Saturday, 29 March 2014

Người anh hùng đánh giặc từ năm 12 tuổi (Hoa Nguyên & Hương Lam - Người Đưa Tin)


(Nguoiduatin.vn) - Chúng sử dụng những đứa trẻ Việt Nam để tạo hình ảnh một quân đội nhân đạo, những đứa trẻ bị bắt cóc được giới thiệu là "trẻ mồ côi". Mục đích của chúng là sẽ xây dựng, đào tạo những đứa trẻ này thành "những chiến binh Việt Nam" nếu ý đồ thôn tính Đông Dương thành công.

Vào những năm 1940, trong đoàn quân của quân đội phát xít Nhật di chuyển từ miền Trung vào miền Nam Việt Nam trong đó có cậu bé 10 tuổi quê ở Nghệ An, Phan Văn Điền. Đứa trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ, đang sống lây lất, đói rách cùng bà nội trên đường di tản tìm cái ăn của nạn đói năm 1945 thì bị lính Nhật cho đi "chơi xa" trên một chuyến xe quân sự. Đứa trẻ đó không hề biết rằng đã trở thành một phần trong âm mưu của phát xít Nhật khi đó: Bắt cóc trẻ con Việt Nam để đào tạo thành lính để sau này làm tay sai cho chúng cai trị chính Việt Nam.
Ông Phan Văn Điền hiện nay.
Chuyến "đi chơi" định mệnh
Năm 1940, quân Nhật bắt đầu tiến chiếm Đông Dương qua ngõ Trung Hoa - Việt Nam bằng từng đoàn Công - voa hùng hậu (Công-voa là quân đội của Nhật Hoàng trong thế chiến thứ 2 -P.V). Trước sức mạnh của quân Nhật, quân đội Pháp đang chiếm đóng ở Lạng Sơn thất thủ, được thể, đội quân viễn chinh Nhật tiến sâu vào nội địa Việt Nam. Toàn quyền Pháp tại Đông Dương tê liệt không thể kháng cự. Nhật hạ lệnh cho Pháp phải cống nộp lương thực cho Nhật. Và, để có đủ điều kiện lương thực cống nộp cho Nhật, quân Pháp ra sức vơ vét, tận thu tài nguyên trên đất Việt Nam làm bùng phát nạn đói kinh hoàng năm 1945 khiến một phần mười dân số chết vì đói.
Trốn nạn đói Ất Dậu năm đó, một cậu bé 10 tuổi mồ côi cha mẹ, bám tay bà nội và ông bác ruột rời quê Cửa Lò (Nghệ An) xuôi về Diễn Châu để tìm cái ăn. Trên đường chạy đói, người chết nằm ngổn ngang chưa được chôn còn người sống thì lay lắt như những bóng ma cứ vật vờ mò mẫm, tìm kiếm bất cứ thứ gì có thể cho vào miệng. Hình ảnh tang thương ấy nhanh chóng đập vào mắt cậu bé Phan Văn Điền. Trong tâm trí non nớt khi ấy, những gã Tây đen, Tây trắng nhởn nhơ khắp nơi là thủ phạm của nỗi cơ cực, chết chóc này. Chúng chính là những bọn quỷ mắt xanh thường có trong mỗi câu chuyện cổ tích bà ru ngủ những đêm trằn trọc vì đói.
Tới một cái chân cầu, người bác gửi hai bà cháu vào một cái bè cùng một số công nhân rồi đi biền biệt. Chỗ ở mới tạm gọi là cái nhà để hai bà cháu trú nắng trú mưa và là nơi ngủ sau một ngày đi tìm cái ăn về. Cháu 10 tuổi cứ sáng ra là dắt bà đi men theo những đường ray tàu lửa để lượm than vụn sau đó đem về đổi lấy khoai lang, cơm độn sống qua ngày.
Thời gian sau, quân đội Nhật chính thức hất cẳng bọn Pháp ra khỏi Việt Nam. Mấy ngày sau đó, quân lính Nhật có mặt khắp nơi, máy bay quân đồng minh Anh - Mỹ quần đảo liên tục trên bầu trời Vinh, tìm kiếm những nơi có Nhật đóng quân để trút bom. "Nhà" của hai bà cháu bơ vơ, côi cút cũng bị bom đánh cho tan tành, may là hôm ấy bà và cháu đang đi "kiếm ăn" ở một cái lò vôi cách xa "nhà" mấy chục mét nên thoát nạn. Tiếng súng lắng dịu được mấy ngày, cuộc sống của hai bà cháu trở nên chật vật, lao đao hơn vì thiếu hụt cái ăn. Nhiều người thấy cảnh bà già, trẻ nhỏ thương tình cho miếng khoai, rau trái cứu vớt sự sống của hai bà cháu.
May là ngày đó, vùng này người ta trồng nhiều bông vải, cứ mỗi vụ thu hoạch, chủ ruộng thuê mướn nhân công bao gồm người lớn và trẻ con. Nhờ lanh lợi, Điền kiếm được một chân cán bông vải và thù lao cuối ngày là một ô khoai lang và làn cơm trộn đem về. Suốt thời gian dài, nhờ những ngày công của Điền mà hai bà cháu có thể duy trì sự sống.
Bọn Nhật tràn vào khắp nơi, chẳng mấy chốc mà chúng quen mặt những đứa trẻ hay chạy nhảy tung tăng ở đây. Phan Văn Điền cũng trở thành "người bạn nhỏ" của chúng. Mỗi khi cần gì là chúng sai cậu đi mua, chiến lợi phẩm sau mỗi buổi "làm bạn" với người Nhật là một làn cơm trắng tinh. Dần dần, Điền trở cũng bập bẹ được đôi từ tiếng Nhật. Một hôm, thấy những người lính đang tất bật thu dọn đồ đạc để chuyển bị rời khỏi đây, chúng hỏi Điền có muốn đi chơi không. Nghe thấy bảo được đi chơi quả là một thứ gì đó vừa thích thú lại vừa tò mò. Điền chạy nhanh về nhà xin phép bà. Bà chưa kịp hỏi thì đã thấy đứa cháu khuất sau ngọn cây. Từ trên xe, Điền nhìn thấy bà chạy với theo gọi thảm thiết: "Cháu ơi! về với bà đi cháu ơi". Điền khi ấy cũng vừa la vừa đòi xuống xe nhưng một người Nhật đã kịp thời ôm lại. Và đó cũng là lời cuối cùng Điền được nhìn thấy hình ảnh người bà. Chuyến "đi chơi" ấy dài hàng ngàn cây số đến một nơi hoàn toàn xa lạ.
Quân đội phát xít Nhật đang tiến vào Sài Gòn. Ảnh tư liệu.
"Tên lính Nhật" cứng đầu
Đoàn xe khởi hành trong cái nắng gió Lào hanh hao, hướng về phía Nam chạy miệt mài ngày đêm, xuyên qua những bãi xác người chết đói, xuyên qua những đoàn bộ binh Nhật đeo kiếm trễ bên hông. Phan Văn Điền không ngờ rằng, ông đang ngồi trên chuyến công - voa mở đường xâm lược xuyên Đông Dương của quân đội Nhật Hoàng. Và một cậu bé như ông cũng không thể biết được rằng, đó là một trong những chuyến xe chạy trên sự kiện đệ nhị thế chiến của lịch sử. Toàn lãnh thổ Việt Nam, không khí kháng chiến chống ngoại bang xâm lược bùng nổ khắp nơi.
Ngồi trên xe cùng Điền khi ấy cũng có 5 đứa trẻ trạc tuổi Điền, không biết chúng bị bắt từ tỉnh nào đến nhưng tất cả đều mang dáng vẻ lấm lem, còi cọc của đói ăn, thiếu mặc. Những ngày đoàn xe dừng chân nghỉ ngơi, Phan Văn Điền bắt đầu cảm thấy nhớ bà nội da diết, cậu khóc lóc đòi về nhưng mỗi lần như vậy đều nhận được sự im lặng hay lời hăm dọa. Một lần, được sai đi ra quán tạp hóa mua đồ cho lính Nhật, Điền non nớt kể hoàn cảnh của mình và nhờ ông chủ tạp hóa đưa mình về với bà. Chủ quán từ chối nhưng hứa sẽ giúp viết thư về cho bà. Điền đọc nội dung thư cho người chủ quán ghi: "Bà ơi! Cháu rất nhớ bà. Cháu đã bỏ bà đi chơi, bỏ bà một mình. Cháu hứa sẽ về với bà. Bà thứ lỗi cho cháu nhé". Không hiểu lá thư có đến được tới tay bà không nhưng trong lòng Điền cảm thấy ấm áp, an tâm hơn.
Xe chạy mải miết nhiều ngày, qua những cánh đồng ngút ngàn khói trắng của tàn tích bom đạn, qua những làng mạc đất trắng, khô cằn và những con người lơ thơ, dật dờ trước gió. Vài ngày sau, đoàn xe đến Sài Gòn, những chú nhóc tuy không ở trong biên chế quân đội nhưng vẫn được phát quân phục và lương 20 đồng một tháng. Đó là một trong những chiêu thức của quân đội Nhật Hoàng. Chúng sử dụng những đứa trẻ Việt Nam để tạo hình ảnh một quân đội nhân đạo, những đứa trẻ bị bắt cóc được giới thiệu là "trẻ mồ côi". Mục đích của chúng là sẽ xây dựng, đào tạo những đứa trẻ này thành "những chiến binh Việt Nam" nếu ý đồ thôn tính Đông Dương thành công.
Sống ở thành phố sôi động, náo nhiệt luôn có những trò chơi thú vị, dần dà nỗi nhớ bà trong Điền bị khuất lấp. Bản năng sinh tồn của đứa trẻ mồ côi đã tạo cho Điền biết cách xử lý khôn khéo trong ứng xử hàng ngày, biết cách phân tích từng vấn đề để không làm mất lòng bọn Nhật. Một hôm, khi vừa ra khỏi doanh trại, một quang cảnh náo nhiệt xảy ra trước mắt Điền, một đoàn người nối thành hàng dài cầm lá cờ đỏ sao vàng hô vang các khẩu hiệu: "Hồ Chí Minh muôn năm, Việt Nam độc lập, tự chủ. Đả đảo thực dân Pháp". Không khí sôi sục, náo loạn toàn bộ khu vực đã khiến cậu lính nhóc hòa vào dòng người lúc nào không hay và theo phản xạ có điều kiện, Điền cũng hô theo đoàn người kia.
Đi theo hò reo cả buổi, khàn cả tiếng nhưng Điền cảm thấy vui và phấn khích trong người, có lẽ đây là lần đầu tiên Phan Văn Điền có cảm giác niềm vui thật sự. Đó là lần đầu tiên ý thức về Tổ quốc Việt Nam hình thành trong đầu Điền, tuy chưa rõ nét lắm nhưng cũng đủ để biết đất nước mình có một lá cờ Tổ quốc khác với lá cờ ba màu của Pháp hoặc lá cờ mặt trời của Nhật. Liên tục những ngày sau đó, đám nhóc "lính Nhật" tiếp tục tham gia hô hào cùng đoàn người đủ mọi thành phần kia. Bài học về Tổ quốc, về Bác Hồ về bọn xâm lược bắt đầu với Điền trong hoàn cảnh như thế.
Hoa Nguyên - Hương Lam


***

Người anh hùng đánh giặc từ năm 12 tuổi

Sau khi Mỹ thả hai quả bom nguyên tử xuống Nhật Bản năm 1945 khiến Nhật Hoàng phải đầu hàng quân đồng minh vô điều kiện, quân đội phát xít Nhật ở khắp nơi rệu rã. Chuyến đi chơi xa đưa Phan Văn Điền dạt về Vũng Tàu theo quân thất sủng của Nhật Hoàng. Khi Nhật rút quân về nước, các chú nhóc bị bắt cóc đến đây trở nên bơ vơ. Cậu bé họ Phan may mắn được làm con nuôi của một cơ sở cách mạng. Từ đây, cuộc đời đứa trẻ mồ côi chính thức bước sang một trang mới.

