ cách mạng mà ông trở thành tín đồ của một giáo phái có đông tín đồ nhất ở Việt Nam thời đó, ông cũng bỏ công học tập giáo lý, tôn chỉ của những người sáng lập ra giáo phái.
Trong thâm tâm, ông rất trân trọng, có cảm tình với những định hướng chân, thiện, mỹ của đạo Cao Đài và ông đã hành đạo như một tín đồ ngoan đạo thực thụ. Đó là cơ duyên để sau ngày miền Nam giải phóng, ông từ ngành công an được chuyển về phụ trách Ban Tôn giáo tỉnh Tây Ninh.
Giáo phái hùng mạnh và “tiểu quốc” Cao Đài
Đạo Cao Đài được ngài Ngô Văn Chiêu sáng lập năm 1926 tại Chợ Lớn. Khi ấy trên toàn cõi Việt Nam chỉ có 2 tôn giáo chi phối mạnh mẽ lòng tín ngưỡng của người dân là Phật Giáo và Thiên Chúa giáo, cùng với những dấu ấn của Nho giáo đã in sâu từ hàng ngàn năm trong đời sống người dân.
Đạo Cao Đài ra đời là sự kế thừa, tổng hợp của của các tôn giáo đang chi phối mạnh mẽ đời sống người dân. Biểu tượng thiêng liêng của đạo Cao Đài là hình Một Mắt, tượng trựng cho sự thấu suốt mọi lẽ huyền vi của vũ trụ và thế giới tâm linh.
Đức Ngô Văn Chiêu không tạo ra một vị thánh nào của riêng cho đạo Cao Đài, mà chọn lựa nhiều hình tượng đang có sức chi phối lớn tình cảm dân chúng để tôn vinh và thờ phượng, từ những bậc thánh nhân như Đức Phật Thích Ca, Đức Chúa Jesus, Lão Tử, Khổng Tử, cho đến những những nhân vật đời thường như Victor Hugo (văn hào Pháp) cùng nhiều nhân vật lịch sử, tôn giáo và văn hóa khác trong và ngoài nước để thờ phượng như những thánh nhân.
Ra đời trong bối cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, nhiều cuộc khởi nghĩa của các sĩ phu yêu nước lần lượt bị thất bại, con đường giải phóng dân tộc đang bị bế tắc, đạo Cao Đài cũng mang trong mình tinh thần yêu nước, có xu hướng chống đối thực dân xâm lược.
Với một đạo pháp chủ trương hòa đồng, mang tính dân tộc như thế, tuy rất dễ được quần chúng quan tâm và chấp nhận, nhưng thực tế giai đoạn đầu đạo Cao Đài không có gì nổi bật, chưa thu hút được nhiều tín đồ.
Dưới ách thống trị hà khắc của thực dân xâm lược, người dân sống lầm than kiếp nô lệ kéo dài, trong khi các tôn giáo lớn khác không có chủ trương gì rõ ràng giúp cứu nguy, chấn hưng dân tộc, nên càng ngày càng mất sức hấp dẫn đối với người dân.
Nhờ vậy mà khi đạo Cao Đài có những biểu hiện đối lập với thực dân xâm lược, cổ súy độc lập dân tộc, tôn giáo mới mẻ này đã thu hút được rộng rãi các tầng lớp nhân dân. Đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, khi Cao Đài Cứu Quốc được thành lập đứng về phía cuộc kháng chiến chống Pháp cứu nước của dân tộc, đạo Cao Đài càng được nhân dân ủng hộ.
Một người con của Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương (đứng đầu Cao Đài Bến Tre, một hệ phái lớn tách ra từ Cao Đài) là kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhựt đã từ bỏ cuộc sống phồn hoa bên Pháp để trở về nước tham gia kháng chiến theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi bị thực dân Pháp bắt, anh chấp nhận hi sinh chứ không chịu cộng tác với kẻ thù, Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương cũng từ chối lời khuyến dụ của thực dân Pháp khuyên nhủ con mình từ bỏ con đường kháng chiến để được sống.
Loại súng MAT-49 ông Hà Minh Trí mang theo để ám sát Ngô Đình Diệm. |
Tất cả những yếu tố đó đã giúp cho đạo Cao Đài có bước phát triển mạnh mẽ chỉ trong một thời gian ngắn, đạo Cao Đài lan rộng ra toàn khắp lục tỉnh Nam Kỳ và phát triển ra đến Nam Trung Bộ. Đầu những năm 1950, tổng số tín đồ Cao Đài lên gần 2 triệu, chiếm gần 20% dân số khu vực miền Tây Nam Bộ và Nam Trung Bộ, nơi mà đạo Cao Đài đã truyền bá đến, vượt xa số lượng tín đồ các tôn giáo khác.
Tòa Thánh Cao Đài trung tâm đặt tại Tây Ninh, phần lớn các xã ở Nam Bộ đều có thất Cao Đài, sinh hoạt nội bộ của hàng giáo phẩm và giáo dân Cao Đài rất chặt chẽ, công phu. Tiến thêm một bước, giáo phái Cao Đài chủ xướng tình trạng “cát cứ”, tổ chức Tòa Thánh Tây Ninh gần giống hình thức bán tự trị, một lãnh thổ trong một quốc gia, có quân đội riêng lên đến 25 ngàn người với trang bị vũ khí không thua kém quân đội quốc gia.
Cùng với giáo phái Cao Đài ở Tây Ninh, giáo phái Hòa Hảo ở miền Tây cũng thành lập lực lượng võ trang cho riêng mình cùng với ý đồ “cát cứ” một vùng lãnh thổ. Sự phát triển vượt bậc của giáo phái Cao Đài, giáo phái Hòa Hảo, nhất là khi hai tôn giáo này thành lập cả quân đội, rồi xu hướng chống thực dân trong các giáo phái, đã làm thực dân Pháp rất lo lắng, tìm cách khống chế. Pháp thua ở Điện Biên Phủ, buộc phải cuốn cờ về nước.
Ngô Đình Diệm về nước làm Thủ tướng rồi hạ bệ Bảo Đại để làm “Quốc trưởng”, ông ta bộc lộ ngay là kẻ tay sai ôm gót ngoại bang, vì vậy mà bị sự chống đối của giáo phái Cao Đài nói riêng và các tôn giáo nói chung.
Tín đồ Triệu Thiên Thương trong cơn lốc thời cuộc
Không tập kết ra Bắc, bí mật ở lại miền Nam trong vỏ bọc tín đồ Cao Đài Tây Ninh có cái tên là Triệu Thiên Thương, ông Mười Trí đã sống trong cơn lốc thời cuộc rất đặc biệt trong những năm từ 1954 đến 1957. Ngô Đình Diệm đã ngấm ngầm, rồi công khai phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, quyết tâm ôm gót ngoại bang Hoa Kỳ, chia cắt lâu dài đất nước ta.
Trong khi đó, Chính phủ VNDCCH ở miền Bắc và Cách mạng miền Nam vẫn kiên trì đấu tranh chính trị đòi chính quyền Ngô Đình Diệm thi hành Hiệp định, thực hiện tổng tuyển cử, thống nhất đất nước. Ta chủ trương không dùng bạo lực, chưa cho phép đấu tranh vũ trang, tự giác chấp hành nghiêm túc tinh thần Hiệp định Giơ-ne-vơ. Vừa lật lọng phản bội Hiệp định, phản bội Tổ quốc, Diệm vừa tranh thủ thời cơ Cách mạng miền Nam chỉ đấu tranh chính trị, đã ra sức lùng sục, bắt giết, tra tấn, tù đày những người kháng chiến cũ còn ở lại miền Nam.
Đồng thời Diệm cũng mua chuộc, tấn công, tiễu trừ quân đội các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên. Bình Xuyên thì nhanh chóng qui hàng Diệm với sự đầu hàng của thủ lĩnh Bảy Viễn. Quân đội Hòa Hảo bị đánh tan tác ở miền Tây, thủ lĩnh Năm Lửa rút quân về Đồng Tháp Mười cố thủ.
Chỉ có giáo phái Cao Đài còn tiếp tục cầm cự sau cùng. Nhưng với sự giúp sức của CIA Mỹ, qua trung gian của Đại tá Lansdale, chính quyền Diệm đã mua chuộc được các tướng lĩnh Cao Đài là Trịnh Minh Thế và Nguyễn Thành Phương với cấp hàm và lợi ích vật chất rất hậu hĩnh trong chính quyền Ngô Đình Diệm.
Trong tình hình đó, cuối năm 1955, quân đội VNCH của Diệm đã tấn công vào chiến khu Cao Đài Tây Ninh. Tương quan lực lượng quá chênh lệch, quân đội gíao phái Cao Đài không đương đầu nổi, Hộ Pháp Phạm Công Tắc buộc phải đào thoát sang Cao Miên sống lưu vong trong tháng 2/1956. Phần lớn binh sĩ Cao Đài buông súng xin quy hàng, số còn lại tản mác về miền Tây tiếp tục chiến đấu nhưng rồi cũng tan rã dần, không để lại dấu ấn nào.
Như chúng ta đã biết, mãi đến khi phong trào Đồng Khởi diễn ra vào đầu năm 1960, cách mạng miền Nam mới chính thức tổ chức đấu tranh vũ trang chống lại chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, quyết tâm giải phóng miền Nam.
Suốt những năm dài từ 1955 đến phong trào Đồng Khởi, những cán bộ cách mạng còn lại ở miền Nam phải vất vả lẩn tránh sự truy lùng của chính quyền Diệm, nhưng phần lớn đều bị bắt, tù đày, giết chóc. Diệm cho lê máy chém khắp miền Nam để trấn áp ý chí đấu tranh đòi thống nhất đất nước của nhân dân ta.
Trong tình thế ấy, nhiều cán bộ không thể ngồi yên chờ chết, quyết đánh trả chính quyền phản động Ngô Đình Diệm, nhưng để không vi phạm qui định chung, họ đã có sáng kiến mượn danh các giáo phái để đánh lại Diệm. Trong giai đoạn ấy, tại chiến khu Rừng Sác, dọc theo sông Soài Rạp, bỗng xuất hiện Tiểu đoàn 508 mang danh giao phái Bình Xuyên, mặc dù Bảy Viễn đã “ra thành” đầu hàng Diệm.
Tiểu đoàn thiện chiến ấy do Sáu Nam và Chín Râu chỉ huy, là những cán bộ cách mạng không đi tập kết. Tiểu đoàn 508 đã đánh những trận vang dội, như trận đánh chiếm đồn Lý Nhơn của quân đội Diệm, bắt hơn 100 lính ngụy, thu hàng tấn vũ khí. Diệm lồng lộn tức tối, ra rả trên đài tố cáo phía cách mạng phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ (?)
Ông Sáu Nam, người chỉ huy Tiểu đoàn “Bình Xuyên” 508 năm nào hiện vẫn còn sống, ông cho biết, dù cán bộ chiến sĩ của tiểu đoàn 508 lúc ấy cải trang giống hệt quân đội Bình Xuyên, nhưng tính cách “anh bộ đội Cụ Hồ” thì không thể lẫn vào đâu được, vì vậy mà nhân dân biết là “người mình”, họ phấn khởi khi biết lực lượng cách mạng vẫn còn ở miền Nam.
Cùng lúc ấy ở vùng Đồng Tháp Mười cũng xuất hiện Tiểu đoàn 509, là lực lực cách mạng nhưng mượn danh giáo phái Cao Đài, đánh cho quân đội Diệm những trận tơi bời. Không chỉ mượn danh các giáo phái để đánh Diệm, tự bảo vệ mình, những nhà lãnh đạo cơ quan An ninh của cách mạng miền Nam khi ấy còn định đi xa hơn, khi lên kế hoạch ám sát Ngô Đình Diệm, bởi tay Tổng thống bù nhìn này là nguyên nhân chính làm cho Hiệp định Giơ-ne-vơ không thể thực thi, đất nước bị chia cắt.
