Sunday, 13 August 2017

Bánh giầy hay bánh dày?



Thứ bánh làm bằng gạo nếp giã nhuyễn, nắn thành hình tròn dẹt trong truyện Lang Liêu là bánh giầy. 
 
Từ điển chỉ ghi nhận bánh giầy (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:29), Văn Tân, 1994:47, Hoàng Phê et al. 2006:35…), không có bánh dày, bánh dầy, bánh giày

Các nhà nghiên cứu (Trần Quốc Vượng, An Chi, Nguyễn Dư...) chưa có cách lý giải đủ sức thuyết  phục vì sao phải là giầy mà không là dày, dầy hay giày. Người lười tra từ điển thường viết tùy thích:

Bánh giầy (còn được viết là bánh giày, bánh dầy hay bánh dày) là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở

Bánh giầy Gầu

Thursday, July 29, 2010

(http://langxuancau.blogspot.com.au/2010/07/banh-giay-lang-gau.html)



Ta thử hình dung hậu quả của thói tùy tiện này khi nó đi vào lớp học. Đầu sách mình dạy:


Bánh giầy hình tròn, tượng trưng cho mặt trời.

(Trần Đắc Trí & Huỳnh Thu Thủy, 2013:21)


Cuối sách mình ra đề thi:


Hãy thuật lại sự tích bánh dày bánh chưng.

(Trần Đắc Trí & Huỳnh Thu Thủy, 2013:107)
 
Học sinh phải viết về cái bánh nào?

Thursday, 10 August 2017

Sự thật ở Truông Bồn, lịch sử không thể làm giả được (Thanh Hà - Phụ Nữ Thành Phố Hồ Chí Minh 31/07/2017)

Lại bốn cuộc họp liên tiếp, đều triệu tập cô. Họ xem cô như người đang phá không để yên cho họ làm việc. 
(http://phunuonline.com.vn/gia-dinh/su-that-o-truong-bon-lich-su-khong-the-lam-gia-duoc-106321/)