Tham gia cách mạng
Trong số những đứa trẻ bị quân Nhật bỏ lại ở Vũng Tàu thì Phan Văn Điền là nhỏ tuổi và nhỏ người nhất vì thế mà được ông chủ tiệm tạp hóa quen tên Châm nhận làm con nuôi. Mặc dù là con nuôi nhưng ông bà Châm thương như con ruột, Điền được cho đi học, được sống trong sự thương yêu đùm bọc của cả gia đình này. Cha nuôi đổi tên cậu thành Đinh Văn Phú theo họ của ông để hợp thức hóa danh phận. Lần đầu tiên trong đời, Phú được mặc chiếc áo dài đen, chân mang giày hàm ếch, đầu đội nón kết, tay cắp cặp đến trường học chữ Quốc ngữ và Pháp ngữ.
Ông Phan Văn Điền.
Cha nuôi của Phú vốn là dân Hải Phòng, đã từng rời quê hương theo tàu viễn dương lênh đênh trên biển cả nhiều năm trời đi khắp thế giới. Trong một chuyến ghé vào cảng Vũng Tàu, ông gặp người con gái đã níu chân ông lại để xây dựng một mái ấm gia đình nho nhỏ trên đất liền. Ông chuyển sang làm nghề bán buôn và mở tiệm tạp hóa nhỏ sinh sống. Ông chính là cơ sở nòng cốt của phong trào Việt Minh tại Vũng Tàu.
Thỉnh thoảng, cậu bé Phú thường thấy một số người hay qua lại nhà cha nuôi, họ họp trong một cái phòng kín nhiều giờ liền khiến cho cậu bé tò mò thường lén đến vách ghé sát tai nghe lỏm. Một lần, đang say sưa nghe thì bị một người bạn của cha nuôi bắt quả tang lôi vào phòng. Nhưng các chú bác không hề la rầy Phú mà còn dạy cho cậu hiểu thế nào là cách mạng. Đó là lần thứ hai kể từ khi lưu lạc, Phú được tiếp xúc với hai chữ cách mạng.
Một năm sau, cha nuôi đột ngột qua đời sau một cơn bạo bệnh. Phú bị mẹ nuôi ngày ngày la mắng, đánh đập nên xin các chú cho đi theo làm cách mạng. Với lợi thế là con nít, bọn Pháp không để ý nên Phú thoải mái ra vào các tụ điểm, các nơi sang trọng mà người Pháp thường tụ tập đông đúc. Trong vai một đứa trẻ đi đánh giày, bán vé số, Phú luôn dắt theo hai trái lựu đạn gặp đám đông quân lính Pháp là rút chốt cho nổ, lợi dụng sự nhốn nháo của mọi người, cậu lẩn trốn dễ dàng. Chỉ trong thời gian ngắn, một cậu nhóc đánh giày tiêu diệt được hàng trăm tên binh lính, sĩ quan Pháp ở Vũng Tàu. Năm đó Phú vừa tròn 12 tuổi.
Ông Phan Văn Điền đã nhiều lần được tặng thưởng các danh hiệu cao quý.
Thử sức làm gián điệp
Được tổ chức tín nhiệm giao thêm nhiều trọng trách quan trọng khác, Đinh Văn Phú được đổi tên thành Đinh Hùng Dũng với một vỏ bọc hoàn toàn mới. Một sứ mệnh khác hiểm nguy hơn, can trường hơn đối với Đinh Hùng Dũng là phải giả làm đứa trẻ chăn trâu để thâm nhập vào lãnh địa đồn trú quân của địch. Đồng nghĩa với vai trò tình báo, Dũng làm sao lọt vào tầm ngắm của tên đồn trưởng Phạm Ngọc Chẩn để làm giao liên với ban lãnh đạo kháng chiến tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Đồng thời, trong thời gian đó, Dũng sẽ tìm cách vẽ được sơ đồ ở các đồn xung quanh căn cứ của ta.
Một buổi sáng, toán lính tuần canh trong đồn phát hiện một chú bé 12 tuổi đang dắt hai con trâu ăn cỏ nhởn nhơ khu vực gần đồn. Một tên hạ sĩ chạy tới quát lớn: "Ở đâu? Tại sao chăn trâu ở đây? Có biết đây là vùng cấm của thiếu úy Chẩn không?". Chú bé chăn trâu vừa sợ hãi vừa thưa: "Em không biết đây là vùng cấm. Em chỉ biết cỏ ởã đây rất ngon nên cho trâu vào ăn no nếu trâu đói là em bị chủ cho ăn đòn". Giằng co mãi, cuối cùng tên sĩ quan phải dẫn chú nhóc về đồn vì chú quá cứng đầu, không chịu dắt trâu đi. Vừa gặp chú bé, tên trưởng đồn tát một cái nảy lửa vào mặt cậu bé. Dũng vừa khóc vừa nói: "Em là đứa trẻ mồ côi đi chăn trâu mướn cho người ta, chủ đánh đập bỏ đói hoài nên em đánh liều vào đây xin anh cho em đi lính". Tên đồn trưởng động lòng trắc ẩn, hắn ra lệnh cho lính thu xếp cho cậu một chỗ ở để hàng ngày pha trà, rót nước và làm các việc sai vặt cho đồn trưởng.
Từ hôm đó, chú bé chăn trâu trở thành thành viên trong đồn, đúng với chỉ đạo của tổ chức giao cho. Do chịu khó làm việc lại ngoan ngoãn nghe lời người lớn sai bảo nên chẳng mấy chốc mà Dũng được lòng đồn trưởng Phạm Ngọc Chẩn. Đi đâu, hắn chũng dắt theo Dũng kể cả những lần đi họp chiến lược với các đồn khác mà không một mảy may nghi ngờ. Là tên sai nhóc của thiếu úy Chẩn, Dũng có một vỏ bọc tương đối hoàn hảo, cậu có đầy đủ điều kiện để quan sát, theo dõi và nắm bắt tình hình toàn bộ đồn giặc. Mọi thông tin mật thu được, Dũng bí mật chuyển ra cái "hòm thư" ở gốc cây rồi từ đó, thư sẽ bay tới tay các đồng chí lãnh đạo.
Nhận thấy tên Chẩn là môt người có cảm tình với cách mạng nên các đồng chí lãnh đạo yêu cầu Dũng làm giao liên để lãnh đạo gặp Chẩn. Tình hình đang êm ái, Chẩn đã có ý định về với cách mạng thì bọn mật vụ ngửi thấy mùi phản bội của Chẩn. Ngay lập tức, thiếu úy Chẩn bị triệu tập về sở chỉ huy một tháng và khi quay trở lại thì bàn giao đồn cho tên khác nắm giữ. Chẩn bị giải về Bộ Tư lệnh đóng ở Tây Ninh. Không nỡ để đứa em nuôi nheo nhóc, côi cút nên Chẩn đã xin cho cậu đi cùng. Hai người bị giải về giam tại phòng của Bộ Tư lệnh quân đội Cao Đài sau đó thì bị tra tấn cho một trận tơi bời.
Đổi tên lần thứ ba
Phạm Ngọc Chẩn có người anh là trung tá chỉ huy lực lượng Cơ Thánh Vệ bảo vệ tòa thánh Cao Đài nên vừa nghe tin em mình bị bắt, bằng thế lực và địa vị của anh trai mình, thiếu úy Chẩn và cậu nhóc nhanh chóng được thả ra. Được tự do, lại được gia đình Chẩn đưa về ở cho đi học, Dũng hạnh phúc vô cùng. Đinh Hùng Dũng được đổi thành Phạm Công Phú, vậy là vừa được một cái vỏ bọc hoàn hảo lại vừa được ăn sung mặc sướng, học hành tử tế. Cuộc sống vương giả, sung túc trong ngôi nhà của vị chỉ huy Cơ Thánh Vệ khiến Phú có điều kiện chuyên tâm học hành nên cậu học rất giỏi. Tuy nhiên, lúc nào cậu cũng thấp thỏm vì đã mất liên lạc với chiến khu, nỗi nhớ các chú các bác càng trở nên da diết, Phú vùi tất cả vào những bài học thâu đêm.
Sự giày vò càng lúc càng sôi sục, Phú thấy mình thật trống trải, thừa thãi khi không còn ai để cậu báo cáo tình hình, truyền tin bí mật. Một lần, đang tha thẩn dưới sân trường, bỗng có một bạn học nữ đến ngồi cạnh Phú hỏi chuyện. Không ngờ, cô bạn ấy lại chính là giao liên đưa Phú trở về với tổ chức. Trong chiến tranh có những điều thật kì lạ, từ những đứa trẻ đang ngồi trên ghế nhà trường như Phú đã biết hóa thân, biết hoạt động bài bản như người lớn. Từ ngày bắt liên lạc được với tổ chức, Phú như người trên mây, cậu sung sướng, hạnh phúc và hăng say vừa học tập vừa do thám tình hình. Thời gian này, nhiều đội du kích ở miền Nam ra đời, Phú là một viên đạn trong cơn mưa đạn của quân ta bắn thẳng vào kẻ thù. Hàng ngày, cậu đi học, ban đêm cùng đồng đội len lỏi vào khắp nơi để rải truyền đơn, xử tử những tên Việt gian bán nước những tên cò Pháp có nợ máu với nhân dân.
Tháng 3/1950, Mỹ bắt đầu thò "cái đuôi" sang xâm lược Việt Nam với danh nghĩa hỗ trợ cho Pháp. Phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân nổ ra khắp nơi, nơi nào cũng sục sôi lòng yêu nước. Nội bộ Cao Đài trở nên rối ren, chúng nghi kỵ lẫn nhau dẫn đến nhiều cuộc thanh toán những phe phái trong Cao Đài diễn ra đẫm máu. Giữa lúc ấy, Phạm Công Phú bị lộ, tổ chức phải rút cậu ra căn cứ ở tạm nhà một đồng chí cơ sở. Năm 1954, Pháp thua đau ở Điện Biên Phủ buộc lòng phải ngồi vào đàm phán kí hiệp định Genève. Đất nước Việt Nam bị chia cắt thành hai miền, nhiều cán bộ cách mạng được đưa ra Bắc tập kết, một số còn lại có kinh nghiệm bám trụ địa bàn để đối phó âm mưu thâm độc của kẻ thù trong đó có cậu thanh niên Phạm Công Phú - Phan Văn Điền.