Và để không vi phạm chủ trương chung, ngay cả kế hoạch táo bạo ám sát Ngô Đình Diệm cũng phải mượn danh giáo phái. Và không ai có thể đảm nhận nhiệm vụ tối quan trọng này tốt hơn người chiến sĩ an ninh cách mạng nhưng đang khoác áo lính giáo phái Cao Đài, đó là tín đồ Triệu Thiên Thương, tức chiến sĩ an ninh Đình Dũng ngày trước, và là người tử tù Hà Minh Trí sau này.
Ông Hà Minh Trí cho biết, đích thân những người lãnh đạo cơ quan an ninh của cách mạng miền Nam khi ấy như ông Mai Chí Thọ, ông Mười Hương đã vạch ra kế hoạch này và giao nhiệm vụ đặc biệt này cho ông Mười Trí. Trận địa ban đầu được giăng ra để chờ đón Ngô Đình Diệm là Tòa Thánh Tây Ninh, sau chuyển xuống Nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn, cuối cùng là vùng đất cao nguyên Buôn Mê Thuột.
Điểm hẹn Buôn Mê Thuột
Kế hoạch của Ngô Đình Diệm đến Tòa Thánh Tây Ninh để thị uy sau khi quân đội của ông ta dẹp tan quân đội giáo phái Cao Đài, ông Mười Trí và cơ quan an ninh của ta ở Tây Ninh biết trước là sẽ diễn ra trong tháng 10/1956 và giăng bẫy chờ sẵn. Nhưng Ngô Đình Nhu và cơ quan mật vụ của Diệm quá cẩn trọng và cao tay, đã bất ngờ tổ chức chuyến đi cho Diệm không kèn không trống, làm quá bất ngờ, ông Mười Trí và các đồng đội không thể trở tay kịp.
Sau đó là kế hoạch ám sát Ngô Đình Diệm tại đêm hành lễ Giáng Sinh 24/12/1956 tại Nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn. Kế hoạch này được chuẩn bị công phu, rất hoàn hảo, ông Mười Trí và 1 đồng đội đã thực hiện được phương án áp sát Ngô Đình Diệm từ phía sau, chỉ cách 4 – 5 mét, hai khẩu súng ngắn sẽ cùng nhả đạn nhắm vào đầu vị Tổng thống tay sai bù nhìn khi ông ta đứng dậy hành lễ.
Thế nhưng, hai sát thủ sau khi vượt qua bao hàng rào kiểm soát ngặt nghèo, đã vào sẵn vị trí, đạn đã lên nòng, chỉ còn chờ đúng nửa đêm Ngô Đình Diệm bước vào nơi hành lễ là ra tay, thì cuối cùng Diệm lại không đến Nhà thờ Đức Bà như đã định, mà “giở chứng” cùng đoàn tùy tùng đi về dự lễ nơi biên giới xa xôi ở huyện Đức Huệ, tỉnh Hậu Nghĩa (Long An ngày nay). Lại thêm một lần nữa ông Mười Trí “lỡ hẹn” với Ngô Đình Diệm.
Đến lần thứ ba, ông Mười Trí và cơ quan an ninh của ta đã phân tích, đánh giá tình hình và đưa ra nhận định Ngô Đình Diệm sẽ đến Hội chợ Kinh tế Cao Nguyên ở Buôn Mê Thuột, và ông Mười Trí đã không “quá tam ba bận” đón hụt tay Tổng thống ma mãnh này. Một cuộc chạm trán trong tích tắc ở Buôn Mê Thuột đã làm sôi động cả miền Nam, làm thay đổi chính trường Sài Gòn sau đó và làm thay đổi lịch sử cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam.
Đầu tháng 2 năm 1957, đài phát thanh Sài Gòn và nhiều tờ báo đưa tin Hội chợ Kinh tế Cao Nguyên tại Buôn Mê Thuột sẽ khai mạc vào ngày 22/2/1957. Hội chợ mang tính toàn vùng, nhằm tạo thanh thế cho chính quyền Ngô Đình Diệm trên vùng đất Tây Nguyên giàu tiềm năng.
Tòa thánh Cao Đài Tây Ninh, nơi Hà Minh Trí là tín đồ. |
Phân tích, đánh giá sự kiện, nghe ngóng diễn biến trong “Phủ Đầu rồng”, ông Mười Trí và các đồng đội nhận định Diệm sẽ có mặt ở Buôn Mê Thuột vào ngày khai mạc hội chợ để cắt băng khai mạc. Vậy là, trên những chuyến xe đò ngược xuôi Sài Gòn – Buôn Mê Thuột lúc ấy, thường xuyên có một hành khách là tín đồ Cao Đài.
Người ấy đến Buôn Mê Thuột, xong đến lân la ở nơi sẽ diễn ra hội chợ, rồi tìm đến một người quen cũng là tín đồ Cao Đài ở đây. Xong, người ấy quay về Sài Gòn cùng các cộng sự vẽ lại sơ đồ, tính toán phương án đột nhập vào Hội chợ Kinh tế Cao Nguyên.
Chỉ trong vòng nửa tháng mà ông Hà Minh Trí đã có 3 chuyến đi về giữa Sài Gòn và Buôn Mê Thuột xa xôi, cùng lúc với việc dựng thử sa bàn hội chợ, tính toán phương án hành động, những tình huống có thể diễn ra...
Chiều 21/2/1957, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Trần Kim Tuyến, Phạm Ngọc Thảo (nhân vật Nguyễn Thành Luân trong phim Ván bài lật ngửa) và đoàn tùy tùng đã có mặt ở Buôn Mê Thuột để sáng sớm hôm sau dự lễ khai mạc hội chợ. Cũng vào lúc 5 giờ chiều ngày 21/2/1957, tại bến xe Chợ Lớn, có 2 người khách, một nam một nữ, lấy vé xe tuyến Sài Gòn – Buôn Mê Thuột.
Họ lên xe, người khách nam ngồi băng ghế trước, mặc áo khoác, không mang theo hành lý gì, vẻ mặt ung dung tự tại. Người khách nữ ngồi băng ghế sau, trên đùi có giỏ hành lý, bên trong là khẩu súng tiểu liên MAT-49 đã được cửa nòng, cưa báng súng (cho gọn nhẹ) và băng đạn 21 viên đã tháo rời khỏi súng.
Ông Hà Minh Trí |
Chiếc xe đò khởi hành khỏi Sài Gòn, băng mình trong đêm tối hướng về cao nguyên, trên xe mọi người đều ngủ do mệt nhọc trên chuyến đi dài, chỉ duy hai người hành khách nọ là không ngủ. Họ không hề trò chuyện gì nhau, chỉ thỉnh thoảng đưa mắt ra ám hiệu cho nhau, mỗi người đều theo đuổi những kế hoạch của riêng mình, mắt họ nhìn ra những đồi núi trập trùng trong màn đêm. Chiếc xe đò đến Buôn Mê Thuột lúc 5 giờ sáng, còn cách 2 tiếng nữa là tới giờ khai mạc Hội chợ Kinh tế Cao Nguyên.
Hai người hành khách nói trên ghé vào một quán ăn sáng gần bến xe, người hành khách nữ kín đáo trao súng đạn cho người hành khách nam, người nam nhanh chóng giắt vũ khí vào người, bên trong lớp áo khoác. Xong người nam ra lệnh: “Cô lấy vé lên xe đò về ngay Sài Gòn”. Người nữ nhẹ nhàng nói: “Tôi ở lại, có thể hỗ trợ anh được chuyện gì...”.
Người nam ra lệnh dứt khoát: “Sau khi súng nổ, tôi hoặc hi sinh, hoặc bị bắt, không còn khả năng khác, cô ở lại có thể cũng bị bắt theo, chẳng ích gì”. Người khách nam ấy là tín đồ Cao Đài Triệu Thiên Thương, người vừa mới cầm trong tay giấy căn cước giả mang tên Hà Minh Trí, ông sắp thực hiện vụ ám sát lừng danh trong lịch sử cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta, vụ ám sát sau này được gọi bằng cái tên “Phát súng trên cao nguyên”.
Sau khi người đồng đội nữ lên xe quay về Sài Gòn, ông Hà Minh Trí với khẩu tiểu liên giấu trong người đi về phía Hội chợ Kinh tế Cao Nguyên sắp khai mạc. Cùng lúc, Ngô Đình Diệm cùng đoàn tùy tùng cũng rời khỏi khách sạn đi đến hội chợ...
Thiên Thanh
[links()]
Phát súng trên cao nguyên và cuộc thẩm vấn của Phạm Ngọc Thảo – Nguyễn Thành Luân
Cập nhật lúc 07:47 01/08/2011
Một kế hoạch tỉ mỉ ám sát Ngô Đình Diệm tại Hội chợ Kinh tế Cao Nguyên – thành phố Buôn Mê Thuột đã được ông Hà Minh Trí và đồng đội chuẩn bị rất kỹ. Thế nhưng, vì quá kỹ và cầu toàn mà mục tiêu cuối cùng là giết chết cho được Ngô Đình Diệm đã không thành, dù vậy vụ ám sát cũng làm đảo điên chính trường Sài Gòn.
(Phunutoday) - Một kế hoạch tỉ mỉ ám sát Ngô Đình Diệm tại Hội chợ Kinh tế Cao Nguyên – thành phố Buôn Mê Thuột đã được ông Hà Minh Trí và đồng đội chuẩn bị rất kỹ.
[links()]
Thế nhưng, vì quá kỹ và cầu toàn mà mục tiêu cuối cùng là giết chết cho được Ngô Đình Diệm đã không thành, dù vậy vụ ám sát cũng làm đảo điên chính trường Sài Gòn. Người chiến sĩ cảm tử Hà Minh Trí đã hiên ngang đối mặt với sự dụ dỗ, tra tấn của bộ máy an ninh, mật vụ của Diệm. Đã có một cuộc thẩm vấn thú vị “quân ta điều tra quân mình” do người bị thẩm vấn là Hà Minh Trí và người thẩm vấn là Phạm Ngọc Thảo, tức nhân vật Nguyễn Thành Luân trong bộ phim “Ván bài lật ngửa”.
Điểm hẹn Buôn Mê Thuột
Đầu tháng 2/1957, báo giới Sài Gòn đưa tin khá đậm về Hội chợ Kinh tế Cao Nguyên tại thành phố Buôn Mê Thuột sẽ khai mạc ngày 22/2/1957. Đây là hội chợ nhằm khuếch trương thanh thế của chính quyền Ngô Đình Diệm tại vùng đất Tây nguyên chiến lược.
Cơ quan an ninh của cách mạng có được thông tin đích thân Ngô Đình Diệm sẽ lên dự và cắt băng khai mạc hội chợ. Một kế hoạch ám sát Ngô Đình Diệm được vạch ra và người được giao thực hiện là chiến sĩ an ninh Đinh Dũng, người đang khoác trên mình tấm áo người lính giáo phái Cao Đài.
Đinh Dũng ngay tức thì cùng đồng đội tổ chức liên tục mấy chuyến đi khảo sát, nắm thực địa vị trí tổ chức hội chợ ở Buôn Mê Thuột. Đinh Dũng gặp thuận lợi lớn là Trung đoàn 60 của Việt Nam Cộng hòa bảo vệ vòng ngoài buổi lễ khai mạc có rất nhiều lính Cao Đài sáp nhập vào.
Nhờ một người quen từng là lính Cao Đài tham gia Trung đoàn 60 bảo vệ hội chợ, Đinh Dũng đã nắm khá đầy đủ các chi tiết liên quan tới hội chợ, kể cả kế hoạch bảo vệ Ngô Đình Diệm và các quan chức trong lễ khai mạc. Cũng nhờ người quen này, Đinh Dũng đã mang được súng vào tận sân lễ, mặc dù ban tổ chức chỉ cho phép các quan chức, chính quyền sở tại cùng một ít thương gia tham dự lễ khai mạc, sau đó hội chợ mới chính thức mở cửa cho dân vào tham quan.
Trước đó vài giờ, trên chuyến xe khách buổi sớm khởi hành từ Sài Gòn cập bến Buôn Mê thuộc, Đinh Dũng đến cao nguyên với tấm giấy thông hành mang tên Hà Minh Trí, một thương gia ở Tây Ninh cùng vợ lên dự hội chợ. Nhận súng đạn từ người đồng đội đóng vai vợ, Hà Minh Trí đưa “vợ” ra xe về Sài Gòn, nhưng cô gái đồng đội đóng giả người vợ thương gia lại lo lắng, muốn nán lại để hỗ trợ cho “chồng”.