1. Từ nhà lên xã. Xã lên huyện. Tập trung hai đêm lại đi. Đường đi thăm thẳm, cây cối lút mặt người. Cứ tưởng đi đâu hóa ra là lên Tân Kỳ. Dọc đường, các anh không xưng tên mà cứ một hai gọi cô là “con o”. Bảy thanh niên của xã cùng đi đợt này chỉ mình cô là nữ. Mẹ không cho cô đi. Mẹ khóc. Con là chị cả, sau còn bốn đứa em ngơ ngơ. Cô bảo, con là đoàn viên, phải gương mẫu. Xã mình chưa có ai là nữ xung phong đi cả.
Cha ra cửa hàng nhờ may cho cô chiếc túi xách màu nâu để mang bên người, đựng hai bộ quần áo. Thanh niên cộng sản không được khóc. Khóc là yếu đuối. Cha chúc cô lên đường khỏe mạnh. Mẹ của anh cũng sang khuyên cô ở lại. Con đi lỡ nó về thì sao? Anh đã chết một năm rồi. Chưa có giấy báo tử nên gia đình vẫn nuôi hy vọng.
Su that o Truong Bon, lich su khong the lam gia duoc - Anh 1
Cô Trần Thị Thông, tiểu đội trưởng đội 2 - đại đội 317, là người nhất duy nhất sống sót trong trận bom dội xuống cung đường 15A sáng 31/10/1968 tại Truông Bồn, xã Sơn Mỹ, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Trận bom đã vùi lấp 13 thanh niên xung phong đang làm nhiệm vụ, trong đó có 11 cô gái và 2 chàng trai. Hiện cô đang sống tại thành phố Vinh.
Đi thanh niên xung phong là đi làm đường. Mở đường, san lấp đường cho xe vào Nam đánh giặc. Công việc có lẽ bình yên vì không phải vào trong Nam. Cô lên được ít hôm thì một bữa chợt có người nhắn ra gặp mẹ. Sao mẹ biết con ở đây mà thăm? Thì nghe mấy người đi buôn nói trên Tân Kỳ có đoàn thanh niên xung phong, toàn người Yên Thành, mẹ đoán có con nên đi thử xem có gặp không.
Lên mà thấy có con thì về, sao đâu. Thấy con sống và công tác thế này, mẹ yên tâm rồi. Mẹ vừa lên đã về ngay. Gần hai tháng nấu ăn thì được chuyển lên tổ làm đường. Nghe mà phấn khởi. Nấu ăn mãi thì chán chết, cứ có cảm giác tù túng. Anh em lại mỗi người mỗi ý, không biết nấu thế nào cho vừa.
2. Chiến tranh không chỉ ác liệt ở trong Nam. Cô nhận ra điều đó khi lần đầu chứng kiến cảnh máy bay ném bom hàng loạt xuống ven rừng vào một buổi chiều. Truông Bồn chiều hè. Gió lào khô khốc. Mùi khét của bom. không một tiếng chim. Sáng đi làm, thấy một dãy dài xe chở hàng cháy khét, lửa vẫn còn âm ỉ.
Chỉ thấy những hình người lái. không thể nhận ra các anh là ai. Nhìn rồi đi tiếp. Lại thấy hai chị em. Con chị độ mười tuổi, bế con em chắc chưa đầy tuổi, cánh tay sắp đứt lìa khỏi cơ thể vì mảnh đạn. Đứa em không khóc. Con chị mặt không chút cảm xúc. Sao mọi người cũng chỉ nhìn mà chẳng ai làm gì, nói gì?
Tiểu đội mười bốn người. Mười hai nữ, hai nam. Đang bữa cơm, con Vinh khuỳnh tay chỉ hướng sang mâm bên kia. Khuy quần anh Hạp bị tuột. Anh vẫn tỉnh bơ ăn, không biết bốn đứa con gái bên này đang không nhịn được cười. Thương anh quần đùi cũng không có mà mặc. Con Đang đẹp nhất đội. Có nụ cười rất tươi.
Su that o Truong Bon, lich su khong the lam gia duoc - Anh 2
Một anh cùng đơn vị yêu thầm, dù biết nó đã có người yêu ở nhà. Vác xẻng ra san đường, nó kể, hôm qua anh ấy lại gửi trộm thư cho em. Đã đọc chưa? Dài lắm, mới đọc sơ sơ. Tối về ta cùng đọc. Tối về đã rất khuya. Vừa rửa tay rửa chân, thay quần áo xong lại có lệnh ra làm tiếp. Chờ đoàn xe đi qua thì cào đất lấp dấu bánh xe. Đi làm còn cố chọn quần chọn áo cho vừa, cho đẹp.
3. Tỉnh dậy trong trạng thái mơ màng. Lại thiếp đi suốt hai ngày nữa. Ngày thứ ba cô mới ngồi dậy được. Chuyện gì vậy? O may mắn lắm. Bọn nớ chết cả rồi. Người mẹ - người cả tiểu đội đang ở nhờ trong nhà kể. Có hai anh bộ đội đưa o về. Một anh mang xách y tá, một anh mang xách cán bộ. Họ hô hấp nhân tạo rồi mần đủ mọi chuyện cho o tỉnh lại. Lần mò ba lô từng đứa. Cái giường này bốn đứa nằm chung. Cô, con Nhung, con Vinh, con Đang. Giờ chỉ còn mình cô.
Máy bay nha, tất cả chui vô hầm nha. Mọi lần máy bay dạo một vòng rồi mới thả bom. Lần này phát hiện máy bay là đã thấy bom rơi. Mười ba người cùng chết. Không biết lúc đó họ có kịp cảm nhận cái chết không? Họ có đau đớn không? Chiến tranh không chỉ ác liệt ở trong B. Đi thanh niên xung phong cũng có thể không trở về.
Đó là những điều bốn năm trước cô không thể ngờ tới, không tưởng tượng ra. Tiểu đội chỉ còn mình cô. Được gom về đội thu dung. Lý do sức khỏe yếu. Cô không muốn về đó. Về đó là nhận mình có tư tưởng buông xuôi. Cô không buông xuôi. Vậy là được ghép vào một tiểu đội khác.
4. Chẳng ai biết đến cô cho đến 29 năm sau. Hôm đó, cô bế thằng con út đi xem ké ti vi nhà hàng xóm. Đang phát chương trình thời sự. Cô nhìn lên thấy dòng chữ “Hướng về Truông Bồn”, nói về một đơn vị anh hùng, một tiểu đội có 10 cô gái đã hy sinh.
