Tuesday, 10 June 2014

Báo cáo tình hình Nam Bộ năm 1950 (Văn Kiện Đảng Toàn Tập - Tập 11 (1950))

Báo cáo tình hình Nam Bộ năm 1950 
Văn kiện đảng toàn tập
Tập 11 (1950) - Phụ lục
09:00 | 24/05/2003
I- Quân sự
A- Âm mưu và hoạt động của địch
Chính sách quân sự của Pháp nhằm vào việc tổ chức ngụy quân, tǎng cường chủ lực, ra sức phá kế hoạch chuẩn bị tổng phản công của ta. Hoạt động mạnh ở chiến trường chính (Khu 8) và cố giữ vùng cǎn cứ ở Mên.
1. Tổ chức ngụy quân, tǎng cường chủ lực
- Để giải quyết vấn đề quân số, địch xúc tiến mạnh việc tuyển mộ ngụy quân. Đáng chú ý là việc ngụy binh hóa quân Cao Đài và Hòa Hảo. Chúng đã nắm chắc được bộ đội này nhờ chính sách mua chuộc bọn lãnh tụ và cho bọn mật thám chui vào để tách quân đội khỏi ảnh hưởng bọn lãnh tụ. Việc lập nguỵ binh công giáo cũng tiến hành ráo riết. Các đơn vị lưu động bảo vệ các họ đạo (unités mobiles de défense des chrétiens) là đoàn ngụy binh hung hǎng và nguy hiểm hơn cả.
Thêm vào đó, chúng tập trung 14.000 Quốc dân Đảng Trung Hoa ở Phú Quốc để làm dự trữ quân số, âm mưu uy hiếp Khu 9 (nhưng chúng gặp trở ngại là bọn này vì sống khổ sở nên có thái độ chống lại chúng).
- Đi đôi với việc tổ chức nguỵ quân, chúng tập trung lính Âu - Phi thành lập những đội ứng chiến mạnh để đối phó lại các chiến dịch của ta và để đưa một số ra Bắc.
2. Đóng thêm đồn bốt, bảo vệ các đô thị
Để thực hiện âm mưu cắt Nam Bộ ra từng mảnh và để bảo vệ các châu thành, ngoài việc tǎng gia bố phòng và hoạt động mật thám ở nội thành, chúng đóng thêm đồn bốt (so 1949 thì 1950 tǎng gấp đôi 4.081).
3. Hoạt động mạnh ở chiến trường chính Khu 8 và biên giới Mên ? Việt
- Nǎm nay, hoạt động chính của địch là ở Khu 8, chúng chú trọng nhất là Sài Gòn - Chợ Lớn và các vùng phụ cận bằng cách tǎng cường do thám và những cuộc hành quân nhằm mục đích phá vùng quân giới của ta, phá hoại kinh tế, giao thông, cơ sở chính trị của ta và thực hiện âm mưu cắt đứt Khu 7 (nơi thiếu ǎn) và Khu 9 (thừa lúa).
Tuy thế địch cũng không hoàn toàn nắm quyền chủ động mà trái lại trong các chiến dịch của ta (Cầu Kè, Bến Tre...), địch đã mất quyền chủ động.
- Đối với cǎn cứ Mên thì chúng tǎng cường quân lực, đóng thêm đồn bốt làm thành dãy hành lang cắt đôi đông - nam và tây - nam Mên. Ngoài ra, chúng tǎng gia hoạt động ở biên giới Mên - Việt, mục đích phá phong trào cách mạng Mên và triệt đường tiếp liệu của ta (từ ngoài qua Mên vào Nam Bộ).
Tóm lại, nǎm qua tuy địch hoạt động mạnh, nhưng nhược điểm của địch vẫn là đóng quân dàn ra làm cho sức phòng thủ yếu. Tinh thần quân lính sút kém, không tin được ở ngụy binh (đã xảy ra nhiều vụ đánh lại Pháp như Cao Đài, Dân Xã). Nội bộ ngụy binh lại mâu thuẫn. Thêm vào đó việc tranh giành nắm khối ngụy quân giữa Mỹ và Pháp cũng là một nhược điểm cǎn bản của địch.
B- Chủ trương và hoạt động của ta
1. Giành quyền chủ động, đẩy mạnh du kích chiến tranh
Nhờ chủ trương (Hội nghị quân sự tháng 9-1949) điều chỉnh lại cán bộ, biên chế và bố trí lại bộ đội hợp với chiến trường, thống nhất chỉ huy giữa Nam Bộ và các khu tập trung được chủ lực mạnh trên chiến trường, đã biết phối hợp giữa các khu, chính quy và du kích nên ta đã đạt được nhiều thành tích và tiến bộ khá. Ta đã giành được phần nào quyền chủ động trong mấy chiến dịch có quy mô (nhất là hai chiến dịch Trà Vinh), đẩy mạnh được du kích chiến tranh, làm cho địch thiệt hại nặng. Nhưng vì cán bộ chưa nắm vững phương châm tiêu diệt sinh lực địch, chưa chống được các đội ứng chiến của địch, nên tương quan lực lượng giữa ta và địch không thay đổi lớn, do đó, tinh thần khối ngụy binh chưa tan rã.
2. Xây dựng lực lượng
a) Chủ lực: Những kết quả trên, chứng tỏ sự cố gắng của Nam Bộ về mặt chấn chỉnh quân đội (bỏ trung đoàn địa phương, thành lập bốn trung đoàn và một tiểu đoàn chủ lực, còn tổ chức đại đội độc lập).
Các bộ đội chủ lực tinh thần cao, những tư tưởng sai lầm trong cán bộ (địa phương, anh hùng, v.v.) đã bớt đi nhiều. Nội bộ cán bộ đã đoàn kết hơn trước. Bộ Tư lệnh Nam Bộ và các khu đã được chấn chỉnh. Công tác chính trị dần dần đã có nền nếp.
b) Bộ đội địa phương: Việc tự xây dựng bộ đội địa phương đang xúc tiến. Đã tập trung được một trung đội đến một đại đội trong các huyện, nhưng vì thiếu vũ khí nên vẫn còn để đại đội độc lập ở nhiều huyện để giúp đỡ và làm nhiệm vụ bộ đội địa phương và xây dựng bộ đội địa phương. Một số cán bộ chính trị và quân sự có nǎng lực đã được bổ sung để củng cố các tỉnh đội và huyện đội bộ, đồng thời phân tán một phần Vệ quốc quân và tập trung một phần du kích để tổ chức bộ đội địa phương. Nhưng nhìn chung việc xây dựng bộ đội địa phương còn chậm trễ (bảy huyện trong 23 huyện có từ một đến hai trung đội) và bộ đội địa phương còn nặng về chính quy.
c) Dân quân: nói chung số dân quân không phát triển nhiều (cuối tháng 5-1950, dân quân tự vệ toàn Nam Bộ có 323.658 dân quân, du kích chỉ có 8.813). Sinh hoạt chính trị và quân sự cũng còn kém. Các xã đội chưa được chấn chỉnh nhiều. Dân quân du kích còn thoát ly sinh sản, đó là một trở lực cho việc phát triển du kích chiến tranh. Nhưng Nam Bộ lại có ưu điểm là chủ trương nhiều về dân quân bí mật và du kích ngầm (35.288 bí mật, 375 ngầm).
Tóm lại, việc xây dựng ba thứ quân, đẩy mạnh nhân dân chiến tranh tuy có tiến bộ, song còn chậm vì cán bộ chưa thấm nhuần tư tưởng chiến lược, chiến thuật, còn nhẹ du kích, nặng chủ lực. Một trở ngại lớn nữa là vấn đề cán bộ quân sự (thiếu rất nhiều) và trang bị cấp dưỡng (quá thiếu thốn).
3. Địch vận
Vấn đề địch, nguỵ vận, nhất là vấn đề ngụy binh đối với Nam Bộ là một vấn đề then chốt có tính chất quyết định nhiều; tuy nǎm nay đã được chú ý hơn (kiện toàn Ban địch vận Nam Bộ, tổ chức những đặc ban Cao Đài, Hòa Hảo). Nhưng chưa đạt đúng sự quan trọng của nó trên cơ sở của dân vận (quá chú trọng lãnh tụ) nên thu được kết quả rất ít.
II- Chính tr
A- Địch
1. Sự mâu thuẫn giữa Mỹ - Pháp
Mỹ muốn giành Đông Dương của Pháp, nhưng Mỹ chưa có cơ sở quần chúng và lực lượng võ trang ở đây. Pháp sợ Mỹ, nhưng lại nhờ Mỹ. Mâu thuẫn ấy càng ngày càng thêm sâu sắc mặc dù có lúc tạm hòa hoãn trước những thắng lợi của ta. chúng giành nhau lôi kéo các đảng phái phản động, đặc biệt việc nắm đồng bào công giáo. Tranh nhau lập Chính phủ bù nhìn và quân đội bù nhìn.
2. Gây uy tín cho Chính phủ bù nhìn Bảo Đại
Pháp cũng như Mỹ cố gây uy tín cho Chính phủ bù nhìn Bảo Đại, Hữu bằng nhiều cách:
a) Tuyên truyền Chính phủ bù nhìn Bảo Đại, Hữu là chính phủ duy nhất quốc gia chống "hóa cộng sản".
b) Dùng kinh tế để lôi kéo đồng bào ở các vùng phụ cận khu chiếm đóng, dùng sự càn quét mạnh để cưỡng bách một số đồng bào lại gần đồn bốt, rồi chúng tuyên truyền lên là đồng bào đến yêu cầu sự bảo vệ của chúng.
c) Tuyên truyền quốc tế mạnh mẽ (do Mỹ, Anh, Pháp đỡ đầu), gửi đại biểu đi Anh, Mỹ và trong các cuộc hội nghị quốc tế như Hội nghị kinh tế ECAFE, Công đoàn quốc tế phản động, v.v..
d) Hứa hẹn giảm tô và cải cách ruộng đất, v.v..
Mưu mô trên không đem lại cho chúng kết quả mong muốn trong nǎm 1950.
3. Tǎng gia hoạt động gián điệp
Nǎm 1950, Pháp hoạt động mạnh về gián điệp, chúng cho bọn Phòng Nhì chui vào nội bộ ta (như công an, quân giới, công đoàn, Việt Minh Sài Gòn - Chợ Lớn, v.v.) để chia rẽ và phá hoại ta. Tuy thế, công tác phản gián của ta cũng đạt được nhiều kết quả, các ổ gián điệp dần dần đều bị khám phá và không gây thiệt hại mấy.
4. Lập thêm nhiều tổ chức chính trị, tôn giáo phản động
Đi đôi với việc tuyên truyền xuyên tạc những chủ trương của ta, chúng tuyên truyền mạnh mẽ viện trợ Mỹ để lôi kéo những phần tử lừng chừng. Lập thêm nhiều tổ chức chính trị hoặc tôn giáo (Liên đoàn Lao động công giáo quốc tế, Liên Đoàn Thanh niên Việt Nam, v.v.) để lôi kéo hai lực lượng thanh niên và công nhân ở thành. Nhưng các tổ chức giả hiệu đó không có ảnh hưởng gì nhiều.
B- Ta
Nhìn chung, trong nǎm vừa qua, phong trào quần chúng tiến mạnh, đáng chú ý là phong trào tranh đấu trong các đô thị (thu hút cả giới trí thức). Nhưng vì ảnh hưởng nhận định tổng phản công khẩn trương nên phát động tranh đấu liên tiếp không chú ý bồi dưỡng và bảo vệ cơ sở nên thường bị lộ và các cuộc tranh đấu phần nhiều nặng về chính trị.
Gần đây (từ nửa nǎm về sau) đã sửa chữa tranh đấu nặng về kinh tế, đồng thời phối hợp với hoạt động quân sự (như các cuộc tranh đấu của công nhân các hãng thuốc lá, nhà bè, Sacrie, cao su, v.v.).
Nhìn riêng, công tác mặt trận, công tác tôn giáo chưa tiến mấy. Riêng công giáo, ta gặp nhiều khó khǎn, bọn Pháp, Mỹ triệt để lợi dụng tình hình và các lệnh Vaticǎng để lôi kéo công giáo chống ta. Tuy thế, tinh thần đoàn kết cũng được tǎng cường (hội viên Liên Việt tǎng lên 1.581.510, Đoàn Thanh niên dân chủ và cứu quốc đã thống nhất), ý thức dân chủ mới đã phát triển khá trong nhân dân.
Về chính quyền, cũng đã có những bước tiến, các hội đồng nhân dân xã đã được bầu lại (trung, bần, cố nông chiếm 60%). Các ban chuyên môn đã chấn chỉnh lại không còn rườm rà, nặng nề nữa. Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp cũng đã được kiện toàn.
III- Kinh tế
1. Địch
Điểm đáng chú ý là việc hoạt động mạnh ở Khu 9 của địch, ngoài mục đích quân sự còn có mục đích bao vây và phá hoại kinh tế ta. Chúng đã thực hiện được phần nào âm mưu cắt đứt Khu 7 và Khu 9, chủ trương mua lúa miền Trung để cho ta không có mà tiếp tế cho miền Đông, trong lúc đó miền Tây lại bị ứ đọng.
2. Ta
Vấn đề tự túc ǎn mặc tuy đặt ra chậm, nhưng nhờ tích cực tiến hành nên thu được kết quả khả quan. Nhờ đó mà miền Đông tránh được nạn đói. Việc tiếp tế vận tải cũng có nhiều thành tích, mặc dù giặc phong tỏa (đưa lên miền Đông 6.000 tấn lúa, tiếp tế Đồng Tháp Mười 700 tấn lúa, 1.003 tấn muối). Đó là kết quả của việc phối hợp quân, dân, chính biết vận động nhân dân làm.
- Về mặc và đồ dùng (vải, giấy, xà phòng, v.v.) còn rất chật vật, mặc dù đã cố gắng (trừ hai tỉnh Bến Tre và Trà Vinh có thể tự túc mặc), nguyên nhân chính là chưa vận dụng hết khả nǎng của nhân dân, thêm vào đó việc bao vây kinh tế địch ít kết quả.
- Việc tạm cấp ruộng đất tiến hành chậm, bần, cố nông cũng không tha thiết làm, vì ruộng đất bỏ hoang nhiều, nhân công thiếu, nhưng nguyên nhân chính là việc tuyên truyền giải thích của ta chưa sâu rộng.
- Phong trào hợp tác xã còn kém vì thiếu cán bộ. Chỉ có vấn đề giảm tô, giảm tức, tiến hành dễ dàng, có nơi (Khu 9) giảm đến 50% vì hoàn cảnh ruộng đất bỏ hoang nhiều.
Về tài chính: có hai việc đáng kể
a) Việc phát hành giấy bạc Việt Nam để đối phó với nhu cầu có một tác dụng lớn.
b) Ngân sách, giữ được việc chi thu không quá chênh lệch, số chi cho quốc phòng được tǎng theo mức cần thiết của nó.
Tuy thế, Nam Bộ còn mắc phải một nhược điểm cǎn bản là 70% các khoản thu là thuế nhập thi.
Nhìn chung, tính chất kinh tế tài chính của Nam Bộ còn lệ thuộc nặng vào kinh tế địch.
IV- Đảng
Về Đảng, có mấy điểm đáng chú ý:
- Phát triển đảng chưa đúng hướng, vùng tạm chiếm, công đoàn đô thị và những nơi yếu điểm chiến lược còn kém. Sự kết nạp còn bừa bãi (Khu 9 có 400 địa chủ, có một số bọn Phòng Nhì chui vào).
- Thành phần các cấp uỷ, trừ XU và các khu có một số đồng chí cũ, còn từ tỉnh trở xuống thì tiểu tư sản, phú nông, địa chủ chiếm khá nhiều (nhất là Khu 9).
- Cán bộ thiếu (vì bị hy sinh nhiều trong mấy nǎm kháng chiến hoặc bị đau yếu). Thêm vào đó lại ít được giáo dục và kém học tập, do đó các bệnh anh hùng, địa phương, cá nhân, v.v. còn nhiều. Tình trạng này, sau Hội nghị cán bộ XU lần thứ hai đến nay đã sửa chữa nhiều.
- Hiện nay, vai trò của Đảng đã được đề cao trong mọi ngành hoạt động, ý thức đối với Đảng đã mạnh hơn. Nội bộ đoàn kết hơn.
V- Kết luận
Nǎm qua, địch cũng vẫn tiếp tục chính sách cũ và tiến mạnh hơn trong sự chia cắt ta ra từng vùng, chúng đã tiến hành có kết quả trong chiến thuật đóng lô cốt thêm dày, đặt ở các đường giao thông quan trọng và các vùng kinh tế phì nhiêu, chúng nhờ sự tiếp viện Mỹ về máy bay và cơ giới (tàu chạy sông, xe lội nước) để thay thế cho bộ binh và rút một số khá lớn âu - Phi ra Bắc. Sự càn quét rất mạnh và nhiều nơi.
Về phần ta, việc tổ chức và đẩy mạnh cuộc nhân dân chiến tranh là một nhiệm vụ chủ yếu trong nǎm tới. Việc tập trung ý thức quân sự trong toàn Đảng bộ Nam Bộ và khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến" phải được đề cao và thực hành trong Đảng và trong các ngành hoạt động.
Lưu tại Kho Lưu trữ
Trung ương Đảng.

