Lực lượng Phòng cháy, chữa cháy: Chặng đường xây dựng và trưởng thành
Ngày 4/10/1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh số 53/LCT của Chủ tịch nước công bố ”Pháp lệnh quy định việc quản lý Nhà nước đối với công tác PCCC”. Sự kiện này đánh dấu sự thay đổi về chất trong công tác PCCC của Nhà nước, đồng thời mở ra trang mới trong lịch sử của lực lượng Cảnh sát PCCC.
I/ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ GÓP PHẦN XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ
QUỐC GIAI ĐOẠN TỪ 1945 ĐẾN NĂM 1986
1. Hoạt động của lực lượng PCCC trước, trong, sau Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến chống thực dân Pháp (giai đoạn từ năm 1945
đến năm 1954)
Đầu năm 1945, một số anh em binh sỹ Sở Cứu hỏa Sài Gòn - Chợ Lớn đã
bắt liên lạc với cán bộ cách mạng và đã tổ chức nhiều cuộc diễn thuyết tố
cáo sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp ở đồn điền cao su Phú Riềng,
xưởng đóng tàu Ba Son và đồng thời thành lập tổ chức thanh niên tiền phong và Việt Minh của Sở để tổ chức giành chính quyền cơ sở.
Ngày 24/8/1945, Sở chữa lửa Sài Gòn - Chợ Lớn là một trong 6 đơn vị treo cờ đỏ sao vàng đầu tiên của thành phố, cờ đỏ sao vàng đã phấp phới bay trên đỉnh tháp tập của Sở chữa lửa Sài Gòn - Chợ Lớn, tiếp đó ngày
28/8/1945 anh em Sở chữa lửa Sài Gòn - Chợ Lớn đi trên xe chữa cháy tham gia diễu hành cùng hàng vạn người của thành phố. Sau ngày đó, Sở đã giao 2 chiến sỹ chữa cháy bảo vệ lá cờ đỏ sao vàng và một trong hai chiến sỹ trên (đồng chí Hạnh Bum) đã hy sinh dưới tháp tập vì thực dân
Pháp trở lại xâm lược nước ta đã bắn chết đồng chí Hạnh. 8h00 ngày 24/9/1945 chiến sỹ Sở cứu hỏa được lệnh rút ra căn cứ, tối 24/9 tổ chức
đánh vào Sở chữa lửa giải phóng cướp xe chữa cháy rút về Gò Đen, Bến Lức, Long An tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp nhưng 3 xe chữa cháy bị kẹt lại ở thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn.
Thất bại ở Điện Biên Phủ 7/5/1954, thực dân Pháp có ý đồ di chuyển
phương tiện, xe chữa cháy của Hà Nội rút vào Nam nhưng Tổ công đoàn
do đồng chí Nguyễn Văn Dần, lái xe, đảng viên 1949 hoạt động bí mật chỉ
huy đã đấu tranh giữ toàn bộ phương tiện chữa cháy của Sở cho đến ngày
giải phóng Thủ đô và ngày 11/10/1954 đoàn cán bộ thuộc Sở Liêm Phóng vào tiếp quản đội cứu hỏa Hà Nội, tháng 12/1954 Đại đội cứu hỏa Hà Nội thuộc Phòng Trị an dân cảnh được thành lập với 7 xe chữa cháy và gần 60 cán bộ chiến sỹ.
2. Lực lượng PCCC trong công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ thống nhất đất nước (giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1975)
Ngày 01/01/1955 Đại đội cứu hỏa Hà Nội nhận nhiệm vụ cử một tiểu đội tham gia bảo vệ lễ đài Ba Đình trong buổi mít tinh của nhân dân Thủ đô chào mừng Đảng và Chính phủ sau 9 năm kháng chiến trở về Thủ đô.
Cũng trong ngày này, lực lượng PCCC vinh dự được Bác Hồ thân mật bắt tay từng người một và Người đã có lời chúc Tết, lời chúc Tết năm đó luôn là mục tiêu phấn đấu của lực lượng CSPCCC cho đến bây giờ, lời chúc đó là “Nhân dịp năm mới, Bác chúc các chú thất nghiệp nhưng phải tích cực học tập”.
Ngày 27/6/1955 Bộ Công an có Chỉ thị 479/TA-TF hướng dẫn việc phòng hỏa, cứu hỏa và quy định đó là nhiệm vụ của mọi người nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, bảo vệ các công trình kiến thiết, các cơ sở kinh tế quốc gia, ngăn ngừa hành vi phản cách mạng và phá hoại của kẻ địch.
Ngày 30/12/1955 Chính phủ có Thông tư 3366/CP về việc giao Bộ Công an quản lý công tác phòng, cứu hỏa và tiếp nhận xe và máy bơm chữa cháy do Liên Xô viện trợ.
Ngày 27/3/1956 Bộ Công an có Chỉ thị số 347/TA về việc xây dựng lực lượng PCCC chuyên nghiệp ở miền Bắc. Ngày 01/06/1956 Bộ Công an có quyết định số 1175/V2 quy định về nguyên tắc, nhiệm vụ, cơ cấu và chế độ làm việc của đội cứu hỏa, trong đó còn quy định rõ đội cứu hỏa thành phố, thị xã là một bộ phận của Cảnh sát nhân dân.
Thực hiện Thông tư của Chính phủ và Chỉ thị của Bộ Công an, cuối năm 1956, 11 đơn vị phòng hỏa, cứu hỏa của các tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hồng Quảng, Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Nam, Hải Dương, Lạng Sơn, Phú Thọ, Thái Nguyên lần lượt được thành lập; lực lượng cứu hỏa bắt đầu chỉnh quân, tập luyện và tập huấn nghiệp vụ PCCC, PCCC xăng dầu do chuyên gia Liên Xô dạy.
Đến năm 1958 Bộ Công an có Quyết định thành lập Phòng phòng cháy, chữa cháy (P8) thuộc Vụ trị an dân cảnh (V10) của Bộ Công an.
Tháng 7 năm 1959, Bộ Công an đã đưa đoàn học sinh đầu tiên đi học tại Trường Trung học PCCC Lêningrat - Liên Xô gồm 6 đồng chí. Đến tháng 9/1963 lớp cán bộ đầu tiên của ta tốt nghiệp ra trường về nước nhận công tác.
Công tác cử người đi đào tạo ở các nước có nền khoa học kỹ thuật PCCC tiên tiến như Liên Xô, Cộng hòa dân chủ Đức được Bộ Công an đặc biệt quan tâm. Tính từ 1962 đến năm 1991 đã có 116 đồng chí được đào tạo tại Trường Đại học PCCC Matxcơva – Liên Xô, 61 đồng chí được đào tạo tại Trường Trung cấp Lêningrat, 30 đồng chí được đào tạo tại Trường Đại học kỹ sư thực hành PCCC ở Cộng hòa dân chủ Đức. Đặc biệt có 16 đồng chí đã bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sỹ khoa học PCCC ở Liên Xô.
Trước yêu cầu phát triển kinh tế ở miền Bắc (kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1961-1965). Bộ Công an giao cho Vụ Trị an dân cảnh xây dựng một văn bản pháp quy về PCCC để đề nghị Nhà nước ban hành (lúc đó tham gia xây dựng văn bản này có đồng chí Nguyễn Tăng Điện, sau này đồng chí là Cục trưởng Cục PCCC, Thiếu tướng, Phó TCT Tổng cục Hậu cần, Bộ Công an).
Đến ngày 12/8/1961 bản dự thảo Pháp lệnh được Hội đồng Chính phủ trình lên Ủy ban thường vụ Quốc hội. Đến ngày 4/10/1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh số 53/ LCT của Chủ tịch nước công bố “Pháp lệnh quy định việc quản lý của Nhà nước đối với công tác PCCC”. Sự kiện này đánh dấu sự thay đổi về chất trong công tác PCCC của Nhà nước, đồng thời mở ra một trang mới trong lịch sử của lực lượng Cảnh sát PCCC. Một tình huống đáng lưu ý là tên gọi của dự thảo văn bản pháp quy này qua từng bước có sự thay đổi cho đúng hơn: Đầu tiên Bộ Công an dự thảo là “Luật phòng hỏa, cứu hỏa Việt Nam”, đến Văn phòng Nội chính Phủ Thủ tướng đề nghị là “Pháp lệnh quy định việc giám sát của Nhà nước đối với công tác phòng hỏa, cứu hỏa”, Ủy ban thường vụ Quốc hội sửa hai chữ “giám sát” thành hai chữ “quản lý”. Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên nội dung của tên gọi, chỉ thay đổi cụm từ “phòng hỏa, cứu hỏa” bằng cụm từ “phòng cháy và chữa cháy” cho dễ hiểu hơn. Người nói vui: Xảy ra cháy thì phải “chữa” chứ sao lại “cứu”, như vậy đủ thấy sự quan tâm của Bác Hồ và cơ quan lập pháp đối với công tác PCCC.