 
Sau hai lần ám sát hụt Tổng thống họ Ngô, Hà Minh Trí cứ như người ngồi trên đống lửa, anh bứt rứt tâm can vì chưa có cơ hội trực tiếp kết liễu tên Tổng thống đang có nhiều nợ máu với nhân dân.
Lần thứ ba nhận nhiệm vụ ám sát Ngô Đình Diệm trên Buôn Mê Thuột, anh quyết tâm thực hiện cho bằng được. Vậy nhưng phát súng của anh nhắm thẳng vào Ngô Đình Diệm đã bị người khác chịu thay. Dù Ngô Đình Diệm không chết, nhưng cả cục diện chính trị đã thay đổi.
Mặt đối mặt
Nhiều nguồn tin đáng tin cậy cho biết, Ngô Đình Diệm sẽ bay lên Buôn Mê Thuột dự hội chợ triển lãm kinh tế Cao nguyên và cắt băng khánh thành trong thời gian tới. Ngay lập tức, Hà Minh Trí lên phương án ám sát vào dịp này, anh báo cáo với lãnh đạo đề ra kế hoạnh thực hiện. Lúc đầu, lãnh đạo còn băn khoăn vì đường xá xa xôi cách trở lại không am hiểu về địa hình trên đó, một mình Trí rất khó thực hiện. Sau khi được anh phân tích kế hoạch, đường đi nước bước hợp lý, khả năng thành công cao và hơn nữa anh đã có sẵn hai cơ sở đang có chỗ đứng vững chắc trong chính quyền ngụy đóng ở Buôn Mê Thuột, họ sẽ giúp anh điều nghiên. Nghe anh phân tích hợp lý, lãnh đạo chấp nhận.
Hà Minh Trí bị bắt tại chỗ sau khi ám sát Ngô Đình Diệm (ảnh tư liệu).
Một mình Hà Minh Trí từ Tây Ninh lên Buôn Mê Thuột hai lần nghiên cứu quan sát địa thế, nắm chắc địa hình cho ngày hành động. Một cơ sở của anh là cô gái tên Nhung làm văn thư trong Công dân vụ của Ngụy quyền. Từ danh phận của mình, Nhung không gặp khó khăn gì trong việc ra vào, nắm thông tin, diễn biến vì bên cô là nơi duyệt bản kế hoạch chương trình hội chợ. Cơ sở thứ hai là hai anh lính trong trung đoàn 60, là lực lượng Cao Đài liên minh thuộc người của Diệm được anh cài vào đó cũng giúp tìm thông tin cho anh.
Ngày chia tay Minh Trí lên Buôn Mê Thuột thực hiện nhiệm vụ là những giây phút cảm động nhất của các đồng chí lãnh đạo. Những cái bắt tay, những vòng ôm hôn nồng ấm dành cho anh, những kỳ vọng, hy vọng ngàn lần qua ánh mắt. Theo kế hoạch, anh sẽ có mặt tại Buôn Mê Thuột trước giờ khai mạc hội chợ khoảng một tiếng đồng hồ. Một đồng chí nữ được phân công mang súng đi theo anh đến nhà trọ tại Buôn Mê. Họ sẽ đi cùng đường từ Tây Ninh tới Sài Gòn nhưng giả không quen biết nhau, cô gái để súng trong va li còn Minh Trí sẽ đi tay không nếu có bị phát hiện thì một mình cô gái chịu để Trí rút về thực hiện kế hoạch. Khẩu súng dùng ám sát Ngô Đình Diệm là khẩu MAT 49, một loại súng tốt, khả năng bắn nhanh một lúc được nhiều đạn.
Vận chuyển vũ khí tới nơi an toàn, cô gái được lệnh rút về Tây Ninh ngay để mình Trí ở lại hành động. Trí đóng vai một tên mật thám của cậu Út Cẩn (em út Ngô Đình Diệm) đi ra đi vào khu vực xung quanh hội chợ quan sát. Mang tiếng là hội chợ nhưng chỉ có những quan chức trong chính quyền Diệm có giấy mời mới được vô dự còn tất cả người dân muốn xem chỉ đứng từ xa ngó vào. Xung quanh hội chợ, bọn cảnh sát, an ninh, mật thám dày đặc hầu như không có nơi nào chúng bỏ qua. Mặc dù khách mời có vé hẳn hoi nhưng bước vào cổng vẫn bị bọn cảnh sát khám xét khắp người. Tình hình này thì không thể vào được cổng hội chợ được vì trong người anh đang có súng. Chỉ cần sờ thấy là chúng bắt anh ngay, chưa hành động đã thất bại rồi.
Anh đi lòng vòng xung quanh tường rào hội chợ thì phát hiện một cái lỗ vừa đủ một người chui lọt nằm ngay sát trụ sở của trung đoàn 60 nên cảnh sát chủ quan không canh gác, cái lỗ này là chỗ bí mật của bọn trẻ con bán cà rem thường chui. Trí chui theo những đứa trẻ bán cà rem kia vào tới nơi thì cũng là lúc đoàn xe tháp tùng Ngô Tổng thống vào tới cổng. Anh chọn một nơi đối diện, gần với tầm ngắm tới Diệm nhất. Bên trong hội chợ lúc này, khách tham dự thì ít mà mật vụ, an ninh và cảnh sát thì nhiều. Chúng đứng thành hàng rào vây kín xung quanh nơi ngài Tổng thống ngồi. Để tiếp cận mục tiêu gần nhất, thuận lợi nhất, Trí đã đứng ngay nơi bọn an ninh bảo vệ đang đứng.
Hà Minh Trí được đăng trên các báo Sài Gòn thời đó sau khi ám sát tổng thống.
Phát súng lịch sử
Buổi sáng ngày 22/2/1957, cờ xí, tiếng hô hào rầm rầm chào đón ngài Tổng thống. Lần đầu tiên, Trí được tận mắt nhìn thấy gương mặt bóng loáng, cái đầu chải bật ra phía sau ngạo nghễ của Ngô Đình Diệm. Y bước bệ vệ vào hàng ghế cao nhất trước lễ đài, Trí nhìn thấy rõ cái bộ mặt tàn ác ấy, trong anh càng dậy lên lòng căm thù tột độ. Bấy giờ, anh không còn cảm giác mình đang đứng ngay sát một tên an ninh nữa, ngay lúc này, anh chỉ muốn rút súng ra nhả hết băng đạn vào cái đầu độc ác kia nhưng anh chợt nhớ lại mệnh lệnh của chỉ huy, chỉ được bắn mục tiêu cố định nên anh kiên trì chờ đợi.
Ngô Đình Diệm đứng đối diện với tầm ngắm của Trí khi y đang trong tư thế nghiêm trang chào cờ. Quân nhạc trỗi lên, Ngô Đình Diệm và tất cả mọi người đứng thẳng, mắt hướng về phía lá cờ ba que. Thời khắc lịch sử đã đến, Trí hơi chếch người về sau, bước sang bên trái để nâng khẩu súng lên, trong đường ngắm, chân dung Diệm nằm gọn trên đầu ruồi. Anh nín thở, lòng tin rằng 22 viên đạn trong khẩu súng sẽ bay về phía Diệm. Nòng súng đã chĩa thẳng vào ngực trái của Diệm, không một tiếng động vì mọi người đang nghiêm trang chào cờ, anh siết cò, một tiếng nổ "đùng" xé tan bầu không khí lặng im của hội trường.
Tuy nhiên, viên đạn đã hạ gục tên bộ trưởng nông nghiệp Đỗ Quang Công háo danh đang đứng sát bên Diệm để được có mặt trên mặt báo cùng Tổng thống. Còn Diệm thì đỏ bừng mặt, đứng chết lặng tại chỗ, y quay mặt ra sửng sốt nhìn thẳng vào Hà Minh Trí. Có lẽ trong đầu y tự hỏi, tại sao lực lượng bảo vệ đông đảo như thế mà vẫn có người ám sát y. Lần này, Diệm đã thoát viên đạn duy nhất đó nhờ tên bộ trưởng đỡ cho. Mọi người trong hội trường nháo nhào bỏ chạy, Trí tiếp tục lên đạn giơ súng lên bắn tiếp mục tiêu thì bị một rừng cảnh sát, an ninh đè bẹp, một cơn mưa đòn rơi xuống người anh, ngực anh thấy nằng nặng, mắt anh mờ đi rồi ngất lịm.
Ông Hà Minh Trí bây giờ.
Trong cuốn phim "phát súng trên Cao nguyên", đạo diễn đã cho Hà Minh Trí chạy thoát ra ngoài rồi phóng lên xe mô tô tẩu thoát, bọn lính và cảnh sát cũng phóng lên xe ô tô đuổi theo gay cấn. Còn thực tế khi ấy, với thân mình nhỏ thó, đứng mới đến cổ tên cảnh sát ngụy, chân tay ngoằn ngoèo trồi lên những khúc xương cứng chắc của con nhà võ, Trí có mọc cánh cũng không thể thoát được.
Nửa mê nửa tỉnh, Trí biết mình bị kéo lê trên nền đất xi măng, khi tỉnh dậy, Trí đang ngồi ngật ngưỡng trên chiếc ghế hỏi cung, toàn thân tê dại, đầu mềm nhũn, máu khô nhem nhuốc khắp cơ thể. Trí hé đôi mắt sưng húp, thâm quầng máu tụ nhìn một dàn lãnh đạo của Diệm gồm Ngô Đình Nhu, Trần Kim Tuyến và Phạm Ngọc Thảo (Phạm Ngọc Thảo là tình báo của cách mạng nhưng khi ấy Trí chưa hề biết).
Phạm Ngọc Thảo là người hỏi cung đầu tiên: "Ai tổ chức cho mày giết Tổng thống?". Trí nhớ ngay đến lời dặn của các anh lãnh đạo: Nếu bị bắt không được khai cho ta mà hãy khai cho phía địch nhằm li dán nội bộ đang lục đục của chúng. Và, lời khai của người ám sát Ngô Đình Diệm đã có tác dụng to lớn vào chính thời điểm đó, phát súng ngày ấy không giết được họ Ngô nhưng nó làm thay đổi toàn bộ cục diện chính trị của chế độ Việt Nam Cộng hòa dẫn đến cái chết thảm của hai anh em Diệm, Nhu sau 6 năm sau.
**
 
Lời khai của Hà Minh Trí đã đánh trúng điểm yếu của chính quyền Ngô Đình Diệm, có tác dụng gián tiếp đến cuộc đảo chính của tướng lĩnh trong quân đội lật đổ chế độ gia đình trị họ Ngô sau này. Để giữ lời khai và nhân chứng, kẻ thù không giết anh, nhưng chúng đã dùng anh để thử nghiệm tất thảy những cuộc tra tấn hết sức dã man mà chỉ có ở thời trung cổ. Chúng muốn anh phải trả giá cho phát súng ám sát Tổng thống.
Phía sau phát súng
Tuân thủ đúng mệnh lệnh của tổ chức trước khi hành động, Hà Minh Trí đã khai thiếu tướng Mai Hữu Xuân - tổng giám đốc Nha An ninh Quân đội và lực lượng Cao Đài liên minh đứng sau vụ này. Mai Hữu Xuân vốn là một phần tử thân Pháp. Sau khi Pháp rút, Diệm đã dùng Xuân bởi thành tích tàn sát dân trong chiến dịch Bình Xuyên do Diệm chủ trương. Lực lượng Cao Đài liên minh đang nghi kị người của Diệm đã bắn chết một lãnh đạo bên ấy. Hai lực lượng này đều tỏ rõ sự chống đối Diệm ra mặt nên lời khai của anh là để cho bọn chúng đánh giết lẫn nhau.
Niềm vui mỗi ngày của Mười Thương hiện nay là chăm sóc cây cảnh.
Vừa nghe xong lời khai của Trí, Ngô Đình Nhu ra lệnh cho tất cả những người có mặt tại phòng hỏi cung phải giữ bí mật tuyệt đối. Bọn chúng chỉ hỏi anh một câu duy nhất rồi bước ra như đã hiểu một điều gì đó sâu xa trong lời khai ấy. Trí bị giải sang Ty cảnh sát bắt đầu những màn tra tấn dã man như thời trung cổ. Anh cũng chuẩn bị tinh thần để bước vào trận chiến khốc liệt này. Trận chiến mà ta và kẻ thù cận kề nhau, đối diện nhau ở giữa là một ranh giới mỏng manh thắng bại. Vũ khí của kẻ thù là những màn tra tấn "thừa sống thiếu chết" còn bên này, người chiến sĩ cộng sản chống lại bằng tinh thần và thể xác. Chúng đánh anh chết đi sống lại. Vừa đánh, chúng vừa tra hỏi. Tất cả những nhân vật, giáo phái có liên quan đến lời khai của anh đều được gọi đến đối chất, nhưng bằng tài phán đoán, thông minh, anh tự tin đối phó với các chiêu trò của kẻ thù...
Vài ngày sau, chúng áp giải người ám sát Ngô Tổng thống về Sài Gòn trên một chiếc máy bay quân sự. Về tới Sài Gòn, Trí bị đẩy vào phòng biệt giam. Buổi ra mắt tại nơi giam mới, anh được "làm quen" bằng trò chích dây điện vào hai vành tai khiến mắt nổ đom đóm, toàn thân tê dại. Tiếp đến là trò đè anh nằm ngửa, đắp khăn lên mặt rồi đổ xà phòng cho đến vừa ngưỡng chết ngạt thì dừng lại giậm chân lên bụng cho ói nước ra. Hết tốp tra tấn này mệt lại đổi tốp tra tấn khác cứ liên tục, không kể ngày lẫn đêm. Chúng đánh rất dã man khiến anh lay lắt giữa ranh giới sự sống và cái chết.
Trí không sợ chết, nhưng anh sợ những lúc lay lắt ấy, đầu óc mê muội sẽ nói ra sự thật. Để giữ vững lời khai, giữ vững tinh thần nên xen giữa cơn mê, anh lẩm bẩm đọc lời khai của mình cho thật thuộc, thật quen. Bị tra tấn liên miên, Trí không còn biết khái niệm về thời gian nữa, cứ mỗi lần lơ ngơ nghe tiếng gà gáy là anh ráng bấm móng tay lên góc tường để ghi nhận một ngày mới sắp đến. Trí có thói quen ca hát, ngày trước học ở trường Đạo, anh là một cây văn nghệ nổi tiếng... Nay ở trong nhà giam, dù đau đớn đến mấy, anh cũng "tập thể dục buổi sáng" bằng một bài hát cách mạng để chuẩn bị cho một ngày chiến đấu.
Mỗi lần thẩm vấn, chúng không cho anh có thời gian suy nghĩ. Câu hỏi nối tiếp câu hỏi cứ quấn lấy nhau thành một mớ lộn xộn trong đầu. Đến lúc, cơ thể đã "nhờn" với các đợt tra tấn thì Trí không còn ý thức được là mình đang bị đánh hay không. Anh sợ lúc mê man có thể sẽ buột miệng nói ra nên đã nghĩ đến cái chết. Dù sao nhiệm vụ cũng hoàn thành rồi, chỉ có chết mới giữ được điều bí mật đang cất giấu trong lòng. Nghĩ vậy, anh đặt lưỡi giữa hai hàm răng, nghiến mạnh. Để không bị phát hiện, anh nuốt tất cả máu trào ra vào bụng. Vừa lúc đó một tên lính vào, hắn bóp miệng anh và hiểu chuyện gì đang xảy ra. Vậy là ý định tự vẫn không thành.
Để dập tắt tư tưởng muốn chết trong anh, chúng đưa một cây sắt bắc ngang miệng anh chống hai hàm răng cao lên để khỏi đụng lưỡi. Từ đó, bọn chúng ít đánh đập anh hơn. Không phải là sợ anh tự tử lần nữa mà dường như những lời khai của anh suốt một tháng 3 ngày qua vẫn không hề thay đổi. Và để chắc chắn cho kết luận điều tra, chúng cho anh lên máy kiểm tra sự thật do một người Mỹ hỏi cung. Tuy nhiên, tất cả những câu hỏi không ngoài mục đích khai thác thông tin từ anh đều vô hiệu hóa, anh đã học thuộc lòng bản hỏi cung những lần trước. Và, dù có máy đo sự thật đi chăng nữa vẫn không thể thắng được ý chí và tinh thần kiên gan của người cộng sản.
Phạm nhân đặc biệt
Hà Minh Trí không ngờ lời khai của mình lại có tác dụng sâu sắc đối với chính quyền Ngô Đình Diệm đến như vậy. Ngay khi hoàn tất phần thẩm tra, lấy lời khai của người ám sát Tổng thống đúng một tháng 3 ngày, Ngô Đình Nhu (cố vấn của anh trai Ngô Đình Diệm) tìm cách "loại bỏ" bớt quyền bính trong tay một số nhân vật có liên quan đến lời khai của Hà Minh Trí. Vốn tính đa nghi, để "sạch sẽ" bộ máy, Diệm loại luôn một số tay chân có hơi hướng với kẻ "dính dáng". Nhiều tên tỏ thái độ bất mãn, chán nản ra mặt, chính quyền Diệm đang tự đào hố chôn sống mình.
Về phần Hà Minh Trí, chúng đưa anh về tổng nha Cảnh sát giam giữ biệt lập với các phòng giam khác. Đây là một căn phòng đặc biệt dành cho phạm nhân đặc biệt. Chúng có hẳn 10 điều áp dụng cho phạm nhân này mà từ lính canh đến trưởng ngục đều phải thuộc lòng: "Canh gác nghiêm ngặt, không để phạm nhân tự tử, vượt ngục; ghi sổ cụ thể giờ giấc những người đưa cơm, dẫn phạm nhân đi vệ sinh; không trò chuyện với phạm nhân và không để phạm nhân trò chuyện với bất kì ai; chìa khóa phòng phạm nhân do giám đốc Tổng nha giữ"... Mỗi lần anh muốn đi vệ sinh thì một tên lính gác ấn chuông điện báo hiệu cho giám đốc xuống mở cửa và đến giờ cơm giám đốc trại tận tay đưa cơm, kiểm tra thức ăn trước.
Thời gian ở tổng nha Cảnh sát không bị tra tấn và hỏi cung, lại không được nói chuyện với bất kì ai khiến Trí thấy trống vắng vô cùng. Anh nung nấu ý định vượt ngục để về gặp anh em trong chiến khu. Sau này, ở khu vực gần phòng giam của anh, bọn chúng xây thêm một dãy phòng B làm nơi giam cầm những người tù chính trị khác, anh được chuyển sang giam ở phòng số 10. Chỗ ở mới dễ thở hơn, không có lính giám sát như phòng cũ, anh được gặp gỡ, nói chuyện vời các bạn tù. Cuộc sống trở nên có ý nghĩa hơn, khi buồn anh hát, thấy đồng chí mình bị tra tấn, anh cũng hát động viên họ. Giọng hát của anh bay bổng, ấm áp len lỏi vào các phòng giam của anh chị em để khích lệ, động viên các bạn tù kiên trung, giữ khí tiết.
Một hôm, Trí được đưa lên văn phòng tổng nha mà ở đó có đầy đủ bộ dàn lãnh đạo cao nhất của Tổng nha Cảnh sát. Tại đây, khi anh còn chưa kịp định hình được điều gì sẽ xảy ra với mình thì một tên đại tá đưa ra những câu hỏi dồn dập: "Tại sao anh giết Tổng thống? Sau khi hành động, biết Tổng thống không chết anh có tiếc không? Anh có vợ chưa?”. Câu trả lời cũ được anh lặp lại.
Vẫn ba câu hỏi quen thuộc, chúng lại đưa anh trở lại phòng giam. Anh không thể hiểu tại chúng gọi anh lên trước một bộ sậu lãnh đạo cao cấp như vậy lại chỉ hỏi có ba câu chẳng đâu vào đâu. Về tới phòng, anh kể lại cho mọi người nghe. Một số anh em có kinh nghiệm biết ngay đó là Tòa án quân sự đặc biệt của chính quyền Ngô Đình Diệm. Tòa án bí mật, không thầy cãi, không tranh luận. Chúng muốn kết án bao nhiêu năm hay tử hình đều được. Không cần căn cứ vào bất cứ thứ luật nào, tội mưu sát Tổng thống của Hà Minh Trí thì chỉ có tử hình thôi.