Tuesday, 3 June 2014

Đặng Thai Mai: Kỷ niệm về những lần gặp Bác Hồ


Đặng Thai Mai: Kỷ niệm về những lần gặp Bác Hồ


GS Đặng Thai Mai
Tháng 8-1945, tôi bị đau dạ dày nặng, phải nằm tại Sầm Sơn, Thanh Hoá. Mấy ngày trước khi cướp chính quyền ở Hà Nội, một số người bạn vào nói công việc phải chuẩn bị và muốn tôi ra ngay.
Tôi định ra Hà Nội. Trên đường từ Sầm Sơn về Thanh Hoá, khi đi qua một sân bay cũ mà bọn Nhật đang sử dụng, tôi thấy một tên tướng Nhật cùng quân lính đang tập hợp ở đấy. Hình như chúng đang đốt một lá cờ. Khi tới bệnh viện Thanh Hoá, tôi bị giữ lại nằm viện.

Cuối tháng 8-1945, tôi mới ra Hà Nội. Đến Hà Nội, các bác sĩ lại bắt nằm bệnh viện, chưa được làm việc ngay.

Một hôm, tôi nghe tin Bác về. Lúc bấy giờ, tôi đã biết Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc, vì hôm trước, khi anh Hà Huy Giáp đi qua Thanh Hoá, đã có người chắn đường lại hỏi:
- Hồ Chí Minh là ai?
Anh Giáp trả lời:
- Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc.

Mấy hôm sau tôi được vào gặp Bác. Hôm đó là ngày 4-9-1945. Tôi đến gặp Bác ở phòng khách của Bắc Bộ phủ. Trong phòng có bàn làm việc và một bộ xa-lông. Tôi đi vào, kính cẩn và rón rén. Bác nhanh nhẹn bước ra, tươi cười bảo tôi lại ngồi ở bộ xa-lông. Bác nói:
- Bác bận lắm, chỉ gặp chú được một lát thôi.
Khi uống nước, Bác hỏi thăm chuyện gia đình, chuyện ông nội tôi bị đi tù, đến những năm cuối đời mới được tha; chuyện ông tôi ở Côn Lôn về được bao lâu? Bà nội tôi mất năm nào?...
Sau đó, Bác kể chuyện chú tôi là ông Đặng Thúc Hứa, lúc bấy giờ gọi là ông Hai Cày (ở bên Xiêm). Bác nói với tôi:
- Chú yếu lắm, phải lo mà chữa bệnh. Khỏe rồi ra giúp nước.

Tôi chào Bác ra về. Chiều hôm đó có rất nhiều nhà văn đến gặp tôi và hỏi:
- Anh gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, cảm tưởng đầu tiên của anh như thế nào?
Tôi trả lời:
- Khó mà nói được cảm tưởng của mình, nếu như chỉ dùng một chữ để tóm tắt cảm giác của tôi thì phải dùng một chữ Pháp "Humain", có nghĩa theo quan niệm của tôi"Một con người rất thấu con người, thương người. Mục đích làm việc là làm thế nào cho con người được sung sướng hơn".

Tôi cũng nhắc lại với các bạn tôi là:
- Bác nói công việc ban đầu đang còn khó khăn, phải cố gắng nhiều. Cướp chính quyền mới là bước đầu. Bây giờ làm thế nào để củng cố chính quyền cho tốt. Đây là cơ hội ngàn năm có một. Phải xây dựng một nước Việt Nam độc lập, dân chủ. Nếu bỏ lỡ cơ hội này là trách nhiệm của cả một thế hệ.

Tôi rất sung sướng khi các bạn văn tỏ ý tán thành ý kiến đó. Nhiều tuần lễ sau, các bạn ở các tỉnh khác cũng như ở Hà Nội vẫn còn hỏi tôi về ấn tượng buổi ban đầu được gặp Bác. Tôi nhắc lại câu nói hôm đầu tiên. Và tôi còn nói thêm với họ là:
- Theo tôi nghĩ "Nếu ông Hồ Chí Minh mà không làm xong việc thì không có người Việt Nam nào làm xong việc".

Tôi nói câu ấy vì lần gặp Bác vừa rồi tôi có nói, đại ý là: Không chỉ nhân dân Nghệ Tĩnh tin tưởng vào Bác, mà bây giờ cả nước đều tin tưởng Bác và ai ai cũng nói, có Bác thì sự nghiệp của các lớp tiền bối lần này có thể thành sự thực.

Hôm đó Bác nói:
- Vấn đề không phải chỉ tin vào một con người, mà phải tin vào Đảng. Chú đã đọc Mác, Mác nói: "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng".
Tôi nói với các bạn:
- Đành rằng sự nghiệp cách mạng là của quần chúng, nhưng cũng cần có một người chỉ đường cho mà đi.

Tất nhiên, các bạn tôi tin rằng người đó là Hồ Chí Minh.

Sau đó Bác gọi tôi vào. Thấy sức khoẻ của tôi đã khá hơn, Bác bảo tôi tham gia vào Ban dự thảo "Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa". Tôi hết sức bỡ ngỡ vì từ trước tới nay tôi chưa hề quan tâm tới vấn đề này bao giờ. Tuy nhiên khi học lịch sử thế giới và theo dõi tình hình cách mạng Liên Xô, tôi cũng biết một ít về bản Hiến pháp của Anh. Tôi cũng đã đọc một số điểm chính trong bản Hiến pháp của Pháp năm 1789 và Hiến pháp đầu tiên của Liên Xô năm 1936. Những người được cử vào Ban dự thảo Hiến pháp hình như có cố vấn Vĩnh Thụy, cụ Vũ Đình Hoè và Nguyễn Đình Thi, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trường Chinh.

Hôm đầu tiên Bác chủ tọa cuộc họp, buổi trưa Bác giữ tôi và cố vấn Vĩnh Thụy ở lại cùng ăn cơm tại Bắc Bộ phủ. Bữa cơm hôm đó rất đạm bạc.

Mấy tuần sau, chúng tôi hoàn thành bản sơ thảo. Khi trình bày Bác hỏi:
- Các chú có ai thắc mắc gì không?
Tôi cười và thưa với Bác:
- Không biết chúng ta ban bố quyền bầu cử cho toàn dân có sớm quá không? Dân chúng ta hiện giờ người mù chữ còn tới 80, 90%.
Bác cười, giơ ngón tay chỉ vào tôi và nói:
- Chú là người thảo hiến pháp mà không khéo lại phản động đấy, người cách mạng trước hết phải tin vào nhân dân.