Tiếp đó ngày 28/12/1961, Chính phủ ra Nghị định số 220/CP để hướng dẫn thi hành Pháp lệnh quy định việc quản lý của nhà nước đối với công tác PCCC. Ngày 29/12/1961, Chính phủ ra Nghị định 221/CP để hướng dẫn công tác PCCC rừng.
Ngay sau Pháp lệnh quy định việc quản lý của nhà nước đối với công tác PCCC được ban hành, lực lượng PCCC đã nhanh chóng xây dựng, hoàn thiện tổ chức bộ máy từ trung ương đến các địa phương trên toàn miền Bắc.
Ở Trung ương, Cục PCCC chính thức được thành lập, Cục có 3 Phòng và 1 trạm thí nghiệm, quân số của Cục có 29 người.
Ở các địa phương miền Bắc, các đơn vị phòng cháy, chữa cháy: Hà Bắc, Ninh Bình, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Thái Bình, Hà Tĩnh,… lần lượt được thành lập.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đặc biệt là trong những năm chống chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân của đế quốc Mỹ, lực lượng PCCC đã tổ chức xây dựng được phong trào quần chúng tham gia công tác PCCC rộng khắp, làm nòng cốt trong phong trào ba phòng “phòng gian, phong gián, phòng hỏa”; kiểm tra an toàn PCCC các nhà máy, xí nghiệp, kho tàng, nông trường, công trường…, nghiên cứu đề xuất ban hành tiêu chuẩn PCCC để thiết kế xây dựng nhà, công trình công nghiệp và dân dụng, chuẩn bị lực lượng và phương tiện thường trực sẵn sàng chữa cháy; tham mưu đề xuất và chỉ đạo, hướng dẫn việc sơ tán, phân tán tài sản, vật tư chiến lược, vũ khí, đạn dược; đặc biệt đã phối hợp với lực lượng dân phòng khắc phục khó khăn, không ngại hy sinh gian khổ, sáng tạo và dũng cảm chiến đấu dập lửa, cứu tài sản, hàng hóa trong làn bom đạn của giặc Mỹ, dập tắt kịp thời hàng ngàn vụ cháy. Điển hình là các vụ chữa cháy trận địa tên lửa và pháo phòng không tại Đồng Giao, Ninh Bình, đơn vị PCCC đã được phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (01/01/1967); vụ chữa cháy 4 xà lan lớn chở xăng dầu trên Vịnh Hạ Long, đơn vị PCCC Hòn Gai được phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (1/1/1967); vụ chữa cháy thị xã Đồng Hới, Quảng Bình, đơn vị PCCC Quảng Bình được tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (2/9/1973); vụ chữa cháy tàu Alecxandra của Liên Xô chở hàng viện trợ cho ta ở cảng Hải Phòng và vụ chữa cháy kho xăng dầu Thượng Lý, Hải Phòng, đơn vị PCCC Hải Phòng được phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (2/9/1973); vụ chữa cháy khu lắp ráp tên lửa ở đồi Nhơm, Triệu Sơn, Thanh Hóa, đơn vị PCCC Thanh Hóa được phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (2/9/1973); vụ
chữa cháy tổng kho xăng dầu Đức Giang và hàng trăm vụ cháy lớn phức tạp khác xảy ra trong chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” ở Hà Nội, đội PCCC Lộc Hà được phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (2/9/1973). Đặc biệt là vụ chữa cháy kho xăng dầu Đức Giang, do biết vận dụng sáng tạo kỹ thuật và chiến thuật phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của chiến tranh, lực lượng Cảnh sát PCCC đã dập tắt nhanh chóng đám cháy cứu được hàng ngàn tấn xăng dầu, với thành tích này lực lượng Cảnh sát PCCC Thủ đô đã được Bác Hồ gửi thư khen, trong đó có 4 điều dạy của Người đã trở thành kim chỉ nam cho hoạt động của lực lượng Cảnh sát PCCC.
Trong cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, lực lượng Cảnh sát PCCC đã nghiên cứu, chế tạo trên 5.000 bom cháy và vũ khí gây cháy phục vụ việc đánh phá kho tàng, hậu cứ của địch. Trong cuộc tổng tiến công giải phòng miền Nam năm 1975, lực lượng Cảnh sát PCCC đã theo sát quân chủ lực tiếp quản những đô thị mới được giải phóng và triển khai kịp thời lực lượng, phương tiện và các biện pháp PCCC, góp phần giữ gìn và ổn định an ninh trật tự cho nhân dân.
Ngày 20/7/1971 Bộ Công an quyết định thành lập Phân hiệu PCCC gọi tắt là Phân hiệu 11 thuộc Trường Cảnh sát nhân dân với nhiệm vụ đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ PCCC cho cán bộ sỹ quan, hạ sỹ quan của lực lượng
CSPCCC.
Tháng 7/1973 sau khi giải phóng Quảng Trị, lực lượng PCCC đã chi viện
33 cán bộ chiến sỹ để thành lập đơn vị PCCC Quảng Trị, đơn vị này có
nhiệm vụ bảo vệ các chuyến hàng vận chuyển vào miền Nam theo đường
mòn Hồ Chí Minh, bảo vệ đại diện của Chính phủ cách mạng lâm thời
cộng hòa miền Nam Việt Nam và đại diện các đoàn ngoại giao của các
nước tại Quảng Trị.
Tháng 3/1975 Thừa Thiên Huế được giải phóng, lực lượng PCCC đã cử
cán bộ vào tiếp quản thành phố Huế và thành lập phòng Cảnh sát PCCC
Bình Trị Thiên.
Ngày 29/3/1975 Bộ quyết định điều động 182 cán bộ chiến sỹ và 30 xe
chữa cháy của Cục và 11 đơn vị các tỉnh phía Bắc chi viện cho chiến
trường B2 và tham gia đoàn tiếp quản, quản lý thành phố Sài Gòn và chi
viện cho Ban an ninh nội chính miền Nam Việt Nam.
Ngày 30/4/1975 đoàn cán bộ PCCC của Công an Hà Nội đã phối hợp với
lực lượng PCCC chi viện cho chiến trường B2 tiếp quản Sở chữa lửa Sài
Gòn - Chợ Lớn và Phòng Cảnh sát PCCC thành phố Sài Gòn được thành
lập. Tiếp đó lần lượt các đơn vị PCCC miền Trung Nam Bộ, đồng bằng
Sông Cửu Long, Tây Nguyên và Lâm Đồng được thành lập.
3. Lực lượng PCCC bảo vệ công cuộc xây dựng đất nước sau ngày miền
Nam hoàn toàn giải phóng (giai đoạn từ năm 1976 đến năm 1986)
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước
bước vào thời kỳ khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh, lực lượng Cảnh sát
PCCC vừa củng cố, xây dựng lực lượng tại các tỉnh phía Nam, vừa thực
hiện tốt nhiệm vụ tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia PCCC; kiểm
tra, hướng dẫn biện pháp an toàn cho các kho tàng, bến bãi, cơ sở kinh tế,
quốc phòng, phục vụ phát triển kinh tế. Trong lúc đất nước gặp khó khăn
về nhiên liệu, lại liên tiếp xảy ra cháy hầm lò khai thác than, việc cứu chữa
rất khó khăn vì thiếu phương tiện, thiết bị đặc chủng, nhưng với sự sáng
tạo trong việc ứng dụng KHKT, lực lượng Cảnh sát PCCC đã ngăn chặn
và dập tắt không để gây thiệt hại nghiêm trọng, điển hình là chữa cháy mỏ
than Ngọc Kinh (Đà Nẵng) lực lượng Cảnh sát PCCC đã sáng tạo dùng
khói bom Napan để dập tắt đám cháy; vụ cháy mỏ than Vàng Danh sâu
trong lòng đất gây nhiều khó khăn cho công tác cứu chữa, bằng những giải
pháp khoa học, sáng tạo, lực lượng Cảnh sát PCCC đã dập tắt đám cháy,
giúp Mỏ khôi phục hoạt động, khai thác ngay sau đó.
Ngày 2/9/1976 đồng chí Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn ký quyết định thành
lập Trường Hạ sỹ quan Cảnh sát PCCC trực thuộc Cục Cảnh sát PCCC
trên cơ sở Phân hiệu 11 của Trường Cảnh sát nhân dân.