Một phụ nữ được giới thiệu là người sống sót duy nhất, là tiểu đội trưởng. Cô ấy mặc bộ quần áo thanh niên xung phong, đội mũ tai bèo, tay cầm một nắm hương to, thắp cho từng ngôi mộ có tên từng người, đến mộ nào cũng khóc nức nở, nước mắt đầm đìa. Cô phát hoảng, bật kêu to “Ôi trời ơi!”. Những người cùng ngồi xem giật mình, quay nhìn cô. Chuyện gì vậy? Không, không có gì. Cô bế con về. Cô kể với chồng đoạn phim vừa xem. Chú sửng sốt. Hỏi đi hỏi lại xem có thật vậy không? Sao lại vậy?
Chồng cô chiến đấu trong chiến trường Quảng Trị. Một lần, xe qua chỗ bọn cô thì bị lầy. Trong khi chờ dọn đường cho xe qua, chợt có tiếng hỏi thăm ở đây có ai đồng hương Hưng Nguyên không, cho gửi nhờ lá thư về nhà. Cô gọi con Hoài lại. Rồi Hoài cầm thư nhờ người chuyển về giúp. Hết nhiệm kỳ thanh niên xung phong, đầu năm 1970 cô về làm việc ở một nhà máy, được phân ở nhờ nhà một người dân Hưng Nguyên.
Su that o Truong Bon, lich su khong the lam gia duoc - Anh 3
Con trai nhà ấy từ chiến trường về thăm bố ốm nặng. Thấy có cô gái ở nhờ nhà mình thì hỏi chuyện. Hóa ra, hai người từng gặp nhau năm 1968. Anh chính là người hôm ấy nhờ đưa thư về cho bố mẹ. Mấy mươi phút ngắn ngủi trong bóng tối nhập nhòe nên chẳng rõ mặt nhau. Chú hỏi thăm cô gái đồng hương. Cô kể lại chuyện đã xảy ra với tiểu đội mình.
Sao em thoát được khi cả mười ba người đều chết? Em là tiểu đội trưởng. Tiểu đội trưởng được mang súng trường. Khi anh Hạp hô to máy bay nha, em quay lại nhặt súng khoác vào người rồi mới nhảy xuống hầm. Em nhảy xuống cuối cùng. Có lẽ nhờ đầu ruồi súng nhô lên mặt đất, người ta phát hiện đến lay lay thì nghe tiếng rên.
Có lẽ nòng súng đã tạo kẽ hở cho chút không khí lọt vào nên em không chết. Người ta đã moi em lên, đầy bùn đất. Giấy tờ ngày đó cô còn giữ. Phòng sau này chưa già mà đã ốm yếu thì có cái để chứng minh cho con cháu biết vì sao sức khỏe mẹ như thế. Mẹ tham gia chiến tranh, mẹ bị sức ép của bom.
Giờ mình phải viết cái đơn. Chú nói sau vài ngày nghĩ ngợi. Cô không ngờ chuyện đó lại khiến chú mất ngủ suốt mấy đêm. Viết đơn gửi cho ai, viết thế nào? Nếu họ muốn lấy Truông Bồn làm di tích lịch sử thì phải làm cho đúng. Mình phải viết đơn xin trình bày rõ sự thật.
Thứ nhất, số người hy sinh trong trận bom đó không phải 10 người, mà chính xác là 13 người, 2 nam và 11 nữ. Thứ nhì, nhân chứng sống không phải là người đã lên ti vi. Một cái đơn chép tay thành bốn bản. Gửi Tỉnh đoàn, Ty Văn hóa, cơ quan thương binh xã hội và nghĩa trang Truông Bồn. Tên các cơ quan là chỉ ghi áng chừng, chứ chẳng biết xưng chính xác thế nào.
Một cuộc họp được tổ chức. Vợ chồng cô cùng có mặt. Khi cô bước vào, hai người đàn ông đứng đón khách nói nhỏ với nhau “hắn đang còn”. Cô nghe nhưng làm ngơ. Cuộc họp nêu vấn đề cô chú trình bày trong thư. Mọi người tranh cãi. Chỉ vậy rồi thôi. Chẳng ai nhắc gì nữa. Phải rất lâu sau, vào chiều hai chín tết, có người đàn ông tìm đến nhà cô.
Ông ta đưa một phong bì ba trăm nghìn đồng nói là thăm ốm, tiền của cơ quan nào đó trong Nam gửi cho Tỉnh đoàn làm từ thiện. Ông dặn cô: Từ nay về sau o đừng nói chi về Truông Bồn nữa. O không đứng tên ở Truông Bồn thì rồi sẽ về đứng tên ở Hoàng Mai, Cầu Cấm hoặc Bến Thủy gì đó. Tỉnh đang làm địa điểm để lấy thành tích, làm mô hình cho thế hệ sau học tập.
Cô nghe mà không chịu được. Ngứa tai! Cô nói: Bác ạ, tôi là thanh niên xung phong ở Truông Bồn thì tôi nhận là ở Truông Bồn, tôi ở tiểu đội nào thì tôi nói ở tiểu đội đó thôi. Ông nói tiếp: Thôi thì có chuyện gì o cứ trình bày lên Tỉnh, khoan ra Trung ương. Cô nói: Sự việc chưa rõ ràng, tôi còn phải gửi đơn nữa. Đây là vấn đề lịch sử. Người này không biết thì người khác biết. Người này không viết thì người người khác viết.
Lại bốn cuộc họp liên tiếp, đều triệu tập cô. Họ xem cô như người đang phá không để yên cho họ làm việc. Cô cùng 53 người được mời đi nhận kỷ niệm chương Thanh niên xung phong. Đến nơi, ai cũng được nhận, cô thì không. Có cái kỷ niệm chương chứng nhận mình từng là thanh niên xung phong thì cũng vui; mà không có cũng chẳng sao. Nhưng cô phải hỏi cho biết lý do. Họ nói: “Em còn thắc mắc chi nữa. Trước sau gì em cũng là tiểu đội trưởng rồi. Bữa nào họ gửi giấy mời làm lễ đón nhận đơn vị anh hùng thì đi thôi. Thứ Năm này có đợt đi an dưỡng ở Cửa Lò đấy, em có muốn đi thì sắp xếp luôn”.
Nào cô có đòi hỏi gì đâu. Cô chỉ muốn nói cho đúng sự thật. Đồng đội chết hết cả rồi, mình phải nói thay họ.
Ngày 23/9/2008, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho tập thể 14 chiến sĩ TNXP Truông Bồn thuộc Đại đội 317, Đội 65, Tổng đội TNXP chống Mỹ cứu nước, tỉnh Nghệ An. Trong đó, 11 chiến sĩ nữ và 2 chiến sĩ nam đã anh dũng hy sinh. Chỉ mình cô Trần Thị Thông còn sống.
Thanh Hà