**

Người tù không số trong "địa ngục trần gian"
Tàu chở tù binh đáp vào Côn Đảo, các tù nhân được lệnh tập trung ngoài sân để phân phát số hiệu vào buồng giam. Khi mọi người đã vào hết, chỉ còn Trí là không thấy gọi tên và cũng không có số hiệu. Anh đứng chơ vơ ngoài sân một mình tự hỏi: "Sao cùng ra đây mà mình không có tên, hay bọn chúng nhầm"? Ngay cả bọn cai ngục cũng không hiểu, bọn chúng chạy đôn chạy đáo để tìm thông tin. Cuối cùng, trưởng ngục mới thông báo anh thuộc diện dẫn giải bằng điện chứ không có lệnh.
Cuộc đảo chính ở Dinh Gia Lòng (Sài Gòn) năm 1963.
Sau đó, Hà Minh Trí bị giam trong chuồng cọp cùng một số tử tù khác. Mỗi phòng chỉ có một cửa sắt vừa lọt một thân người luôn khóa chặt. Phía trên song sắt có hành lang giám thị đi tuần liên tục. Trên cao có cửa sổ lớn để thoáng khí, ban đêm gió từ cửa sổ thốc xuống chuồng cọp làm người tù khổ sở. Bọn chúng bắt tù nhân ở trần, thỉnh thoảng xối nước từ trên xuống ướt nhẹp mình mẩy. Chúng cho tù nhân ăn như cho cọp ăn bằng cách đưa thực phẩm từ trên xuống.
Đã mấy mùa xuân trôi qua, Trí sống trong bóng tối ở khắp các nhà giam, chịu tất cả những "trò chơi" thân xác của bọn cai ngục. Những lúc đau đớn hay buồn chán nhất thì nỗi nhớ da diết tổ chức và các đồng chí ùa về. Càng nhớ, Trí càng nung nấu ý định vượt ngục. Bởi vì anh nghe đâu đó, người ra xem tướng bảo mình trời đánh không chết. Thế nên anh tin mình không thể bị tù đày mãi được.
Suốt thời gian ở chuồng cọp, Hà Minh Trí có cơ hội được học khí tiết cách mạng của những đồng chí cộng sản kiên trung. Sự tra tấn của cai ngục ở chuồng cọp khỏi phải nói cũng biết được mức độ dã man như thế nào. Những đợt "hỏi cung" dẫn đến cái chết của phạm nhân là chuyện bình thường, chuyện cơm bữa. Biết bao nhiêu chiến sĩ đã chấp nhận hy sinh nhất quyết không chịu ly khai. Bọn cai ngục nghe danh tử tù Hà Minh Trí dám cả gan ám sát Ngô Đình Diệm, chúng vừa nể phục vừa dè chừng. Sở dĩ, chúng dành phần quan tâm đến anh bởi trong trại giam vì có một lực lượng Cao Đài không mặn mà gì với Diệm.
Cho đến thời điểm này, Trí chưa bị lộ mình là Việt cộng nên lính Cao Đài rất tôn sùng anh. Bọn chúng vẫn tưởng anh là một tên Cao Đài vì giáo chủ mà liều mình giết Diệm. Ngày ấy, chúng thường lân la đến trò chuyện, hỏi han về người hùng gan to hơn cọp này. Hết sức dè chừng về thân phận mình, anh khôn khéo khai thác những thông tin trong nội bộ chính quyền Diệm từ những tên cai ngục. Nhờ những thông tin mật báo của Hà Minh Trí từ chuồng cọp gửi về, cách mạng đã chủ động hơn trong việc đưa ra kế hoạch tác chiến khi biết rõ, chính quyền Ngô Đình Diệm đang bước tới vực thẳm.
"Viên đạn ngầm" sáu năm chạm đích
Ngày 1/11/1963, tiếng súng đảo chính Ngô Đình Diệm bắt đầu nổ theo sự sắp đặt của các quan thầy Mỹ tại Sài Gòn. Sau một ngày, quân đảo chính chiếm được Dinh Độc Lập. Anh em Diệm, Nhu hết đường định "tẩu thoát", bị tướng Dương Văn Minh ra lệnh cho lính bắt lại. Chính tay Mai Hữu Xuân tóm được hai anh em tổng thống thất sủng và mối tư thù sáu năm trước y bị truất quyền do lời khai của Hà Minh Trí đã đến lúc trả nợ. Sau cuộc trả thù tổng thống của mình, bọn đảo chính bắt đầu tranh giành nhau địa vị, chức quyền nên chưa có thời gian kiểm tra tù chính trị đang bị giam giữ từ thời chế độ Diệm. Nhờ vậy, nhiều đồng chí của ta tìm cách đưa hối lộ để được ra tù.
Trước đó, một nhóm tướng lĩnh ra mắt bằng tên gọi "Hội đồng quân nhân cách mạng" "yêu nước thương dân" quyết tâm lật đổ chính quyền gia đình trị Ngô Đình Diệm. Cuộc ra mắt gồm các nhân vật chóp bu như: Trung tướng Dương Văn Minh - chủ tịch hội đồng; Trung tướng Trần Văn Đôn - phó chủ tịch; Trung tướng Mai Hữu Xuân cùng các tướng lĩnh khác làm ủy viên.
Như vậy, sau sáu năm kể từ ngày Hà Minh Trí bóp cò súng về phía Diệm, hầu hết những nhân vật có trong lời khai của Trí đều tham gia cuộc đảo chính với vai trò chủ chốt. Có nghĩa là viên đạn của Hà Minh Trí đã chạm đích 6 năm dài đằng đẵng.
Biết tin, Trí rưng rưng khóc âm thầm trong nhà ngục, khóc vì sung sướng. Anh khóc vì nhiệm vụ lịch sử của mình đã hoàn thành sau bao nhiêu năm trong tù ngục. Ông trời không bắt anh chết để ngày hôm nay, anh được chứng kiến cảnh chính quyền tay sai bắn giết lẫn nhau suốt nhiều năm liền. Anh tin tưởng tuyệt đối vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Rồi đây, hòa bình sẽ về ta, độc lập sẽ trở lại, sự thật không phải là giấc mơ nữa rồi.
Giữa lúc Sài Gòn đang sôi động chính trị thì ngụy đưa Hà Minh Trí từ Côn Đảo về đất liền. Sau đó, anh Trí bị giam tại Tổng nha Cảnh sát. Tuy nhiên, báo chí lúc đó nô nức đưa tin người ám sát Ngô Đình Diệm đã được trả tự do. Tại trại giam Tổng nha, Trí được gặp một người bạn tù đặc biệt là anh Mười Hương (tức Trần Quốc Hương, người chỉ huy mạng lưới tình báo của ta ở Sài Gòn).
Tại đây, người "ăn gan hùm" được đồng chí Mười Hương hướng dẫn cho cách gửi đơn khiếu nại đến chính quyền ngụy về việc anh vẫn còn bị giam giữ trong khi báo chí đưa tin đã thả ra rồi. Cũng trong thời gian này, nữ luật sư Ngô Bá Thành cùng một số nhà báo bị bắt trong phong trào Trí thức biểu tình đòi quyền tự quyết đuổi Pháp, Mỹ ra khỏi đất nước Việt Nam. Họ ra sức ủng hộ và giúp sức cho anh. Những người này tiếp tục hướng dẫn Hà Minh Trí viết đơn gửi chính quyền ngụy. Trong đơn ghi rõ: "Tôi là người chống Diệm, nay Diệm không còn tại sao tôi chưa được thả".
Sau một thời gian Diệm, Nhu bị "thanh toán", Mỹ giật mình nhận ra rằng các tướng lĩnh đảo chính năm 1963 toàn là phe thân Pháp. Chúng nhận ra bọn thân Pháp đang xài tiền của Mỹ để thực hiện cuộc đảo chính cho Pháp. Tức giận, Mỹ xúi Nguyễn Khánh tổ chức tiếp một cuộc đảo chính để sàng lọc nội bộ hòng gỡ gạc lại tiền đã vung vãi ra.
Nhận lệnh, Nguyễn Khánh đã lọc những tên thân Pháp ra khỏi bộ máy tay sai của Mỹ tại miền Nam qua cuộc đảo chính ngày 31/1/1964. Liên tục trong hai năm, miền Nam chóng mặt với những vở kịch chính trị của chính quyền ngụy tại Sài Gòn. Chúng nháo nhào tranh giành lật đổ lẫn nhau. Cuộc đảo chính cuối cùng trong bộ máy chính quyền có một chức sắc trong giáo phái Cao Đài lên làm Quốc trưởng nên Trí được thả. Bởi vì lúc ấy, anh vẫn mang danh là người của giáo phái.
Sau này ra tù anh Trí mới biết, sở dĩ Diệm chết rồi mà anh vẫn bị giam là vì đám tay sai của Ngô Đình Nhu còn núp trong bộ máy cảnh sát đã ém hồ sơ anh lại. Chúng không lén lút thủ tiêu Hà Minh Trí là một sự may mắn đối với anh. Bởi đám này vẫn đang nuôi mộng lập lại chế độ họ Ngô. Một cái may với Trí nữa là nếu Mai Hữu Xuân không bị đồng bọn lật đổ thì hắn đã cho gọi Trí lên để trả món nợ ngày trước anh đã vu oan cho hắn. Đó là những thông tin chân thật của tên giám đốc Trung tâm thẩm vấn tiết lộ trước khi làm thủ tục cho Hà Minh Trí ra tù.
Vậy là sau gần chục năm bị tra tấn, hành hạ, giam cầm hết nhà lao này đến nhà tù khác, Hà Minh Trí được trả tự do. Bước ra cổng ngục tối, anh đứng thẳng người hít một hơi thật đầy cái không khí tự do ngoài đời. Ánh nắng ban mai chiếu rọi khuôn mặt nhợt nhạt, xanh xao của người tù thiếu ăn. Tuy nhiên, nụ cười tự do vẫn hiện hữu trên khuôn mặt hà Minh Trí. Anh muốn hét thật to, cười thật lớn vì hạnh phúc tưởng chừng như vĩnh viễn không bao giờ trở lại với anh nay đã nằm gọn trong trái tim. Anh tự nhủ trong lòng: "Tổ quốc ơi! Đảng ơi! Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ và vẫn còn sống trở về với các đồng chí, đồng đội thân yêu đây".