Đến 19/6/1984 do yêu cầu đào tạo cán bộ, Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Thủ tướng Chính phủ) đã có quyết định số 90/QĐ/HĐBT thành lập
Trường Cao đẳng PCCC. Ngày 6/11/1984, Bộ trưởng Phạm Hùng ký
Quyết định nâng Trường Hạ sỹ quan Cảnh sát PCCC thành Trường Cao
đẳng PCCC trực thuộc Tổng cục Cảnh sát.
II/ LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT PCCC TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI
MỚI VÀ CNH – HĐH ĐẤT NƯỚC (GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1986 ĐẾN
NĂM 2011)
1. Công tác xây dựng văn bản pháp luật về PCCC
Để kịp thời phục vụ sự nghiệp phát triển KT - XH và công cuộc đổi mới
của đất nước, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, lực lượng
Cảnh sát PCCC đã tham mưu, đề xuất, giúp Bộ Công an từng bước hoàn
thiện hành lang pháp lý trong lĩnh vực PCCC. Các văn bản đã xây dựng và
đề xuất ban hành là:
- Tổng kết 30 năm thi hành Pháp lệnh quy định việc quản lý của nhà nước
đối với công tác PCCC, lực lượng Cảnh sát PCCC đã tham mưu cho Bộ
Công an đề xuất Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 175/TTg ngày
31/5/1991 về tăng cường công tác PCCC;
- Tổng kết 35 năm thi hành Pháp lệnh quy định việc quản lý của nhà nước
đối với công tác PCCC, 5 năm thực hiện Chỉ thị 175/TTg ngày 31/5/1991
về tăng cường công tác PCCC, lực lượng Cảnh sát PCCC đã tham mưu
cho Bộ Công an đề xuất Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số
237/TTg ngày 19/4/1996 về tăng cường các biện pháp thực hiện công tác
PCCC;
- Tổng kết 40 năm thi hành Pháp lệnh quy định việc quản lý của nhà nước
đối với công tác PCCC, lực lượng Cảnh sát PCCC đã tham mưu , đề xuất
và đã được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 9 thông qua Luật PCCC và có
hiệu lực thi hành từ ngày 4/10/2001. Tiếp theo đó đã đề xuất Chính phủ
ban hành 4 Nghị định: Nghị định số 35/2003/NĐ-CP ngày 4/4/2003 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật PCCC; Nghị
định số 123/2005/NĐ-CP ngày 5/10/2005 của Chính phủ quy định xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC; Nghị định số 09/2006/NĐ-CP
ngày 16/01/2006 của Chính phủ quy định về PCCC rừng; Nghị định
130/2006/NĐ-CP ngày 08/11/2006 của Chính phủ quy định chế độ bảo
hiểm cháy, nổ bắt buộc. Đề xuất Bộ Công an ban hành 3 Thông tư về
PCCC: Thông tư 04/2004/TT-BCA của Bộ Công an hướng dẫn thi hành
Nghị định 35/2003/NĐ-CP ngày 04/4/2003 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật PCCC; Thông tư liên tịch Tài chính – Công
an số 41/2006/TTLT-TC-CA về hướng dẫn một số điều về Nghị định
130/2006/NĐ-CP ngày 08/11/2006 của Chính phủ quy định chế độ bảo
hiểm cháy, nổ bắt buộc; Thông tư liên tịch Bộ Xây dựng – Bộ Công an số
04/2009/TTLT-BXD-BCA ngày 10/4/2009 hướng dẫn thực hiện việc cấp
nước phòng cháy, chữa cháy tại đô thị và khu công nghiệp;
- Tổng kết 45 năm thi hành Pháp lệnh quy định việc quản lý của nhà nước
đối với công tác PCCC, 5 năm thực hiện Luật PCCC, lực lượng Cảnh sát
PCCC đã tham mưu cho Bộ Công an đề xuất Thủ tướng Chính phủ ban
hành Chỉ thị số 02/2006/CT-TTg ngày 23/01/2006 về tăng cường chỉ đạo
và thực hiện có hiệu quả công tác PCCC;
- Tiến tới kỷ niệm 50 năm ngày ban hành Pháp lệnh PCCC và tổng kết 10
năm thi hành Luật PCCC, lực lượng Cảnh sát PCCC đã tham mưu cho Bộ
Công an đề xuất Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 1634/CT-TTg
ngày 31/8/2010 về việc tăng cường chỉ đạo và thực hiện một số nhiệm vụ
cấp bách, trọng tâm trong công tác PCCC và CNCH;
- Chủ trì và phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng, rà soát, bổ sung
chỉnh lý trên 40 quy chuẩn, tiêu chuẩn về PCCC và hàng chục quy trình
công tác;
Hiện đang tiếp tục xây dựng một số văn bản quy phạm pháp luật về
PCCC: Nghị định về phối hợp Công an – Quốc phòng trong công tác
PCCC; Nghị định về công tác cứu nạn, cứu hộ…; các Thông tư, tiêu
chuẩn, quy chuẩn PCCC khác.
2. Công tác tuyên truyền và xây dựng phong trào toàn dân PCCC
Xác định công tác tuyên truyền và xây dựng phong trào toàn dân PCCC là
một biện pháp phòng ngừa xã hội và là hoạt động mang tính xã hội rộng
rãi, cần có sự phối, kết hợp của các cấp, các ngành và quần chúng nhân
dân. Do vậy, ngay từ những năm đầu thời kỳ đổi mới, lực lượng Cảnh sát
PCCC đã không ngừng đổi mới phương pháp, biện pháp nhằm nâng cao
hiệu quả công tác tuyên truyền và phát động phong trào quần chúng
PCCC.
a)Về công tác tuyên truyền
- Ngoài các hình thức tuyên truyền trên hệ thống truyền thanh của xã,
phường, thị trấn…; tổ chức tuyên truyền lưu động; phát hành khuyến cáo,
tờ rơi về PCCC; treo, gắn pa nô, khẩu hiệu về PCCC trong các dịp Tuần
lễ quốc gia về ATVSLĐ-PCCN, dịp 4/10 hàng năm…, lực lượng Cảnh sát
PCCC đã tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền phong phú như tổ chức
các cuộc thi tác phẩm báo chí, thi sáng tác tranh, ảnh về PCCC, tổ chức
liên hoan phim truyền hình, sân khấu hóa các hoạt động PCCC, tổ chức
chương trình tuyên truyền cổ động trực quan…
- Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thông tin đại chúng ở Trung ương và
địa phương phản ánh và thông tin kịp thời các vụ cháy, các hoạt động
PCCC của các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị; lồng ghép nội dung
PCCC vào các chương trình trò chơi trên truyền hình như ”Chiếc nón kỳ
diệu”, “Ở nhà chủ nhật”, “Ai là triệu phú”, “Đấu trường 100”… Tổ chức
tuyên truyền đậm nét vào dịp “Ngày toàn dân PCCC’, dịp mùa hanh khô
và Tết Nguyên đán, dịp diễn ra các sự kiện chính trị lớn của đất nước…
bằng các phóng sự, chuyên đề cảnh báo nguy cơ cháy và hướng dẫn các
biện pháp PCCC, các đúp tuyên truyền, cổ động nhắc nhở người dân
PCCC; tổ chức các buổi tọa đàm, đối thoại về PCCC…
b) Về công tác xây dựng phong trào toàn dân PCCC
- Vận dụng quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta trong
công tác PCCC là: Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tham gia
hoạt động PCCC, trong hoạt động PCCC lấy phòng ngừa là chính và mọi
hoạt động PCCC trước hết phải được giải quyết bằng lực lượng và phương
tiện tại chỗ, trong những năm qua, phong trào toàn dân tham gia PCCC
ngày càng phát triển sâu rộng. Đặc biệt là từ khi Thủ tướng Chính phủ có
Quyết định số 369/TTg ngày 04/6/1996 lấy ngày 4/10 hàng năm là “Ngày
PCCC toàn dân”, theo đó, cứ đến dịp này tại các địa phương trên cả
nước, hàng vạn quần chúng nhân dân đã nô nức tham gia các hoạt động
PCCC như: Mít tinh, diễu hành biểu dương lực lượng; hội thao, hội thi
PCCC; tham gia ký cam kết đảm bảo an toàn PCCC tại các chợ và khu
dân cư…; việc triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong công tác
PCCC được nhiều địa phương hưởng ứng như TP Hồ Chí Minh, Thái
Nguyên, Nam Định, Hà Nội…; công tác xây dựng và nhân điển hình tiên
tiến về PCCC được chú trọng duy trì, hàng năm các địa phương đã xét và
công nhận được hàng trăm đơn vị điển hình tiên tiến về PCCC; mô hình
“Cụm dân cư an toàn PCCC”, “Câu lạc bộ chiến sỹ PCCC trẻ tuổi” tiếp
tục được nhân rộng, đặc biệt Hải Phòng đã nghiên cứu triển khai và duy trì
hiệu quả mô hình “Cụm cơ quan, doanh nghiệp an toàn PCCC” trên địa
bàn, hiện Nam Định và Thái Nguyên đang vận dụng kinh nghiệm này vào
thực tiễn địa phương mình.