Tuesday, 8 August 2017

CẬU ẤM, CÔ CHIÊU (Hoàng Tuấn Công - Tuấn Công Thư Phòng)

3 thg 6, 2017

CẬU ẤM, CÔ CHIÊU

(http://tuancongthuphong.blogspot.com.au/2017/06/cau-am-co-chieu.html)


Ảnh:ST
HOÀNG TUẤN CÔNG

Sách “1575 thành ngữ, tục ngữ cần bàn thêm” (Lê Gia), mục “Cậu ấm cô chiêu – Cậu ấm sứt vòi”, tác giả Lê Gia giảng như sau:

Chữ “ấm” (cũng đọc là “âm”): Bóng mát. Sự che chở cho. Chữ “ấm” (cũng đọc là “ẩm”): Cho uống nước. Cho nên ta cũng gọi cái bình tích thuỷ, cái nồi nấu nước là “cái ấm”. Chữ “chiêu”: Cái ấm để nấu nước trà. Có người nói: “Chiêu từng miếng nước”; “cô chiêu”: Con gái nhà quan lớn nhưng vì là con gái nên không được tập ấm. Nhưng vì chữ “ấm” có nghĩa là bóng che và là cái ấm, cùng nghĩa với chữ “chiêu” là cái ấm, nên dù cô gái không được “tập ấm”, không được gọi là “cô ấm”, thì nay gọi tạm là “cô chiêu”, nó cũng có nghĩa là “cô ấm” (có danh, không có thực); “Cậu ấm sứt vòi”: Như trên, cậu con trai này mang hai cái tên là “tập ấm” và “cái ấm”, nên nếu cậu là người hư hỏng, bất tài thì ví cũng như cái ấm bị sứt mẻ mất cái vòi thành ra đồ bỏ”.(*)