**




Friday, 28 March 2014

Niềm tin của "sát thủ" từng ám sát Ngô Đình Diệm (Đại Dương - Dân Việt)


Niềm tin của "sát thủ" từng ám sát Ngô Đình Diệm

 - Từng được giới truyền thông thế giới chú ý đặc biệt sau sự kiện ám sát Tổng thống Ngô Đình Diệm thời Ngụy quyền, ông Hà Minh Trí khi ấy được coi là một tín đồ cuồng giáo của đạo Cao Đài, bị kết án tử hình...

Nhưng thực chất, ít ai biết rằng ông chính là một chiến sĩ cách mạng “nằm vùng” với nhiệm vụ, phải giết bằng được kẻ bán nước họ Ngô kia.
Ông Hà Minh Trí, người ám sát Ngô Đình Diệm nhưng bất thành.
Ông Hà Minh Trí, người ám sát hụt Ngô Đình Diệm.

Dù cuộc ám sát không thành công nhưng cuộc đời của người chiến sĩ Công an nhân dân Việt Nam này cũng có một vị trí đặc biệt quan trọng trong giai đoạn lịch sử đất nước sau hiệp định Giơ-Ne-Vơ. Và, phát súng của ông tuy không giết được Ngô Đình Diệm, nhưng cũng gây nên những chia rẽ nội bộ, nghi kỵ lẫn nhau trong giới chóp bu của chế độ Ngụy quyền, dẫn đến việc các thuộc cấp đảo chính, giết chết anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu không lâu sau đó. 

Tuổi thơ lang bạt 

Chúng tôi tìm tới nhà ông Hà Minh Trí vào một ngày cuối năm ngập tràn nắng ở khu phố Thái Ninh (phường 1, thị xã Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh) sau khi vượt quãng đường chừng 100 cây số từ trung tâm TP.HCM. Trong căn nhà cấp 4 nhỏ, có trồng nhiều cây xanh, đón tiếp chúng tôi là một người đàn ông với dáng người mảnh khảnh, thoạt nhìn giống một ông giáo quê về hưu hơn là một “sát thủ” từng gây chấn động khắp thế giới sau phát súng ám sát Ngô Đình Diệm cách đây hơn nửa thế kỷ. 

Nhưng, nếu nhìn kỹ vào đôi mắt, vẫn thấy những nét tinh anh của ông. 

Vừa mời khách uống nước, ông vừa kể. Tôi sinh năm 1935, tên thật là Phan Văn Điền, quê ở Nghi Thiết (Nghi Lộc, Nghệ An), nhưng từ nhỏ, ba tôi đã tham gia kháng chiến chống Pháp và hy sinh, mẹ đi bước nữa nên phải ở cùng ông bà nội. Khi nạn đói năm 1945 diễn ra, ông bà dắt tôi lên thành phố Vinh (Nghệ An) để ăn xin thì chẳng may bị thất lạc nhau. Còn tôi, trong những lần đi mót bông, đay đã lạc vào một trang trại lính Nhật đang đóng ở đó. 

Mặc dù là những kẻ giết người không ghê tay nhưng không hiểu sao, mỗi lần gặp tôi, một cậu bé chưa tới mười tuổi gầy gò, đen nhẻm, một số lính Nhật đã rất có cảm tình. Có lẽ, ở quê nhà phía bên kia đại dương, những người lính ấy cũng có gia đình, có một vài đứa con, như tôi chẳng hạn, nên họ quý mến mình. Ngoài việc được cho ăn cơm và cho đi chơi, những người lính ấy còn đem tôi từ Vinh vào một vùng đất vô cùng xa lạ, là tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu trong những lần di chuyển của họ. 

Ở Bà Rịa-Vũng Tàu một thời gian ngắn thì quân Nhật thua quân đồng minh nên tất cả tan rã, phải rút về nước. Sau đó, tôi được một cặp vợ chồng tốt bụng nhận làm con nuôi và đặt tên là Đinh Vạn Phú, vì bố nuôi tôi mang họ Đinh, cũng tham gia cách mạng. 

Có thể nói, bước ngoặt cuộc đời tôi chính là việc được tham gia cách mạng theo sự dẫn dắt của người cha nuôi. Lúc ấy, tôi mang bí danh Đinh Dũng, tham gia “Đội biệt động N2” ở Bà Rịa-Vũng Tàu với nhiệm vụ ám sát, bạo động, thủ tiêu những kẻ là tay sai, bè lũ thân Pháp trong vùng.
Khẩu súng cùng loại với súng mà ôngTrí đã bắn Ngô Đình Diệm.
Khẩu súng cùng loại với súng mà ôngTrí đã bắn Ngô Đình Diệm.

Đến năm 1948, được sự bố trí của tổ chức, tôi rời Bà Rịa-Vũng Tàu để ngược lên mạn biên giới Tây Ninh, tham gia vào đạo Cao Đài với những kế hoạch lâu dài dưới cái tên Triệu Thiên Hương. Tại đây, tôi đã kết thân được với một viên thiếu úy, là đồn trưởng đồn Cao Đài để thu giữ những bí mật, báo lại cho phía Việt Minh lên kế hoạch tấn công. Tuy nhiên, tôi đã bị bại lộ và bị bắt nhưng lại được anh trai của viên thiếu úy này cứu thoát. Sau đó, do tình hình bất lợi nên phải rút về căn cứ, hoạt động bí mật một thời gian.

Niềm tin của một sát thủ

Cần phải nhắc lại, trong thời gian này, tình hình đất nước đang vô cùng rối ren bởi sau khi Nhật đầu hàng, thực dân Pháp lập tức quay lại Việt Nam, dù trước đó chúng đã bị quân Nhật hất cẳng. Và, mặc dù đã bị thua tan tác ở chiến dịch Điện Biên Phủ và buộc phải ký kết hiệp định Giơ-Ne-Vơ, xóa bỏ chế độ Pháp thuộc ở Việt Nam, duy trì sự tự do, để toàn thể nhân dân Việt Nam được tự do bầu cử, tự mình quyết định lập chính phủ cho riêng dân tộc Việt Nam. Thế nhưng, với mưu đồ cực kỳ thâm độc, mặc dù rút hết quân khỏi Việt Nam nhưng quân Pháp lại hậu thuẫn lập lên một chính phủ bù nhìn ở miền Nam Việt Nam với quốc trưởng Bảo Đại và phó trưởng là Ngô Đình Diệm. 

Nhưng, cũng chỉ ít thời gian sau, chính Diệm, dưới sự hậu thuẫn của người Mỹ đã bất ngờ hất cẳng, đảo chính Bảo Đại để lên nắm quyền, tiến hành tổng tuyển cử ở miền Nam, thành lập chính phủ, tự phong mình là tổng thống. 

Với xuất thân là một người theo đạo Thiên Chúa giáo nên chủ trương của họ Ngô là duy trì, phát huy vai trò của đạo Thiên Chúa như một tôn giáo chính dưới thời mình cầm quyền, đồng thời hạn chế các tôn giáo khác như đạo Phật (khiến hòa thượng Thích Quảng Đức phải tự thiêu để phản đối), đạo Cao Đài, … Chính vì vậy, ngoài việc luôn là mục tiêu hàng đầu trong những cuộc ám sát của các chiến sĩ cách mạng, Ngô Đình Diệm cũng là kẻ thù của nhiều tín đồ tôn giáo khác. 

Lợi dụng tình hình này, các cán bộ đã quyết định giao nhiệm vụ ám sát Ngô Đình Diệm cho ông Hà Minh Trí, lúc ấy vẫn có nhiều mối quan hệ thân thiết với các tín đồ Cao Đài trong cái tên Mười Thương. 

Vừa nhìn ra những giỏ lan màu tím man mác treo lủng liểng trước cửa nhà, vừa nhấp ngụm nước trà, ông lão đã bước vào cái tuổi xưa nay hiếm trầm ngâm nhớ lại. Những ngày ấy, an ninh trật tự ở miền Nam hết sức phức tạp. 

Bên cạnh những cuộc chiến tranh giành quyền lực của các phe nhóm, giáo phái khiến chính quyền tổng thống Diệm luôn hết sức đề phòng thì an ninh ở tổng nha cảnh sát cũng luôn đặt ở mức báo động. 

Chính vì vậy, để lên kế hoạch ám sát một người đang là đương kim tổng thống là hết sức khó khăn. Nhưng bằng quyết tâm, phải giết bằng được Ngô Đình Diệm mới mong xóa bỏ được chế độ Ngụy quyền, tôi đã dày công nghiên cứu, tìm hiểu về những kinh nghiệm ám sát của những "sát thủ", cả trong sách lẫn trong cuộc sống hiện thực. 

Đầu tiên là việc luyện bắn súng. Có lẽ, để đạt được mục tiêu hạ thủ “con mồi” thì không có gì khác ngoài việc phải nhắm trúng mục tiêu, bắn nhanh và chuẩn xác, có thể chỉ là trong 1 hay 2 viên đạn. Với trình độ khoa học kỹ thuật thời đó, khẩu súng được tôi chọn lựa là khẩu MAT 49 với khả năng sát thương cao, có thể bắn liên tiếp nhiều viên đạn (khoảng 900 viên/phút) để tăng cao khả năng thành công. 

Tuy nhiên, do đặc điểm của khẩu súng MAT 49 của Pháp chế tạo là có nòng súng dài, báng súng và hộp đạn khá lớn, nặng nên gây khó khăn trong việc giấu vũ khí và ra tay khi có thời cơ. Thế là, sau một thời gian mày mò nghiên cứu, tôi đã quyết định tự cưa nòng súng ngắn lại theo phương pháp thủ công với mục đích có thể giấu súng vào trong áo khoát cho gọn gàng. Tiếp đến là phải tập bắn với khẩu súng đã cưa nòng này ở những cự ly, góc độ khác nhau. 

Thú thực, khi ấy, tôi đã nghĩ rằng, nếu có cơ hội tiếp cận Ngô Đình Diệm để thực hiện cuộc ám sát thì tôi có thể dùng nhiều loại vũ khí khác mà xác suất thành công hơn rất nhiều, như lựu đạn hoặc thuốc nổ, bom tự chế chẳng hạn. Tuy nhiên, lãnh đạo tổ chức đã quyết định không sử dụng các loại vật liệu nổ vì như vậy sẽ gây sát thương cho nhiều người, đó là điều nên tránh bởi mục tiêu chỉ là một mình Ngô Đình Diệm. 

Thứ 2, quan trọng không kém là vấn đề tự trấn an… chính bản thân mình bởi ai cũng biết, hậu quả của việc ám sát tổng thống, dù thành công hay thất bại thì kết cục chỉ có một, gần như nắm chắc cái chết chứ khó mà chạy thoát. Khi ấy, tôi cũng như nhiều thanh niên khác, đã có một người con gái để mình “thề non hẹn biển” nên mình cũng ít nhiều đắn đo, nếu chẳng may mình một đi không trở về, cô ấy sẽ sống ra sao. 

Tuy nhiên, bằng quyết tâm và ý chí sắt đá, tất cả vì một mục tiêu duy nhất mà cách mạng đã giao phó, tôi đã gạt bỏ tình riêng bởi nếu để Ngô Đình Diệm sống càng lâu thì càng có nhiều những cặp đôi lứa khác phải chia lìa. Có thể, bản thân mình chia lìa nhưng sẽ góp phần cho hàng ngàn những đôi lứa khác được sum họp, thì đó cũng là một điều đáng làm.

Thế nên, sau một thời gian chuẩn bị, thời cơ đã đến khi tình báo của Việt Minh xác định, Ngô Đình Diệm và đám thân tín sẽ xuất hiện tại Ban Mê Thuột vào thời điểm cuối tháng 10.1956 nên ông cùng các cộng sự đã sắp xếp, chuẩn bị bố trí để đón lõng Diệm với nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, giết chết vị tổng thống của chế độ Ngụy quyền miền Nam Việt Nam. 

***

Người chấn động Sài Gòn và phát súng định mệnh trên cao nguyên

 - Bằng nghị lực, quyết tâm và ý chí sắt đá, Hà Minh Trí dưới vai trò "một giáo sĩ đạo" vẫn quyết tâm thực hiện nhiệm vụ ám sát Ngô Đình Diệm. Nhưng tiếc rằng, cả 3 lần đều không giết được tổng thống họ Ngô này.

Mặc dù rất tích cực thu thập các tin tức tình báo nhưng những thông tin về hành trình của Ngô Đình Diệm luôn rất bí ẩn. Cụ thể, ông Trí và các cộng sự của mình chỉ biết được chắc chắn Diệm sẽ xuất hiện ở trên địa bàn tỉnh Tây Ninh trong tháng 10.1956 mà thôi chứ không thể biết thêm được chính xác ngày giờ cụ thể. 