- Việc xây dựng và duy trì hoạt động của lực lượng PCCC tại chỗ trong
điều kiện kinh tế thị trường mặc dù gặp nhiều khó khăn, song theo thống
kê, cả nước hiện đã xây dựng được trên 65.000 đội PCCC cơ sở và dân
phòng với trên một triệu đội viên, hàng năm lực lượng này đã phát hiện và
tổ chức dập tắt kịp thời trên 60% tổng số vụ cháy, góp phần ngăn chặn
nguy cơ cháy lớn, gây thiệt hại nghiêm trọng.
3. Công tác kiểm tra an toàn PCCC và quản lý vật liệu nổ công nghiệp
a) Về công tác kiểm tra an toàn PCCC
- Lực lượng Cảnh sát PCCC thường xuyên tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ
chuyên môn để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra; tăng
cường công tác điều tra cơ bản, phân loại cơ sở thuộc diện quản lý về
công tác PCCC theo quy định. Đổi mới công tác kiểm tra, trong đó nhiều
địa phương đã tranh thủ đề xuất Đại diện Hội đồng nhân dân, lãnh đạo
UBND địa phương tham gia chủ trì kiểm tra trực tiếp và giải quyết một số
vấn đề bức xúc về công tác PCCC trên địa bàn, từ đó đã có tác động tích
cực đến người đứng đầu đơn vị, cơ sở trong việc đảm bảo an toàn PCCC
trong cơ quan, đơn vị mình.
- Hàng năm đã tổ chức nhiều đợt kiểm tra theo chuyên đề (chợ, trung tâm
thương mại, khu dân cư, nhà cao tầng, các cơ sở xăng dầu, dầu khí, vật
liệu nổ công nghiệp…) vào các dịp diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng
của đất nước, dịp mùa hanh khô và bảo vệ Tết Nguyên đán. Qua kiểm tra
đã phát hiện và kiến nghị cơ sở và cơ quan, tổ chức khắc phục kịp thời các
sơ hở, thiếu sót và vi phạm quy định về PCCC.
- 25 năm qua, toàn lực lượng Cảnh sát PCCC đã kiểm tra và phúc tra về
PCCC được 1.845.213 lượt cơ sở, lập 1.762.319 biên bản kiểm tra; phát
hiện và hướng dẫn khắc phục trên 4.500.000 thiếu sót, tồn tại về PCCC.
b) Về công tác quản lý vật liệu nổ công nghiệp
- Đã tích cực chủ động phối hợp với các lực lượng trong ngành Công an
và các cơ quan liên quan tăng cường kiểm tra, giám sát việc sản xuất, cung
ứng, sử dụng của các đơn vị có hoạt động về vật liệu nổ công nghiệp
(VLNCN). Tại các kho đầu mối trên cả nước, trung bình mỗi cơ sở được
kiểm tra an toàn PCCC ít nhất 2 lần/năm.
- Công tác quản lý, cấp phép vận chuyển VLNCN được đảm bảo chặt
chẽ, đúng quy định và có những bước chuyển biến rõ rệt về các thủ tục
hành chính, giảm thời gian nhưng vẫn đảm bảo an toàn tuyệt đối trong quá
trình vận chuyển.
Trong 25 năm qua, với nỗ lực của lực lượng Cảnh sát PCCC đã góp phần
không để xảy ra 1 sự cố cháy, nổ và mất cắp VLNCN tại các kho đầu
mối, đảm bảo an toàn các sự kiện quan trọng của đất nước.
4. Công tác thẩm duyệt về PCCC
Trong 25 năm qua, lực lượng Cảnh sát PCCC đã thẩm duyệt về PCCC
trên 68.000 công trình, trong đó:
- Giai đoạn 1986 – 2000, giai đoạn trước khi có Luật PCCC: Số dự án,
công trình được thỏa thuận về thiết kế và thiết bị PCCC là 18.692 công
trình.
- Giai đoạn 2001 – 2010, giai đoạn sau khi có Luật PCCC: Số dự án, công
trình được thỏa thuận thiết kế và thiết bị PCCC là 49.316 công trình.
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, số lượng các dự án, công trình xây
dựng được thẩm duyệt tăng lên tương ứng, nhất là các công trình quy mô
lớn, phức tạp, cơ sở có dây chuyền công nghệ hiện đại ngày càng nhiều.
Nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn nêu trên, lực lượng Cảnh sát PCCC đã
không ngừng đổi mới công tác thẩm duyệt về thiết kế và thiết bị PCCC (về
thời gian; về phương pháp thực hiện; về áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn,
đặc biệt là các tiêu chuẩn, quy chuẩn nước ngoài). Trong quá trình thẩm
duyệt và nghiệm thu, lực lượng Cảnh sát PCCC đã hướng dẫn chủ đầu tư,
đơn vị thiết kế về những giải pháp, biện pháp PCCC, đồng thời kiến nghị
khắc phục hàng chục vạn thiếu sót, vi phạm quy định, tiêu chuẩn về PCCC
từ khi thiết kế công trình… Điển hình là khi thẩm duyệt về PCCC Trạm
biến áp 500KV của Nhà máy Thủy điện Hòa Bình, Cục Cảnh sát PCCC
kiên quyết yêu cầu thực hiện xây tường ngăn cháy giữa 7 trạm biến áp
(Chủ đầu tư và cơ quan thiết kế chỉ muốn xây dựng tường ngăn cháy bao
quanh 7 máy). Ngày 25/4/2000, sét đánh gây cháy, nổ 1 trạm biến áp làm
phun dầu ra xa hơn 20 mét gây cháy lớn nhưng do có tường ngăn cháy
từng máy nên không cháy lan sang 6 máy còn lại (mỗi máy trị giá khoảng
1,2 triệu USD).
5. Công tác hướng dẫn và tổ chức chữa cháy và CNCH
- Lực lượng Cảnh sát PCCC đã chủ động xây dựng mới, chỉnh lý, bổ sung
các bài chiến thuật chữa cháy, biện pháp chữa cháy đối với các cơ sở, dây
chuyền công nghệ mới như: Chiến thuật chữa cháy đối với các cơ sở chế
biến, chuyền tải dầu mỏ, khí đốt; chiến kỹ thuật chữa cháy đối với chợ,
trung tâm thương mại, nhà nhiều tầng, các cơ sở sản xuất có quy mô
lớn…, xây dựng tài liệu hướng dẫn sử dụng các trang thiết bị PCCC mới
phù hợp với thực tế.
- Công tác xây dựng và thực tập phương án chữa cháy luôn được nghiên
cứu đổi mới, hoàn thiện hơn. Từ phương án chữa cháy đã nghiên cứu xây
dựng phiếu chiến thuật chữa cháy, trong đó thể hiện những nội dung cơ
bản nhất, cần thiết nhất khi chữa cháy ở cơ sở và được tổ chức sử dụng có
hiệu quả. Đã xây dựng và tổ chức diễn tập hàng chục phương án xử lý các
tình huống cháy, nổ lớn có sự tham gia của nhiều lực lượng, phương tiện
của các ngành, quân đội và nhiều địa phương.
- Lực lượng Cảnh sát PCCC đã tập trung khắc phục tình trạng thiếu chiến
sỹ chữa cháy (tham mưu cho Bộ Công an tuyển chiến sỹ nghĩa vụ bổ sung
cho lực lượng trực tiếp chữa cháy) và tổ chức khoa học, hợp lý công tác
thường trực sẵn sàng chiến đấu. Hàng năm, lực lượng Cảnh sát PCCC đã
phối hợp với lực lượng cơ sở, dân phòng và các lực lượng khác kịp thời
cứu chữa nhiều vụ cháy lớn, nguy hiểm, hạn chế được thiệt hại mang lại
hiệu quả tốt như: Vụ chữa cháy các kho đạn ở Tuyên Quang, Vĩnh Phúc
và Quảng Nam Đà Nẵng; vụ chữa cháy tàu trên sông Cửu ở Cẩm Phả
(Quảng Ninh); các vụ chữa cháy chợ Vinh (Nghệ An), chợ Sắt (Hải
Phòng); vụ chữa cháy bệnh viện Chợ Rẫy (TP Hồ Chí Minh) đã bảo vệ an
toàn khu nhà bệnh nhân… Chỉ tính riêng hiệu quả công tác chữa cháy,
hàng năm lực lượng CSPCCC đã cứu được lượng tài sản khoảng 2.000 –
3.000 tỷ đồng, đã trực tiếp cứu và tổ chức thoát nạn cho hàng trăm người.