Sau khi chuyến xe chở cô gái đồng đội lăn bánh về hướng Sài Gòn, “thương gia” Hà Minh Trí ung dung đi về nơi sắp khai mạc hội chợ. Khẩu súng tiểu liên MAT-49 được cưa báng và cưa nòng cho gọn nhẹ cùng băng đạn đã được ém đầy 21 viên nằm gọn gàng trong lớp áo thương gia.
Người quen là lính Trung đoàn 60 bảo vệ hội chợ đã đón Hà Minh Trí tại cổng hội chợ và người thương gia Tây Ninh đã không mấy khó khăn qua được vòng bảo vệ bên ngoài, rồi vòng bảo vệ bên trong, có mặt tại sân lễ bên cạnh những quan chức, giới thương gia và dày đặc lực lượng quân cảnh bảo vệ.
Hà Minh Trí đứng sát 1 quân cảnh mang cấp bậc Thượng sĩ có vóc dáng to lớn, chiều cao hơn hẳn ông Trí cả cái đầu.
Người Thượng sĩ quân cảnh mỉm cười chào người thương gia trẻ tuổi, Hà Minh Trí gật đầu chào lại, ông không thể ngờ chính tay Thượng sĩ này sau đó đã cản trở làm cho kế hoạch ám sát không thành công.
Nếu hình ảnh Ngô Đình Diệm hoảng hốt được những cận vệ cõng chạy được tung lên trang báo thì còn gì là “Ngô chí sĩ”. Ngày hôm sau báo chí Sài Gòn chỉ đưa tin ngắn về vụ ám sát, những ngày sau nữa mới có bài tường thuật vụ việc, kèm theo hình ảnh Hà Minh Trí bị bắt, tuyệt nhiên không có tờ báo nào dám đưa hình ảnh Ngô Đình Diệm được cõng chạy khỏi hiện trường.
Sau một trận đòn “sơ giao” ở tại hiện trường, Hà Minh Trí bị đưa về Ty Cảnh sát Buôn Mê Thuột để thẩm vấn. Tại đây, trước sự hiện diện đông đủ của Ngô Đình Nhu, Trần Kim Tuyến, Phạm Ngọc Thảo và nhiều sĩ quan an ninh của Phủ Đầu Rồng và tỉnh Buôn Mê Thuột, khi bị thẩm vấn về động cơ ám sát Ngô Đình Diệm, ông Hà Minh Trí trả lời rành mạch theo đúng “lập trình”: “Tôi là lính giáo phái Cao Đài, tôi giết Ngô Đình Diệm để trả thù cho các thủ lĩnh Cao Đài, tôi hành động theo chỉ đạo của Mai Hữu Xuân và Dương Văn Minh”.
Nghe câu trả lời, Ngô Đình Nhu tái mặt, ra lệnh ngừng ngay cuộc thẩm vấn và yêu cầu những người có mặt tuyệt đối giữ kín nội dung cuộc thẩm vấn. Cẩn thận hơn, Ngô Đình Nhu lập ngay danh sách tất cả những người có mặt trong cuộc thẩm vấn.
Đối với “ngài Cố vấn” được xem là bộ não của các sách lược của chính quyền Diệm, có thể thông tin kẻ ám sát Tổng thống là lính giáo phái Cao Đài không thật hệ trọng, nhưng lời khai “hành động theo chỉ đạo của Mai Hữu Xuân và Dương Văn Minh” là vô cùng nghiêm trọng, vì vậy ông ta ra lệnh dừng ngay cuộc hỏi cung với nhiều thành phần tham dự, để chuyển ngay kẻ ám sát về Sài Gòn tiếp tục làm rõ mọi chuyện.
Chính lời khai “hành động theo chỉ đạo của Mai Hữu Xuân và Dương Văn Minh” của Hà Minh Trí đã có tác dụng làm nội bộ chính quyền Diệm phân hóa sâu sắc, gây đảo điên chính trường Sài Gòn, dẫn đến sự sụp đổ và cái chết của Diệm – Nhu.
Bí ẩn chuyện không dùng lựu đạn
Khi lập phương án ám sát Ngô Đình Diệm ở Buôn Mê Thuột, ông Hà Minh Trí đề nghị sử dụng lựu đạn, có thể kết hợp cả súng tiểu liên, vì lựu đạn có khả năng gây sát thương cao hơn, nhất là khi quăng cùng lúc nhiều trái về phía mục tiêu, khả năng thành công cao hơn nhiều. Thế nhưng, đã không được tổ chức đồng ý vì sợ gây sát thương cho thường dân đứng xung quanh.
Ông Hà Minh Trí báo cáo kết quả khảo sát thực địa, theo đó Ban Tổ chức hội chợ ở Buôn Mê Thuột chỉ bố trí ngồi trên lễ đài các quan chức chính quyền Sài Gòn cùng với anh em Diệm – Nhu, những thường dân (hầu hết là thương gia) đứng cách lễ đài những 20 mét, nếu quăng lựu đạn cũng không gây sát thương cho họ. Thế nhưng, phương án dùng lựu đạn vẫn không được duyệt.
Trong những ngày mang án tử trong lao tù, rồi cả sau khi được thả ra khỏi tù, tiếp tục chiến đấu chống Mỹ, ông Hà Minh Trí không thể giải thích được tại sao cấp trên không cho phép ông sử dụng lựu đạn trong lần ám sát Diệm ở Buôn Mê Thuột, vì xét về mọi lô gích thì dùng lựu đạn trong trường hợp này là tối ưu.
Mãi sau này, sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, ông Trí mới được biết nguyên nhân ông không được dùng lựu đạn, đó là: cấp trên sợ nhà tình báo chiến lược Phạm Ngọc Thảo (nhân vật Nguyễn Thành Luân trong phim “Ván bài lật ngửa”) bị sát thương.
Vào thời điểm Ngô Đình Diệm đi dự Hội chợ Kinh tế Cao Nguyên ở Buôn Mê Thuột, Phạm Ngọc Thảo mới được phong hàm Thiếu tá và điều về Phủ Tổng thống làm công tác “nghiên cứu chính trị”, mà thực chất là làm trợ lý cho Diệm và Nhu về các vấn đề thuộc về quốc sách. Sinh năm 1922 trong một gia đình đại điền chủ ở tỉnh Vĩnh Long, Phạm Ngọc Thảo được học hành chu đáo, tốt nghiệp đại học ở Hà Nội.
Như nhiều thanh niên trí thức khác cùng thời, trong đó có 2 người anh ruột của mình, Phạm Ngọc Thảo rời bỏ cuộc sống tiện nghi, giàu sang, để vào bưng biền cùng toàn dân tham gia cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Điểm hẹn Buôn Mê Thuột
Đầu tháng 2/1957, báo giới Sài Gòn đưa tin khá đậm về Hội chợ Kinh tế Cao Nguyên tại thành phố Buôn Mê Thuột sẽ khai mạc ngày 22/2/1957. Đây là hội chợ nhằm khuếch trương thanh thế của chính quyền Ngô Đình Diệm tại vùng đất Tây nguyên chiến lược.
Cơ quan an ninh của cách mạng có được thông tin đích thân Ngô Đình Diệm sẽ lên dự và cắt băng khai mạc hội chợ. Một kế hoạch ám sát Ngô Đình Diệm được vạch ra và người được giao thực hiện là chiến sĩ an ninh Đinh Dũng, người đang khoác trên mình tấm áo người lính giáo phái Cao Đài.
Đinh Dũng ngay tức thì cùng đồng đội tổ chức liên tục mấy chuyến đi khảo sát, nắm thực địa vị trí tổ chức hội chợ ở Buôn Mê Thuột. Đinh Dũng gặp thuận lợi lớn là Trung đoàn 60 của Việt Nam Cộng hòa bảo vệ vòng ngoài buổi lễ khai mạc có rất nhiều lính Cao Đài sáp nhập vào.
Nhờ một người quen từng là lính Cao Đài tham gia Trung đoàn 60 bảo vệ hội chợ, Đinh Dũng đã nắm khá đầy đủ các chi tiết liên quan tới hội chợ, kể cả kế hoạch bảo vệ Ngô Đình Diệm và các quan chức trong lễ khai mạc. Cũng nhờ người quen này, Đinh Dũng đã mang được súng vào tận sân lễ, mặc dù ban tổ chức chỉ cho phép các quan chức, chính quyền sở tại cùng một ít thương gia tham dự lễ khai mạc, sau đó hội chợ mới chính thức mở cửa cho dân vào tham quan.
Ông Hà Minh Trí ngày nay. |
Theo phương án đã được thông qua, sau khi súng nổ, Hà Minh Trí chỉ có 2 khả năng hoặc là hi sinh, hoặc bị bắt, không có phương án đào thoát. Người đồng đội nữ ở lại không giúp ích được gì, mà chỉ thêm nguy hiểm, vì sau khi súng nổ toàn bộ các tuyến đường sẽ bị phong tỏa, kiểm soát. Người đồng đội trong vai vợ bước lên xe trở về Sài Gòn mà nước mắt rưng rưng, vì chị biết rằng đó là cuộc chia tay không hẹn ngày gặp lại.
Sau khi chuyến xe chở cô gái đồng đội lăn bánh về hướng Sài Gòn, “thương gia” Hà Minh Trí ung dung đi về nơi sắp khai mạc hội chợ. Khẩu súng tiểu liên MAT-49 được cưa báng và cưa nòng cho gọn nhẹ cùng băng đạn đã được ém đầy 21 viên nằm gọn gàng trong lớp áo thương gia.
Người quen là lính Trung đoàn 60 bảo vệ hội chợ đã đón Hà Minh Trí tại cổng hội chợ và người thương gia Tây Ninh đã không mấy khó khăn qua được vòng bảo vệ bên ngoài, rồi vòng bảo vệ bên trong, có mặt tại sân lễ bên cạnh những quan chức, giới thương gia và dày đặc lực lượng quân cảnh bảo vệ.
Hà Minh Trí đứng sát 1 quân cảnh mang cấp bậc Thượng sĩ có vóc dáng to lớn, chiều cao hơn hẳn ông Trí cả cái đầu.
Người Thượng sĩ quân cảnh mỉm cười chào người thương gia trẻ tuổi, Hà Minh Trí gật đầu chào lại, ông không thể ngờ chính tay Thượng sĩ này sau đó đã cản trở làm cho kế hoạch ám sát không thành công.
Phía trước mặt Hà Minh Trí là khoảng sân trống, cách đó chừng 20 mét là dãy bàn dành cho các nhân vật quan trọng ngồi dự lễ khai mạc và cắt băng khánh thành. Hà Minh Trí kín đáo kiểm tra lại súng đạn, khẩu súng và băng đạn tháo rời vẫn nằm yên bên trong lớp áo thương gia. Trong đầu người chiến sĩ vạch ra phương án hành động: lúc bắt đầu chào cờ, là khi mọi người ít để ý chung quanh nhất, ông sẽ kín đáo lắp băng đạn và nổ súng về phía Ngô Đình Diệm, cùng lúc ông sẽ ôm súng lao về phía Diệm và nổ súng tiếp.
Gần đến 9 giờ, Ban Tổ chức yêu cầu tất cả mọi người đứng dậy nghiêm trang chào “Ngô tổng thống”. Các quan chức địa phương bước vào đầu tiên, sau đó là Trần Kim Tuyến, Ngô Đình Nhu, rồi đến Ngô Đình Diệm, theo sau là Phạm Ngọc Thảo, ông Bộ trưởng Bộ Canh nông và nhiều quan chức khác.
Gần đến 9 giờ, Ban Tổ chức yêu cầu tất cả mọi người đứng dậy nghiêm trang chào “Ngô tổng thống”. Các quan chức địa phương bước vào đầu tiên, sau đó là Trần Kim Tuyến, Ngô Đình Nhu, rồi đến Ngô Đình Diệm, theo sau là Phạm Ngọc Thảo, ông Bộ trưởng Bộ Canh nông và nhiều quan chức khác.