Người “thợ săn” kiên trì 

Thế nên, ông và các đồng đội quyết tâm đeo bám, mai phục bằng được để có thể thực hiện thành công dự định của mình. Những ngày tháng cứ nặng nề trôi qua, những chiến sĩ cách mạng được cử đi đón lõng, mai phục đoàn xe chở tổng thống ở dưới vùng Củ Chi, Gò Dầu…những tuyến đường mà bắt buộc Diệm cùng đoàn tùy tùng sẽ phải đi qua nếu muốn từ dưới trung tâm Sài Gòn lên thị xã Tây Ninh. Mặc dù những ngày tháng 10 ấy lực lượng cảnh sát, mật thám liên tục tuần tra ráo riết nhưng bóng dáng Diệm và người em Ngô Đình Nhu vẫn chưa thấy đâu.
Ông Trí bị khống chế ngay sau khi nổ hai phát súng vào Tổng thống Ngô Đình Diệm
Ông Trí bị khống chế ngay sau khi nổ hai phát súng vào Tổng thống Ngô Đình Diệm

Mặt khác, theo sự phán đoán của ông Trí cùng những người đồng đội của mình thì Diệm sẽ xuất hiện ở Tây Ninh trong thời gian này do quân đội của anh em Diệm, Nhu vừa mới chiến thắng các cánh quân của giáo phái Cao Đài trong cuộc càn quét diễn ra nửa tháng trước khiến Giáo chủ Phạm Công Tắc thua trận, phải bỏ chạy sang bên phía Campuchia nên Diệm sẽ xuất hiện để động viên quân sĩ cũng như dằn mặt những kẻ chống đối y. 

Mặc dù phán đoán và có niềm tin như vậy nhưng chỉ có 3 ngày nữa là hết tháng 10 mà ông Trí vẫn chưa thấy Diệm xuất hiện. Những phương án ám sát gã tổng thống bán nước này đã được đề ra rất chi tiết và tỉ mỉ nhưng “con mồi” vẫn chưa xuất hiện. 

Đang trong lúc chờ đợi thì giữa trưa ngày 28.10.1956, một số anh em ở chợ Hòa Thành (huyện Hòa Thành, Tây Ninh) báo tin về là vừa có một đoàn xe với rất nhiều cảnh sát, mật vụ hộ tống đang chạy theo hướng Tây Ninh về Sài Gòn. Lúc này ông và các đồng chí lãnh đạo mới biết Diệm đã bí mật lên Tây Ninh từ lúc rạng sáng ngày hôm đó, sau khi họp bàn với địa phương rồi đến trưa xong việc là về luôn do hắn đã cảnh giác những nguy hiểm có thể xảy ra trong lúc tình hình đang hỗn loạn như thế này. Biết để “sổng” mất “con mồi” nhưng người thợ săn ấy vẫn không nản chí, kiên quyết đeo bám tới cùng với việc bắt đầu lên lịch cho một kịch bản tiếp theo.

Lúc này, tình hình an ninh xã hội ở miền Nam Việt Nam, đặc biệt là quanh khu vực Sài Gòn đang diễn biến vô cùng phức tạp. Ngoài lực lượng cách mạng đang hoạt động trong lòng nhân dân thì những giáo phái như Phật giáo, Cao Đài, Hòa Hảo… cũng liên tục đứng lên gây áp lực trước những chính sách tàn bạo của anh em nhà Diệm, Nhu. Vì thế, một mặt chúng thẳng tay đàn áp những người yêu nước, một mặt chúng tăng cường an ninh, cực kỳ cảnh giác mỗi khi xuất hiện. Thế nên, để thực hiện được mục đích của mình, ông Trí chỉ còn một cách duy nhất, dời Tây Ninh xuống Sài Gòn để tìm cách thực hiện nhiệm vụ khó khăn này. 

Lúc ấy là thời gian cuối năm 1956, ông Trí đã nhận định rằng, chắc chắn đến đêm ngày 24.12, tức là ngày Giáng sinh, Ngô Đình Diệm, một con chiên ngoan đạo sẽ đi lễ nhà thờ ở một thánh đường nào đấy. Và, nhiều khả năng địa điểm mà Diệm đến sẽ là Nhà thờ Đức Bà, nơi chỉ cách Dinh tổng thống (nay là Dinh Độc Lập) có vài trăm mét. Nhận định này của ông Trí càng có cơ sở khi 2 năm liên tiếp gần đây, Diệm cùng gia đình luôn được bố trí một dãy ghế trang trọng ở Nhà thờ Đức Bà để cầu nguyện cùng các bà con giáo dân khác. Thế nên, đêm Giáng sinh năm 1956 ấy, sau khi chuẩn bị đạn và khẩu súng MAT 49 cẩn thận, ông Trí khoác chiếc áo ngoài cũng đứng làm lễ cầu nguyện như bao người bình thường khác. 

Tại đây, ông được một số đồng đội của mình hỗ trợ để có thể trà trộn, tiến vào sâu trong thánh đường, dù đêm ấy có khá nhiều cảnh sát ở đó. Thời gian chầm chậm qua đi, chuông nhà thờ đã điểm thời khắc Giáng sinh mà vẫn không thấy bóng dáng Diệm đâu mặc dù trong lúc chờ đợi, ông thấy một dãy ghế trước nơi ông đứng khoảng 20m được bỏ trống, có nhiều cảnh sát, mật vụ đứng canh gác.

Sáng sớm hôm sau, xem báo đưa tin tức ông mới vỡ lẽ, Ngô Đình Diệm đã có sẵn kế hoạch cùng gia đình đón lễ Giáng sinh ở Nhà thờ Đức Bà rồi nhưng đúng vào phút cuối cùng, Diệm lại lên xe để đi về vùng biên giới Đức Huệ (tỉnh Hậu Nghĩa, nay là tỉnh Long An) cách trung tâm Sài Gòn hàng trăm cây số để đón Giáng sinh, cũng trong một tòa Thánh đường ở địa phương đó. 

Nguyên nhân được xác định cho sự thay đổi lịch trình vào phút cuối cùng là do ở vùng Đức Huệ lúc đó vừa lập được một số “khu trù mật” đặc biệt nên tình hình an ninh trật tự còn phức tạp. Ngô Đình Diệm đã đích thân công du tới đó dự lễ Giáng sinh cùng giáo dân để xoa dịu tình hình, đồng thời khích lệ một số sĩ quan đồn trú tại Đức Huệ. Và, sự việc vô tình ấy lại nằm ngoài tính toán của ông Trí và các đồng đội khiến cuộc ám sát một lần nữa lại thất bại đúng vào phút chót.

Khi gặp gỡ chúng tôi, ông Trí còn cho biết rằng, nếu đêm Giáng sinh năm đó, Diệm không bất ngờ xuống đón Giáng sinh ở Đức Huệ thì đó có thể là đêm định mệnh của y bởi khả năng ông thực hiện thành công vụ ám sát trong Nhà thờ Đức Bà lúc ấy là rất lớn. Khoảng cách ông tiếp cận cũng rất gần, ngay cả nhà thờ cũng đã dành sẵn 1 chỗ cho Diệm để ngồi, mật vụ cũng được lệnh phong tỏa nhà thờ nhưng y lại không đến như lịch trình đã định sẵn.

Phát súng rung chuyển lịch sử

Sau 2 lần thực hiện hụt kế hoạch của mình khiến ông Trí tuy có nôn nóng vì kẻ bán nước hại dân chưa được trừng trị nhưng vẫn không nản chí, kiên quyết theo đuổi mục tiêu tới cùng. 

Và, cơ hội cuối cùng cũng đã đến khi báo giới Sài Gòn thời bấy giờ loan tin, khoảng đầu tháng 2.1957 Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu sẽ tới dự lễ cắt băng khánh thành và đọc diễn văn khai mạc “Hội chợ kinh tế cao nguyên” tại thành phố Buôn Ma Thuột. Thế nên, ông Hà Minh Trí đã xin với cấp trên, quyết tâm một lần nữa thực hiện kế hoạch ám sát Ngô Đình Diệm của mình. 

Để kế hoạch lần này được hoàn tất, ông Trí đã 3 lần bắt xe đò từ Chợ Lớn đi Buôn Ma Thuột để nắm bắt tình hình cũng như địa hình của nơi diễn ra hội chợ.

Cuối cùng, đúng như dự đoán, Ngô Đình Diệm đã đích thân tuyên bố sẽ tham dự và cắt băng khánh thành Hội chợ kinh tế cao nguyên vào ngày 22.2.1957 tại Buôn Ma Thuột nên từ Sài Gòn, chiều ngày 21.2, ông Trí cùng một đồng chí nữ là Nguyễn Thị Vân, một giao liên trong vai trò một cặp vợ chồng mua vé từ bến xe Chợ Lớn lên Buôn Mê Thuột. 

Chiếc xe đò vun vút lao trong màn đêm đưa hai vị hành khách trắng đêm không ngủ xuyên qua núi rừng Tây nguyên âm u. Đến bến xe Buôn Ma Thuột lúc 6g ngày 22.2, nữ giao liên Vân muốn ở lại để hỗ trợ nhưng ông Hà Minh Trí nhất quyết bảo người đồng chí của mình bắt xe về lại Sài Gòn luôn vì sợ bị liên lụy. Còn lại một mình, ông nhanh chóng tiến về phía lễ hội. 

Do đã có chuẩn bị từ trước nên mặc dù có đem theo khẩu súng MAT 49 đã cưa nòng cùng 21 viên đạn nhưng ông cũng dễ dàng lọt qua mạng lưới quân cảnh, mật vụ để áp sát lễ đài. Đúng 8 giờ sáng, sau khi đáp chuyến bay từ Tân Sơn Nhất lên, Diệm đã lên thẳng lễ đài đọc diễn văn khai mạc. 

Khi tiếng nhạc và nghi thức chào cờ bắt đầu, ông Trí từ từ nâng khẩu súng, nhằm thẳng đầu Ngô Đình Diệm bóp cò. Do súng đã bị cưa nòng nên mặc dù khoảng cách tiếp cận chỉ khoảng 30 mét nhưng viên đầu tiên bị kẹt đạn. Đến viên thứ 2, tiếng súng nổ vang lên thì Bộ trưởng Bộ Canh nông của chế độ Việt Nam cộng hòa khi ấy là Đỗ Quang Công đã nhích người sang, hứng trọn viên đạn thay cho Ngô Đình Diệm. 

Tiếng nhạc im bặt, cả ngàn người nhốn nháo, hò hét còn Diệm thì lẫn nhanh vào đám đông cùng những tùy tùng của mình. Ông Trí bị khống chế ngay lập tức và được đưa về Sài Gòn, bắt đầu những năm tháng tù đày trong lòng địch.

Mặc dù không giết được Tổng thống Ngô Đình Diệm nhưng sự kiện ấy cũng gây chấn động giới truyền thông Sài Gòn và thế giới. Cái tên Hà Minh Trí bắt đầu nổi tiếng và trở thành niềm khích lệ cổ vũ cho nhiều thế hệ người yêu nước muốn trừ khử kẻ bán nước hại dân Ngô Đình Diệm kia.

Người ám sát hụt Ngô Đình Diệm - Người chiến thắng trở về

 - Sau phát súng định mệnh ấy, tuy không giết chết Ngô Đình Diệm nhưng ông Trí đã bị bắt và nhanh chóng được đưa về Sài Gòn bằng một chuyến xe đặc biệt, bị biệt giam chờ ngày hành quyết.

Trong khoảng thời gian 3 năm sau đó, ông liên tục bị chuyển trại giam, bị tra tấn xét hỏi với mong muốn ông phải khai ra những người chỉ huy, người ra lệnh hoặc giúp đỡ mình. Lúc này, trong mắt nhà cầm quyền Ngô Đình Diệm, ông Trí vẫn là một tín đồ của đạo Cao Đài cuồng giáo đi giết Ngô tổng thống để trả thù cho giáo chủ Cao Đài chứ không ai biết ông là một chiến sĩ cách mạng.
Căn nhà ông Trí ở hiện nay
Căn nhà ông Trí ở hiện nay

Người tử tù không chết

Mặc dù phải chịu nhiều cực hình, tra tấn nhưng bằng quyết tâm và nghị lực phi thường, ông Trí nhất quyết không khai ra những người đồng đội của mình. Tuy nhiên, để những tay mật thám ở nha cảnh sát thực sự tin ông chỉ đơn thuần là tín đồ hành động một cách bột phát, ông Trí đã phải vận dụng hết những kiến thức và hiểu biết của mình về đạo Cao Đài để chiếm được lòng tin của chúng. 

Thế nên, sau nhiều lần tra khảo không đem lại kết quả gì mới mẻ, chúng quyết định tuyên án tử hình ông bằng… miệng mà không cần xét hỏi, tòa án hay phán quyết gì. Đây là một kết cuộc mà bản thân ông cũng như nhiều người đồng chí đã hình dung ra, đã chuẩn bị sẵn tâm lý bởi đơn giản, đã dám ra tay ám sát tổng thống đương nhiệm thì kết cục khó có thể khác được. 

Tuy nhiên Ngô Đình Diệm đã không để ông Trí chết một cách dễ dàng mà tạo ra một kịch bản độc ác có một không ai, ấy là một mặt tuyên bố sẽ đưa ông, cùng với hàng trăm người tù chính trị phản đối mình ra Côn Đảo để giam giữ nhưng lại lén lút đưa một máy bay chở nhiều bom, đạn nhằm nhấn chìm chiếc tàu ấy cùng hàng trăm mạng người kia rồi dựng kịch bản một tai nạn thiên nhiên.