Theo chúng tôi, lời “bàn thêm” của ông Lê Gia có một số điểm cần phải bàn lại như sau:

- Tác giả Lê Gia không chú chữ Hán, nên không rõ ông nói về một chữ “ấm” với hai âm đọc, hay là hai chữ khác nhau. Tuy nhiên, chữ “ấm” (mà Lê Gia giảng là “Bóng mát. Sự che chở cho”), có tự hình , nghĩa là: Bóng cây, bóng rợp. Phàm được nhờ ơn của người khác đều gọi là ấm. Như tổ ấm 祖蔭 nhờ phúc trạch của tổ tiên để lại. Phép ngày xưa cứ ông cha làm quan to, con cháu được tập ấm ra làm quan, gọi là ấm sinh 蔭生, ấm tử 蔭子, ấm tôn 蔭孫, v.v.; trong khi chữ “ẩm” (Lê Gia giảng với nghĩa “cho uống nước”) lại có tự hình , nghĩa là: Đồ uống. Như rượu, tương gọi là ẩm. Uống. Như ẩm tửu 飲酒 uống rượu, ẩm thuỷ 飲水 uống nước, v.v. Ngậm nuốt. Như ẩm hận 飲恨 nuốt giận, nghĩa là mang mối hận âm thầm ở trong không lộ ra ngoài. Một âm là ấm. Cho uống. Như ấm chi dĩ tửu 飲之以酒 cho uống rượu (“Hán Việt tự điển” – Thiều Chửu).
- Dù thế nào, thì cả hai chữ “ấm” và “ẩm” , đều không có nghĩa nào chỉ “cái ấm”, mà “ấm” trong “cậu ấm” nghĩa là cháu con nhà quan được “tập ấm” (như Thiều Chửu đã giảng). Bởi vậy, ông Lê Gia cho rằng, chữ “ấm” (trong “cậu ấm”) đọc là “ẩm” nghĩa là uống nước, nên nó cũng có nghĩa là “cái ấm” là hoàn toàn suy diễn.

-Chữ “chiêu” trong “cô chiêu” cũng không phải là “cái ấm để nấu nước trà” (vì có người nói “chiêu từng miếng nước”, như Lê Gia suy diễn), mà do chữ “chiêu” trong “Chiêu văn quán” 昭文館 (“chiêu” = “hiển dương” 顯揚 (sáng sủa, rạng rỡ). “Việt Nam tự điển” (Hội khai trí Tiến đức) giảng như sau: “chiêu: Tên gọi con ông tiến-sĩ đời Lê, con các ông tiến-sĩ thì được dự vào học-sinh chiêu-văn-quán <> Cậu chiêu, cậu ấm, v.v..”.

Triều Lê, (đời Hồng Đức) đặt ra Sùng văn quán, Tú lâm cục. Con các quan từ Tam phẩm trở lên được tuyển vào Sùng văn quán. Con các quan từ ngũ phẩm trở lên tam phẩm được tuyển vào Tú lâm cục (Trạng lường Lương Thế Vinh từng được thăng Thị thư viện Hàn lâm, kiêm Sùng văn quán và Tú lâm cục). Sau đời Hồng Đức, Sùng văn quán 崇文館, đổi làm Chiêu văn quán 昭文館. Văn bia đề danh tiến sĩ khoa Quý Mùi niên hiệu Hồng Thuận năm thứ 6 (1514) chép: “Phụng trực đại phu Lại bộ Thượng thư Tri Chiêu văn quán, Tú lâm cục Tư chính Thượng khanh Đàm Thận Huy…”.