Đoàn khách VIP vừa an vị, tiếng hô chào cờ vang lên cùng lúc điệu nhạc bài “Tiến lên thanh niên” của Lưu Hữu Phước vang lên...
Phát súng trên cao nguyên
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày ông Hà Minh Trí nổ 2 phát súng ám sát Ngô Đình Diệm tại Hội chợ Kinh tế Cao Nguyên thành phố Buôn Mê Thuột, một người đồng hương huyện Nghi Lộc – Nghệ An của ông sống ở Tây Ninh đã tặng ông bức trướng với 2 câu thơ rất ý nghĩa: “Phát súng cao nguyên án tử tù không số - Tổ quốc lưu danh nên sử tạc anh hùng”.
Trong bộ phim nhiều tập nổi tiếng vào thập niên 1980 “Ván bài lật ngửa” của tác giả Nguyễn Trường Thiên Lý (tức ông Trần Bạch Đằng), sự kiện Hà Minh Trí ám sát Ngô Đình Diệm ở Buôn Mê Thuột cũng được dành riêng một tập với cái tên “Phát súng trên cao nguyên”.
Trong bộ phim, Hà Minh Trí sau khi nổ 2 phát súng về phía Ngô Đình Diệm, đã thoát ra khỏi hiện trường và được một đồng đội nữ nổ máy chiếc mô tô phân khối lớn chờ sẵn để chở đi đào thoát. Sau một cuộc rượt đuổi ngạt thở trên những con đường ngoằn ngoèo quanh những vách núi, Hà Minh Trí mới bị đối phương bắt được.
Trên thực tế thì người chiến sĩ cảm tử đã bị hàng chục tên an ninh chìm nổi các loại đè lên người sau khi anh nổ súng. Trở lại thời điểm chào cờ khai mạc hội chợ. Khi bài quốc ca chế độ Sài Gòn “Tiến lên thanh niên” vang lên, cùng lúc lá cờ 3 sọc vàng được kéo lên, tất cả mọi người đứng nghiêm trang hướng về lễ đài, người Thượng sĩ an ninh đứng bên trái ông Hà Minh Trí đưa tay phải lên chào ngang mắt, vì vậy mà che khuất tầm nhìn của hắn về phía ông Hà Minh Trí.
Nhanh nhẹn và kín đáo, ông Trí đưa tay vào trong áo lắp băng đạn vào súng. Khi bài quốc ca mới hát được nửa lời, bất ngờ 2 tiếng nổ vang lên từ phía hàng đại biểu là những thương gia, kèm theo khói súng phảng phất. Sau vài giây sững sờ, mọi người mới biết chuyện gì xảy ra, cùng lúc tay Bộ trưởng Canh nông đứng cạnh Ngô Đình Diệm đổ sụp vì trúng đạn.
Hà Minh Trí tiếp tục siết cò nhưng đạn không lên nòng. Sau này khi có điều kiện ngồi với các chuyên gia về vũ khí để mổ xẻ vụ kẹt đạn “chết người” nói trên, ông Mười Trí mới biết nguyên nhân vụ kẹt đạn là do các ông “tham” nhét đến 21 viên đạn vào băng, thay vì tối đa là 20 viên, mà lại nạp đạn từ ngày hôm trước, nên lò xo băng đạn bị “chay”, không thể đẩy tiếp đạn lên nòng.
Khi biết bị kẹt đạn, ông Trí còn bình tĩnh kéo cần lên đạn lại, nhưng đã quá muộn, tay Thượng sĩ an ninh đứng kề bên đã biết chuyện gì xảy ra, hắn chụp lấy tay trái ông Trí. Bằng một động tác võ thuật thật nhanh, gọn, ông đã đánh bật cánh tay hộ pháp của tên Thượng sĩ, tiếp tục ôm súng lao về phía Ngô Đình Diệm.
Tay Thượng sĩ an ninh cũng không vừa, đã nhanh nhẹn ngáng chân ông Trí, làm ông vấp ngã sõng soài trên mặt đất, nhưng khẩu súng vẫn không rời tay. Ngay tức thì, khoảng một chục tên quân cảnh nhào tới đè lên người ông Trí.
Từ bên dưới núi thịt người, ông Trí la lớn: “Tao có lựu đạn, chúng ta cùng chết”. Tức thì, những tên quân cảnh đang đè lên người ông Trí vội vàng tung dậy, nằm hết xuống xung quanh. Ông Trí lồm cồm bò dậy ôm lấy khẩu súng, nhưng ở phía khán đài những tên quân cảnh đã cõng Ngô Đình Diệm chạy mất. Một tên quân cảnh la lớn: “Nó không có lựu đạn”. Tức thì cả núi thịt khi nãy lại đổ ụp xuống cơ thể nhỏ nhắn của ông Trí.
Nằm bên dưới những tên quân cảnh hộ pháp, ông Trí còn nghe được giọng nói hoảng hốt nhưng đanh thép của Ngô Đình Nhu ra lệnh cho trùm mật vụ Trần Kim Tuyến: “Giữ tất cả máy ảnh của phóng viên lại. Yêu cầu báo chí chỉ đưa tin, không tường thuật vụ việc”.
Sau này suy ngẫm lại, ông Trí thừa nhận Cố vấn Ngô Đình Nhu là tay lão luyện, trong tình huống đó mà ông ta còn đủ tỉnh táo để xử lý tình huống thật “có nghề”.
Phát súng trên cao nguyên
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày ông Hà Minh Trí nổ 2 phát súng ám sát Ngô Đình Diệm tại Hội chợ Kinh tế Cao Nguyên thành phố Buôn Mê Thuột, một người đồng hương huyện Nghi Lộc – Nghệ An của ông sống ở Tây Ninh đã tặng ông bức trướng với 2 câu thơ rất ý nghĩa: “Phát súng cao nguyên án tử tù không số - Tổ quốc lưu danh nên sử tạc anh hùng”.
Trong bộ phim nhiều tập nổi tiếng vào thập niên 1980 “Ván bài lật ngửa” của tác giả Nguyễn Trường Thiên Lý (tức ông Trần Bạch Đằng), sự kiện Hà Minh Trí ám sát Ngô Đình Diệm ở Buôn Mê Thuột cũng được dành riêng một tập với cái tên “Phát súng trên cao nguyên”.
Trong bộ phim, Hà Minh Trí sau khi nổ 2 phát súng về phía Ngô Đình Diệm, đã thoát ra khỏi hiện trường và được một đồng đội nữ nổ máy chiếc mô tô phân khối lớn chờ sẵn để chở đi đào thoát. Sau một cuộc rượt đuổi ngạt thở trên những con đường ngoằn ngoèo quanh những vách núi, Hà Minh Trí mới bị đối phương bắt được.
Trên thực tế thì người chiến sĩ cảm tử đã bị hàng chục tên an ninh chìm nổi các loại đè lên người sau khi anh nổ súng. Trở lại thời điểm chào cờ khai mạc hội chợ. Khi bài quốc ca chế độ Sài Gòn “Tiến lên thanh niên” vang lên, cùng lúc lá cờ 3 sọc vàng được kéo lên, tất cả mọi người đứng nghiêm trang hướng về lễ đài, người Thượng sĩ an ninh đứng bên trái ông Hà Minh Trí đưa tay phải lên chào ngang mắt, vì vậy mà che khuất tầm nhìn của hắn về phía ông Hà Minh Trí.
Nhanh nhẹn và kín đáo, ông Trí đưa tay vào trong áo lắp băng đạn vào súng. Khi bài quốc ca mới hát được nửa lời, bất ngờ 2 tiếng nổ vang lên từ phía hàng đại biểu là những thương gia, kèm theo khói súng phảng phất. Sau vài giây sững sờ, mọi người mới biết chuyện gì xảy ra, cùng lúc tay Bộ trưởng Canh nông đứng cạnh Ngô Đình Diệm đổ sụp vì trúng đạn.
Hà Minh Trí tiếp tục siết cò nhưng đạn không lên nòng. Sau này khi có điều kiện ngồi với các chuyên gia về vũ khí để mổ xẻ vụ kẹt đạn “chết người” nói trên, ông Mười Trí mới biết nguyên nhân vụ kẹt đạn là do các ông “tham” nhét đến 21 viên đạn vào băng, thay vì tối đa là 20 viên, mà lại nạp đạn từ ngày hôm trước, nên lò xo băng đạn bị “chay”, không thể đẩy tiếp đạn lên nòng.
Khi biết bị kẹt đạn, ông Trí còn bình tĩnh kéo cần lên đạn lại, nhưng đã quá muộn, tay Thượng sĩ an ninh đứng kề bên đã biết chuyện gì xảy ra, hắn chụp lấy tay trái ông Trí. Bằng một động tác võ thuật thật nhanh, gọn, ông đã đánh bật cánh tay hộ pháp của tên Thượng sĩ, tiếp tục ôm súng lao về phía Ngô Đình Diệm.
Tay Thượng sĩ an ninh cũng không vừa, đã nhanh nhẹn ngáng chân ông Trí, làm ông vấp ngã sõng soài trên mặt đất, nhưng khẩu súng vẫn không rời tay. Ngay tức thì, khoảng một chục tên quân cảnh nhào tới đè lên người ông Trí.
Từ bên dưới núi thịt người, ông Trí la lớn: “Tao có lựu đạn, chúng ta cùng chết”. Tức thì, những tên quân cảnh đang đè lên người ông Trí vội vàng tung dậy, nằm hết xuống xung quanh. Ông Trí lồm cồm bò dậy ôm lấy khẩu súng, nhưng ở phía khán đài những tên quân cảnh đã cõng Ngô Đình Diệm chạy mất. Một tên quân cảnh la lớn: “Nó không có lựu đạn”. Tức thì cả núi thịt khi nãy lại đổ ụp xuống cơ thể nhỏ nhắn của ông Trí.
Nằm bên dưới những tên quân cảnh hộ pháp, ông Trí còn nghe được giọng nói hoảng hốt nhưng đanh thép của Ngô Đình Nhu ra lệnh cho trùm mật vụ Trần Kim Tuyến: “Giữ tất cả máy ảnh của phóng viên lại. Yêu cầu báo chí chỉ đưa tin, không tường thuật vụ việc”.
Sau này suy ngẫm lại, ông Trí thừa nhận Cố vấn Ngô Đình Nhu là tay lão luyện, trong tình huống đó mà ông ta còn đủ tỉnh táo để xử lý tình huống thật “có nghề”.
Hà Minh Trí bị bắt tại hiện trường vụ ám sát. |
Nếu hình ảnh Ngô Đình Diệm hoảng hốt được những cận vệ cõng chạy được tung lên trang báo thì còn gì là “Ngô chí sĩ”. Ngày hôm sau báo chí Sài Gòn chỉ đưa tin ngắn về vụ ám sát, những ngày sau nữa mới có bài tường thuật vụ việc, kèm theo hình ảnh Hà Minh Trí bị bắt, tuyệt nhiên không có tờ báo nào dám đưa hình ảnh Ngô Đình Diệm được cõng chạy khỏi hiện trường.
Sau một trận đòn “sơ giao” ở tại hiện trường, Hà Minh Trí bị đưa về Ty Cảnh sát Buôn Mê Thuột để thẩm vấn. Tại đây, trước sự hiện diện đông đủ của Ngô Đình Nhu, Trần Kim Tuyến, Phạm Ngọc Thảo và nhiều sĩ quan an ninh của Phủ Đầu Rồng và tỉnh Buôn Mê Thuột, khi bị thẩm vấn về động cơ ám sát Ngô Đình Diệm, ông Hà Minh Trí trả lời rành mạch theo đúng “lập trình”: “Tôi là lính giáo phái Cao Đài, tôi giết Ngô Đình Diệm để trả thù cho các thủ lĩnh Cao Đài, tôi hành động theo chỉ đạo của Mai Hữu Xuân và Dương Văn Minh”.
Nghe câu trả lời, Ngô Đình Nhu tái mặt, ra lệnh ngừng ngay cuộc thẩm vấn và yêu cầu những người có mặt tuyệt đối giữ kín nội dung cuộc thẩm vấn. Cẩn thận hơn, Ngô Đình Nhu lập ngay danh sách tất cả những người có mặt trong cuộc thẩm vấn.