Câu nói đó đối với tôi mãi mãi là một bài học vô cùng thấm thía, vả lại kết quả cuộc bầu cử ngày 6-1-1946 là một sự xác nhận hết sức hùng hồn đối với tôi.
GS Đặng Thai Mai đứng thứ 2 (trái qua) trong lễ ra mắt chính phủ liên hiệp kháng chiến ngày 2/3/1946


☼☼☼

Khoảng cuối năm 1945, đầu năm 1946, tôi có nhiều dịp được vào gặp Bác để bàn công việc. Có nhiều câu chuyện nhỏ nhưng lại rất có ý nghĩa, vì lúc này Chính phủ ta đang phải đối phó với tình hình hết sức khó khăn về đối nội cũng như đối ngoại. Tôi còn nhớ, một hôm có anh bạn vào thưa với Bác:
- Cháu nghe nói phái đoàn Liên Xô đã đến Trùng Khánh và sắp sang thăm Hà Nội, có lẽ chúng ta cũng nên chuẩn bị đón tiếp.

Bác cười trả lời:
- Thì cứ để cho họ sang xem thế nào, sao không nghĩ rằng đó là "tin vịt" do bọn Tây hay Tàu tung ra.

Một lần khác, trong khóa đào tạo cán bộ cấp tốc ở Hà Nội, thỉnh thoảng Bác đến nói chuyện. Hôm bế mạc, Bác đến thăm và trả lời một số câu hỏi của học viên. Sau khi giải đáp các thắc mắc, Bác nói:
- Bây giờ còn một đồng chí hỏi: "Cần, kiệm, liêm, chính, nghe có vẻ cổ hủ quá"?

Bác nói:
- Không đâu? Cơm thì bao giờ người ta cũng phải ăn, nước bao giờ cũng phải uống, vấn đề là phải ăn, uống sao cho sạch sẽ.

Và có đồng chí hỏi:
- Liên Xô có giúp chúng ta không?

Tôi hỏi lại đồng chí:
- Trong thời kỳ Liên Xô chống Hít-le, đồng chí có giúp gì Liên Xô không?

Trong khóa họp Quốc hội đầu tiên có một vấn đề gây nhiều tranh luận. Đó là bọn Việt Cách và Việt Quốc nêu lên việc sửa Quốc kỳ và Quốc ca. Vấn đề được bàn cãi khá lâu trong các cuộc họp của Hội đồng Chính phủ, đã đến lúc phải đưa ra trao đổi. Hôm đó, trước giờ Quốc hội bế mạc, Bác đứng dậy, cầm lá cờ, mở ra và nói với các đại biểu, đại ý:
- Lá cờ này đã đi gần như khắp thế giới, nó tượng trưng cho nước Việt Nam độc lập, thống nhất. Không ai có thể đặt vấn đề sửa Quốc kỳ.

Sau khi Bác nói toàn thể đại biểu Quốc hội đứng dậy vỗ tay hoan hô, rồi hát Quốc ca. Các ngài Việt Cách, Việt Quốc cũng phải đứng dậy làm theo mọi người.

Khoảng tháng 4 hay tháng 5-1946, Đảng ta mua một tòa nhà của một bác sĩ người Pháp, tên là Ma-xi-a. Ngôi biệt thự này lúc bấy giờ gọi là Liên Trang. Gia đình tôi được dọn về đây ở. Thường thường vào các buổi chiều thứ 7, Bác hay về đây nghỉ. Đây cũng là nơi thỉnh thoảng Bác họp cùng với các đồng chí Trung ương Đảng và tiếp khách. Có hôm Bác gọi tôi cùng đi xe từ Bắc Bộ phủ về Liên Trang. Trên đường đi, tôi hỏi Bác về một vài câu chuyện trong thời gian Bác chưa sang Pháp, Bác chỉ cười và nói:
- Chú định điều tra lý lịch của mình phải không?

Bình thường khi về tới nhà, bao giờ Bác cũng xuống bếp xem người nhà làm cơm và bắt tay mọi người, rồi mới lên phòng làm việc. Buổi tối Bác thức rất khuya. Nhiều hôm đã 11, 12 giờ đêm rồi mà Bác vẫn còn đọc báo, báo cáo và viết chỉ thị, viết thư để hôm sau cho đánh máy. Một lần cùng đi với Bác và tôi về Liên Trang có một người Mỹ tên là Pát-ti. Trên xe, Pát-ti nhắc lại với tôi một câu, mà khi ấy người ta nói với các đồng chí Việt Nam:
- Thế là chiến tranh đã kết thúc đối với chúng tôi. Nhưng đối với các ông, chiến tranh bây giờ mới bắt đầu đấy.

Một lần đi qua phố Hàng Đẫy, con đường này hồi đó còn nhiều quãng trống, chưa xây nhà gạch như bây giờ. Từ trên đường đi, người ta có thể nhìn thấy một số ao, hồ. Trên bờ hồ trẻ em vui chơi, phụ nữ giặt giũ, còn các cụ già ngồi câu cá.

Một hôm, Bác chỉ vào một cụ già đang ngồi câu cá và nói với tôi:
- Thật tình, mình chỉ mong sao việc nước sắp xếp được ổn thỏa, rồi về ngồi trên một hòn đá như ông già câu cá ấy là mình rất vui rồi.

Câu nói của Bác trong hoàn cảnh lúc bấy giờ đối với người nghe có thể nói là cám cảnh vì hồi này bọn Việt quốc, Việt cách đang tìm mọi cách tung tin là có người này, người kia tham quyền cố vị, thậm chí chúng còn dùng đến từ bán nước.

Tôi đã nghĩ đến câu chuyện về các danh nhân Hy Lạp, La Mã, những anh hùng chí sỹ chỉ mong sao cho việc nước chóng thành để có thể về quê sống với người nông dân, được tự do đi săn bắn và câu cá ở những năm cuối của cuộc đời, một cuộc sống thanh thản.

Đặng Thai Mai: "Kỷ niệm về những lần gặp Bác Hồ"
in trong cuốn hồi ký Bác Hồ sống mãi với chúng ta
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, trang 25-26.

Monday, 2 June 2014

Chuyện ít biết về vụ thảm sát kinh hoàng ở Thủy Nguyên - Hải Phòng (VTC - Đài Phát Thanh Thủy Nguyên)

Chuyện ít biết về vụ thảm sát kinh hoàng ở Thủy Nguyên - Hải Phòng
14/05/2013 - 08:40

Trong lịch sử chiến tranh Việt Nam ở thế kỷ 20, nhắc đến các vụ thảm sát, người ta thường nghĩ ngay đến vụ thảm sát Mỹ Lai (huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi). Ít người biết rằng, tại xã Hoàng Hoa (Thủy Nguyên, Hải Phòng) cũng từng có một vụ thảm sát do thực dân Pháp gây ra, kinh hoàng không kém vụ Mỹ Lai.
*  Xác chết ngập hồ
109 người trong một vùng đất đã bị giặc giết bằng súng ống, lưỡi lê. Nhưng một người trong số đó đã may mắn sống sót với vô số vết thương trên người. Hơn 60 năm trôi qua, ký ức kinh hoàng vẫn đau nhói trong tim. Ông là Nguyễn Kiểm, nhân chứng sống của vụ thảm sát kinh hoàng nhất lịch sử Hải Phòng.
Bên con đường nhỏ, cạnh chợ Lâm, thuộc xã Lâm Động (Thủy Nguyên, Hải Phòng), có một cái hồ nhỏ, nước lặng như tờ, hàng cây cổ thụ đổ bóng. Người dân trong vùng gọi đó là hồ Lâm.
Chuyện ít biết về vụ thảm sát kinh hoàng ở Hải Phòng
Hồ Lâm, nơi từng chất ngập xác và đỏ lòm máu của người Hoàng Hoa. 
Giữa hồ Lâm có một đài tưởng niệm xây hình trụ với 4 mặt. Một chiếc cầu cong dẫn ra đài tưởng niệm. Một mặt có dòng chữ: “Đời đời ghi sâu căm thù đế quốc”, mặt đối diện là con số khô khốc: 108.
Những người lần đầu đến đây, đều không hiểu được vì sao lại có con số đó ghi trên đài tưởng niệm. Nhưng với người dân trong vùng, thì đó là con số đau thương, con số in đậm vào tâm trí những người lớn tuổi, những người từng trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. 