- Ngoài việc trực tiếp tham gia chữa cháy, lực lượng Cảnh sát PCCC đã
chủ động nghiên cứu, xây dựng và tổ chức thực hiện các phương án tham
gia chống bạo loạn, gây rối, biểu tình, chống khủng bố; giải quyết các
điểm nóng về an ninh nông thôn; cưỡng chế giải phóng mặt bằng; chống
đua xe trái phép… và đã trực tiếp tham gia giải quyết nhiều vụ việc, đạt kết
quả tốt được lãnh đạo các địa phương và nhân dân ghi nhận, góp phần
xứng đáng vào thành tích chung của lực lượng CAND.
6. Công tác đầu tư trang bị phương tiện PCCC và CNCH
- Từ năm 1991 về trước, toàn bộ phương tiện chữa cháy trang bị cho lực
lượng Cảnh sát PCCC là do Liên Xô và Cộng hoà dân chủ Đức viện trợ
không hoàn lại, trung bình mỗi năm 20 xe chữa cháy, 20 máy bơm, 20.000
mét vòi chữa cháy và một số trang thiết bị chữa cháy khác.
- Từ sau năm 1991 đến nay, toàn bộ việc đầu tư trang bị phương tiện
PCCC và CNCH nước ta phải tự lo. Tuy nhiên, mức đầu tư kinh phí cho
lực lượng Cảnh sát PCCC rất hạn chế và công tác trang bị phương tiện
chữa cháy gặp nhiều khó khăn, có năm, cả lực lượng Cảnh sát PCCC chỉ
được cấp 900 triệu đồng để đầu tư, trang bị phương tiện PCCC.
Trước thực trạng như vậy, lực lượng Cảnh sát PCCC đã tham mưu cho Bộ
Công an đề xuất Chính phủ cho phép xây dựng và triển khai một số dự án
sử dụng ngân sách của nhà nước, đồng thời thực hiện một số dự án vay
vốn ưu đãi của nước ngoài để đầu tư cho hoạt động PCCC như dự án
“Đầu tư nâng cấp phương tiện chữa cháy” trị giá 130 tỷ đồng; dự án “Đầu
tư trang thiết bị tìm kiếm cứu nạn cho lực lượng CSPCCC từ năm 2007
đến năm 2015” trị giá hơn 500 tỷ đồng….
- Các Bộ, ngành và địa phương cũng đã quan tâm đến việc đầu tư cho
hoạt động PCCC nói chung và trang bị phương tiện chữa cháy nói riêng.
Đến nay có 42 địa phương đầu tư gần 400 tỷ đồng, trang bị thêm gần 100
xe chữa cháy, 136 máy bơm, 12 xe thang, 2 xe cứu nạn, cứu hộ và nhiều
phương tiện chữa cháy khác; xây dựng, cải tạo một số doanh trại, tạo thêm
nguồn nước chữa cháy…
Trước năm 1991, chỉ có số ít phương tiện chữa cháy và chủ yếu là của
các nước XHCN cũ, chất lượng không cao thì đến nay, toàn lực lượng
Cảnh sát PCCC đã có 724 xe chữa cháy; 337 xe chuyên dùng; 325 máy
bơm chữa cháy và nhiều trang thiết bị PCCC khác. Tuy nhiên, so với yêu
cầu thực tế hiện nay thì vẫn thiếu rất nhiều phương tiện chữa cháy cũng
như cứu nạn, cứu hộ, đặc biệt là các xe chuyên dùng như xe thang, xe hút
khói, xe cấp cứu sự cố, xe thông tin chiếu sáng…
7/ Công tác xây dựng lực lượng Cảnh sát PCCC
- Ngày 14/10/1999, trước yêu cầu ngày càng cao về nguồn nhân lực phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, Thủ tướng Chính
phủ đã ký Quyết định thành lập Trường Đại học PCCC trên cơ sở Trường
Cao đẳng PCCC, Trường Đại học PCCC trực thuộc Bộ Công an và chịu
sự quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Lực lượng CSPCCC được tổ chức và bố trí khắp trên toàn quốc từ
Trung ương đến địa phương.
- Ở Trung ương có Cục Cảnh sát PCCC và cứu nạn, cứu hộ, gồm 9 đơn
vị trực thuộc, đó là: Phòng Tham mưu (P1); Phòng Thanh tra, kiểm tra
phòng cháy, chữa cháy(P2); Phòng Thẩm duyệt về phòng cháy, chữa cháy
(P3); Phòng Công tác chữa cháy (P4); Phòng Hậu cần (P5); Phòng Tuyên
truyền và xây dựng phong trào toàn dân PCCC và CNCH (P6); Phòng
Hướng dẫn điều tra – xử lý về cháy, nổ (P7); Phòng Hướng dẫn, chỉ đạo
công tác cứu nạn, cứu hộ (P8); Trung tâm Nghiên cứu khoa học và tư vấn,
chuyển giao công nghệ PCCC và CNCH.
- Ở địa phương:
+ Trước năm 2006, cả nước có 64 Phòng Cảnh sát PCCC.
+ Năm 2006, trước yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Thủ
tướng Chính phủ đã quyết định thí điểm thành lập Sở Cảnh sát PCCC TP
Hồ Chí Minh nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với công tác
PCCC tại Trung tâm kinh tế, chính trị lớn này.
+ Năm 2010, Chính phủ đã chủ trì tổ chức sơ kết 3 năm thí điểm thành lập
Sở Cảnh sát PCCC và đánh giá đây là mô hình tốt cần nhân rộng.
+ Ngày 30/12/2010, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định thành lập thêm
7 sở Cảnh sát PCCC tại các địa phương: Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc,
Đà Nẵng, Cần Thơ, Bình Dương và Đồng Nai.
Tính đến đầu năm 2010, toàn quốc có 156 đội Cảnh sát PCCC với trên
8.000 cán bộ, chiến sỹ.
8. Công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật PCCC
Công tác nghiên cứu khoa học được triển khai mạnh mẽ, mang lại hiệu quả
tích cực: 25 năm qua, lực lượng CSPCCC đã nghiên cứu và bảo vệ thành
công trên 70 đề tài cấp Bộ và đề tài cấp cơ sở, 49 đề tài đã được ứng dụng
vào thực tiễn, điển hình như: Nghiên cứu sản xuất bọt hòa không khí chữa
cháy xăng dầu; ứng dụng chất chữa cháy không phá hủy tầng ôzôn trong
hệ thống chữa cháy tự động; công nghệ sản xuất lăng phun nước chữa
cháy cầm tay đa tác dụng L51-01-C23; nghiên cứu ứng dụng sản xuất chất
tạo bọt A-B, sản xuất bình bột chữa cháy loại 2 và 5 kg phục vụ cho công
tác trang bị phương tiện chữa cháy trong giai đoạn khó khăn 1986-1995…;
ngoài ra còn phối hợp với các Bộ, ngành, các trường Đại học và các cơ sở
sản xuất nghiên cứu trên 60 đề tài về PCCC.
9. Công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế
- Trước năm 1990, công tác đối ngoại của lực lượng CSPCCC chủ yếu là
quan hệ với Liên Xô (cũ) và các nước XHCN Đông Âu trong việc trao đổi
thông tin, kinh nghiệm thông qua các hoạt động hội nghị, hội thảo PCCC;
cử cán bộ đi đào tạo cử nhân, kỹ sư, tiến sỹ khoa học kỹ thuật PCCC; tiếp
nhận phương tiện chữa cháy do các nước này viện trợ.
- Sau khi có biến động chính trị, tuy không còn nguồn viện trợ về phương
tiện PCCC cũng như đào tạo cán bộ, song lực lượng CSPCCC tiếp tục
giữ mối quan hệ truyền thống với các nước này, mặt khác chủ động mở
rộng quan hệ hợp tác và cử nhiều đoàn công tác, tham quan tại các nước
trong khu vực và các nước có nền khoa học phát triển như: Nhật Bản, Áo,
Pháp, Đức, Mỹ, Hàn Quốc, Singapo, Thái Lan, Malaixya…; đã tham gia
và là thành viên của Hiệp hội PCCC Thế giới (1993), tham gia vào Tổ
chức các cơ quan kiểm định PCCC Châu Á; tham gia nhiều cuộc hội thảo
trao đổi kinh nghiệm công tác PCCC, triển lãm quốc tế về lĩnh vực PCCC
và cứu nạn, cứu hộ tại Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ… Qua đó đã nghiên
cứu, học hỏi tiếp cận được với công nghệ PCCC tiến tiến và vận dụng hiệu
quả vào điều kiện thực tế ở Việt Nam.