Đối với “ngài Cố vấn” được xem là bộ não của các sách lược của chính quyền Diệm, có thể thông tin kẻ ám sát Tổng thống là lính giáo phái Cao Đài không thật hệ trọng, nhưng lời khai “hành động theo chỉ đạo của Mai Hữu Xuân và Dương Văn Minh” là vô cùng nghiêm trọng, vì vậy ông ta ra lệnh dừng ngay cuộc hỏi cung với nhiều thành phần tham dự, để chuyển ngay kẻ ám sát về Sài Gòn tiếp tục làm rõ mọi chuyện.
Chính lời khai “hành động theo chỉ đạo của Mai Hữu Xuân và Dương Văn Minh” của Hà Minh Trí đã có tác dụng làm nội bộ chính quyền Diệm phân hóa sâu sắc, gây đảo điên chính trường Sài Gòn, dẫn đến sự sụp đổ và cái chết của Diệm – Nhu.
Bí ẩn chuyện không dùng lựu đạn
Khi lập phương án ám sát Ngô Đình Diệm ở Buôn Mê Thuột, ông Hà Minh Trí đề nghị sử dụng lựu đạn, có thể kết hợp cả súng tiểu liên, vì lựu đạn có khả năng gây sát thương cao hơn, nhất là khi quăng cùng lúc nhiều trái về phía mục tiêu, khả năng thành công cao hơn nhiều. Thế nhưng, đã không được tổ chức đồng ý vì sợ gây sát thương cho thường dân đứng xung quanh.
Ông Hà Minh Trí báo cáo kết quả khảo sát thực địa, theo đó Ban Tổ chức hội chợ ở Buôn Mê Thuột chỉ bố trí ngồi trên lễ đài các quan chức chính quyền Sài Gòn cùng với anh em Diệm – Nhu, những thường dân (hầu hết là thương gia) đứng cách lễ đài những 20 mét, nếu quăng lựu đạn cũng không gây sát thương cho họ. Thế nhưng, phương án dùng lựu đạn vẫn không được duyệt.
Trong những ngày mang án tử trong lao tù, rồi cả sau khi được thả ra khỏi tù, tiếp tục chiến đấu chống Mỹ, ông Hà Minh Trí không thể giải thích được tại sao cấp trên không cho phép ông sử dụng lựu đạn trong lần ám sát Diệm ở Buôn Mê Thuột, vì xét về mọi lô gích thì dùng lựu đạn trong trường hợp này là tối ưu.
Mãi sau này, sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, ông Trí mới được biết nguyên nhân ông không được dùng lựu đạn, đó là: cấp trên sợ nhà tình báo chiến lược Phạm Ngọc Thảo (nhân vật Nguyễn Thành Luân trong phim “Ván bài lật ngửa”) bị sát thương.
Vào thời điểm Ngô Đình Diệm đi dự Hội chợ Kinh tế Cao Nguyên ở Buôn Mê Thuột, Phạm Ngọc Thảo mới được phong hàm Thiếu tá và điều về Phủ Tổng thống làm công tác “nghiên cứu chính trị”, mà thực chất là làm trợ lý cho Diệm và Nhu về các vấn đề thuộc về quốc sách. Sinh năm 1922 trong một gia đình đại điền chủ ở tỉnh Vĩnh Long, Phạm Ngọc Thảo được học hành chu đáo, tốt nghiệp đại học ở Hà Nội.
Như nhiều thanh niên trí thức khác cùng thời, trong đó có 2 người anh ruột của mình, Phạm Ngọc Thảo rời bỏ cuộc sống tiện nghi, giàu sang, để vào bưng biền cùng toàn dân tham gia cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Ảnh Hà Minh Trí trên 1 tờ báo Sài Gòn sau vụ ám sát. |
Ông đã trở thành Tiểu đoàn trưởng của quân đội Việt Minh, được đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam . Ông được tập huấn và làm quen với công tác an ninh, tình báo, cái duyên cớ để sau này ông trở thành nhà tình báo chiến lược luồn sâu trong lòng địch.
Sau ngày “đình chiến”, Phạm Ngọc Thảo không tập kết ra Bắc, được cấp trên chỉ đạo ở lại miềnNam vì những kế hoạch lâu dài. Trong vai một người kháng chiến trở về quê nhà dạy học ở Vĩnh Long, nhờ thế lực của gia đình, Phạm Ngọc Thảo được giám mục Ngô Đình Thục (anh ruột Ngô Đình Diệm, phụ trách giáo phận Vĩnh Long) nhận làm con nuôi.
Đó là bàn đạp quan trọng để Phạm Ngọc Thảo tiếp cận với anh em Diệm - Nhu và được nhận về làm việc ở Phủ Đầu Rồng. Ban đầu, Diệm – Nhu chưa thấy được tài năng của Thảo nên chỉ giao cho ông những chức vụ “hữu danh vô thực” như Tỉnh đoàn trưởng bảo an đoàn, tuyên huấn đảng Cần lao nhân vị... Nhưng Phạm Ngọc Thảo đã biết cách bộc lộ tài năng của mình bằng cách viết báo.
Với vốn Binh pháp Tôn Tử mà thầy Hoàng Đạo Thúy từng dạy và những kiến thức được tích lũy trong những năm kháng chiến, Phạm Ngọc Thảo thường xuyên có những bài báo nói về các vấn đề chiến lược, chiến thuật, nghệ thuật chỉ huy, huấn luyện quân sự, phân tích Binh pháp Tôn Tử, Trần Hưng Đạo... Giới quân sự bắt đầu chú ý tới Thảo và rồi Diệm – Nhu đã không “ngó lơ” người con nuôi tài năng của ông anh Ngô Đình Thục.
Tháp tùng anh em Diệm – Nhu lên cao nguyên dự lễ khai mạc hội chợ, Phạm Ngọc Thảo trở thành “người đồng đội” duy nhất của Hà Minh Trí chứng kiến từ đầu tới cuối vụ ám sát bất thành. Ngay sau đó, số phận trớ trêu lại tiếp tục đặt Phạm Ngọc Thảo vào hoàn cảnh nhạy cảm khác – ông phải trực tiếp thẩm vấn người ám sát Ngô Đình Diệm trước sự chứng kiến của Ngô Đình Nhu, Trần Kim Tuyến.
Cuộc thẩm vấn của Phạm Ngọc Thảo – Nguyễn Thành Luân
Khi bộ phim “Ván bài lật ngửa” được trình chiếu vào đầu thập niên 1980, ông Hà Minh Trí cũng hồi hộp theo dõi tập phim “Phát súng trên cao nguyên”.
Ông hồi hộp không phải bởi tính ly kỳ, căng thẳng của sự kiện (đối với ông có gì mà ly kỳ, căng thẳng khi chính ông là người trong cuộc), mà ông hồi hộp vì lo sợ phim dựng sai sự thật. Bởi vì khi thực hiện bộ phim này, các tác giả đã không tìm đến gặp nhân vật chính trong tập phim là ông Hà Minh Trí.
Trên thực tế, tập phim đã có nhiều chi tiết sai sự thật và thiếu những chi tiết hấp dẫn mà phim không biết để khai thác, trong đó có việc Nguyễn Thành Luân thẩm vấn Hà Minh Trí. Sau khi bộ phim được trình chiếu xong, diễn viên Nguyễn Chánh Tín trở nên nổi như cồn với nhân vật Nguyễn Thành Luân, ông Hà Minh Trí mới tình cờ gặp tác giả kịch bản phim – ông Trần Bạch Đằng.
Ông Trần Bạch Đằng đã ngớ người ra khi người ám sát Ngô Đình Diệm vẫn còn sống, vì khi chuẩn bị làm phim, ai đó đã cho ông biết người tử tù Hà Minh Trí đã bỏ thây ngoài Côn Đảo. Tất nhiên là ông Trần Bạch Đằng cũng rất tiếc về những tình tiết hấp dẫn mà ông không biết để đưa vào phim, trong đó có vụ “quân ta thẩm vấn quân mình” - Nguyễn Thành Luân thẩm vấn Hà Minh Trí.
Như đã nói, trong cuộc thẩm vấn chớp nhoáng tại Buôn Mê Thuột, khi nghe Hà Minh Trí hé lộ “hành động theo sự chỉ đạo của Mai Hữu Xuân và Dương Văn Minh”, Ngô Đình Nhu cho dừng ngay cuộc thẩm vấn và giăng liền một cái bẫy.
Lời khai trên do chính ông Mai Chí Thọ bày sẵn cho Mười Trí, đánh trúng vào tử huyệt của chính quyền Diệm, vốn đang đầy nghi kỵ giữa 2 phe thân Pháp và thân Mỹ. Thiếu tướng Mai Hữu Xuân và Trung tướng Dương Văn Minh là những người thân Pháp, chuyện họ muốn loại 1 người thân Mỹ như Ngô Đình Diệm là hoàn toàn hợp lô gích.
Lúc xảy ra vụ ám sát, Mai Hữu Xuân đang có mặt ở cao nguyên, Ngô Đình Nhu lệnh cho Mai Hữu Xuân di lý Mười Trí từ Buôn Mê Thuột về Sài Gòn bằng trực thăng. Đó là cái bẫy của Ngô Đình Nhu dành cho Mai Hữu Xuân. Nếu Xuân đứng sau vụ ám sát, có thể ông ta sẽ đạp Mười Trí rớt khỏi máy bay để “diệt khẩu”, để rồi ai đó sẽ đạp Xuân rớt theo, rồi Nhu sẽ thu xếp cho báo giới rằng đó là tai nạn. Nhưng Xuân hoàn toàn không biết lời khai của Mười Trí, nên vẫn vô tư thực hiện nhiệm vụ.
Sau ngày “đình chiến”, Phạm Ngọc Thảo không tập kết ra Bắc, được cấp trên chỉ đạo ở lại miền
Đó là bàn đạp quan trọng để Phạm Ngọc Thảo tiếp cận với anh em Diệm - Nhu và được nhận về làm việc ở Phủ Đầu Rồng. Ban đầu, Diệm – Nhu chưa thấy được tài năng của Thảo nên chỉ giao cho ông những chức vụ “hữu danh vô thực” như Tỉnh đoàn trưởng bảo an đoàn, tuyên huấn đảng Cần lao nhân vị... Nhưng Phạm Ngọc Thảo đã biết cách bộc lộ tài năng của mình bằng cách viết báo.
Với vốn Binh pháp Tôn Tử mà thầy Hoàng Đạo Thúy từng dạy và những kiến thức được tích lũy trong những năm kháng chiến, Phạm Ngọc Thảo thường xuyên có những bài báo nói về các vấn đề chiến lược, chiến thuật, nghệ thuật chỉ huy, huấn luyện quân sự, phân tích Binh pháp Tôn Tử, Trần Hưng Đạo... Giới quân sự bắt đầu chú ý tới Thảo và rồi Diệm – Nhu đã không “ngó lơ” người con nuôi tài năng của ông anh Ngô Đình Thục.
Tháp tùng anh em Diệm – Nhu lên cao nguyên dự lễ khai mạc hội chợ, Phạm Ngọc Thảo trở thành “người đồng đội” duy nhất của Hà Minh Trí chứng kiến từ đầu tới cuối vụ ám sát bất thành. Ngay sau đó, số phận trớ trêu lại tiếp tục đặt Phạm Ngọc Thảo vào hoàn cảnh nhạy cảm khác – ông phải trực tiếp thẩm vấn người ám sát Ngô Đình Diệm trước sự chứng kiến của Ngô Đình Nhu, Trần Kim Tuyến.
Cuộc thẩm vấn của Phạm Ngọc Thảo – Nguyễn Thành Luân
Khi bộ phim “Ván bài lật ngửa” được trình chiếu vào đầu thập niên 1980, ông Hà Minh Trí cũng hồi hộp theo dõi tập phim “Phát súng trên cao nguyên”.