Bên cạnh bờ hồ có một tấm bia đầy nước mắt, ghi danh 108 con người đã bị sát hại trong 2 ngày đen tối, là ngày 13 và 14 tháng 2-1949. Hầu hết tên tuổi trên tấm bia đều là dân thường. Chỉ có 3 liệt sĩ, thì có 2 liệt sĩ là vô danh. Đây là hai chiến sĩ cách mạng xâm nhập vào làng để chiến đấu với giặc và đã hy sinh mà không để lại tên tuổi.
Phần lớn những người bị sát hại ở các thôn như: Lôi Động, Hoàng Pha, thôn Xú, thôn Đền, thôn Bính, thuộc xã Hoàng Hoa ngày xưa.
Chuyện ít biết về vụ thảm sát kinh hoàng ở Hải Phòng
Tấm bia ghi danh 108 người bị thảm sát. 
Thi thoảng, người dân nơi đây lại thấy một ông già dáng đi lòng khòng, chậm chạp, ngồi rất lâu dưới bóng cây si già bên hồ Lâm. Ông ngồi trầm ngâm bên hồ và rất ít nói. Ông bảo, cứ mỗi khi ký ức sống dậy, ông lại muốn ra hồ Lâm. Ông ngồi đây “tâm sự” với những người đã khuất trong ngày kinh hoàng 60 năm trước. 108 người chết, chỉ có mình ông còn sống. Chỉ có những người già, những người đã trải qua kháng chiến chống Pháp mới biết đó là ông Nguyễn Kiểm.
Ông Nguyễn Kiểm, sinh năm 1931, hiện đang sống ở xã Hoa Động, là người duy nhất còn sống trong vụ thảm sát 60 năm về trước ở xã Hoàng Hoa. Ông Kiểm sống với ký ước nhiều hơn là hiện tại. Đã 60 năm trôi qua, nỗi đau tinh thần và thể xác vẫn dày vò ông. Những ngày trở trời, thay đổi thời tiết đột ngột, cái cơ thể vốn đã ốm yếu, gày gò của ông lại co giật vì những cơn đau hành hạ.
Chuyện ít biết về vụ thảm sát kinh hoàng ở Hải Phòng
Ông Nguyễn Kiểm, nạn nhân duy nhất sống sót trong vụ thảm sát kinh hoàng hơn 60 năm trước. 
Hỏi lại chuyện xưa, ông vén áo lên, tôi thấy rõ ràng những di chứng khủng khiếp của chiến tranh: một bên ngực bẹp lép của trận đòn tra tấn và 11 vết sẹo dao đâm trên khắp cơ thể.
Ông Kiểm lần giở lại cuốn lịch thế kỷ 20 cũ mèm, mở những trang có dấu bút khoanh tròn ngày tháng và ký ức cứ cuồn cuộn hiện về...
Xã Hoàng Hoa được thành lập sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công. Khi đó, xã Hoàng Hoa rất rộng, gồm gồm 3 xã bây giờ là Hoa Động, Hoàng Động, Lâm Động.
Xã Hoàng Hoa nằm ngay bên bờ sông Cấm, bên kia là TP Hải Phòng, nên vùng đất này là vị trí chiến lược, là bàn đạp để tấn công về trung tâm thành phố. Chính vì thế, địa bàn xã Hoàng Hoa thường có vài đơn vị bộ đội đóng quân ở đây.
Chuyện ít biết về vụ thảm sát kinh hoàng ở Hải Phòng
Đài tưởng niệm với một mặt ghi dòng chữ căm thù đế quốc. 
Nắm được vị trí quan trọng của Thủy Nguyên, nên tháng 2-1947, thực dân Pháp từ Hải Phòng vượt sông đánh chiếm Thủy Nguyên. Chúng lập tề, lùng sục bắn giết cán bộ, dân quân du kích. Chính quyền của ta còn non trẻ, lực lượng lại yếu, nên rút vào hoạt động bí mật, hoặc chuyển cơ sở về vùng núi non hiểm trở, thậm chí tận vùng Kinh Môn (Hải Dương).
Theo lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 25-10-1948, Ban chấp hành Đảng bộ Thủy Nguyên họp, phát động phong trào phá tề, trừ gian, với chỉ thị: "Tiến công đồn giặc, trừ gian diệt ác, phát động chiến tranh du kích".
Lực lượng du kích xã Hoàng Hoa được thành lập bí mật. Khi đó, ông Kiểm mới 18 tuổi, được phân về Tiểu đội 1, do đồng chí Đồng Xuân Băng làm Tiểu đội trưởng, thuộc Trung đội Trung Kiên, đại đội Lê Lợi.
Các đơn vị du kích địa phương đã tổ chức một số trận đánh, tấn công bốt địch, song không tiêu diệt được địch, vì lực lượng quá mỏng, vũ khí rất thô sơ. Để khuấy động phong trào trong dân chúng, du kích đã cắm cờ lên ngọn đa đầu làng để biểu dương lực lượng.
Để trấn áp sự quấy nhiễu của lực lượng du kích, đêm 30 và 31-10-1948, giặc Pháp tổ chức càn quét. Sau khi đánh lui lực lượng du kích, chúng đã điên cuồng cướp phá, đốt sạch nhà cửa ở hai thôn đầu xã.
Một tên thiếu úy đi sâu vào làng, tóm được đồng chí nữ du kích Đồng Thị Xuân. Khi tên này đang đẩy đồng chí Xuân đi, ông Nguyễn Văn Nhạc phục kích sau bụi tre đã ném lựu đạn. Tuy nhiên, lựu đạn mắc trên bụi tre và phát nổ. Tên thiếu úy thấy bị tấn công, liền bỏ chạy, nữ du kích cũng tẩu thoát. Nghe tiếng lựu đạn, sợ quân ta tấn công, nên bọn Pháp đã không tiếp tục lùng sục, đốt phá nữa mà rút quân luôn.
Chuyện ít biết về vụ thảm sát kinh hoàng ở Hải Phòng
Một mặt đài tưởng niệm là con số khô khốc: 108. 
Ngày 11-2-1949, 3 tên lính Âu - Phi đóng ở đồn Mặt Nguyệt vác súng ống vượt sông vào xã cướp bóc, hãm hiếp phụ nữ ở xóm Vạn Hoa. Tiểu đội du kích của đồng chí Doanh được lệnh truy bắt chúng để khai thác thông tin. Tuy nhiên, bọn chúng đã chống trả quyết liệt, nên đồng chí Doanh đã bắn chết một tên khi hắn đang bơi dưới sông, bắt sống một tên, còn một tên chạy thoát. Tên bị bắt sống được giải về xã Hợp Thành. Hôm sau, tức ngày 12-2, thực dân Pháp tổ chức lực lượng, chia thành nhiều mũi bao vây càn quét Hợp Thành và cứu sống được tên này.
Khoảng 4h sáng 16-2, khi đang gác ở chốt, ông Kiểm nghe thấy tiếng ca nô chạy dọc sông Cấm từ phía Hải Phòng lên. Khi đến bến Lâm thì tiếng ca nô nhỏ dần rồi tắt hẳn. Chừng 10 phút sau, 3 tiếng súng cạc-bin vang lên. Thấy lạ, ông Kiểm gọi Tiểu đội trưởng Đồng Xuân Băng dậy để báo cáo tình hình. Đồng chí Băng tổ chức lực lượng để phục kích tiêu diệt địch. Ông Kiểm được phân công đi trinh sát ở xóm Đông thuộc làng Lâm để xem xét tình hình.
Tại xóm Đông, một tiểu đoàn 800 tên, gồm lính Pháp, Âu - Phi và ngụy dưới sự chỉ huy của hai tên quan hai, một tên ở Hải Phòng, một tên ở thị trấn Núi Đèo, đang càn quét trong xóm, dân chúng chạy tán loạn. Lực lượng du kích của xã tập hợp phục kích hai bên đường, chờ địch vào để tiêu diệt.
8h sáng, địch càn đến Lâm Động. Nhìn đâu cũng thấy quân địch với súng ống tua tủa, hỏa lực rất mạch. Quân ta chỉ có 3 tiểu đội du kích, mỗi tiểu đội có 2 khẩu súng trường cùng vài quả mìn muỗi, còn lại toàn dao kiếm, mã tấu. So sánh lực lượng thấy quá chênh lệch nên đồng chí Băng ra lệnh tạm thời phân tán xuống hầm.
Tuy nhiên, trước đó vài hôm, Thủy Nguyên mưa trắng trời, nước ngập khắp nơi, ngập hết cả hầm, nên mạnh ai người ấy chạy. Địch tiến vào Hoàng Hoa bằng 6 mũi, bao vây khắp ngả nên rất nhiều đồng chí bị bắt trên đường rút.
Đồng chí Tửu cùng ông Kiểm chui vào một chiếc hầm nổi, giữa đống gạch ở nhà ông Tài Hanh, xóm Đông, song cũng không thoát được. Chúng lùng sục từ trong nhà ngoài ngõ, trong vườn ngoài ruộng, chọc thuốn sắt xuống từng mét đất, lôi hết cả trẻ em lẫn cụ già từ dưới hầm lên tra khảo.
Thực dân Pháp đã giết chết tất cả đàn ông, đàn bà, già trẻ lớn bé, rồi vứt xác xuống hồ Lâm. Hồ Lâm biến thành một bể xác đỏ lòm màu máu.

* Tổng cộng thằng Tây trắng này đâm ông Kiểm 11 nhát dao chí tử. Thấy người du kích không còn động đậy, máu chảy thành vũng, nhuộm đỏ cơ thể, chúng tưởng ông chết rồi nên bỏ đi.