Vì con các ông tiến sĩ gọi là “chiêu”, nên Thi hào Nguyễn Du (con thứ bảy của Tiến sĩ Nguyễn Nghiễm), thời đi học còn gọi là “cậu Bảy Chiêu”; Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (con thứ bảy của Tiến sĩ Lê Hữu Mưu) cũng được gọi là “cậu Bảy Chiêu”. 
Như vậy, “ấm” trong “cậu ấm” chỉ về lệ “tập ấm” do triều đình ban cho con cháu các quan. Như “ấm tử” 蔭子 (con quan); “ấm tôn” 蔭孫 (cháu quan)…Còn “chiêu” lại chỉ riêng các nho sinh con ông Tiến sĩ, được vào học ở Chiêu văn quán. Và “chiêu”, trong “cậu chiêu”, vốn dùng để chỉ con trai các ông Tiến sĩ. Sau này, thành ngữ “cậu ấm, cô chiêu” nhằm để chỉ cả con trai, con gái nhà quan nói chung. Thành ngữ “cậu ấm sứt vòi” chẳng qua chỉ là cách chơi chữ, đồng nghĩa “ấm” (trong “tập ấm” 襲蔭), với “ấm” (trong “ấm nước”) để chế giễu, mỉa mai con cái nhà quan, được hưởng ân đức, bổng lộc của cha ông mà dốt nát, hư hỏng, hoặc lớn lên khi gia cảnh đã thất thế (giống như “đích tôn”, giễu thành “đít tôn”, “đít vại”…).

Ngày nay, “cậu ấm cô chiêu” còn được dùng với nghĩa con cái các quan chức lãnh đạo, hoặc nhà giàu sang, quyền quý, có địa vị, tiếng tăm trong xã hội.
Hoàng Tuấn Công

(*) “1575 thành ngữ, tục ngữ cần bàn thêm” (Lê Gia - NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2009), là cuốn sách mà trong đó, tác giả Lê Gia làm công việc “bàn thêm” để chỉ ra cái chưa đúng của các soạn giả đi trước. Điều này rất cần thiết. Tiếc rằng, rất nhiều điều “bàn thêm” của Lê Gia nặng về suy diễn chủ quan, kiến giải vô căn cứ, khiến vấn đề có khi đang đúng lại trở thành sai. Cách giảng “Cậu ấm cô chiêu – Cậu ấm sứt vòi”, là một ví dụ. (Chúng tôi sẽ có bài riêng viết về vấn đề này).



Sunday, 6 August 2017

Xoi hay xói? Soi hay sói?

Người Bắc hay lẫn lộn xoi/soixói/sói: xét xoi, chó xói... Người có nghề nhiều khi vẫn không biết phải dùng xói mòn, sói mòn, xoi mòn  hay soi mòn.

Hồi đầu thế kỷ 20 Việt Nam Tự Điển phân biệt xoi (làm cho thông, cho thoát: xoi cống) và xói (đâm thẳng vào: nước chảy xói vào chân đê).
(Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:656)
Hội Khai Trí Tiến Đức (1931:492) kê hai từ soi: soi1 nghĩa là chiếu (Lược thưa biếng chải, gương Tàu biếng soi) và soi2 nghĩa là sành, khôn (Đủ ngần ấy nết  mới là người soi). Sói có ba từ để nói  về hoa sói, chó sóisói đầu.

Vậy từ duy nhất thích hợp để nói về sự mất mát niềm tin là xói mòn:

Khi nghe đại diện các trường ĐH lên tiếng lo ngại để giáo viên địa phương chấm thi kỳ thi THPT quốc gia sẽ dẫn đến tình trạng không công bằng, dễ nương tay hay sợ cụm thi do địa phương chủ trì không nghiêm túc, mới thấy niềm tin đã bị xói mòn quá nhiều.

(Thùy Ngân, http://thanhnien.vn/giao-duc/xoi-mon-niem-tin-683971.html,Xói mòn niềm tin,

Từ điển hiện nay vẫn duy trì sự phân biệt giữa xoi (chọc thủng, không bào mòn) và xói (hủy hoại dần dần bề mặt). Nhưng soi mói lại được xem là một với xoi mói (Hoàng Phê et al., 2006:862 ; Nguyễn Kim Thản et al. 2005:1857). Dễ hiểu vì sao người không phân biệt được xóixoi sẽ dễ viết xói mòn thành xoi mòn hoặc soi mòn.