Ông hồi hộp không phải bởi tính ly kỳ, căng thẳng của sự kiện (đối với ông có gì mà ly kỳ, căng thẳng khi chính ông là người trong cuộc), mà ông hồi hộp vì lo sợ phim dựng sai sự thật. Bởi vì khi thực hiện bộ phim này, các tác giả đã không tìm đến gặp nhân vật chính trong tập phim là ông Hà Minh Trí.
Trên thực tế, tập phim đã có nhiều chi tiết sai sự thật và thiếu những chi tiết hấp dẫn mà phim không biết để khai thác, trong đó có việc Nguyễn Thành Luân thẩm vấn Hà Minh Trí. Sau khi bộ phim được trình chiếu xong, diễn viên Nguyễn Chánh Tín trở nên nổi như cồn với nhân vật Nguyễn Thành Luân, ông Hà Minh Trí mới tình cờ gặp tác giả kịch bản phim – ông Trần Bạch Đằng.
Ông Trần Bạch Đằng đã ngớ người ra khi người ám sát Ngô Đình Diệm vẫn còn sống, vì khi chuẩn bị làm phim, ai đó đã cho ông biết người tử tù Hà Minh Trí đã bỏ thây ngoài Côn Đảo. Tất nhiên là ông Trần Bạch Đằng cũng rất tiếc về những tình tiết hấp dẫn mà ông không biết để đưa vào phim, trong đó có vụ “quân ta thẩm vấn quân mình” - Nguyễn Thành Luân thẩm vấn Hà Minh Trí.
Như đã nói, trong cuộc thẩm vấn chớp nhoáng tại Buôn Mê Thuột, khi nghe Hà Minh Trí hé lộ “hành động theo sự chỉ đạo của Mai Hữu Xuân và Dương Văn Minh”, Ngô Đình Nhu cho dừng ngay cuộc thẩm vấn và giăng liền một cái bẫy.
Lời khai trên do chính ông Mai Chí Thọ bày sẵn cho Mười Trí, đánh trúng vào tử huyệt của chính quyền Diệm, vốn đang đầy nghi kỵ giữa 2 phe thân Pháp và thân Mỹ. Thiếu tướng Mai Hữu Xuân và Trung tướng Dương Văn Minh là những người thân Pháp, chuyện họ muốn loại 1 người thân Mỹ như Ngô Đình Diệm là hoàn toàn hợp lô gích.
Lúc xảy ra vụ ám sát, Mai Hữu Xuân đang có mặt ở cao nguyên, Ngô Đình Nhu lệnh cho Mai Hữu Xuân di lý Mười Trí từ Buôn Mê Thuột về Sài Gòn bằng trực thăng. Đó là cái bẫy của Ngô Đình Nhu dành cho Mai Hữu Xuân. Nếu Xuân đứng sau vụ ám sát, có thể ông ta sẽ đạp Mười Trí rớt khỏi máy bay để “diệt khẩu”, để rồi ai đó sẽ đạp Xuân rớt theo, rồi Nhu sẽ thu xếp cho báo giới rằng đó là tai nạn. Nhưng Xuân hoàn toàn không biết lời khai của Mười Trí, nên vẫn vô tư thực hiện nhiệm vụ.
Món quà của đồng hương tặng ông Mười Trí có câu “Phát súng cao nguyên...”. |
Trở về Sài Gòn, sau những đòn tra tấn tàn bạo, Mười Trí được gọi lên thẩm vấn, mà người trực tiếp thẩm vấn chính là Phạm Ngọc Thảo, trong khi Ngô Đình Nhu và Trần Kim Tuyến ngồi hút thuốc, tập trung quan sát cuộc thẩm vấn. Lúc ấy, Mười Trí chưa biết tay Thiếu tá thẩm vấn mình là ai, nhưng cảm nhận ở người ấy sự trầm tĩnh, lịch thiệp và có một chút gì là lạ, nhất là trong ánh mắt nhìn về Mười Trí. Vào năm 1993, vợ của Phạm Ngọc Thảo từ nước ngoài về đã tìm đến Tây Ninh thăm ông Mười Trí.
Bà kể rằng, lúc ấy Phạm Ngọc Thảo về nhà kể cho vợ nghe vụ ám sát và cuộc thẩm vấn “hung thủ”, ông tỏ ra khâm phục sự can đảm, những câu trả lời thông minh của người ám sát Ngô Đình Diệm. Bước vào cuộc thẩm vấn, sau những câu hỏi thủ tục như tên họ, quê quán, nghề nghiệp, Phạm Ngọc Thảo hỏi rõ ràng từng chữ: “Ai chỉ đạo anh ám sát Tổng thống?”.
Mười trí trả lời như thuộc lòng: "Tập đoàn Mai - Dương - Nguyễn bên trong, cấu kết với tập đoàn Hinh - Tâm - Hữu bên ngoài, sử dụng mặt trận Cao - Thiên - Hòa - Bình tổ chức giết Ngô Đình Diệm, lật đổ chính quyền thân Mỹ, lập lại chính quyền thân Pháp ở miền Nam. Người chỉ huy trực tiếp là Thiếu tướng Cao Đài: Nguyễn Văn Mạnh và Đại tá Cao Đài: Nguyễn Văn Đờn".
Với đôi mắt như động viên, khuyến khích, Phạm Ngọc Thảo yêu cầu Mười Trí giải thích rõ lời khai: Mai – Dương – Nguyễn tức Mai Hữu Xuân (Tổng GĐ Nha An ninh quân đội), Dương Văn Minh (Tư lệnh Biệt khu thủ đô kiêm Tổng trấn Sài Gòn – Gia Định) và Nguyễn Hữu Châu (anh rể Trần Lệ Xuân, Bộ trưởng Phủ Tổng thống). Còn “Cao – Thiên – Hòa – Bình” tức Cao Đài – Thiên Chúa – Hòa Hảo – Bình Xuyên.
Phạm Ngọc Thảo hỏi đi hỏi lại chuyện Mai – Dương – Nguyễn làm nội tuyến tổ chức vụ ám sát, càng xoáy sâu vào nỗi đau của Ngô Đình Nhu đang ngồi hút thuốc liên hồi. Câu hỏi cuối cùng của Phạm Ngọc Thảo là: “Anh có thấy tiếc khi không giết được Tổng thống Ngô Đình Diệm?” - vừa hỏi, viên Thiếu tá vừa đưa mắt về phía Mười Trí như muốn nói “Không cần trả lời”. Mười Trí nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói: “Tôi bị tra tấn suốt mấy ngày qua, đầu óc không còn tỉnh táo để nghĩ ngợi chuyện gì hết”.
Từ lời khai này, sau đó Mai Hữu Xuân phải rời chức Tổng GĐ Nha An ninh Quân đội đi làm Đại sứ ởPhilippines . Dương Văn Minh cũng rời bỏ quyền bính ở Biệt khu Thủ đô về làm ở Bộ Quốc phòng. Riêng luật sư Nguyễn Hữu Châu, nhờ vợ là Trần Lệ Chi mật báo nguy hiểm, đã rời bỏ chức vụ Bộ trưởng trốn sang Campuchia, rồi qua Pháp sống lưu vong. Còn “hung thủ” Hà Minh Trí tiếp tục trải qua những năm tháng lao tù khổ ải với bản án tử tù không số.
Kỳ tới: Người tử tù không số và 3.000 ngày nơi địa ngục trần gian.
Thiên Thanh
[links()]
Bà kể rằng, lúc ấy Phạm Ngọc Thảo về nhà kể cho vợ nghe vụ ám sát và cuộc thẩm vấn “hung thủ”, ông tỏ ra khâm phục sự can đảm, những câu trả lời thông minh của người ám sát Ngô Đình Diệm. Bước vào cuộc thẩm vấn, sau những câu hỏi thủ tục như tên họ, quê quán, nghề nghiệp, Phạm Ngọc Thảo hỏi rõ ràng từng chữ: “Ai chỉ đạo anh ám sát Tổng thống?”.
Mười trí trả lời như thuộc lòng: "Tập đoàn Mai - Dương - Nguyễn bên trong, cấu kết với tập đoàn Hinh - Tâm - Hữu bên ngoài, sử dụng mặt trận Cao - Thiên - Hòa - Bình tổ chức giết Ngô Đình Diệm, lật đổ chính quyền thân Mỹ, lập lại chính quyền thân Pháp ở miền Nam. Người chỉ huy trực tiếp là Thiếu tướng Cao Đài: Nguyễn Văn Mạnh và Đại tá Cao Đài: Nguyễn Văn Đờn".
Với đôi mắt như động viên, khuyến khích, Phạm Ngọc Thảo yêu cầu Mười Trí giải thích rõ lời khai: Mai – Dương – Nguyễn tức Mai Hữu Xuân (Tổng GĐ Nha An ninh quân đội), Dương Văn Minh (Tư lệnh Biệt khu thủ đô kiêm Tổng trấn Sài Gòn – Gia Định) và Nguyễn Hữu Châu (anh rể Trần Lệ Xuân, Bộ trưởng Phủ Tổng thống). Còn “Cao – Thiên – Hòa – Bình” tức Cao Đài – Thiên Chúa – Hòa Hảo – Bình Xuyên.
Phạm Ngọc Thảo hỏi đi hỏi lại chuyện Mai – Dương – Nguyễn làm nội tuyến tổ chức vụ ám sát, càng xoáy sâu vào nỗi đau của Ngô Đình Nhu đang ngồi hút thuốc liên hồi. Câu hỏi cuối cùng của Phạm Ngọc Thảo là: “Anh có thấy tiếc khi không giết được Tổng thống Ngô Đình Diệm?” - vừa hỏi, viên Thiếu tá vừa đưa mắt về phía Mười Trí như muốn nói “Không cần trả lời”. Mười Trí nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói: “Tôi bị tra tấn suốt mấy ngày qua, đầu óc không còn tỉnh táo để nghĩ ngợi chuyện gì hết”.
Từ lời khai này, sau đó Mai Hữu Xuân phải rời chức Tổng GĐ Nha An ninh Quân đội đi làm Đại sứ ở
Kỳ tới: Người tử tù không số và 3.000 ngày nơi địa ngục trần gian.
Thiên Thanh
[links()]
Địa ngục trần gian và cuộc giải thoát ngoạn mục
Cập nhật lúc 07:39 16/07/2011
Mặc dù Hà Minh Trí trước sau như một khai rằng mình ám sát Ngô Đình Diệm là “tử vì đạo”, nhằm mục đích trả thù cho các thủ lĩnh và đồng đạo Cao đài, nhưng trong chính quyền Diệm cũng có người lờ mờ nhận ra Mười Trí là “cộng sản”.
“Người lính giáo phái Cao đài” bị kết án tử hình và bị đày ra địa ngục trần gian Côn Đảo. Cả chuyến ra đảo và chuyến trở về sau đó ông đều thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Số phận của người chiến sĩ cảm tử đã “ba chìm bảy nổi” theo cơn lốc chính trường Sài Gòn vào nửa đầu thập niên 1960. Cuối cùng, ông đã được giải thoát một cách ngoạn mục nhờ phong trào đấu tranh của nhân dân, sinh viên, báo chí Sài Gòn, trong đó có vai trò quan trọng của bà luật sư Ngô Bá Thành.
Chuyến tàu định mệnh
Sáng sớm ngày 31/8/1963, tại bến quân cảng Sài Gòn, có một cuộc chuyển tù quy mô nhất trong suốt giai đoạn cầm quyền của Ngô Đình Diệm. Ngoài một vài tử tù làm “nổi đình nổi đám” dư luận Sài Gòn khi ấy như Lê Quang Vịnh, Lê Hồng Tư đã được đày ra đảo trước đó vài tháng, trên chuyến tàu bọc thép từ Sài Gòn ra Côn Đảo ngày 31/8 có mặt hơn 40 tử tù còn lại là sản phẩm của Luật 10/59 của chế độ Ngô Đình Diệm.
Ngoài số tử tù được đưa ra đảo chuyến ngày hôm ấy, anh em Diệm – Nhu không còn cơ hội để kết án tử thêm ai nữa, vì chỉ sau đó đúng 1 tháng, vào ngày 1/11/1963, đến lượt anh em họ Ngô bị “thay ngựa giữa dòng”, bị thi hành “án tử” bởi những phát đạn của tên Đại úy Nhung, trong chiếc xe bọc thép bịt bùng lúc sáng sớm trên đường phố Sài Gòn.