Giặc Pháp điên cuồng lùng sục truy tìm các chiến sĩ cách mạng và du kích địa phương trên địa bàn xã Hoàng Hoa (Thủy Nguyên, Hải Phòng). Chúng đã phát hiện ra hầm và tóm được ông Nguyễn Kiểm và ông Tửu. Trẻ em, người già, phụ nữ chúng cũng bắt hết để tra khảo.
Một nhóm làm nhiệm vụ tra khảo ông Kiểm, một nhóm tra khảo ông Tửu. Chúng tách hai ông ra hai chỗ khác nhau để tra tấn nhằm kiểm chứng lời khai.
Nhóm lính da đen và da trắng thay nhau đấm đá, dùng đao xẻo da thịt ông Tửu, song cũng không cạy được nửa lời. Biết không khuất phục được ông Tửu, chúng dìm ông xuống một chiếc hầm ngập nước khiến ông chết ngạt.
Kí ức vụ thảm sát ở Hải Phòng (Kỳ cuối), Tin tức Việt Nam, Tin tức trong ngày, tham sat, hai phong, thuc dan phap, tin tuc, tin hot, tin hay
Ông Kiểm vẫn đau lòng khi nhớ lại cảnh thảm sát hơn 60 năm trước
Cũng như ông Tửu, ông Kiểm chỉ nói mỗi hai từ “không biết”. Tên lính da đen thể hiện sức mạnh trâu bò bằng cách dùng đầu húc mạnh vào ngực ông Kiểm. Ông Kiểm chỉ nghe thấy tiếng “cục” rồi xỉu luôn. Cú húc đầu của hắn mạnh đến nỗi làm gãy 2 xương sườn, bẹp xương ngực. Dấu tích vết thương vẫn còn đến ngày hôm nay. Ông Kiểm kéo áo để tôi thấy ngực ông bên to, bên nhỏ.
Nhóm lính chờ ông Kiểm tỉnh dậy, lại tiếp tục đánh đập. Chúng thi nhau đấm đá, thúc mũi giày nhọn, thọc báng súng vào vết thương ở ngực, khiến ông hộc máu mồm, máu mũi. Không khai thác được gì từ ông Kiểm, chúng quẳng ông ra góc sân đình Cả để tên quan hai xử. Mấy đồng chí bộ đội và du kích địa phương cũng bị chúng đánh đập dã man, trói giật cánh khuỷu, máu me đỏ lòm ở miệng, mũi, nằm còng queo ở góc sân đình.
Kí ức vụ thảm sát ở Hải Phòng (Kỳ cuối), Tin tức Việt Nam, Tin tức trong ngày, tham sat, hai phong, thuc dan phap, tin tuc, tin hot, tin hay
Đài tưởng niệm vụ thảm sát đặt cạnh hồ Lâm
Tại đình Cả, ông Kiểm được chứng kiến một cảnh tượng vô cùng kinh hoàng, sự tàn ác không tưởng tượng nổi của bọn thực dân. Tên quan hai ngồi trên một chiếc ghế trên thềm đình Cả, phía dưới sân là hơn trăm người.
Bọn lính Pháp dắt từng người đến trước mặt tên quan hai, rồi bịt mắt họ lại. Tên quan hai chỉ hỏi đúng một câu: “Súng và cán bộ ở đâu?”. Người lắc đầu, người bảo “không biết”. Lập tức, một tên lính tiến lại, chiếc dao găm sắc lẹm lướt qua cổ cắt đứt cuống họng, máu đỏ lênh láng khắp sân đình.
Cả một buổi sáng chúng giết hại người dân bằng cách man rợ như thế. Chúng muốn những du kích địa phương như ông Kiểm tận mắt cảnh giết chóc để ý chí các ông lung lạc, khai ra nơi giấu cán bộ. Tuy nhiên, hành động man rợ đó chỉ đào sâu lòng uất hận, căm thù.
Cắt cổ người dân mãi mà không khai thác được gì, tên quan hai người Pháp sai lính dắt số người còn lại ra chỗ khác để giết. Người thì bị treo cổ, người bị bắn vỡ đầu, người bị đâm chết… Toàn bộ hơn trăm người chúng dẫn về sân đình Cả bị giết sạch.
Kí ức vụ thảm sát ở Hải Phòng (Kỳ cuối), Tin tức Việt Nam, Tin tức trong ngày, tham sat, hai phong, thuc dan phap, tin tuc, tin hot, tin hay
Hồ Lâm, nơi thực dân Pháp vứt xác người dân sau khi giết hại
Chú rể ông Kiểm cũng bị thực dân Pháp bắt trong trận càn quét hôm đó. Ông là thợ may, nên may cái áo kiểu chấn thủ mặc cho ấm. Bọn địch tưởng ông là bộ đội nên bắt về. Ông chú rể nhìn thấy ông Kiểm liền khóc lóc. Ông Kiểm an ủi chú: "Tý nữa là chết thôi chú ạ. Đâu cũng phải chết thì chết cho thật kiên cường". Tra tấn mãi không được thông tin gì, chúng lôi chú rể ông Kiểm đi bắn. Chú rể ông Kiểm đi hiên ngang trước nòng súng của địch. Tiếng súng Cạc-bin vang lên và ông gục xuống.
Giết hết người dân, bọn Pháp quay sang giết những du kích. Tra khảo không được gì, chúng xử luôn bằng viên đạn vào đầu. Ông Kiểm là người cuối cùng bị xử. Tên quan hai Pháp dẫm vào đầu ông, lấy mũi giày hất mặt ông lên. Nhìn khuôn mặt máu me và đôi mắt rực lửa hận thù, biết có đánh đập tra khảo cũng chẳng ăn thua gì, nên hắn ra hiệu bảo dắt đi.
Kí ức vụ thảm sát ở Hải Phòng (Kỳ cuối), Tin tức Việt Nam, Tin tức trong ngày, tham sat, hai phong, thuc dan phap, tin tuc, tin hot, tin hay
Nhà bia ghi tên những người bị giết trong vụ thảm sát ở xã Hoàng Hoa
Mấy tên lính da đen dí súng vào lưng đẩy ông Kiểm đi. Nhóm khác khiêng xác những người đã bị hành quyết đi về phía hồ Lâm và ném xác xuống hồ. Trên đường đi, ông Kiểm gặp cảnh hai đồng chí du kích bị treo ngược lên cành si. Bọn lính thi nhau đấm đá như bao cát. Đấm đá mãi không khai thác được gì, chúng dùng dao găm xẻo thịt, cắt gân, dùng lưỡi lê thọc vào đùi tứa máu.
Khi hai đồng chí này xỉu đi vì mất sạch máu, chúng cắt dây rồi khiêng xác ném xuống hồ Lâm. Chúng tiếp tục treo ông Kiểm lên. Chúng buộc chiếc dây thép nhỏ xíu vào một cánh tay ông, rồi đạp ghế. Cảm giác kinh hoàng đó còn ám ảnh ông đến bây giờ. Cơ thể chàng trai 18 được treo bởi sợi dây nhỏ, như rút từng sợi thần kinh và gân cốt.
Một thằng hỏi bằng tiếng Việt lơ lớ: "Mày biết Việt Minh ở chỗ nào, khai ra, tao xin quan lớn tha cho". Ông Kiểm xác định kiểu gì cũng chết nên không thèm nói lời nào, cũng không thèm kêu đau. Điên tiết, chúng lao vào đấm đá tới tấp. Dây thép bị đứt, chúng không treo ông lên nữa mà dắt về phía hồ Lâm. Lúc đó, cơ thể bầm dập, xương ngực vỡ, xương sườn gãy đau buốt óc, muộn gục xuống, nhưng ông Kiểm vẫn gắng gượng hiên ngang bước đi.
Kí ức vụ thảm sát ở Hải Phòng (Kỳ cuối), Tin tức Việt Nam, Tin tức trong ngày, tham sat, hai phong, thuc dan phap, tin tuc, tin hot, tin hay
Ngực phải ông Kiểm bị lép do tên Tây đen húc đầu làm bẹp xương ngực, gãy xương sườn
Đi đến đình Yến, một tay tên da trắng giữ vai ông, một tay rút dao găm từ hông và hỏi: “Biết Việt Minh ở đâu không?”. Ông lạnh lùng nói “không”, tên này đâm liên tiếp 3 nhát thấu ngực. Ông còn nhìn rõ dòng máu phun ra từ ngực mình xối xả. Hắn giơ chân đạp ông nằm sấp xuống đất rồi đâm tiếp 3 nhát vào lưng trái, chỗ tim, một nhát vào cổ, 2 nhát vào thái dương, một nhát ở mang tai, một nhát ở mông. Tổng cộng thằng Tây trắng này đâm ông Kiểm 11 nhát dao chí tử. Thấy người du kích không còn động đậy, máu chảy thành vũng, nhuộm đỏ cơ thể, chúng tưởng ông chết rồi nên bỏ đi.
Ông Kiểm nằm bên lề đường từ 11h sáng đến 4h chiều thì tỉnh dậy. Ông mở mắt, thấy hai thằng Tây khoác Cạc-bin đi qua. Ông chợt nghĩ, nếu có tỉnh dậy thì phải mở mắt quan sát trước đã, chứ nếu nó biết còn thoi thóp thì ăn đạn là cái chắc. Chỉ mới nghĩ được thế, ông lại ngất đi tiếp.
Nhập nhoạng tối, ông Kiểm lại tỉnh dậy. Ông nghe thấy tiếng bọn Tây cãi nhau chí chóe, tên nào cũng ôm một đống rơm. Như vậy, đêm đó chúng sẽ ở lại xã. Nếu đêm không trốn đi, ngày mai chúng sẽ dọn xác đem chôn hoặc quẳng xuống hồ Lâm.
Kí ức vụ thảm sát ở Hải Phòng (Kỳ cuối), Tin tức Việt Nam, Tin tức trong ngày, tham sat, hai phong, thuc dan phap, tin tuc, tin hot, tin hay
Vết sẹo do đao găn đâm thủng cổ
Đợi đến khi trời tối mịt, ông lổm ngổm mò dậy, hai tay vẫn bị trói quặt sau lưng. Ông Kiểm gượng sức mình lội qua cánh đồng ngập nước. Vừa đi đến vườn đình Yến thì chóng mặt ngã chúi xuống và ngất đi. Do cơ thể mất quá nhiều máu, nên cả đêm ấy cứ hết tỉnh lại mê đến mấy chục lần.
Trời tảng sáng, ông thấy khuôn viên lăng tẩm trong đình cỏ mọc rậm rạp nên gượng sức bò vào nằm giấu mình trong bụi cỏ.
4h chiều, tiếng súng nổ, tiếng chó kêu ầm ĩ, ông biết rằng chúng đang dọn chiến trường. Đến xẩm tối, khi tỉnh dậy, không thấy tiếng súng, tiếng chó, tiếng xì xồ của bọn Tây nữa thì ông chắc chắn chúng đã rút đi.
Ông gượng sức bò ra sân đình Yến thì đã thấy nhân dân nháo nhác đi tìm xác người thân. Tiếng khóc, tiếng ai oán vang lên khắp ngả. Không khí tang tóc bao phủ khắp làng. Ông lại lăn ra bất tỉnh ở sân đình Yến.
Lúc tỉnh dậy, ông thấy mình đã nằm trong nhà cụ Tư Vĩ, người thôn Hầu. Cụ Tư Vĩ là thầy thuốc giỏi, đã đưa người du kích này về nhà mình để điều trị.
Kí ức vụ thảm sát ở Hải Phòng (Kỳ cuối), Tin tức Việt Nam, Tin tức trong ngày, tham sat, hai phong, thuc dan phap, tin tuc, tin hot, tin hay
Ông Kiểm là nhân chứng sống duy nhất của vụ thảm sát kinh hoàng khiến 108 người chết
Sau đó, ông Kiểm được chữa trị suốt 3 tháng ở khu điều dưỡng Đông Triều. Ông Kiểm sống sót được sau cuộc tra tấn khủng khiếp đó cũng là một kỳ tích, song cũng do may mắn. Vết đâm chí tử vào cổ kéo dài từ trước ra sau nhưng may mà không đứt động mạch cổ. 6 vết đâm ở ngực và lưng đều là đâm dọc, nên dao không lách qua khe xương thấu vào tim, phổi.
Giờ đây, ông Kiểm là nhân chứng sống duy nhất của vụ thảm sát kinh hoàng này.
Sau này, khi khỏe lại, ông tiếp tục tham gia lực lượng du kích và chiến đấu tại địa phương. Hòa bình lập lại, ông được nhân dân tín nhiệm bầu làm chủ tịch xã kiêm bí thư 5 khóa liền, cho đến khi ông xin nghỉ hưu vì sức khỏe không cho phép.
Ông Kiểm kể: "Lúc điều trị vết thương ở nhà cụ Tư Vĩ tôi mới biết rõ rằng, chỉ trong buổi sáng, giặc Pháp vừa bắn, vừa giết, cắt cổ tổng cộng 108 người ở xã Hoàng Hoa. Lẽ ra phải là 109 người chết, nhưng tôi từ cõi chết trở về nên còn 108 người. Trong số đó, chỉ có 6 người là du kích, còn lại toàn bộ là dân chúng, người già, phụ nữ và trẻ em”.
Tối 19-2, Chi ủy, Ủy ban và Mặt trận tổ chức cuộc tưởng niệm những người đã hy sinh tại nhà ông Cai Phiệt ở thôn Đông. Nhà và sân ông Cai Phiệt có sức chứa hàng ngàn người mà đêm đó, cán bộ, nhân dân đứng chật ních, trắng xóa khăn tang. Cả làng, cả xã nghẹn ngào uất hận.
Theo VTC

Saturday, 31 May 2014

Lấy đâu ra lắm quân ở Trị Thiên thế?


Các lực lượng của ta và địch tại Trị - Thiên gồm: Bộ binh: ta: 11 sư đoàn và 23 trung đoàn; địch: 13 sư đoàn và 11 trung đoàn, lữ đoàn; Pháo binh: ta: 5 trung đoàn và 7 tiểu đoàn; địch: 65 tiểu đoàn và 85 trung đội; Tăng, thiết giáp: ta: 4 tiểu đoàn; địch: 22 tiểu đoàn và 21 trung đội. Ngoài ra địch còn có 1692 máy bay chiến đấu các loại, 1611 hạm tàu. Các lực lượng của ta và địch đều được bố trí thành các cụm phòng ngự liên hoàn, có công sự kiên cố. Ở thời điểm đầu năm 1972, trên một hướng chiến lược chủ yếu cả ta và địch đã tập trung đến mức cao nhất về lực lượng để quyết chiến thắng.

(Đại tá, ThS Nguyễn Văn Quang & Đại tá Đoàn Văn Minh Viện Lịch sử quân sự Việt Nam,Trị Thiên - hướng tiến công chủ yếu trong cuộc Tổng tiến công chiến lược năm 1972trên chiến trường miền Nam)

Không rõ các nhà sử học ở viện lịch sử quân sự Việt Nam dựa vào các nguồn tài liệu nào để đưa ra các con số trên?

Friday, 30 May 2014

THỦ DÂM CÓ TỘI HAY KHÔNG? (Gioan Lê Quang Vinh)


THỦ DÂM CÓ TỘI HAY KHÔNG?