*Ít nhiều hoang mang, khiến tính kết hợp và sự hài hòa giữa người lãnh đạo với nhiều thành viên trong CĐ, ngày càng bị soi mòn!
(Adelaide Tuần Báo, "Tiêu chuẩn lãnh đạo CĐ", Adelaide Tuần Báo, số  790, thứ năm 03.08.2017, tr.4)

*Hậu quả là niềm tin bị soi mòn!
(Adelaide Tuần Báo, "Tiêu chuẩn lãnh đạo CĐ", Adelaide Tuần Báo, số  790, thứ năm 03.08.2017, tr.4)

Dưới đây là một bài tập nhỏ giúp các em phân biệt xoi/soi/xói/sói. Hãy chọn từ đúng chính tả nhé:

Trước khi (xỉa xói/sỉa sói) người làm lãnh đạo, người làm báo cần (xăm xoi/ săm soi) chữ nghĩa của mình thật cẩn thận. Mình có trách nhiệm với chữ nghĩa thì điều mình viết ra mới có thể góp phần (xoi xáng/soi sáng) đầu óc người đọc, chứ nếu chính mình không hiểu mình viết cái gì thì vô phương.

Saturday, 5 August 2017

LẦN ĐẦU ĐỌC SÁCH CỦA GS VŨ KHIÊU (Hoàng Tuấn Công - Tuấn Công Thư Phòng)

(http://tuancongthuphong.blogspot.com.au/2017/04/lan-au-oc-sach-cua-gs-vu-khieu.html#more)

 


Sách do NXB Chính trị Quốc gia ấn hành
Ảnh: HTC
HOÀNG TUẤN CÔNG

Hôm qua đi nhà sách, tôi thấy cuốn “Hồ Chí Minh ngôi sao sáng mãi trên bầu trời Việt Nam” của GS Vũ Khiêu (NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2004). Được biết, GS Vũ Khiêu có cụm công trình được Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1, nhưng tôi chưa bao giờ có ý định tìm đọc (tôi cũng chưa từng đọc bất cứ cuốn sách nào của ông).

Với cuốn Hồ Chí Minh ngôi sao sáng mãi trên bầu trời Việt Nam”, dù chưa đọc, nhưng tôi đã mường tượng nội dung cuốn sách viết gì. Định bỏ qua, vì ngó vào những cuốn thế này chỉ tổ mất thời gian. Tuy nhiên, nhớ lại mới đây Thanh Hoá đã sử dụng toàn bộ nội dung hoành phi câu đối do GS Vũ Khiêu biên soạn, xào xáo (mà trước đây tôi có viết mấy bài phê phán) để đưa vào thờ trong Đền thờ bà mẹ Việt Nam và các anh hùng liệt sĩ Hàm Rồng, nên tự nhủ đọc lướt cuốn sách này xem thế nào.



Quả nhiên, nội dung sách toàn là những điều quen thuộc, đã được người ta phân tích, nói đi nói lại hàng chục năm trước, giờ đến GS Vũ Khiêu “xào lại”. Ví dụ “Phần I - Hồ Chí Minh qua cuộc hành trình tìm đường cứu nước”; “Phần II - Hồ Chí Minh với vấn đề đạo đức”; “Phần IV - Hồ Chí Minh với các vấn đề nghệ thuật và tôn giáo”; “Phần V - Hồ Chí Minh với thương binh, liệt sĩ”,v.v…

Duy có mục “Văn bia, hoành phi, câu đối, bài minh tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và các anh hùng liệt sĩ” (thuộc phần V) là mang dấu ấn riêng của GS Vũ Khiêu. Ví dụ, “bài minh” trên quả chuông ở Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn:

Bát ngát Trường Sơn hồn liệt sĩ
Dạt dào Đông Hải khí anh linh
Ba hồi  chiêu mộ rung tâm trí
Muôn dặm non sông nặng nghĩa tình”.

Hình như ở đây có lỗi chế bản, “triêu mộ” in thành “chiêu mộ”. Tôi nghĩ thầm như vậy. Tuy nhiên, đọc thêm vài dòng nữa, thấy GS Vũ Khiêu giảng rõ ràng như sau: “Ba hồi chiêu mộ nói lên ba hồi chuông vào buổi sáng và buổi chiều (chiêu là buổi sáng, mộ là buổi chiều)”.