Kể về chuyện này, ông Trí vừa uống thêm ngụm nước, nhìn ra những giỏ lan màu tím trước sân đang đung đưa trong gió, vừa nhớ lại. Đó là những ngày giữa tháng 10.1963, tôi đang bị biệt giam tại khu A1 ở nhà giam Chí Hòa, nơi dành cho những tử tù thì được lệnh chuyển trại, phải di chuyển ra Côn Đảo. 

Cũng trong ngày hôm ấy, tôi bị áp giải đến bến cảng Sài Gòn, nơi có con tàu Hàn Giang 401 đã đậu sẵn ở đấy rồi. Lúc này, tôi mới biết đây chính là chuyến tàu sẽ đưa những người tù bị kết án tử hình ra ngoài Côn Đảo hành quyết. Trong bản danh sách những người chịu án tử là 41 người thì có tới 40 người là thuộc phe đối lập với anh em nhà họ Ngô và một tên cướp. 

Dù không có tên trong danh sách ấy nhưng tôi vẫn bị đẩy lên chuyến tàu này. Sau đó tôi mới biết rằng, không chỉ riêng tôi mà hơn 300 tù nhân khác, là những chiến sĩ cách mạng và những người từng âm mưu lật đổ Ngô Đình Diệm trước đó mấy năm cũng bị đưa lên đây. 

Tổng số tù nhân có mặt trên tàu Hàn Giang 401 này khoảng 400 người. Sau khi khởi hành được nửa ngày, đến đêm hôm đó, khi chiếc chiến hạm đang lênh đênh trên biển khơi mênh mông thì mọi người trên tàu nghe thấy tiếng máy bay vù vù trên đầu. 

Chạy lên khoang, tất cả đều nghĩ rằng đó chỉ đơn giản là chiếc máy bay mà chính quyền dùng để áp giải chiếc chiến hạm với rất nhiều phần tử đối lập mà thôi. Tuy nhiên, khi chiếc máy bay bật đèn xanh, hạ thấp độ cao thì mọi người vô cùng hoảng hốt, la hét và định nhảy xuống biển bởi đó là tín hiệu báo chuẩn bị… bỏ bom. 

Khi ấy, suy nghĩ duy nhất mà ai cũng có thể hình dung ra là Ngô Đình Diệm đã “gom” tất cả những người tù, mà thực ra là những kẻ chống đối lại y rồi “ra tay” một lúc. Tuy nhiên, đột nhiên chiếc máy bay chao mạnh, lắc lư một hồi rồi vút lên không, bay đi mất dạng mà không ai biết vì sao.

Sau này, khi đã được tự do, tôi mới biết chính xác diễn biến sự việc của đêm hôm đó. Tất cả là do Ngô Đình Nhu, em trai của Diệm đã mật lệnh cho một viên tướng chỉ huy đội bay chở đầy bom xuất phát từ lãnh thổ Campuchia với nhiệm vụ “xóa sổ” chiếc chiến hạm Hàn Giang 401 và mấy trăm con người kia. 

Tuy nhiên, tất cả đều nằm ngoài dự tính của Nhu bởi viên sĩ quan này lại thuộc nhóm thân Mỹ, đang có ý định lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm nên anh ta đã bất tuân thượng lệnh vào đúng giây phút cuối cùng. 

Nhưng, đến ngay cả bây giờ, sau khi tất cả mọi biến cố đi qua, ông Trí cũng không hiểu tại sao anh em Diệm, Nhu lại phải bày ra một kịch bản với nhiều tình tiết có xác suất không thành công cao như vậy trong khi bọn chúng hoàn toàn có thể thủ tiêu tất cả những người tù này bằng nhiều cách khác đơn giản hơn trong lúc giam giữ, bởi mọi người đều đã bị bắt, sống nhiều ngày trong các nhà tù tối tăm rồi. 

Có lẽ, đó là một câu hỏi mà ẩn số của nó vĩnh viễn không ai có thể biết bởi chỉ sau sự kiện ấy ít hôm, 2 người bày ra kịch bản ấy là Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đã bị chính những thủ hạ của mình lật đổ, giết chết, đem theo vô vàn bí ẩn của lịch sử xuống lòng đất sâu.

Những năm tháng yên bình

Ở Côn Đảo, cũng như hàng ngàn tù nhân khác, ông Trí cũng bị nhốt vào những chuồng cọp "danh tiếng" với nhiều cuộc tra tấn tàn bạo và khốc liệt. Tuy nhiên, chỉ ít lâu sau khi ông đặt chân lên hòn đảo này, ở đất liền, tin tức được loan đi, anh em Diệm, Nhu đã bị những tướng tá thuộc hạ của mình đảo chính và giết chết, kết thúc quãng thời gian gần mười năm cầm quyền theo kiểu gia đình trị này.
Ông Hà Minh Trí trong một lần gặp gỡ Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Ông Hà Minh Trí trong một lần gặp gỡ Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Khi ấy, tướng Dương Văn Minh lên làm Quốc trưởng, thay thế Ngô Đình Diệm và ông Hà Minh Trí cùng với nhiều người thuộc phe đối lập anh em họ Ngô trước kia được đưa trở lại đất liền. 

Tuy nhiên, trong khi những tù nhân khác - vì mang tội chống Ngô - đã được thả tự do thì ông Trí vẫn bị giam ở Tổng nha Cảnh sát. Có điều, không như những tháng ngày trước, giờ ông chỉ bị giam lỏng, vẫn có thể đi ra sân mỗi buổi chiều để hít thở khí trời. 

Nhiều lần, bản thân ông đã có những thắc mắc với Tổng nha Cảnh sát mình chỉ đơn thuần là một người chống Diệm, bây giờ Diệm đã chết, mình đương nhiên sẽ hết tội. Tuy nhiên, đáp lại nguyện vọng của ông, cảnh sát trưởng chỉ cho biết đang chờ lệnh từ cấp trên mà thôi.

Những tháng ngày sau khi anh em Diệm, Nhu chết, tình hình chính trị ở Sài Gòn hết sức rối ren bởi các phe cánh luôn muốn tranh giành quyền lực, muốn nắm giữ các chức vụ chủ chốt. Chính vì thế, chỉ một thời gian ngắn sau khi nắm quyền, Dương Văn Minh đã bị tướng Nguyễn Khánh đảo chính. 

Rồi cũng chỉ ít tháng sau, Nguyễn Khánh lại bị phe của Phan Khắc Sửu lật đổ, giành lấy chính quyền vào năm 1964. Sau khi lên nắm quyền, Phan Khắc Sửu - một tín đồ của đạo Cao Đài - đã quyết định thả tự do cho Hà Minh Trí dưới áp lực của dư luận báo chí và luật sư Ngô Bá Thành. 

Đó là những ngày đầu tháng 3.1963, sau hơn 8 năm bị tù đày vì phát súng ám sát Ngô Đình Diệm trên Tây nguyên, ông đã chính thức trở thành người tự do. Và, cũng rất nhanh, sau khi ra tù có 3 ngày, ông đã liên lạc được với những đồng đội cũ của mình và được đưa về công tác ở Khu ủy Sài Gòn-Gia Định nằm tại địa phận huyện Củ Chi, tiếp tục hoạt động phục vụ cho phong trào cách mạng miền Nam thời bấy giờ. 

Tại nơi công tác mới, nhằm đảm bảo tính bí mật của tổ chức, từ đầu năm 1965, ông được đổi tên là Phan Văn Điền, công tác tại Ban an ninh Khu ủy Sài Gòn-Gia Định, chính thức đứng trong hàng ngũ lực lượng Công an nhân dân. Về sau, khi đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, do đặc thù công tác, ông lại được điều chuyển về Tây Ninh với nhiệm vụ là Phó ban Nội chính tỉnh Tây Ninh. 

Đến năm 1992, ông tiếp tục công tác ở vị trí Trưởng ban Tuyên giáo Tây Ninh cho tới năm 1999 thì nghỉ hưu theo chế độ. Từ đó đến nay, ông sống cùng gia đình ở một gian nhà nhỏ nằm trên địa bàn thị xã Tây Ninh với những năm tháng yên bình, bỏ lại đằng sau một quãng đời, cũng là một thời lịch sử hoạt động đầy biến động và bất khuất.

Và vinh dự đã đến với ông vào năm 2005, kỷ niệm 60 năm ngày thành lập lực lượng Công an nhân dân, ông Phan Văn Điền, tức Hà Minh Trí đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân vì những thành tích, vì đã cống hiến gần như cả cuộc đời mình cho nhân dân. 

Ông chia sẻ với chúng tôi, những năm cuối đời này, khi con cháu đều đã trưởng thành và khôn lớn, ông luôn cảm thấy mãn nguyện với cuộc sống hạnh phúc của mình. Ông cũng vừa trải qua một đợt tai biến khá nguy hiểm nhưng đã được các y, bác sĩ tận tình cứu giúp nên sức khỏe đã hồi phục rất nhiều.

Chuyện về người 3 lần ám sát Ngô Đình Diệm (Quang Sang - Công An Thành Phố Đà Nẵng)

Chuyện về người 3 lần ám sát Ngô Đình DiệmCập nhật: Thứ tư, 17/6/2009 - 0h0'

Bài 1:  Phát súng trên cao nguyên
(Cadn.com.vn) - Nhiều người xem bộ phim truyện Việt Nam nổi tiếng “Ván bài lật ngửa” hẳn không bao giờ quên hình ảnh ấn tượng về chàng thanh niên tuổi đôi mươi dũng cảm lọt qua giữa rừng địch, giương súng nhắm vào Tổng thống Ngô Đình Diệm bóp cò khi ông ta đang đọc diễn văn khai mạc “Hội chợ kinh tế cao nguyên” diễn ra ngày 22-2-1957 tại TP Buôn Ma Thuột (Đắc Lắc). Thế nhưng, rất ít người biết rằng nhân vật trong bộ phim ấy được lấy từ hình mẫu ngoài đời của đồng chí Mười Thương (1935 - tức Phan Văn Điền, Hà Minh Trí...) - Anh hùng LLVTND, nguyên thành viên Ban An ninh T.Ư Cục miền Nam, Trưởng ban Điệp báo Ban An ninh tỉnh Tây Ninh.
Ngôi nhà ngói ba gian kiểu truyền thống miền Tây Nam Bộ của gia đình ông nép mình dưới vườn cây trái sum suê, thanh bình ở P. 1, TX Tây Ninh (Tây Ninh). Thoáng chút ngạc nhiên khi nghe tôi giới thiệu từ Đà Nẵng vào, ông nhanh chóng sôi nổi bắt chuyện, xua đi cảm giác áy náy của khách lạ bởi tìm đến nhà ông không phải lúc trong một hoàn cảnh khá đặc biệt: Hai vợ chồng ông vừa chẳng may gặp phải vụ tai nạn khá nghiêm trọng. Thật lạ, ở người đàn ông có dáng người mảnh mai, gương mặt hiền, đôi mắt sáng vẫn toát lên sức sống mãnh liệt của ý chí, sự cương nghị và niềm kiêu hãnh. Ông kể về cuộc đời hoạt động cách mạng của mình một cách rành rọt, chi tiết xen với những bình luận, nhận xét về dòng lịch sử thời cuộc sắc sảo.
Anh hùng LLVTND Mười Thương trò chuyện cùng tác giả. 