Facebook là nơi nhiều bạn trẻ trao đổi mọi vấn đề họ gặp trong cuộc sống riêng của mình, là một loại nhật ký chung khá dễ thương. Nhờ Facebook, nhiều bạn trẻ tuyên xưng đức Tin của mình và đồng thời chia sẻ kinh nghiệm sống đức Tin cho nhau.
Tuy nhiên, có điều đáng lo ngại là trên Facebook thỉnh thoảng các bạn đặt ra những câu hỏi liên quan đến đức tin và luân lý, rồi ai muốn trả lời thì cứ việc tự nhiên viết ra mà không cần dựa vào Huấn quyền hay Giáo lý. Chính vì thế mà thỉnh thoảng có những câu trả lời theo ý riêng, ngược hẳn với Giáo lý Công giáo và trái với Huấn quyền Hội Thánh.
Trong phạm vi bài viết này chúng tôi chỉ đưa ra một trường hợp. Có một bạn đặt vấn đề “thủ dâm có tội hay không?”, và mỗi người trả lời theo cách nhìn nhận của mình. Điều đáng ngại nhất là có một bạn dự tu, trả lời quả quyết như đinh đóng cột rằng thủ dâm không có tội.
Điều nguy hiểm nhất là bạn ấy lại biện minh là mình đã tham khảo sách Giáo Lý Công Giáo và nhiều tác phẩm luân lý khác. Có thể bạn ấy có đọc thật, nhưng lại hiểu sai nên mới phán một câu đơn giản: thủ dâm là vấn đề tâm lý, không có tội. Trong xã hội mà đức trong sạch của tuổi mới lớn gặp nhiều cạm bẫy khắp nơi, một người nhận mình là giáo lý viên mà khẳng định điều sai lạc về luân lý quả là điều đau đớn, gây nguy hại cho nhiều tâm hồn.
Dĩ nhiên lối hiểu lệch lạc ấy bị những bạn hiểu biết khác phản ứng lại. Nhưng xét vì việc lên tiếng một cách thiếu trách nhiệm có thể gây nguy hiểm cho các em nhỏ, nhất là người lên tiếng lại được biết đến như là giáo lý viên, chúng ta cần phải giải thích lại cho đúng lề luật Thiên Chúa.
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (số 2352) dạy “Thủ dâm hiểu là việc chủ ý kích thích cơ quan sinh dục để đạt được khoái lạc tình dục. “Dựa theo truyền thống bền vững, cả Huấn quyền cả cảm thức luân lý của các Kitô hữu, không hoài nghi, khẳng định rằng, thủ dâm là một hành vi tự bản chất là vô trật tự cách nghiêm trọng”. “Với bất cứ lý do nào, việc chủ ý sử dụng khả năng tình dục ngoài quan hệ phu phụ đúng đắn cũng là sai mục đích”. (Tuyên ngôn Persona humana của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin)
Một linh mục viết như sau:
 “Truyền thống của Giáo Hội đã luôn hiểu rằng Thánh Kinh, nhất là Tân Ước đã kết án hành vi thủ dâm khi dùng những từ ngữ như "không trong sạch", "không trinh khiết" và những tật xấu trái nghịch với đức trinh khiết hay tiết độ.
Thánh Phaolô viết thư cho tín hữu Ephêsô có viết: "Chuyện gian dâm, mọi thứ ô uế hay tham lam, thì dù nói đến, anh em cũng phải tránh.  Đừng nói lời thô tục, nhảm nhí, cợt nhả:  đó là những điều không nên..." (Eph 5:3-4).  Chỗ khác Ngài viết: "Ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh, tức là xa tránh gian dâm, mỗi người hãy biết lấy cho mình một người vợ để sống cách thánh thiện và trong danh dự.  Chứ không buông theo đam mê dục vọng như dân ngoại là những người không biết Thiên Chúa . Thiên Chúa đã không kêu gọi chúng ta sống ô uế, nhưng sống thánh thiện" (I Tx 4:3-8)”.
Như vậy chúng ta thấy việc thủ dâm vừa là tội phạm đến giới răn của Thiên Chúa, vừa sử dụng khả năng tình dục sai mục đích, lại còn thể hiện sự ích kỷ rõ ràng (hưởng thụ mà không có trách nhiệm). Cho nên giáo lý viên cần nhắc cho các bạn thanh thiếu niên về Giáo Lý số 2352 đã dẫn trên đây: “thủ dâm là một hành vi tự bản chất là vô trật tự cách nghiêm trọng”. Trong tình trạng bình thường, đó là lỗi nặng.
Tuy nhiên, Giáo Lý Công Giáo cũng ghi chú thêm: “Để có phán đoán đúng đắn về trách nhiệm luân lý của đương sự, cũng như đưa ra một đường hướng mục vụ, cần lưu ý đến tình trạng thiếu trưởng thành tình cảm, áp lực của thói quen đã có, tâm trạng lo âu cũng như những yếu tố khác về tâm lý xã hội. Các nhân tố này có thể làm cho sự qui tội luân lý của được giảm nhẹ, thậm chí đến mức tối thiểu”.
Ở đây nhiều tác giả nhắc đến các yếu tố tâm lý vì “khoa tâm lý mang lại một sự đóng góp khá quan trọng khi cho chúng ta biết rằng việc thủ dâm, nhất là khi đã trở thành thói quen, có thể là một chứng bệnh và dấu báo cho thấy có những vấn đề không chỉ thuộc lãnh vực tính dục mà thôi nhưng còn sâu xa hơn nữa, chẳng hạn như gặp khó khăn trong tương quan với người khác, cảm thấy bị lợi dụng về tính cảm một cách sâu xa nên muốn đền bù, phản ứng về một sự khinh miệt nào đó, thất bại trong việc học hành, tình trạng lo âu, bị ám ảnh hay tính dục phát triển quá mạnh.”
Những phân tích và dẫn chứng trên đây cho thấy rằng thủ dâm có ý thức để tìm khoái lạc thân xác là có tội nặng, nghịch Điều răn thứ Sáu. Một số trường hợp do tâm lý, do hoàn cảnh... thì “sự qui tội luân lý của được giảm nhẹ”
Do đó, nói rằng thủ dâm là hành vi tâm lý, không có tội là nói sai luân lý. Có thể vì lý do nào đó người ta phán đoán chưa chính xác hay cố hiểu khác đi, nhưng không thể vì bất cứ lý do nào mà cắt nghĩa giáo lý nơi công cộng một cách sai lạc rõ ràng. Làm cho các em nhỏ hiểu sai về luật luân lý là điều nghiêm trọng.
Nhân đây, chúng con cũng kính mong quí Cha, nhất là các Cha giải tội cho giới trẻ, thỉnh thoảng ghé vào Facebook để điều chỉnh cho những “lời phán dạy” sai lạc, hay trả lời các câu hỏi mà các bạn trẻ đưa ra nhưng không đồng ý về các giải pháp.
Để kết luận, xin trích dẫn lời khuyên từ một linh mục: (Nếu bạn mắc tội này), “bạn hãy đi xưng tội, và nói rõ cho cha giải tội biết bạn mắc tội thủ dâm cũng như số lần mắc phạm. Cha giải tội sẽ hướng dẫn cho bạn. Mỗi lần bạn đi xưng tội với lòng ăn năn sám hối chân thành bạn sẽ được ơn Chúa trở giúp và chữa lành để bạn có thể vượt qua những cơn cám dỗ, và nhất là trong yếu đuối và bất toàn của bạn thân, bạn không đánh mất lòng tin và niềm hy vọng vào Thiên Chúa Tình Yêu.”
Gioan Lê Quang Vinh

Tác giả: Gioan Lê Quang Vinh      

Thursday, 29 May 2014

COMRADE B ON THE PLOT OF THE REACTIONARY CHINESE CLIQUE AGAINST VIETNAM


COMRADE B ON THE PLOT OF THE REACTIONARY CHINESE CLIQUE AGAINST VIETNAM

Generally speaking, after we had defeated the Americans, there was no imperialist that would dare to fight us again. The only persons who thought they could still fight us and dared to fight us were Chinese reactionaries. But the Chinese people did not want it like that at all. I do not know how much longer some of these Chinese reactionaries will continue to exist. However, as long as they do, then they will strike us as they have just recently done [meaning in early 1979]. If war comes from the north, then the [northern central] provinces of Nghe An, Ha Tinh and Thanh Hoa will become the bases for the entire country. They are unparalleled as the most efficient, the best and the strongest bases. For if the Deltas [in the north] continued as an uninterrupted stretch, then the situation would be very complicated. Not at all a simple matter. If it had not been for the Vietnamese, there would not have been anyone to fight the USA, because at the time the Vietnamese were fighting the USA, the rest of the world was afraid of the USA... Although the Chinese helped [North] Korea, it was only with the aim of protecting their own northern flank. After the fighting had finished [in Korea] and when the pressure was on Vietnam, he [this appears to be a reference to Zhou Enlai as the text soon seems to suggest] said that if the Vietnamese continued to fight they would have to fend for themselves. He would not help any longer and pressured us to stop fighting.

When we had signed the Geneva Accords, it was precisely Zhou Enlai who divided our country into two [parts]. After our country had been divided into northern and southern zones in this way, he once again pressured us into not doing anything in regard to southern Vietnam. They forbade us from rising up [against the US-backed Republic of Vietnam]. [But] they, [the Chinese,] could do nothing to deter us.

When we were in the south and had made preparations to wage guerrilla warfare immediately after the signing of the Geneva Accords, Mao Zedong told our Party Congress that we had to force the Lao to transfer immediately their two liberated provinces to [the] Vientiane government. Otherwise the Americans would destroy them, a very dangerous situation [in the Chinese view]! Vietnam had to work at once with the Americans [concerning this matter]. Mao forced us in this way and we had to do it.

Then, after these two [Lao] provinces had been turned over to Vientiane, the [Lao] reactionaries immediately arrested Souphanouvong [President of Laos, 1975-86]. The Lao had two battalions which were surrounded at the time. Moreover, they were not yet combat ready. Later, one battalion was able to escape [encirclement]. At that time, I gave it as my opinion that the Lao must be permitted to wage guerrilla warfare. I invited the Chinese to come and discuss this matter with us. I told them, "Comrades, if you go ahead pressuring the Lao in this way, then their forces will completely disintegrate. They must now be permitted to conduct guerrilla warfare."

Zhang Wentian, who was previously the Secretary General [of the Chinese Communist Party] and used the pen name Lac Phu, answered me: "Yes, comrades, what you say is right. Let us allow that Lao battalion to take up guerrilla war".

I immediately asked Zhang Wentian: "Comrades, if you allow the Lao to take up guerrilla war, then there is nothing to fear about launching guerrilla war in south Vietnam. What is it that frightens you so much so that you still block such action?"

He [Zhang Wentian] said: "There is nothing to be afraid of!"

That was what Zhang Wentian said. However, Ho Wei, the Chinese ambassador to Vietnam at that time, [and] who was seated there, was listening to what was being said. He immediately cabled back to China [reporting what had been said between Le Duan and Zhang Wentian]. Mao replied at once: "Vietnam cannot do that [taking up guerrilla war in the south]. Vietnam must lie in wait for a protracted period of time!" We were so poor. How could we fight the Americans if we did not have China as a rearguard base? [Thus], we had to listen to them, correct?

However, we did not agree. We secretly went ahead in developing our forces. When [Ngo Dinh] Diem dragged his guillotine machine throughout much of southern Vietnam, we issued the order to form mass forces to oppose the established order and to take power [from the Diem government]. We did not care [about the Chinese]. When the uprising to seize power had begun, we went to China to meet with both Zhou Enlai and Deng Xiaoping. Deng Xiaoping told me: "Comrade, now that your mistake has become an accomplished fact, you should only fight at the level of one platoon downward." That was the kind of pressure they exerted on us.

I said [to the Chinese]: "Yes, yes! I will do that. I will only fight at the level of one platoon downwards." After we had fought and China realized that we could fight efficiently, Mao suddenly had a new line of thinking. He said that as the Americans were fighting us, he would bring in [Chinese] troops to help us build roads. His essential aim was to find out about the situation in our country so that later he could strike us, and thereby expand into Southeast Asia. There was no other reason. We were aware of this matter, but had to allow it [the entry of Chinese troops]. But that was OK. They decided to send in their soldiers. I only asked that they send personnel, but these troops came with guns and ammunition. I also had to countenance this.

Later, he [Mao Zedong] forced us to permit 20,000 of his troops to come and build a road from Nghe Tinh into Nam Bo [the Vietnamese term for southern Vietnam]. I refused. They kept proposing, but I would not budge. They pressured me into permitting them to come, but I did not accept it. They kept on pressuring, but I did not agree. I provide you with these examples, comrades, so that you can see their long-standing plot to steal our country, and how wicked their plot is.

- After the Americans had introduced several hundred thousand troops into southern Vietnam, we launched a general offensive in 1968 to force them to de-escalate. In order to defeat the US, one had to know how to bring them to de-escalate gradually. That was our strategy. We were fighting a big enemy, one with a population of 200 million people and who dominated the world. If we could not bring them to de-escalate step-by- step, then we would have floundered and would have been unable to destroy the enemy. We had to fight to sap their will in order to force them to come to the negotiating table with us, yet without allowing them to introduce more troops.

When it came to the time when they wanted to negotiate with us, Ho Wei wrote a letter to us saying: "You cannot sit down to negotiate with the US. You must bring US troops into northern Vietnam to fight them." He pressured us in this way, making us extremely puzzled. This was not at all a simple matter. It was very tiresome every time these situations arose [with the Chinese].

We decided that it could not be done that way [referring to Ho Wei's advice not to negotiate with the US]. We had to sit back down in Paris. We had to bring them [the US] to de-escalate in order to defeat them. During that time, China made the announcement [to the US]: "If you don't attack me, I won't attack you. However many troops you want to bring into Vietnam, it's up to you." China, of its own accord, did this and pressured us in this way.