III/ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ CÔNG TÁC PCCC TỪ NAY ĐẾN
NĂM 2020 VÀ TẦM NHÌN 2030
1. Dự báo tình hình
- Kinh tế xã hội phát triển, kéo theo đó là các cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ tăng nhanh cả về số lượng và quy mô; việc đầu tư của nước ngoài
vào Việt Nam ngày càng tăng, xuất hiện ngày càng nhiều khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao; việc sử dụng các nguồn
năng lượng như xăng dầu, khí đốt, điện, hóa chất tăng mạnh kèm theo là
quá trình đô thị hóa, nhiều nhà cao tầng được xây dựng…, dẫn đến nguy
cơ cháy ngày càng cao, thiệt hại do cháy ngày càng lớn.
- Cháy lớn gây thiệt hại nghiêm trọng vẫn tập trung ở các cơ sản xuất, chợ,
khu dân cư tập trung.
- Thời tiết, khí hậu ngày càng khắc nghiệt, khô hạn kéo dài và thảm họa
thiên nhiên khác như động đất, sóng thần…
- Diễn biến quốc tế có liên quan (khủng bố, xung đột sắc tộc, tôn giáo) và
tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong nước có thể nảy
sinh các vụ cháy, nổ.
2. Phương hướng nhiệm vụ
Với mục tiêu là kiềm chế sự gia tăng về số vụ cháy và thiệt hại do cháy gây
ra, phương hướng, nhiệm vụ công tác PCCC từ nay đến năm 2020 và tầm
nhìn 2030 cụ thể như sau:
a) Tiếp tục triển khai có hiệu quả Luật PCCC; hoàn thiện hành lang pháp lý
về công tác PCCC, trước mắt tập trung rà soát bổ sung chỉnh lý và xây
dựng các văn bản pháp luật, quy chuẩn, tiêu chuẩn cho phù hợp với tình
hình thực tế hiện nay.
b) Hoàn thiện trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và tổ chức triển khai
Đề án quy hoạch tổng thể hệ thống cơ sở PCCC toàn quốc đến năm 2020
và tầm nhìn đến năm 2030.
c) Phát huy sức mạnh tổng hợp của các hệ thống chính trị và toàn dân
tham gia hoạt động PCCC, hình thành thế trận toàn dân PCCC. Quán triệt
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong công tác
PCCC.
d) Nâng cao chất lượng, hiệu quả các biện pháp nghiệp vụ cơ bản về
PCCC: Nắm tình hình, điều tra cơ bản; nắm bắt kịp thời các chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước để từ đó chủ động đề ra các giải pháp, chiến lược về PCCC
cho các ngành, lĩnh vực kinh tế; quan tâm đến việc xây dựng và duy trì
hoạt động của lực lượng PCCC tại chỗ; tăng cường chất lượng công tác
chuyên môn nghiệp vụ PCCC cho cán bộ chiến sĩ trong lực lượng như
nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, kiểm tra, chữa cháy và công
tác điều tra nguyên nhân vụ cháy…
đ) Tăng cường công tác đầu tư cho hoạt động PCCC và CNCH nhằm
nâng cao năng lực và sức chiến đấu cho lực lượng CSPCCC và CNCH,
xây dựng lực lượng này thực sự chính quy, tinh nhuệ và hiện đại. Từ nay
đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030 tập trung vào đầu tư bổ sung, thay thế
các phương tiện hư hỏng. Đặc biệt là tăng cường đầu tư cho lĩnh vực cứu
hộ, cứu nạn; cải tạo nâng cấp, sửa chữa phương tiện chữa cháy…
e) Hoàn thiện cơ sở pháp lý và triển khai có hiệu quả nhiệm vụ cứu nạn,
cứu hộ Chính phủ giao. Tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng lực lượng
PCCC gắn với đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực PCCC.
f) Chú trọng công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật PCCC, huy
động các lực lượng, các nhà khoa học trong và ngoài ngành cùng tham gia,
trong đó tập trung đầu tư xây dựng Viện nghiên cứu khoa học – công nghệ
PCCC và Trung tâm kiểm định phương tiện PCCC;
g) Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế đa phương và song phương
trong lĩnh vực PCCC, hội nhập tích cực vào các tổ chức PCCC Quốc tế
và khu vực. Cử đoàn cán bộ tham gia hội thảo, hội nghị quốc tế về trao
đổi, tiếp thu học hỏi kinh nghiệm PCCC để có điều kiện tiếp cận với hệ
thống tiêu chuẩn, quy trình công nghệ PCCC hiện đại. Tiếp tục cử cán bộ,
chiến sỹ đi đào tạo ngắn hạn, dài hạn tại các nước có công nghệ PCCC
hiện đại; mở rộng quan hệ với Nhật, Pháp, Mỹ… để tiếp tục khai thác
nguồn vốn ODA, các nguồn viện trợ của nước ngoài để tăng mức đầu tư
trang bị phương tiện chữa cháy, cứu hộ, cứu nạn cho lực lượng Cảnh sát
PCCC.
IV/ NHỮNG CHIẾN CÔNG CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT PCCC
1. Một số vụ chữa cháy điển hình lực lượng CSPCCC
a) Giai đoạn từ năm 1961 đến năm 1986
* Chữa cháy trận địa tên lửa và pháo phòng không tại Đồng Giao, Ninh
Bình ngày 8/6/1965 của đội PCCC Hoa Lư, Ty Công an Ninh Bình
Ngày 8/6/1965, máy bay Mỹ đánh phá trận địa tên lửa và pháo phòng
không tại Đồng Giao, Ninh Bình. Đơn vị PCCC Ninh Bình đã xuất 01 xe
và 10 cán bộ chiến sỹ do đồng chí Mai Huy Bổng chỉ huy dùng sức mạnh
của lăng A cắt đứt luồng nhiên liệu tên lửa đang bị cháy để chuyển tên lửa
ra ngoài. Phương pháp chữa cháy này đã mở ra chiến thuật chữa cháy tên
lửa và đã được nhiều đơn vị PCCC áp dụng có hiệu quả. Với chiến công
đó, Đơn vị PCCC Hoa Lư, Ty Công an Ninh Bình được tặng Huân
chương Chiến công Hạng nhất và được Nhà nước phong tặng danh hiệu
Đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân ngày 01/01/1967.
* Chữa cháy tàu Alecxandra của Liên Xô chở hàng viện trợ ở cảng Hải
Phòng
Tàu Alecxandra có trọng tải 12.000 tấn, mang quốc tịch Liên Xô cũ, neo
đậu ở cảng Hải Phòng vào cuối tháng 7/1965. Chiều 5/8/1960, tàu
Alecxandra chở khoảng 2.000 tấn phân đạm NO3NH4 bị bốc cháy tạo
thành một cột khói màu da cam cao khoảng 50m. Sau đó, cột khói tỏa
rộng trên bầu trời thành phố Hải Phòng và khu vực cảng. Ngay khi biết tin,
Đội PCCC Sở Công an Hải Phòng đã điều động toàn bộ cán bộ chiến sỹ
và phương tiện chữa cháy đến địa điểm tàu Alecxandra đang neo đậu.
Tham gia cứu chữa còn có tàu cứu hộ của Liên Xô và bản thân tàu
Alecxandra cũng tự cứu chữa bằng những thiết bị PCCC của mình. Nhờ
tập trung lực lượng và phương tiện cứu chữa, 02giờ sau đám cháy được
dập tắt. Trong trận chiến đấu này, hai đồng chí là Nguyễn Đình Thành và
Đỗ Quang Thịnh, cán bộ chiến sỹ Phòng Cảnh sát PCCC Sở Công an Hải
Phòng đã dũng cảm hy sinh.
* Chữa cháy kho xăng dầu Thượng Lý, Hải Phòng năm 1972
2h sáng ngày 10/4/1972, nhiều tốp máy bay đánh phá vào kho xăng
Thượng Lý, Hải Phòng làm lửa bùng cháy dữ dội. Đội PCCC Sở Công an
Hải Phòng đã điều động 03 xe chữa cháy và được sự hỗ trợ của một xe
chữa cháy của Đội PCCC Ty Công an Hải Hưng để tập trung dập tắt từng
bể xăng dầu dưới bom đạn máy bay Mỹ. Sau hai giờ vật lộn với khói lửa
đạn bom, lửa tại toàn bộ kho xăng Thượng Lý đã được dập tắt. Đơn vị
PCCC Sở Công an Hải Phòng đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu
Đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân ngày 02/9/1973.