Trên chuyến tàu đặc biệt chở tù ra đảo ngày hôm ấy, ngoài “người lính giáo phái Cao đài” ám sát Ngô Đình Diệm tên Mười Trí, còn có hơn 40 tử tù khác, trong đó một số người sau đó đã chết dưới chế độ lao tù “địa ngục trần gian” Côn Đảo, còn lại đã trở về đất liền sau ngày miền Nam giải phóng, trong đó có những tử tù được nhiều người biết đến như ông Năm Thức (nhân vật trong bức ảnh nổi tiểng “Nước mắy ngày gặp lại” của NSNA Lâm Hồng Long) và ông Sáu Tuấn (người quăng lựu đạn ám sát tỉnh trưởng Kiến Hòa là Phạm Ngọc Thảo – Nguyễn Thành Luân). Ông Mười Trí là số ít trong số hơn 40 tử tù trong chuyến tàu ngày hôm ấy đã trở về đất liền sau đó và được giải thoát một cách ngoạn mục.
Trở lại chuyến tàu chuyển tù ra đảo cuối tháng 8/1963, ngoài 42 tử tù, còn có 15 tù mang án khổ sai chung thân, 20 người mang án “lưu đày biệt xứ” 20 năm, cùng khoảng 300 tù chính trị “cộng sản” khác mang án từ 5 đến 10 năm.
Cũng trong chuyến tàu định mệnh ngày hôm ấy có nhóm 10 sĩ quan quân đội của chính quyền Diệm làm đảo chánh lật đổ Diệm không thành, bị bắt lưu đày ra Côn Đảo, trong đó có những nhân vật tên tuổi như Phan Quan Đán, Phan Khắc Sửu (người có cảm tình với đạo Cao đài, sau đó lã lật đổ Nguyễn Khánh, lên làm “Quốc trưởng” chính quyền Sài Gòn thời gian ngắn).
Sở dĩ gọi đây là “chuyến tàu định mệnh”, vì số phận của tất cả những người trên tàu, cả những người tù, cả thuyền trưởng, các thủy thủ, đại đội lính áp giải, đã được định đoạt trước, chỉ có sự may mắn mà tất cả họ mới không bị chìm sâu dưới đáy biển, làm mồi cho cá.
Toàn cảnh Côn Đảo. |
Khi chuyến tàu vừa rời bến quân cảng Sài Gòn, một Đại úy phi công trong “Không lực Việt Nam Cộng hòa” là Huỳnh Minh Đường đã nhận lệnh trực tiếp từ Ngô Đình Nhu và Trần Kim Tuyến lái máy bay mang bom đi đánh đắm con tàu khi nó rời khỏi đất liền khoảng 20 hải lý. Mục đích của việc đánh đắm tàu là quá rõ ràng, khi mà trên tàu toàn là những thành phần chống đối chính quyền Diệm “có máu mặt”, việc đánh đắm tàu giữa trùng khơi cũng sẽ dễ dàng xóa được dấu vết.
Thế nhưng, người phi công được giao “phi vụ đặc biệt” ấy có cái đầu còn tỉnh táo hơn những người nghĩ ra phi vụ này, Đại úy Huỳnh Minh Đường thừa hiểu rằng, sau khi phi vụ kết thúc thành công, con tàu cùng mấy trăm người tù chìm dưới lòng biển cả, sẽ đến lúc số phận của người phi công bị một viên đạn lạc từ trong góc tối nào đó định đoạt, vì Ngô Đình Nhu và Trần Kim Tuyến không thể nào “ngây thơ” để quên cho anh ta sống bình thường, chuyện “giết người diệt khẩu” xảy ra quá thường tình dưới chế độ Diệm – Nhu.
Đại úy Huỳnh Minh Đường cũng mang đúng cơ số bom, lái máy bay cất cảnh khỏi đường băng Tân Sơn Nhất chậm hơn chuyến tàu chở tù đúng 8 giờ đồng hồ, cũng bay dọc theo sông Soài Rạp theo hướng con tàu chở tù vừa ra khơi. Thế nhưng, khi vừa ra tới biển, chiếc A37 đã chao nghiêng cánh, ngoặt về hướng miền Tây, vào địa phận tỉnh Kiến Hòa (Bến Tre ngày nay), bay dọc theo sông MêKông vượt qua biên giới Việt Nam – Campuchia, đến tận thủ đô PhnômPênh – Vương quốc Campuchia, báo tín hiệu xin đáp khẩn cấp xuống sân bay PhnômPênh.
Đại úy Đường đã xin tị nạn và trốn đi nước khác sống lưu vong, không để lại dấu vết, vì sợ Ngô Đình Nhu lùng theo dấu trả thù. Vậy là, nhờ người phi công Sài Gòn biết thân phận “chó săn” của mình đã trốn sống lưu vong để không thực hiện “phi vụ đặc biệt”, mà những người đi trên chuyến tàu chở tù ra đảo ngày hôm ấy thoát chết. Trong số ấy có người chiến sĩ Hà Minh trí của chúng ta.
Sau hơn 1 ngày lênh đênh trên sông biển, chuyến tàu chở tù cặp bến Cầu Tàu, đưa ông Mười Trí và mấy trăm người tù đặt chân lên hòn đảo từ gần 100 năm qua đã nổi tiếng là “địa ngục trần gian”. Trong đầu ông hình dung Côn Đảo là hòn đảo chết chóc, hoang dại, khắc nghiệt... Thế nhưng, khi các hòn đảo lớn nhỏ trong quần đảo Côn Sơn thấp thoảng hiện lên cuối đường chân trời, ông Mười Trí cảm thấy Côn Đảo thật đẹp, thật đáng yêu.
Ông thầm nghĩ, đất nước mình nơi đâu cũng đẹp, cũng thiêng liêng, chỉ có kẻ thù mới biến nó thành nơi chết chóc, chất chứa tội ác, lòng căm thù. Những bãi biển mịn cát kéo dài đến mút mắt, những khu rừng nguyên sinh xanh rì, những ngọn núi cao thấp trập trùng phân bổ trên một vùng biển rộng.
Ông Mười Trí bồi hồi nhớ lại những kiến thức về Côn Đảo mà ông đã được học khi còn trong Đội An ninh biệt động N2 ở Vũng Tàu. Lúc ấy, người chú lãnh đạo vừa dạy chữ cho cậu thiếu niên gan dạ Đinh Dũng khi dạy về địa lý đất nước, đã nhắc đến rất nhiều về quần đảo đặc biệt này. Côn Đảo là tên một quần đảo ngoài khơi thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, cách Vũng Tàu 97 hải lý và cách cửa biển sông Hậu 45 hải lý. Côn Đảo hay Côn Sơn cũng hay dùng cho tên của hòn đảo lớn nhất trong quần đảo này.
Sử Việt trước thế kỷ 20 thường gọi đảo Côn Sơn là đảo Côn Lôn hoặc Côn Nôn. Quần đảo Côn Đảo gồm 16 hòn đảo với tổng diện tích 76 km², trong đó Côn Lôn hay Côn Sơn là đảo lớn nhất với diện tích hơn 50 km². Các đảo nhỏ hơn tiếp theo là hòn Côn Lôn Nhỏ (hay Hòn Bà, Phú Sơn, 5,45km²); hòn Bảy Cạnh (hay hòn Bãi Cạnh, 5,5km²); hòn Cau (hay Phú Lệ, 1,8km²)... Có những hòn diện tích chỉ một vài chục hecta như hòn Đá Bạc (còn gọi hòn Đá Trắng, 0,1km²), hòn Tài Nhỏ (hay hòn Thỏ, 0,1 km²)... Côn Đảo nằm ở vị trí thuận lợi trên đường hàng hải nối liền Âu - Á, vì vậy quần đảo này được người phương Tây biết đến rất sớm.
Năm 1294 đoàn thuyền của nhà thám hiểm người Ý Marco Polo, gồm 14 chiếc trên đường từ Trung Hoa về nước bị một cơn bão nhấn chìm mất 8 chiếc, số còn lại đã dạt vào trú tại Côn Đảo. Đến thế kỷ 15 - 16 có rất nhiều đoàn du hành của châu Âu ghé qua Côn Đảo. Đến đầu thế kỷ 18 các nhà buôn phương Tây chính thức đặt chân lên Côn Đảo để điều tra, dò xét tình hình mọi mặt với dụng ý xâm chiếm Côn Đảo.
Năm 1702, Công ty Đông Ấn của Anh đổ quân lên Côn Đảo xây dựng pháo đài và cột cờ. Sau 3 năm, ngày 3/2/1705 xảy ra cuộc nổi dậy của người đội lính đánh thuê của chính quyền Anh, làm quân Anh phải rời bỏ Côn Đảo.
Tháng 4/1861, Pháp đánh chiếm Định Tường, tháng 11/1861, quân Pháp đánh chiếm Côn Lôn. Chỉ mấy tháng sau, thực dân Pháp quyết định thành lập nhà tù Côn Đảo, biến hòn đảo này thành nơi giam giữ những người tù chính trị Việt Nam với hệ thống chuồng cọp nổi tiếng. Vì vậy dưới thời Pháp thuộc đã có câu rằng: “Côn Lôn đi dễ khó về - Già đi bỏ xác, trai về nắm xương”.
Nhà tù Côn Đảo |
Tháng 9/1954 chính quyền Ngô Đình Diệm tiếp tục chế độ nhà tù của Pháp và đổi tên quần đảo Côn Lôn thành hải đảo Côn Sơn. Sau này, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu lại đổi tên quần đảo này một lần nữa là Phú Hải. Vào lúc cao điểm, số tù nhân trên đảo lên đến hơn 8.000 người. Dưới chế độ tàn bạo của nhà tù, đã có khoảng 20.000 người Việt Nam đã chết và được chôn cất tại Nghĩa trang Hàng Dương, trong đó có những tên tuổi lớn như Võ Thị Sáu.
Sau ngày miền Nam giải phóng, nhà tù Côn Đảo bị xóa bỏ, quần đảo này trở thành 1 trong 21 khu du lịch quốc gia Việt Nam. Côn Đảo được nhiều du khách đánh giá là thiên đường của nghỉ dưỡng và khám phá thiên nhiên rừng và biển với những bãi tắm hoang sơ tuyệt đẹp, làn nước trong xanh mát lạnh, bãi cát dài phẳng mịn. Không khí trên đảo thật trong lành, được ví như thiên đường nghỉ dưỡng.
Côn Đảo có rừng nguyên sinh và biển được bảo tồn đa dạng sinh học, đây không chỉ là nơi nghiên cứu của các nhà khoa học mà còn là nơi để các bạn đến để du lịch khám phá, với các chương trình di lịch sinh thái. Mới đây Côn Đảo được tạp chí du lịch Travel And Leisure công bố là một trong 20 hòn đảo chứa đựng nhiều điều bí ẩn nhất thế giới.
Trở lại với chuyến tàu cập bến Cầu Tàu ngày 1/9/1963 đưa người tù Hà Minh Trí lên đảo. Đoàn tù đã bị giải ngay về các khu trại giam, ông Mười Trí bị đưa về khu biệt giam giành cho các tử tù. Thật bất ngờ, trước khi bị đẩy vào phòng biệt giam, Mười Trí đã thấy những bạn tử tù từ hồi ở Tổng nha Cảnh sát Sài Gòn là Lê Hồng Tư, Lê Quang Vịnh từ xa, họ đưa tay chào nhau, ra dấu đấu tranh cho thắng lợi cuối cùng.
Ông Mười Trí đã lần lượt trải qua hầu hết các đòn hành hạ như để thử sức với ý chí con người, từ buồng biệt giam dành cho tử tù cho tới “chuồng cọp” – một “sáng chế” dị thường có từ thời Pháp vẫn được chính quyền sử dụng để tra tấn đồng loại theo kiểu thời trung cổ.
