Marcher trong tiếng Pháp là đi bộ. Danh từ marche và động từ marcher
có cùng căn tố, nhưng bataillon de
marche không có nghĩa là tiểu đoàn bộ
binh.
Trong
quân đội Pháp, một đơn vị được/bị gọi là de
marche nếu nó được thành lập cho một cuộc hành quân nhất định hay chỉ hoạt
động trong một giai đoạn nhất định, xong nhiệm vụ thì giải tán.
Có nhiều cách tổ
chức những đơn vị lâm thời như vậy:
Một
là ghép các đơn vị bị thương vong nặng lại thành một đơn vị khác. Năm 1914 sư
đoàn 32 bộ binh bị tổn thất nặng trong trận Morhange. Không trung đoàn nào còn
ra hồn một trung đoàn. Người ta phải tạm lập ra một chiến đoàn (régiment de marche) từ thành phần sống
sót của hai trung đoàn 53 và 143. Chiến đoàn này kết thúc nhiệm vụ khi viện
binh đến.Tương tự như vậy cả hai tiểu đoàn lê dương nhảy dù (1er et 2ème
B.E.P.) ở Điện Biên Phủ bị đánh tơi tả đến nỗi ngày 25/4/1954 bộ chỉ huy Pháp
phải tạm thời gom bọn họ lại thành một đơn vị mang danh tiểu đoàn lê dương nhảy dù dã chiến (Bataillon de Marche de la
Légion étrangère / B.M.L.E.). Đại tướng Võ Nguyên Giáp gọi nó là tiểu đoàn bộ binh lê dương nhảy dù (!):
Sau trận phản
kích ở sân bay Mường Thanh ngày 23 tháng 4, viên chỉ huy tiểu đoàn dù 2
Lixăngphen (Liesenfelt) bị mất chức. Các tiểu đoàn lê dương dù số 1 và
số 2 lừng danh đã bị xóa sổ. Những binh linh còn lại của hai tiểu
đoàn này được sáp nhập với nhau dưới một cái tên mới: "Tiểu
đoàn bộ binh lê dương dừ'' (bataillon de marche du B.E.P.)
(Võ Nguyên Giáp – Điện
Biên Phủ, Điểm hẹn lịch sử, chương 11)
Đơn
vị bị thương vong nặng có thể lâm thời bị giáng cấp. Tháng 3/1945 Nhật bất thần
hất chân Pháp ở Đông Dương. Tàn quân của trung đoàn 5 lê dương bộ binh (5e REI)
kéo qua đất Trung Hoa được gom lại thành một tiểu đoàn lấy tên là tiểu đoàn dã
chiến số 5 (Bataillon de marche N° 5). Tiểu đoàn này trở lại miền Bắc Việt Nam
năm 1946 và đến tháng 11/1949 được phục hồi thành trung đoàn 5 lê dương bộ binh
(5e REI) như hồi trước thế chiến.e
Một
cách khác là tạm thời ghép một số đơn vị hoàn chỉnh sẵn có thành một đơn vị mới
cho phù hợp với tình hình chiến sự:
Biên
chế một trung đoàn lính Du-a (zouave)
có ba tiểu đoàn. Khi có chiến tranh, mỗi tiểu đoàn này sẽ hợp với một tiểu đoàn
bộ binh nhẹ và một tiểu đoàn dự bị động viên thành một régiment de zouaves de marche.
Bán
lữ đoàn nhảy dù hỗn hợp (demi-brigade de marche parachutiste / DBMP) được thành
lập để tham chiến ở Đông Dương năm 1947-1948 là một ví dụ nữa về việc ghép tạm
một số đơn vị còn nguyên vẹn (tiểu đoàn 1 của trung đoàn 1 bộ binh nhảy dù I/1er RCP,
tiểu đoàn 3 của trung đoàn 1 bộ binh nhảy dù III/1er RCP và tiểu đoàn 1 nhảy
dù xung kích 1erBPC) thành một đơn vị lâm thời. Vì là đơn vị lâm thời nên DBMP
không có phù hiệu. Binh lính, sĩ quan đeo phù hiệu của đơn vị gốc, sau năm 1948
lại trở về đơn vị gốc.
Tương
tự như vậy năm 1947 trong thành phần của trung đoàn 110 (110ème RI ) có một tiểu
đoàn dã chiến (bataillon de marche) gồm tiểu đoàn 1 của chính trung đoàn110, được
tăng cường một số thành phần của trung đoàn 1 bộ binh (1er RI) và đại đội chỉ
huy của liên đoàn bộ binh số 11 (Groupement d’Infanterie n°11) và một số bộ
binh sơn chiến. Tiểu đoàn tăng cường này hoạt động chủ yếu ở Huế và Đà nẵng từ
4 tháng 2 năm 1947 đến 15 tháng 11 năm 1947 thì giải thể.
Cũng
có khi đơn vị mang danh de marche là
một đơn vị hoàn chỉnh về tổ chức ngay từ đầu:
-Trong
cuộc chiến Pháp Phổ 1870, nhiều trung đoàn Pháp bị bắt trọn gói, xem như mất
phiên hiệu. Chính phủ Cộng Hòa lên, lấy lại các phiên hiệu đó đó để dùng cho
các đơn vị tái/tân lập kèm thêm cụm từ de
marche (53e régiment de marche của
tập đoàn quân sông Loire).
-Tiểu
đoàn dã chiến số 1 (bataillon de marche No 1) tham gia các chiến dịch Gabon và
Syrie năm 1942 là cải danh của phân đội bổ sung số 4 (détachement de renfort No
4) được thành lập ở trại Archambault.
Xin cám ơn chủ blog về thông tin bổ ích này.
ReplyDeleteCám ơn chú Chính đã ghé thăm. M.
Delete