* Hai lần chữa cháy Tổng kho xăng dầu Đức Giang năm 1966 và 1972
Lần thứ nhất: lúc 12h, ngày 29/6/1966, không quân Mỹ đánh phá vào
Tổng kho xăng Đức Giang làm một số thiết bị vỡ và một số bể khác bị
mảnh bom xuyên thủng. Xăng dầu tràn ra làm thành một đám cháy dự dội.
Thành ủy và UBND thành phố Hà Nội chỉ thị phải bằng mọi biện pháp dập
tắt đám cháy trong đêm, không để cháy sang ngày hôm sau. Phòng PCCC
Sở Công an Hà Nội đã điều động 12 xe, Cục Cảnh sát PCCC huy động
thêm 8 xe của Hà Bắc, Hà Tây, Hải Hưng và Trường Hạ sỹ quan Cảnh sát
PCCC tham gia chữa cháy. Công tác chữa cháy ở đây chủ yếu sử dụng
nước. Lực lượng chữa cháy dùng lăng A, B cắt các vòi xăng phun bị cháy,
làm lạnh các bể đang cháy, bảo vệ chiến sỹ chữa cháy và chia cắt từng
cụm dứt điểm, dùng dẻ, que gỗ nút các lỗ thủng trong điều kiện nóng rát,
khói đen mù mịt. Đến 5h15phút ngày hôm sau, đám cháy lớn được dập tắt
hoàn toàn, cứu được 12 bể xăng lớn và hàng ngàn phuy xăng với gần 25
triệu lít xăng dầu. Sau trận chiếu đấu này, lực lượng Cảnh sát PCCC Thủ
đô đã được Bác Hồ gửi thư khen ngợi, trong đó có 4 điều Người dạy đã
trở thành kim chỉ nam cho hoạt động của lực lượng Cảnh sát PCCC, đó là:
1. Phải thường xuyên nâng cao cảnh giác, chớ chủ quan, tự mãn.
2. Phải thường xuyên thật sẵn sàng để nhanh chóng làm tròn nhiệm vụ bất
kỳ trong tình hình nào, để bảo vệ tài sản của nhà nước và nhân dân.
3. Phải không ngừng học tập, nghiên cứu phát huy sáng kiến, tổng kết kinh
nghiệm để tiến bộ hơn nữa trong việc PCCC.
4. Phải thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ cho lực lượng dân phòng ngày
càng tiến bộ để họ trở thành người giúp việc thật đắc lực cho các đồng
chí.
Lần thứ hai: Hồi 15h ngày 16/4/1972, nhiều tốp máy bay Mỹ đến đánh
phá kho xăng dầu Đức Giang và kho kim khí hóa chất Đức Giang. Phòng
PCCC Sở Công an Hà Nội đã tập trung toàn bộ lực lượng, phương tiện
dưới sự chỉ đạo của Thiếu tá Trưởng phòng Đinh Mười và Đại úy Phó
Trưởng phòng Bùi Văn Hoàn. Bom bi của địch đánh trúng kho xăng làm
nhiều bể bị nổ tung, xăng phun ra thành vòi lửa dài hàng trăm mét. Lực
lượng Cảnh sát PCCC đã dùng lăng A để cắt ngọn lửa. Đến sáng ngày
hôm sau, đám cháy cơ bản được dập tắt.
* Chiến đấu với giặc lửa trong 12 ngày đêm máy bay B52 đánh phá Hà Nội
Trong trận Điện Biên Phủ trên không ở Hà Nội, máy bay địch tập trung
đánh phá khu vực điểm Đông Anh, ga Yên Viên. Đội PCCC Lộc Hà Sở
Công an Hà Nội do đồng chí Đào Văn Phê là đội trưởng đã ngày đêm
chữa cháy liên tục, không quản hy sinh gian khổ. Đang chữa cháy, máy
bay địch đánh trúng đội hình làm hỏng 1 xe chữa cháy, nhưng lực lượng
Cảnh sát PCCC đã dũng cảm chiến đấu cứu được nhiều xăng dầu và hàng
hóa trong kho. Với những thành tích chiến đấu xuất sắc, đội PCCC Lộc
Hà đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng Lực lượng
Vũ trang Nhân dân ngày 2/9/1973.
* Vụ cháy lò vỉa 7 mỏ than Vàng Danh – Quảng Ninh
Ngày 3/3/1985, xảy cháy Vỉa 7 mỏ than Vàng Danh, Quảng Ninh. Đây là
đám cháy lớn, phức tạp, có nguy cơ cháy lan toàn bộ vỉa 7 và lan sang các
vỉa khác; điểm cháy nằm sâu trong lòng đất, cách cửa lò 520-580m, cách
mặt nước biển +260m.
Trước tình hình như vậy, Bộ Công an đã phối hợp với Bộ Điện than,
UBND tỉnh Quảng Ninh tổ chức chữa cháy, huy động 48 xe các loại và
222 người sử dụng hết 2.699m3 nước để chữa cháy.
Chiến thuật chữa cháy: Ban đầu đưa ra phương án đánh sập lò, chờ khi lửa
tắt thì khôi phục lại, đánh giá phương án này không khả thi và hiệu quả
thấp nên đã quyết định phương án dùng mặt nạ phòng độc, đưa lăng phun
vào tiếp cận ngọn lửa để chữa cháy, đây là phương án tối ưu nhất, rẻ tiền
nhất lại nhanh chóng khôi phục sản xuất. Cuộc chiến đấu diễn ra không
ngừng, lực lượng PCCC đã phun nước trực tiếp vào vùng cháy, đào bới
than ra để chữa cháy đồng thời kết hợp sáng kiến bịt kín các cửa hút gió từ
ngoài vào lò, đưa nước từ cửa thượng lò dẫn nước xuống vùng cháy. Để
có nước chữa cháy các lực lượng tham gia chữa cháy đã phải ngăn một
con đập để đưa nước suối rồi dùng máy bơm công suất lớn cung cấp
nước cho xe chữa cháy. Sau 10 ngày chiến đấu, 5h sáng ngày 13/3/1985
đám cháy được dập tắt hoàn toàn. Để dành được chiến công này đã có rất
nhiều chiến sỹ bị ngất (không có ai bị thương).
Hiệu quả chữa cháy: không phải đánh sập lò, rút ngắn thời gian khôi phục
lò, đem lại hiệu quả kinh tế rất cao, cứu được những vỉa than có trữ lượng
lớn và chất lượng tốt nhất của Việt Nam.
b) Giai đoạn từ năm 1986 đến nay
Bước vào thời kỳ đổi mới, lực lượng CSPCCC đã khắc phục tình trạng
thiếu lực lượng, phương tiện và tổ chức tốt công tác thường trực sẵn sàng
chiến đấu, kịp thời chữa cháy, chữa cháy có hiệu quả nên trung bình hàng
năm số lượng tài sản mà lực lượng Cảnh sát PCCC cứu được trị giá từ
2000 - 3000 tỷ đồng. Nhiều vụ chữa cháy được các cấp lãnh đạo, các cấp,
các ngành và nhân dân đánh giá cao, điển hình như: Vụ chữa cháy các kho
đạn ở Tuyên Quang, Vĩnh Phúc và Đà Nẵng; vụ chữa cháy tàu ở Cẩm Phả
(Quảng Ninh); các vụ chữa cháy chợ Vinh (Nghệ An), chợ Sắt (Hải
Phòng); vụ chữa cháy bệnh viện Chợ Rẫy (TP Hồ Chí Minh) đã bảo vệ an
toàn cho khu nhà bệnh nhân; các vụ chữa cháy khu tập thể Bộ Thuỷ Lợi,
phường Chương Dương (Hà Nội), xí nghiệp giầy da xuất khẩu Hiệp Hưng
(TP Hồ Chí Minh), khu dân cư phường Lạc Đạo, thị xã Phan Thiết (Bình
Thuận), khu dân cư ở TP Nha Trang (Khánh Hoà), công ty Visingpack ở
TP Hồ Chí Minh; gần đây nhất là vụ chữa cháy rừng U Minh Thượng tỉnh
Kiên Giang và U Minh Hạ tỉnh Cà Mau và chữa cháy cứu người bị nạn tại
tòa nhà chung cư cao tầng JSC 34 Thanh Xuân, Hà Nội. Cụ thể:
* Đối mặt với giặc lửa ở rừng U Minh
Ngày 24.3.2002, xảy ra cháy tại Vườn Quốc gia U Minh Thượng, Kiên
Giang. Điểm cháy từ khu rừng có lớp than bùn và thực bì dày 1 đến 1,5m,
phía trên là chàm và cây dây leo khô kiệt do nắng nóng nên lửa cháy cả
trên mặt đất và dưới lòng đất. Lửa ngày càng cháy dữ dội, vượt ra ngoài
tầm kiểm soát của địa phương nên đã phải yêu cầu Trung ương chi viện.