They [the Chinese] vigorously traded with the Americans and compelled us to serve as a bargaining chip in this way. When the Americans realized that they had lost, they immediately used China [to facilitate] their withdrawal [from southern Vietnam]. Nixon and Kissinger went to China in order to discuss this matter.
- Before Nixon went to China, [the goal of his trip being] to solve the Vietnamese problem in such a way as to serve US interests and to lessen the US defeat, as well as to simultaneously allow him to entice China over to the US [side] even more, Zhou Enlai came to visit me. Zhou told me: "At this time, Nixon is coming to visit me principally to discuss the Vietnamese problem, thus I must come to meet you, comrade, in order to discuss [it with you]."

I answered: "Comrade, you can say whatever you like, but I still don't follow. Comrade, you are Chinese; I am a Vietnamese. Vietnam is mine [my nation]; not yours at all. You have no right to speak [about Vietnam's affairs], and you have no right to discuss [them with the Americans]. Today, comrades, I will personally tell you something which I have not even told our Politburo, for, comrade, you have brought up a serious matter, and hence I must speak:
- In 1954, when we won victory at Dien Bien Phu, I was in Hau Nghia [province]. Bac [Uncle] Ho cabled to tell me that I had to go to southern Vietnam to regroup [the forces there] and to speak to the southern Vietnamese compatriots [about this matter]. I traveled by wagon to the south. Along the way, compatriots came out to greet me, for they thought we had won victory. It was so painful! Looking at my southern compatriots, I cried. Because after this [later], the US would come and massacre [the population] in a terrible way.

Upon reaching the south, I immediately cabled Bac Ho to ask to remain [in the south] and not to return to the north, so that I could fight for another ten years or more. [To Zhou Enlai]: "Comrade, you caused me hardship such as this [meaning Zhou's role in the division of Vietnam at Geneva in 1954]. Did you know that, comrade?"

Zhou Enlai said: "I apologize before you, comrade. I was wrong. I was wrong about that [meaning the division of Vietnam at Geneva]." After Nixon had already gone to China, he [Zhou Enlai] once again came to Vietnam in order to ask me about a number of problems concerning the fighting in southern Vietnam.

However, I immediately told Zhou Enlai: "Nixon has met with you already, comrade. Soon they [the US] will attack me even harder." I am not at all afraid. Both sides [the US and China] had negotiated with each other in order to fight me harder. He [Zhou Enlai] did not as yet reject this [view] as unfounded, and only said that "I will send additional guns and ammunition to you comrades."

Then he [Zhou Enlai] said [concerning fears of a secret US-Chinese plot]: "There was no such thing." However, the two had discussed how to hit us harder, including B-52 bombing raids and the blocking of Haiphong [harbor]. This was clearly the case.

- If the Soviet Union and China had not been at odds with each other, then the US could not have struck us as fiercely as they did. As the two [powers of China and the Soviet Union] were in conflict, the Americans were unhampered [by united socialist bloc opposition]. Although Vietnam was able to have unity and solidarity both with China and the USSR, to achieve this was very complicated, for at that time we had to rely on China for many things. At that time, China annually provided assistance of 500,000 tons of foodstuffs, as well as guns, ammunition, money, not to mention dollar aid. The Soviet Union also helped in this way. If we could not do that [preserve unity and solidarity with China and the USSR], things would have been very dangerous. Every year I had to go to China twice to talk with them [the Chinese leadership] about [the course of events] in southern Vietnam. As for the Soviets, I did not say anything at all [about the situation in southern Vietnam]. I only spoke in general terms. When dealing with the Chinese, I had to say that both were fighting the US. Alone I went. I had to attend to this matter. I had to go there and talk with them many times in this way, with the main intention to build closer relations between the two sides [meaning Chinese and Vietnamese]. It was precisely at this time that China pressured us to move away from the USSR, forbidding us from going with the USSR's [side] any longer.

They made it very tense. Deng Xiaoping, together with Kang Sheng, came and told me: "Comrade, I will assist you with several billion [presumably yuan] every year. You cannot accept anything from the Soviet Union."

I could not allow this. I said:


"No, we must have solidarity and unity with the whole [socialist] camp."

In 1963, when Khrushchev erred, [the Chinese] immediately issued a 25-point declaration and invited our Party to come and give our opinion. Brother Truong Chinh and I went together with a number of other brothers. In discussions, they [the Chinese] listened to us for ten or so points, but when it came to the point of "there is no abandonment of the socialist camp," they did not listen...Deng Xiaoping said, "I am in charge of my own document. I seek your opinion but I do not accept this point of yours."

Before we were to leave, Mao met with Brother Truong Chinh and myself. Mao sat down to chat with us, and in the end he announced: "Comrades, I would like you to know this. I will be president of 500 million land-hungry peasants, and I will bring an army to strike downwards into Southeast Asia." Also seated there, Deng Xiaoping added: "It is mainly because the poor peasants are in such dire straits!"

Once we were outside, I told Brother Truong Chinh: "There you have it, the plot to take our country and Southeast Asia. It is clear now." They dared to announce it in such a way. They thought we would not understand. It is true that not a minute goes by that they do not think of fighting Vietnam!

I will say more to you comrades so that you may see more of the military importance of this matter. Mao asked me:

In Laos, how many square kilometers [of land] are there?

I answered:
About 200,000 [sq. km.].

What is its population? [Mao asked]:

[I answered]: Around 3 million!

[Mao responded:] That's not very much! I'll bring my people there, indeed!

[Mao asked:] How many square kilometers [of land] are there in Thailand?.

[I responded]: About 500,000 [sq. km.].

And how many people? [Mao asked].

About 40 million! [I answered].

My God! [Mao said], Szechwan province of China has 500,000 sq. km., but has 90 million people. I'll take some more of my people there, too [to Thailand]!

As for Vietnam, they did not dare to speak about moving in people this way. However, he [Mao] told me: "Comrade, isn't it true that your people have fought and defeated the Yuan army?" I said: "Correct." "Isn't it also true, comrade, that you defeated the Qing army?" I said: "Correct." He said: "And the Ming army as well?" I said: "Yes, and you too. I have beaten you as well. Did you know that?" I spoke with Mao Zedong in that way. He said: "Yes, yes!" He wanted to take Laos, all of Thailand ? as well as wanting to take all of Southeast Asia. Bringing people to live there. It was complicated [to that point].

In the past [referring to possible problems stemming from the Chinese threat during these times], we had made intense preparations; it is not that we were unprepared. If we had not made preparations, the recent situation would have been very dangerous. It was not a simple matter. Ten years ago, I summoned together our brothers in the military to meet with me. I told them that the Soviet Union and the US were at odds with each other. As for China, they had joined hands with the US imperialists. In this tense situation, you must study this problem immediately. I was afraid that the military did not understand me, so I told them that there was no other way to understand the matter. But they found it very difficult to understand. It was not easy at all. But I could not speak in any other way. And I did not allow others to grab me.

When I went to the Soviet Union, the Soviets were also tough with me about China. The Soviet Union had convened a conference of 80 [communist] Parties in support of Vietnam, but Vietnam did not attend this conference, for [this gathering] was not simply aimed at helping Vietnam, but it was also designed to condemn China. Thus Vietnam did not go. The Soviets said: "Have you now abandoned internationalism [or] what? Why have you done this?" I said: "I have not abandoned internationalism at all. I have never done this. However, to be internationalist, the Americans must be defeated first. And if one wants to defeat the Americans, then there must be unity and solidarity with China. If I had gone to this conference, then the Chinese would have created very severe difficulties for us. Comrades, please understand me."

In China there were also many different and contending opinions. Zhou Enlai agreed on forming a front with the Soviet Union in order to oppose the Americans. Once, when I went to the USSR to participate in a national day celebration, I was able to read a Chinese cable sent to the Soviet Union saying that "whenever someone attacks the USSR, then the Chinese will stand by your side." [This was] because there was a treaty of friendship between the USSR and China dating from earlier times [February 1950]. Sitting next to Zhou Enlai, I asked him: "In this cable recently sent to the USSR, you have agreed, comrade, to establish a front with the Soviet Union, but why won't you form a front to oppose the US?" Zhou Enlai said: "We can. I share that view. Comrades, I will form a front with you [on Vietnam]." Peng Zhen, who was also seated there, added: "This opinion is extremely correct!" But when the matter was discussed in Shanghai, Mao said it was not possible, cancel it. You see how complicated it was.

Although Zhou Enlai held a number of those opinions, he nonetheless agreed on building a front and [he] helped Vietnam a lot. It was thanks to him that I could understand [much of what was going on in China]. Otherwise it would have been very dangerous. He once told me: "I am doing my best to survive here, to use Li Chiang to accumulate and provide assistance for you, comrades." And that there was [meaning that Zhou was able to use Li Chiang in order to help the Vietnamese]. My understanding is that without Zhou Enlai this would not have been possible at all. I am indebted to him.

However, it is not correct to say that other Chinese leaders shared Zhou Enlai's view at all. They differed in many ways. It must be said that the most uncompromising person, the one with the Greater Han mentality, and the one who wanted to take Southeast Asia, was mainly Mao. All of [China's] policies were in his hands.

The same applies to the current leaders of China. We do not know how things will turn out in the future, however, [the fact of the matter is that] they have already attacked us. In the past, Deng Xiaoping did two things which have now been reversed. That is, when we won in southern Vietnam, there were many [leaders] in China who were unhappy. However, Deng Xiaoping nonetheless congratulated us. As a result of this, he was immediately considered a revisionist by the others.

When I went to China for the last time, I was the leader of the delegation, and I met with the Chinese delegation led by Deng Xiaoping. In speaking of territorial problems, including discussion of several islands, I said: "Our two nations are near each other. There are several areas of our territory which have not been clearly defined. Both sides should establish bodies to consider the matter. Comrades, please agree with me [on this]. He [Deng] agreed, but after doing so he was immediately considered a revisionist by the other group of leaders.

But now he [Deng] is crazy. Because he wants to show that he is not a revisionist, therefore he has struck Vietnam even harder. He let them go ahead in attacking Vietnam. After defeating the Americans we kept in place over one million troops, leading Soviet comrades to ask us: "Comrades, whom do you intend to fight that you keep such a large [standing] army?" I said: "Later, comrades, you will understand." The only reason we had kept such a standing army was because of China['s threat to Vietnam]. If there had not been [such a threat], then this [large standing army] would have been unnecessary. Having been attacked recently on two fronts, [we can see that] it would have been very dangerous if we had not maintained a large army.

(B) [The meaning of this "B" in the original text is unclear] - In the wake of WWII, everyone held the international gendarme to be American imperialism. They could take over and bully all of the world. Everyone, including the big powers, were afraid of the US. It was only Vietnam that was not afraid of the US.

I understand this matter for my line of work has taught me it. The first person to fear [the Americans] was Mao Zedong. He told me, that is, the Vietnamese and Lao, that: "You must immediately turn over the two liberated provinces of Laos to the [Vientiane] [government]. If you do not do so, then the US will use it as a pretext to launch an attack. That is a great danger." As for Vietnam, we said: "We have to fight the Americans in order to liberate southern Vietnam." He [Mao] said: "You cannot do that. Southern Vietnam must lie in wait for a long period, for one lifetime, 5-10 or even 20 lifetimes from now. You cannot fight the Americans. Fighting the US is dangerous". Mao Zedong was scared of the US to that extent...

But Vietnam was not scared. Vietnam went ahead and fought. If Vietnam had not fought the US, then southern Vietnam would not have been liberated. A country which is not yet liberated will remain a dependent one. No one is independent if only one-half of the country is free. It was not until 1975 that our country finally achieved its full independence. With independence would come freedom. Freedom should be freedom for the whole of the Vietnamese nation...