Ông bảo, Tây Ninh chỉ là quê hương thứ hai, thực ra quê gốc của ông ở Cửa Lò, Nghi Thiết (Nghi Lộc, Nghệ An). Năm 9 tuổi, cha ông hy sinh trong cuộc binh biến Đô Lương. Mẹ bỏ nhà đi, ông và bà nội mù lòa phải bấu víu vào nhau. Lúc này, vợ chồng người bác ruột mới đón hai bà cháu lên trú trong một lò gạch ở khu cầu Bùn ở sông Cửa Lò chạy trốn nạn đói này. Lúc này, Nhật hất cẳng Pháp và đồng minh tại Đông Dương. Quá nhỏ để hiểu hết thời cuộc, lúc đầu ông lại có “cảm tình” với lính Nhật bởi chúng cho ông ăn, bắc lại cây cầu bị đánh sập để bà cháu đi lại. Một hôm, bọn Nhật rủ ông đi chơi.
Ông chạy về nhà xin bà nội cho đi mà không ngờ đó là chuyến từ biệt cuối cùng người thân và sau này đưa ông đến với cách mạng ở miền Nam. Lính Nhật đưa ông vào tận Thủ Đức (Sài Gòn) rồi Bà Rịa - Vũng Tàu (BR-VT)để chăn ngựa cho chúng. Nhưng cũng chính tại đây, ông đã được người cha nuôi tên Đinh Văn Châm - người trong cơ sở cách mạng và Châu Văn Viễn - Trưởng ban Công tác biệt động thành BR-VT đã dìu dắt, bắt liên lạc với thiếu úy Phạm Ngọc Chẩn - Trưởng đồn bờ đập Cao Đài để nắm tình hình quân báo các đồn địch đóng quanh vùng căn cứ kháng chiến, phục vụ cho việc tấn công tiêu diệt các đồn này. Ông đã hoàn thành xuất sắc vai trò của mình, kể cả lúc bị địch nghi ngờ bắt, tra tấn nhưng ông vẫn một mực không khai báo, buộc chúng phải thả ông ra tiếp tục hoạt động cho cơ sở cách mạng tại vùng Châu Thành (Tây Ninh).    
 Nhưng sự kiện đưa ông trở thành nhân vật gây chấn động dư luận chính trị trong và ngoài nước cách đây hơn nửa thế kỷ chính là việc 3 lần ám sát Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông nhớ lại, tháng 5-1955, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tây Ninh chỉ đạo Ban Địch tình tổ chức đội vũ trang diệt ác, mà mục tiêu hàng đầu chính là tiêu diệt tên đầu sỏ bộ máy chính quyền ngụy quyền Sài Gòn, tay sai của Mỹ này. Đích thân đồng chí Lâm Kiểm Xếp - Trưởng Ban địch tình giao nhiệm vụ cho ông tổ chức diệt bằng được Tổng thống Diệm. Lần đầu vào tháng 10-1956, khi anh em Diệm - Nhu (Ngô Đình Nhu) lên Tòa thánh Tây Ninh để ký thỏa thuận ước Bính Thân với tôn giáo Cao Đài.
Năm 2005 ông Mười Thương nhận danh hiệu Anh hùng LLVTND do Nhà nước trao tặng. 
Thời gian quá gấp rút mà các cơ sở cũng không biết chính xác ngày, giờ Diệm sẽ lên Tây Ninh, phần vì lực lượng an ninh, cảnh sát lùng sục, bố ráp khắp vùng để dọn đường cho Diệm nên cuộc mưu sát Diệm không thực hiện được. Ông lại chủ động đề xuất tổ chức ám sát Diệm lần thứ hai vào đêm Giáng sinh 1956 tại Nhà thờ Đức Bà (Sài Gòn). Đêm Noel, ông giấu khẩu súng colt 9 ly và quả lựu đạn trong người lọt qua hàng rào an ninh vào bên trong nhà thờ Đức Bà, ngồi sau hàng ghế của bọn bộ trưởng, thứ trưởng chỉ chờ Diệm đến là hành động. Thế nhưng, đến 14 giờ, khi Tổng Giám mục gióng chuông hành lễ, anh em Diệm - Nhu vẫn không thấy xuất hiện. Đến sáng 25-12-1956, báo chí đưa tin, ông mới biết đêm qua, Diệm đến dự lễ cầu nguyện cùng với giáo dân miền Bắc tại tỉnh Long An.
Ông kể, qua kênh báo chí Sài Gòn, tôi biết được anh em Diệm - Nhu sẽ lên Buôn Ma Thuột dự lễ cắt băng khánh thành và đọc diễn văn khai mạc “Hội chợ kinh tế cao nguyên” diễn ra ngày 22-2-1957. Tôi chủ động đề xuất tổ chức cho phép lên Buôn Ma Thuột ám sát Diệm lần thứ ba với phương án dùng lựu đạn ám sát Diệm. Thế nhưng, BTV Tỉnh ủy Tây Ninh chỉ cho phép ám sát Diệm với phương án: “Nổ súng diệt Diệm vào lúc chúng bắt đầu chào cờ, không được dùng lựu đạn vì có thể gây thương vong cho người dân”. Biết Diệm dự Hội chợ kinh tế cao nguyên là nguy hiểm, Nhu cho giăng một mạng lưới bảo vệ dày đặc gồm: quân đội, cảnh sát, tình báo, an ninh quân đội, quân cảnh và cả lực lượng bảo an bên ngoài lẫn bên trong hội chợ. Sáng 22-2, sau khi điều nghiên địa hình, ông giấu khẩu tiểu liên 3 tấc gắn hộp đạn 50 viên sau chiếc áo ấm chui vào lỗ hàng rào chọn vị trí thuận lợi nhất chờ giờ hành động.
Đúng giờ khai mạc, khi Diệm-Nhu và bộ máy chính quyền họ Ngô đứng dậy làm lễ, ông đưa tay lấy khẩu tiểu liên nhằm mục tiêu là Diệm nổ súng. Viên đạn thứ nhất nổ đoàng, tên Bộ trưởng Bộ Canh nông vô tình đưa lưng đỡ đạn cho Diệm, chết ngay tại chỗ. Bọn cảnh vệ, mật vụ vội cõng Diệm bỏ chạy tán loạn, trong khi ống kính máy ảnh, truyền hình trong và ngoài nước không bỏ lỡ cơ hội thu nhanh hình ảnh hoảng loạn. Tiếp tục bóp cò nhưng chẳng may khẩu súng kẹt đạn, ông đang lên nòng chuẩn bị bắn tiếp thì mười mấy tay cảnh vệ ập đến đè ông xuống, đấm đá túi bụi rồi bắt giữ ông. Kể đến đây, ông bảo: “May cho tên họ Ngô không trúng đạn. Nếu là lựu đạn thì y chết chắc. Sau này tôi mới hiểu vì sao Tỉnh ủy Tây Ninh chỉ cho phép dùng súng diệt Diệm là vì lúc đó có một cán bộ cao cấp của ta cài vào bộ máy chính quyền Diệm và luôn theo sát Diệm - là sĩ quan biệt bộ Phủ Tổng thống Phạm Ngọc Thảo - nhân vật chính trong bộ phim “Ván bài lật ngửa” (Phạm Thành Luân)...
Quang Sang (còn nữa)

Chuyện về người 3 lần ám sát Ngô Đình Diệm (2)Cập nhật: Thứ năm, 18/6/2009 - 0h0'

Bài cuối: Câu chuyện cảm động của người tử tù
(Cadn.com.vn) - Diệm thoát chết vì không trúng đạn nhưng điều không may cho Mười Thương là đã sa vào tay giặc và bị kết án tử hình. Ông đã phải trải qua các nhà lao Ban Mê Thuột, Sở Thú, Tổng Nha Cảnh sát, Trại giam Chí Hòa và bị lưu đày ra nhà tù được mệnh danh là “địa ngục trần gian” Côn Đảo. Ở đâu ông cũng chết đi sống lại không biết bao lần dưới sự tra tấn dã man tàn bạo của kẻ thù, nhưng luôn giữ vững khí tiết của người chiến sĩ an ninh, lòng kiên trung bất khuất và sự khôn khéo dưới vỏ bọc là người của Cao Đài.
Ngay tại Ban Mê Thuột, đích thân Ngô Đình Nhu tra hỏi ai đã giật dây cho ông ám sát Ngô Đình Diệm và chỉ đạo thuộc hạ hàng tháng trời tra tấn ông bằng mọi thủ đoạn tàn ác, dã man như: Chia ra 4 ca tra tấn ông suốt 24/24 giờ, không cho ăn, không cho uống, không cho nghỉ, ngủ, chúng đánh ông bằng tầm vông, ma trắc, trấn nước, bọt xà phòng, trấn ớt, quy điện, đứng đèn, luồn dây sắt vào lỗ tiểu, thậm chí, ông phải tự uống nước tiểu của mình để sống. Ông vẫn cắn răng chịu đựng và khai theo kế hoạch đã được tính toán từ trước là khai là người của địch nhằm ly gián, gây mất đoàn kết, nghi kỵ lẫn nhau trong nội bộ địch.

Nhiều người đến thăm, nghe ông kể về chiến công ám sát Ngô Đình Diệm. 

Kết quả, từ lời khai của ông, Diệm - Nhu nghi ngờ loại Mai Hữu Xuân khỏi chức Giám đốc Nha An ninh quân đội, Nguyễn Hữu Châu - Bộ trưởng Phủ Tổng thống phải bỏ trốn sang Pháp nhằm giữ mạng sống... Tháng 11-1963, Mai Hữu Xuân câu kết với đối tượng khác quay ngược mũi giáo tổ chức đảo chánh diệt anh em nhà Diệm - Nhu. Ông lại phải rơi vào màn trả thù vô tiền khoáng hậu của Mai Hữu Xuân vì những lời khai đổ tội khi bị bắt. Chúng mở phiên tòa bí mật do chính tên đại tá Khoa - Chánh án Tòa án quân sự đặc biệt - xử ông án tử hình theo Luật 10/1959. Ông bị đưa lên chuyến tàu đày ra Côn Đảo cùng với 330 người tù khác, trong đó có 42 án tử hình, 67 án chung thân hầu hết là tù chính trị cộng sản, các đảng phái đối lập và 10 thành viên quốc gia đảo chính hụt Diệm năm 1960.
Trên đường đi, chúng sai đại úy Huỳnh Minh Đường lái máy bay ra khơi thả bom giết chết cả tàu, song đại úy Đường vì có cảm tình cách mạng đã không thả bom đánh đắm con tàu mà lái luôn chiếc máy bay qua Campuchia lánh nạn. Mãi đến khi chế độ Diệm hoàn toàn sụp đổ vào ngày 10-3-1965, ông mới được trả tự do và được tổ chức phân công tiếp tục công tác tại Ban Điệp báo An ninh T.Ư Cục miền Nam, Trưởng ban Điệp báo An ninh Tây Ninh, sau đó là Trưởng phòng Nghiên cứu Tổng hợp CA tỉnh Tây Ninh, Trưởng ban Nội chính, Trưởng ban Tôn giáo tỉnh Tây Ninh đến năm 1999 nghỉ hưu.
Đến nay, đã non nửa thế kỷ Ngô Đình Diệm và chế độ ngụy quyền tay sai đã xanh mồ, lịch sử đã ghi lại, chứng minh sứ mạng xuất sắc của phát súng ám sát Diệm đối với công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiêu biểu nhất là chiến thắng mùa xuân lịch sử 30-4-1975. Ban Nghiên cứu lịch sử Viện Khoa học CA khẳng định: “Mặc dù viên đạn nóng không giết chết được Diệm ngay lúc ấy, nhưng có tác dụng kích thích phong trào đấu tranh chống chính sách của Mỹ - Diệm. Qua lời khai của Hà Minh Trí đã ly gián nội bộ địch, bộ máy ngụy quân ngụy quyền, giữa gia đình họ Ngô và các tướng lĩnh của ông ta mâu thuẫn, lục đục kéo dài và dẫn đến cuộc đảo chính Diệm - Nhu năm 1963 của các tướng lĩnh dưới trướng.

Anh hùng LLVTND Mười Thương (thứ 3, hàng đầu từ trái sang)
chụp ảnh lưu niệm cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước
tại Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ VII năm 2005. 

Trong quá trình bị địch bắt giam, ông còn tiếp cận, khai thác tìm hiểu tập hợp hàng trăm hồ sơ tôn giáo, đảng phái đối lập Diệm, đảng phái phản động nhằm giúp Ban An ninh Sài Gòn-Gia Định có đối sách hợp lý, phục vụ cuộc kháng chiến chống Mỹ đến ngày thắng lợi hoàn toàn”. Với thành tích đặc biệt xuất sắc đó, tại Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ VII năm 2005, ông đã vinh dự được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND. Ngoài ra, ông còn được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý khác như: Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, hạng Ba, Huân chương Quân công hạng Ba, Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương Quyết thắng, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng...
Hòa bình lập lại, ông về công tác, sống bình dị tại Tây Ninh cho đến nay. Ông bảo, cuộc đời ông quả là may mắn kỳ lạ bởi ông đã từng 2 lần mang án tử hình nhưng vẫn không chết. Lần thứ nhất là bị bắt, tuyên án tử hình vì ám sát Ngô Đình Diệm và lần thứ hai vào năm 1967, khi ông đang công tác tại Tiểu ban An ninh T.Ư Cục miền Nam, một trái bom đã rơi đúng chân ông nhưng chỉ khiến ông bị thương cụt chân mà không chết. Vì thế, trong bất cứ hoàn cảnh nào, ông vẫn luôn giữ được sự bình thản, niềm lạc quan.
Ông đưa tôi vào Bệnh viện 30-4 (Bộ CA) thăm người vợ cũng đã từng vào sinh ra tử một thời là Nguyễn Kim Hưng (Triệu Nhã Nam, 1944), là cán bộ trong phong trào sinh viên học sinh cùng với Lê Quang Vinh, Lê Hồng Tự... bị bắt giam vào Tổng Nha Cảnh sát gặp ông rồi bén duyên từ đó. Vụ tai nạn khiến bà bị chấn động não, liệt toàn thân và gần như mất trí nhớ. Ông lặng lẽ đến bên người vợ nắm tay bà tâm sự: “Chẳng sao đâu bà ạ, chỉ cần điều trị ít lâu nữa là bà mạnh khỏe thôi. Bà mau khỏe để về nhà cùng với tôi bà nhé”. Ông quay sang tôi nói cứng: “Những lúc nguy nan nhất là lúc cần phải bình tĩnh nhất. Khi nổ súng vào Ngô Đình Diệm, tôi đã chẳng hề run sợ thì sá gì cuộc chiến đấu cuối cùng này (ý ông nói vụ tai nạn – P.V)”. Ông đúc kết: “Thời cuộc làm nên anh hùng. Không riêng gì tôi mà thời đó người thanh niên yêu nước nào cũng hành động như vậy. Tôi tin dòng máu anh hùng vẫn lưu truyền trong máu thịt của từng thế hệ thanh niên Việt Nam để viết tiếp trang sử hồng ngày mới cho dân tộc”.
Quang Sang