Ngay sau khi nhận được sự chỉ đạo của Bộ Công an, Tổng cục Cảnh sát
về việc huy động lực lượng, phương tiện để chữa cháy rừng, ngày
2.4.2002, đoàn công tác của Cục Cảnh sát PCCC (do đồng chí Đại tá Bùi
Văn Ngần, Cục trưởng dẫn đầu) đã lập tức đến U Minh Thượng để tham
gia chỉ huy chữa cháy (Ban chỉ đạo chữa cháy rừng U Minh do lãnh đạo
UBND tỉnh Kiên Giang làm trưởng ban).
Tham gia chữa cháy có 150 cán bộ chiến sĩ chữa cháy và 200 cán bộ
chiến sĩ của Cảnh sát cơ động, 50 máy bơm chữa cháy, 18 xe chữa cháy
các loại và nhiều trang thiết bị chữa cháy khác của Công an 15 tỉnh từ
Đồng Nai đến miền Tây Nam bộ.
Trước tình hình đám cháy lớn, phức tạp trong điều kiện thiếu phương tiện,
không có nước để chữa cháy, lực lượng Cảnh sát PCCC đã nghiên cứu ra
phương án chữa cháy táo bạo và khoa học là đánh thẳng vào mặt lửa bằng
cách tổ chức đào kênh từ ngoài xuyên vào đám cháy vừa để ngăn cháy,
vừa để dẫn nước vào phục vụ chữa cháy, lực lượng Cảnh sát PCCC triển
khai lực lượng và phương tiện dập cháy đến đâu, lực lượng quân đội và
Cảnh sát cơ động chặt cây phát quang tạo hành lang an toàn đến đó.
Đến 14 giờ ngày 18.4.2002, đám cháy tại rừng U Minh Thượng đã được
khống chế, không còn khả năng lan ra các khu vực khác.
Trong những ngày chữa cháy tại rừng U Minh, nguyên thủ tướng Phan Văn
Khải đã trực tiếp đến kiểm tra công tác chữa cháy rừng, động viên, khen
ngợi các lực lượng chữa cháy trong đó có Cảnh sát PCCC đã mưu trí,
dũng cảm, cứu được nhiều ha rừng. Đồng chí Trương Quốc Tuấn, Chủ
tịch UBND tỉnh Kiên Giang khẳng định: “Nếu không có lực lượng Cảnh
sát PCCC thì khó mà giữ được một diện tích rừng lớn như vậy. Lúc đầu
chúng tôi cũng còn băn khoăn về phương án đánh thẳng mặt lửa mà các
anh trong ban lãnh đạo Cục Cảnh sát PCCC đưa ra, nhưng đến bây giờ thì
thấy rất có hiệu quả”
Kết quả, đã cứu được 5.593 ha rừng tràm của vườn quốc gia U Minh
Thượng (trong đó có 1.000 ha rừng nguyên sinh), hơn 13.000 ha rừng đệm
thuộc rừng U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang và 36.771 ha rừng U Minh
Hạ, tỉnh Cà Mau, trong đó có khu rừng đặc dụng Vồ Dơi với diện tích
4.000 ha.
* Vụ cháy tại chung cư JSC 34, đường Khuất Duy Tiến, Thanh Xuân, Hà
Nội:
Vào hồi 18 giờ 08 phút ngày 10/3/2010 xảy ra cháy ống thu rác của đơn
nguyên A tòa nhà JSC 34, ngõ 164, đường Khuất Duy Tiến, Thanh Xuân,
Hà Nội. Chung cư JSC 34 thuộc Công ty Cổ phần đầu tư và xây dựng số
34. Nhà đơn nguyên A có 18 tầng, 1 tầng hầm, diện tích mặt bằng sàn
467m2/sàn, gồm 180 căn hộ.
Ngay sau khi nhận được tin báo cháy, PC66 Hà Nội đã điều động 08 xe
(gồm 02 xe thang, 04 xe chữa cháy, 02 xe téc) cùng các đơn vị Cảnh sát
Giao thông, Công an sở tại, Ban chỉ huy quân sự quận Thanh Xuân, Trung
tâm y tế 115, Ban quản lý tòa nhà... tổ chức chữa cháy, cứu người bị nạn.
Trong quá trình tổ chức cứu chữa, lực lượng Cảnh sát PCCC Hà Nội đã
sử dụng 02 xe thang để cứu người tại các tầng của tòa nhà và cõng, dìu,
đưa được 44 người bị nạn (gồm 2 người nước ngoài, 42 người là người già,
phụ nữ và trẻ em) không có khả năng tự thoát ra nơi an toàn, đồng thời tổ
chức hướng dẫn cho hầu hết những người còn lại trong tòa nhà thoát ra
khu vực an toàn. Sau 30 phút nỗ lực cứu chữa, đám cháy đã được dập tắt
hoàn toàn. Tuy nhiên, đám cháy đã làm 02 người chết do ngạt khói là chị
Vương Phương Lan (SN 1967) và con trai Lưu Gia Minh (sinh năm 2000)
ở tại phòng số 1810. Nguyên nhân cháy là do người dân của khu chung cư
vứt than tổ ong đang cháy dở vào đường ống xả rác của tòa nhà gây ra
cháy.
Nhờ thành tích xuất sắc trong chữa cháy và cứu người bị nạn trong đám
cháy, UBND thành phố Hà Nội đã tặng Bằng khen cho 3 tập thể gồm Đội
Cảnh sát PCCC Ba Đình, Từ Liêm và Hà Đông. Giám đốc Công an thành
phố Hà Nội tặng Giấy khen cho 17 cá nhân của Phòng Cảnh sát PCCC Hà
Nội.
2. Phần thưởng cao quý của lực lượng Cảnh sát PCCC
a) 15 đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang
- Đội PCCC Hoa Lư, Ty Công an Ninh Bình (01/01/1967)
- Đội PCCC Hồng Gai, Ty Công an Quảng Ninh (01/01/1967)
- Đội PCCC Lộc Hà, Sở Công an Hà Nội (02/9/1973)
- Phòng Cảnh sát PCCC, Ty Công an Quảng Bình (02/9/1973)
- Phòng Cảnh sát PCCC, Sở Công an TP Hải Phòng (02/9/1973)
- Phòng Cảnh sát PCCC, Ty Công an Thanh Hóa (02/9/1973)
- Phòng Tổ chức công tác chữa cháy (nay là Phòng Phòng Công tác chữa
cháy) – Cục Cảnh sát PCCC và CNCH (29/8/1985)
- Phòng Cảnh sát PCCC, Công an tỉnh Nghệ An (03/8/1985)
- Phòng Cảnh sát PCCC, Công an tỉnh Hải Dương (22/7/1998)
- Phòng Cảnh sát PCCC, Công an tỉnh Cần Thơ (22/7/1998)
- Phòng Cảnh sát PCCC, Công an tỉnh Hà Tĩnh (22/7/1998)
- Phòng Cảnh sát PCCC, Công an tỉnh Nam Định (22/7/1998)
- Phòng Cảnh sát PCCC, Công an tỉnh Hà Nam (22/7/1998)
- Phòng Cảnh sát PCCC, Công an tỉnh Long An (29/8/2000)
- Phòng Cảnh sát PCCC, Công an tỉnh Thái Bình (01/9/2000)
b) Các phần thưởng cao quý khác
* Cục Cảnh sát PCCC và CNCH được Đảng và Nhà nước tặng thưởng:
- 01 Huân chương Hồ Chí Minh năm 2006
- 01 Huân chương chiến công Hạng Ba năm 2007
* Toàn lực lượng Cảnh sát PCCC và CNCH:
- 01 Huân chương Quân công hạng Nhất năm 1981
- 01 Huân chương Độc lập hạng Nhất năm 1996
- 01 Huân chương Hồ Chí Minh năm 2001.
Ngoài ra, các tập thể và cá nhân lực lượng Cảnh sát PCCC và CNCH đã
được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý khác./.
Chung cư chắc sử dụng bình chữa cháy nhiều lắm nhỉ ?
ReplyDelete