Engels had already spoken on people's war. Later the Soviet Union, China, and ourselves also spoke [on this matter]. However, these three countries differ a lot on the content [of people's war]. It is not true that just because you have millions of people you can do whatever you like. China also spoke on people's war, however, [they held that] "when the enemy advances, we must retreat." In other words, defense is the main feature, and war is divided into three stages with the countryside used to surround the cities, while [the main forces] remain in the forests and mountains only... The Chinese were on the defensive and very weak [during World War II]. Even with 400 million people pitted against a Japanese army of 300,000 to 400,000 troops, the Chinese still could not defeat them.

I have to repeat it like that, for before China had sent advisers to us [some of our Vietnamese] brothers did not understand. They thought the [Chinese] were very capable. But they are not so skilled, and thus we did not follow [the Chinese advice].

In 1952, I left northern Vietnam for China, because I was sick and needed treatment. This was my first time abroad. I put questions to them [the Chinese] and saw many very strange things. There were areas [which had been] occupied by Japanese troops, each with a population of 50 million people, but which had not [had] a single guerrilla fighter...

When I returned from China, I met Uncle [Ho]. He asked me:

This was your first time to go abroad, isn't that right?

Yes, I went abroad for the first time.

What did you see?

I saw two things: Vietnam is very brave and they [the Chinese] are not brave at all.

I understood this from that day on. We [the Vietnamese] were entirely different from them. Courage is inherent in the Vietnamese person, and thus we have never had a defensive strategy. Every inhabitant fights.

Recently, they [the Chinese] have brought several hundred thousand troops in to invade our country. For the most part, we have used our militia and regional troops to attack them. We were not on the defensive, and thus they suffered a setback. They were not able to wipe out a single Vietnamese platoon, while we wiped out several of their regiments and several dozen of their battalions. That is so because of our offensive strategy.

The American imperialists fought us in a protracted war. They were so powerful, yet they lost. But there was a special element, that is the acute contradictions between the Chinese and the Soviets. [Because of this,] they have attacked us hard like this.

...Vietnam fought the Americans, and fought them very fiercely, but we know that the US was an extremely large country, more than capable of amassing 10 million troops and bringing all of its considerably powerful weapons in to fight us. Therefore we had to fight over a long period of time in order to bring them to de-escalation. We were the ones who could do this; the Chinese could not. When the American army attacked Quong Tre, the Politburo ordered troops to be brought in to fight at once. We were not afraid. After that I went to China to meet Zhou Enlai. He told me: "It [the attack in Queng Tre] is probably unparalleled, unique. In life there is only one [chance,] not two. No one has ever dared to do what you, comrades, have done."

...Zhou Enlai was the Chief of the General Staff. He dared to speak, he was more frank. He told me: "If I had known before the ways which you comrades employ, we would not have needed the Long March." What was the Long March for? At the beginning of the march there were 300,000 troops; and at the end of the Long March there were only 30,000 remaining. 270,000 people were lost. It was truly idiotic to have done it in this way ? [I] speak as such so that you, comrades, know how much we are ahead of them. In the near future, if we are to fight against China, we will certainly win... However, the truth is that if a different country [other than Vietnam] were to fight against China, it is not clear that they would win like this [like Vietnam].

...If China and the USSR had been united with each other, then it is not certain that the US would have dared to fight us. If the two had been united and joined together to help us, it is not certain that the US would have dared to have fought us in the way in which they did. They would have balked from the very beginning. They would have balked in the same way during the Kennedy period. Vietnam, China, and the USSR all helped Laos and the US immediately signed a treaty with Laos. They did not dare to send American troops to Laos, they let the Lao [People's Revolutionary] Party participate in the government right away. They did not dare to attack Laos any more.

Later, as the two countries [the USSR and China] were at odds with each other, the Americans were informed [by the Chinese] that they could go ahead and attack Vietnam without any fear. Don't be afraid [of Chinese retaliation]. Zhou Enlai and Mao Zedong told the Americans: "If you don't attack me, then I won't attack you. You can bring in as many troops into southern Vietnam as you like. It's up to you."

...We are [presently] bordering on a very strong nation, one with expansionist intentions which, if they are to be implemented, must start with an invasion of Vietnam. Thus, we have to shoulder yet another, different historical role. However, we have never shirked from our historical tasks. Previously, Vietnam did carry out its tasks, and this time Vietnam is determined not to allow them to expand. Vietnam preserves its own independence, and by doing so is also safeguarding the independence of Southeast Asian nations. Vietnam is resolved not to allow the Chinese to carry out their expansionist scheme. The recent battle [with China] was one round only. Presently, they are still making preparations in many fields. However, whatever the level of their preparations, Vietnam will still win...

Waging war is no leisurely walk in the woods. Sending one million troops to wage war against a foreign country involves countless difficulties. Just recently they brought in 500,000 to 600,000 troops to fight us, yet they had no adequate transport equipment to supply food to their troops. China is presently preparing 3.5 million troops, but they have to leave half of them on the [Sino-Soviet] border to deter the Soviets. For that reason, if they bring 1 or 2 million troops in to fight us, we will not be afraid of anything. We have just engaged 600,000 troops, and, if, in the near future, we have to fight 2 million, it will not be a problem at all. We are not afraid.

We are not afraid because we already know the way to fight. If they bring in 1 million troops, they will only gain a foothold in the north. Descending into the mid-lands, the deltas, and into Hanoi and even further downwards would be difficult. Comrades, as you know, Hitler's clique struck fiercely in this way, yet when they [the German Nazis] arrived in Leningrad they could not enter. With the cities, the people, and defense works, it is impossible to carry out effective attacks against each and every inhabitant. Even fighting for two, three, or four years they will still not be able to enter. Every village there [in the north] is like this. Our guidelines are: Each district is a fortress, each province a battlefield. We will fight and they will not be able to enter at all.

However, it is never enough just to fight an enemy at the frontline. One must have a strong direct rearguard. After the recent fighting ended, we assessed that, in the near future, we must add several million more people to the northern front. But as the enemy comes from the north, the direct rear for the whole country must be Thanh Hoa, Nghe An, Ha Tinh... The direct rear to protect the capital must be Thanh Hoa and Nghe Tinh. We have enough people. We can fight them in many ways... We can use 2 to 3 army corps to inflict a strong blow on them that will make them stagger, while we continue to hold our land. To this end, each soldier must be a real soldier and each squad a real squad.

- Having now fought one battle already, we should not be subjective. Subjectivism and underestimation of the enemy are incorrect, but a lack of self-confidence is also wrong. We are not subjective, we do not underestimate the enemy. But we are also confident and firmly believe in our victory. We should have both these things.

- The Chinese now have a plot to attack [us] in order to expand southwards. But in the present era nothing can be done and then wrapped up tidily. China has just fought Vietnam for a few days, yet the whole world has shouted: ["]Leave Vietnam alone!["] The present era is not like the olden times. In those days, it was only us and them [meaning the Chinese]. Now the whole world is fastened closely together. The human species has not yet entered the socialist phase at all; instead this is a time where everyone wants independence and freedom. [Even] on small islands, people want independence and freedom. All of humankind is presently like this. That is very different than it was in olden times. In those days, people were not yet very aware of these things. Thus the sentence of Uncle H?: "There is nothing more precious than independence and freedom" is an idea of the present era. To lay hands on Vietnam is to lay hands on humanity and infringe on independence and freedom... Vietnam is a nation that symbolizes independence and freedom.

- When it came to fighting the US, our brothers in the Politburo had to discuss together this matter to consider whether we dared to fight the US or not. All were agreed to fight. The Politburo expressed its resolve: In order to fight the Americans, we must not fear the USA. All were of the same mind. As all agreed to fight the US, to have no fear of the USA, we must also not fear the USSR. All agreed. We must also not fear China. All agreed. If we don't fear these three things, we can fight the US. This was how we did things in our Politburo at that time.

Although the Politburo met and held discussions like this and everyone was of the same mind, there was later one person who told a comrade what I said. That comrade rose to question the Politburo, asking for what reason does Anh Ba once again say that if we want to fight the Americans then we should not fear the Chinese? Why does he have to put it this way again?

At that time, Brother Nguyen Chi Thanh, who thus far was suspected of being sympathetic to the Chinese, stood up and said: "Respected Politburo and respected Uncle Ho, the statement of Anh Ba was correct. It must be said that way [referring to the need not to fear the Chinese], for they [the Chinese] give us trouble on many matters. They blocked us here, then forced our hands there. They do not let us fight..."

While we were fighting in southern Vietnam, Deng Xiaoping stipulated that I (toi) could only fight at the level of one platoon downward, and must not fight at a higher level. He [Deng Xiaoping] said: "In the south, since you have made the mistake of starting the fighting already, you should only fight at the level of one platoon downward, not at a higher level." That is how they brought pressure to bear on us.

- We are not afraid of anyone. We are not afraid because we are in the right. We do not fear even our elder brother. We also do not fear our friends. Of course, we do not fear our enemies. We have fought them already. We are human beings; we are not afraid of anyone. We are independent. All the world knows we are independent.

We must have a strong army, because our nation is under threat and being bullied... It cannot be otherwise. If not, then it will be extremely dangerous, but our country is poor.

- We have a strong army, but that does not in any way weaken us. The Chinese have several policies towards us: To invade and to occupy our country; to seek to weaken us economically and to make our living condi- tions difficult. For these reasons, in opposing China we must, first of all, not only fight, but also make ourselves stronger. To this end, in my view, our army should not be a force that wastes the resources of the state, but should also be a strong productive force. When the enemies come, they [the soldiers] grab their guns at once. When no enemy is coming, then they will produce grandly. They will be the best and highest symbol in production, producing more than anyone else. Of course, that is not a new story...

- At present, our army shoulders an historical task: to defend our independence and freedom, while simultaneously protecting the peace and independence of the whole world. If the expansionist policy of the reactionary Chinese clique cannot be implemented any longer, that would be in the interest of the whole world. Vietnam can do this. Vietnam has 50 million people already. Vietnam has Lao and Cambodian friends and has secure terrain. Vietnam has our camp and all of mankind on its side. It is clear that we can do this.

...Do our comrades know of anyone in our Party, among our people, who suspects that we will lose to China? No one, of course. But we must maintain our friendly relations. We do not want national hatred. I repeat: I say this because I have never felt hatred for China. I do not feel this way. It is they who fight us. Today I also want you comrades to know that in this world, the one who has defended China is myself! That is true. Why so? Because during the June 1960 conference in Bucharest, 60 Parties rose to oppose China, but it was only I who defended China. Our Vietnamese people is like that. I will go ahead and repeat this: However badly they behave, we know that their people are our friends. As for our side, we have no evil feelings towards China. Yet the plot of several [Chinese] leaders is a different matter. We refer to them as a clique only. We do not refer to their nation. We did not say the Chinese people are bad towards us. We say that it is the reactionary Beijing clique. I again say it strictly like this.

Thus, let us keep the situation under firm control, remain ready for combat, and never relax in our vigilance. It is the same with respect to China. I am confident that in 50 years, or even in 100 years, socialism may succeed; and then we will not have this problem any longer. But it will take such a [long] time. Therefore, we must prepare and stand ready in all respects.

At present, no one certainly has doubts any more. But five years ago I was sure there [were no] comrades who doubted] that China could strike us. But there were. That as the case because [these] comrades had no knowledge about this matter. But that was not the case with us [Le Duan and the leadership]. We knew that China had been attacking us for some ten years or more. Therefore we were not surprised [by the January 1979 Chinese attack].



Wilson Center Digital Archive

Citation:

"Comrade B on the Plot of the Reactionary Chinese Clique Against Vietnam,"
1979, History and Public Policy Program Digital Archive, People's Army
Library, Hanoi. Obtained and translated for CWIHP by Christopher Goscha.
http://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/112982

Speech by Comrade B (Le Duan) regarding the plot of reactionary Chinese
clique against Vietnam. The document illuminates the views and attitudes of
Vietnam's top leader in the crisis year 1979, and also some aspects of the
situation within the socialist camp at that particular juncture. 

This document was made possible with support from the War History Foundation.