Trong những lần đi “chuồng cọp” ở Côn Đảo, ông Mười Trí gặp lại người quen từ cái thời ở trại giam Tổng nha Cảnh sát Sài Gòn, đó là ông Nguyễn Đức Thuận, người mà sau đó vài năm đã được trả tự do và viết nên tác phẩm “Bất khuất” nổi tiếng tố cáo chế độ nhà tù vô nhân, man rợ của chính quyền Sài Gòn ra toàn thế giới.
Tuy trong những trang sách của Nguyễn Đức Thuận không nêu tên người bạn tù Hà Minh Trí, nhưng ngày nay đọc lại từng trang "Bất khuất", chúng ta có thể bắt gặp hình ảnh người tử tù Mười Trí cùng với tác giả nếm trải sự thử thách của “chuồng cọp”.
Tác giả “Bất khuất” dẫn chúng ta đi qua những lò giết người cực kỳ man rợ, man rợ hơn cả bọn đao phủ thời Trung cổ, hơn cả bọn phát xít Hítle. Nguyễn Đức Thuận, Mười Trí cùng với biết bao chiến sĩ cộng sản kiên cường, biết bao người Việt Nam yêu nước, đã đối mặt với quân thù, chống chào cờ ba que, chống học tập "tố cộng", chống "ly khai" tới cùng. Các ông và những con người kiên cường vẫn đứng vững trong chồng cọp, đẩy lùi bàn tay thần chết, bắt lũ chúng phải quỳ lạy dưới chân mình.
Mỗi trang "Bất khuất" là một trang thấm máu và nước mắt, tràn đầy một sức sống mãnh liệt, vang lên tiếng hát yêu đời, yêu cuộc sống, yêu con người, vang lên bài ca chiến thắng không bao giờ tắt. Với trên bốn trăm trang hồi ký, Nguyễn Đức Thuận đã phản ánh sâu sắc cuộc sống anh hùng với tinh thần cách mạng tiến công của những con người có thực, vạch trần hiện thực đen tối trong những địa ngục của xã hội miền Nam dưới gót sắt của ngoại bang.
"Bất Khuất" toả ra một niềm tin bất diệt vào sự nghiệp cách mạng, nêu cao phẩm giá của những con người nhận thức được quy luật và chân giá trị cuộc sống, biết sống và biết chết xứng đáng là Người. Nguyễn Đức Thuận và Mười Trí nhờ những xáo trộn liên tục trong chính trường Sài Gòn mà được rời khỏi đảo gần như cùng lúc. Thế nhưng, số phận vẫn chưa vội mỉm cười với người chiến sĩ của chúng ta. Tại trại giam Chí Hòa – Sài Gòn, ông Mười Trí tiếp tục chơi trò ú tim với số phận, trước khi được giải cứu một cách ngoạn mục.
Cuộc giải cứu ngoạn mục
Sau khi Cuộc đảo chính lật đổ chế độ gia đình trị năm 1963 nổ ra, dẫn đến cái chết của anh em nhà họ Ngô, những tưởng “người lính giáo phái Cao đài” từng ám sát Ngô Đình Diệm sẽ được Hội đồng tướng lãnh cầm đầu vụ đảo chánh lật đổ Diệm xem xét và ghi công, sẽ trả tự do cho Mười Trí với tư cách là tù nhân chính trị đối lập chống chế độ Ngô Đình Diệm.
Thế nhưng, mọi việc không đơn giản như thế, mặc dù ông vẫn được đưa về Sài Gòn, nhưng không phải để phóng thích, mà để thẩm tra và phục vụ một âm mưu hèn hạ khác. Sau này ông Mười Trí được biết, sau cuộc đảo chánh 1963, viên tướng thất sủng trước đó Mai Hữu Xuân được dịp diễu võ giương oai, ông ta bắt đầu tính chuyện “ân đền oán trả”.
Chuyện “ân oán” viên tướng này đau nhất chính là chuyện bị anh em Diệm – Nhu cho ra rìa sau lời khai của “người lính giáo phái Cao Đài” rằng vụ ám sát Ngô Đình Diệm ở Buôn Mê Thuột là do Dương Văn Minh và Mai Hữu Xuân chỉ đạo. Trong khi Minh Lớn (tướng Dương Văn Minh, người cầm đầu cuộc đảo chánh) không quan tâm tới lời khai năm nào của người ám sát Diệm (mà cũng có thể do quá nhiều việc sau cuộc đảo chánh, ông ta không có thời gian để nhớ về những chuyện ân oán ngày trước), thì Mai Hữu Xuân vốn “nhỏ nhặt”, đã quyết “đòi món nợ lời khai năm 1957” của Hà Minh Trí.
Chính Mai Hữu Xuân đã dàn xếp để đưa Mười Trí từ Côn Đảo về Sài Gòn, với mục đích gì có lẽ chúng ta cũng phần nào đoán được, nhất là khi Mai Hữu Xuân thừa biết Hà Minh Trí thực chất là ai, ám sát Ngô Đình Diệm vì mục đích gì. Thế nhưng, do chính trường Sài Gòn biến động quá nhanh, giống như cơn lốc lớn, cuốn tất cả mọi người vào vòng xoáy vô định của nó.
Ông Mười Trí |
Mai Hữu Xuân chưa kịp thực hiện chuyện “ân oán” với Hà Minh Trí thì ông ta lại phải ra rìa trong bàn cờ chính trị đang sôi sùng sục ở Sài Gòn, nhờ đó mà ông Mười Trí đã không có cuộc chạm mặt với Mai Hữu Xuân được báo trước là “lành ít dữ nhiều”. Dù vậy, giới quan chức ở Sài Gòn cũng lờ mờ nhận ra Hà Minh Trí là ai.
Có lẽ chí khí, lòng yêu nước, tinh thần bất khuất mà người tử tù thể hiện trong thời gian ở Tổng Nha Cảnh sát Sài Gòn, nhất là sau này ở Côn Đảo đã mách bảo với bọn cai ngục rằng, Hà Minh Trí không phải là ai khác, mà chính là một chiến sĩ cộng sản. Vì vậy mà Hà Minh Trí không được phe đảo chánh trả tự do, họ tiếp tục giam ông, thẩm vấn ông. Cho tới một ngày “phúc hữu trùng lai” mới giúp Mười Trí thoát khỏi sự giam cầm của đối phương.
Cái phúc thứ nhất đến với Mười Trí là bà luật sư Nguyễn Bá Thành và nhà báo Nguyễn Lâm bị bắt đẩy vào tù giam chung với ông. Vào thời điểm ấy, đầu năm 1964, Dương Văn Minh được quan thầy Mỹ chọn làm Quốc trưởng, Nguyễn Khánh làm Thủ tướng. Thời gian này, sinh viên học sinh xuống đường biểu tình rầm rộ. Ông Mười Trí mới đưa từ đảo về, được chứng kiến nhiều sinh viên, học sinh bị bắt do biểu tình chống đối, đưa vào trại giam rất nhiều. Cũng trong thời gian này, bà luật sư Ngô Bá Thành và nhà báo Nguyễn Lâm bị bắt trong phong trào đấu tranh của trí thức Sài Gòn đòi quyền tự quyết, đòi Mỹ không can thiệp vào nội bộ Việt Nam.
Gặp Mười Trí trong trại giam, bà Ngô Bá Thành rất ngạc nhiên vì bà nghĩ rằng “người lính giáo phái Cao đài” ám sát Ngô Đình Diệm ngày nào tất nhiên là đã được trả tự do sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Bà Ngô Bá Thành hướng dẫn Mười Trí viết đơn gởi cho chính quyền Sài Gòn với nội dung: “Người chống Diệm, nay Diệm không còn, tại sao không được trả tự do?” Sau đó bà luật sư Ngô Bá Thành và nhà báo Nguyễn Lâm được thả, họ viết nhiều bài báo về chuyện Hà Minh Trí vẫn còn bị cầm tù như là chuyện khó hiểu, bất công của chính quyền tay sai.
Ông Hà Minh Trí cũng viết thư gởi cho Tướng Cao đài Phạm Ngọc Chẩn yêu cầu can thiệp trả tự do cho “người lính giáo phái Cao đài”. Cùng lúc đó, điều “phúc” thứ hai đã đến với Mười Trí, đó là một cuộc đảo chánh khác vào tháng 9/1964 đã loại bỏ Dương Văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, đưa Phan Khắc Sửu lên làm Chủ tịch Thượng Hội đồng quốc gia, rồi lên làm Quốc trưởng sau đó.
Phan Khắc Sửu là “người nhà” của đạo Cao đài, vì vậy mà những tín đồ Cao đài được quan tâm giúp đỡ. Mặt khác, Phan Khắc Sửu từng bị anh em Diệm – Nhu bắt giam, đày ra Côn Đảo, nên là “bạn tù” của Hà Minh Trí. Với tất cả những điều kiện đó, Mười Trí được trả tự do là điều không thể khác hơn được.
Thế nhưng, trước khi được trả tự do, chính quyền Sài Gòn cũng chơi đòn cân não cuối cùng. Ông Mười Trí được gọi lên gặp một nhân vật cũng vừa ở nhà tù Côn Đảo ra, tên là Nguyễn Chữ, được phe đảo chánh trao cho chức vụ Uỷ viên An ninh kiêm Chủ tịch Hội đồng cứu xét phóng thích chính trị phạm. Ông Mười Trí nhớ lại, ngay khi vừa gặp mặt, Nguyễn Chữ bắt tay ông và hỏi ngay:
- Khoẻ không, đồng chí cộng sản núp bóng Cao đài?
Mười Trí bính thản nhìn thẳng vào mắt hắn trả lời:
- Tôi vẫn khoẻ, còn ngài tù Côn Đảo thế nào?
Nguyễn Chữ cố kìm nén dưới nụ cười bí hiểm, hỏi tiếp:
- Nếu tôi thả anh ra, anh sẽ làm gì, không chống lại tôi chứ?
Hà Minh Trí cười đáp:
- Không lẽ tôi giành làm Chủ tịch Hội đồng phóng thích phạm nhân như anh? Chỉ có anh mới lèo lái chính trị giỏi như vậy.
- Ra khỏi tù, anh có chắc là không theo cô Kim Hưng? Nguyễn Chữ tấn công tiếp. Hắn thừa biết Mười Trí và người nữ tù Kim Hưng (bị bắt cùng phong trào đấu tranh với Lê Quang Vịnh, Lê Hồng Tư, mới được trả tự do, sau này trở thành vợ Mười Trí) đã quen nhau khi ở Tổng Nha và có tình cảm với nhau và hắn cũng biết Kim Hưng là cộng sản. Hắn mượn câu nói đó để khẳng định Mười Trí là cộng sản chứ không phải Cao đài.
Mười Trí né tránh câu hỏi, trả lời theo hướng khác:
- Tùy mấy anh, nhưng nếu tôi chưa được trả tự do thì coi như như chế độ Ngô Đình Diệm vẫn còn nguyên.
Một thời gian sau, Phan Trung Chánh - Giám đốc Trung tâm Thẩm vấn mời Mười Trí lên làm việc. Vừa gặp, Chánh tươi cười nói: “Cụ Phan Quốc Sửu đã làm Quốc trưởng rồi, lính Cao đài tụi mình lên hương.
Anh là lính Cao đài từng ở tù chung với cụ Sửu, bởi vậy cụ đã ra lệnh cho chúng tôi thả anh.Vừa làm thủ tục trả tự do cho Mười Trí, Phan Trung Chánh vừa xun xoe: “Nếu sau này được cụ Sửu trọng dụng, anh làm ơn nhớ tới người thả anh hôm nay”. Vui miệng, Phan Trung Chánh kể: “Sở dĩ sau khi Diệm – Nhu đã bị giết mà anh vẫn còn bị giam, là do tụi Cần Lao Nhân Vị của Ngô Đình Nhu còn lại trong bộ máy cảnh sát, chung ém hồ sơ của anh lại, tuyên truyền anh là cộng sản và tính chuyện thủ tiêu anh”.
Cầm giấy trả tự do trong tay, Hà Minh Trí bước ra khói nhà tù, lúc ấy trời đã xế chiều. Mười Trí khoan khoái hít thở không khí tự do, điều mà ông khao khát suốt 8 năm 16 ngày qua. Đó là ngày 10/3/1965.
Thiên Thanh
[links()]