Nguyên văn trong sách của GS Vũ Khiêu
Ảnh: HTC

Đây là lời giảng sai hoàn toàn. Vì nói về hồi chuông sớm chiều, phải là “triêu mộ” [朝暮triêu = sớm; mộ = chiều]; còn “chiêu mộ” [招募chiêu = tuyển mộ; mộ = tìm kiếm, tập hợp] lại có nghĩa là tuyển mộ; như “chiêu” [] trong “chiêu binh mãi mã”, “chiêu sinh”; “chiêu tập”; “mộ” [] trong “mộ lính”; “mộ dân”, v.v…

Như vậy, GS Vũ Khiêu đã viết sai chính tả, “triêu” thành “chiêu”; hoặc ông cứ ngỡ “chiêu”, mới có nghĩa là “buổi sáng”.[*]

Căn cứ chữ nghĩa của GS Vũ Khiêu, thì câu “Ba hồi chiêu mộ rung tâm trí”, không thể có nghĩa là “ba hồi chuông vào buổi sáng và buổi chiều”, như ông giảng, mà buộc phải hiểu thành “Ba hồi 'tuyển mộ' rung tâm trí”, mới đúng(!). Các anh hùng liệt sĩ đã yên giấc ngàn thu, không rõ GS Vũ Khiêu còn “chiêu mộ” vào việc gì nữa?

Điều đáng chú ý là cách giảng sai của GS Vũ Khiêu giống hệt cái sai của GS Nguyễn Lân trong “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” (cuốn sách do chính GS Vũ Khiêu viết lời giới thiệu và ca ngợi là “một tác phẩm có giá trị mà cả xã hội mong đợi”). GS Nguyễn Lân giảng như sau: “chiêu mộ • dt. (H. chiêu: sáng; mộ: buổi chiều) Sáng và chiều <> Ba hồi chiêu mộ, chuông gầm sóng (HXHương). • đgt. (H. chiêu: vời tới; mộ: cầu tìm) Tuyển người làm một việc gì <> Thực dân chiêu mộ người đi làm đồn điền cao-su”.

Có lẽ chính GS Vũ Khiêu đã tham khảo và đặt niềm tin tuyệt đối vào “cuốn từ điển sống” Nguyễn Lân (chữ của GS Vũ Khiêu dành cho tác giả “Từ điển từ và ngữ Việt Nam”), khi cho rằng “chiêu mộ” vừa có nghĩa là “sáng và chiều”, vừa có nghĩa là “tuyển người làm một việc gì”(!)

Chuyện viết sai chính tả không hiếm trên sách báo. Tuy nhiên, một “bài minh” viết sai chính tả, dùng từ sai hoàn toàn như vậy mà vẫn được khắc trên chuông đồng, thì có lẽ là trường hợp hiếm có!

 Rồi “dĩ hư truyền hư”, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, cứ thế cho in, báo chí cứ thế chép lại. Bài “Âm vang Trường Sơn” (và hầu hết các bài viết về nghĩa trang Trường Sơn) chép lại nguyên văn “Ba hồi chiêu mộ rung tâm trí” của GS Vũ Khiêu, rồi tán: “Khi tôi vừa bước đến chân đồi nghĩa trang, tiếng chuông đã thỉnh lên như lời đánh thức hương hồn các liệt sĩ chào đón những người thân lên thăm. Đó là cuộc gặp gỡ của những người thân trở về thường ngày. Tôi chợt nhớ đến câu thơ của Giáo sư Vũ Khiêu được khắc lên thành chuông: “Bát ngát Trường Sơn hồn liệt sỹ. Dạt dào Đông Hải khí anh linh. Ba hồi chiêu mộ rung tâm trí. Muôn dặm non sông nặng nghĩa tình”. Đúng là tiếng chuông ngân bát ngát Trường Sơn”. (Lương Sử - báo Công an nhân dân/8/8/2015).

Lật giở thêm mấy trang nữa, thấy mục “Hoành phi câu đối tại nhà thờ bà Hoàng Thị Loan”. GS Vũ Khiêu giới thiệu bức hoành bốn chữ: “Quốc mẫu uy nghi”, và chú thích như sau:

Về bức hoành phi QUỐC MẪU UY NGHI có nghĩa là: Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ cao nhất của dân tộc ta. Cụ bà thân sinh ra Người xứng đáng là người mẹ chung của Tổ quốc Việt Nam, cho nên dùng chữ Quốc mẫu. Uy nghi là nói về hình dáng uy nghiêm và trang trọng của người”.

Một trang trong sách của GS Vũ Khiêu

Ta thử xem danh xưng “quốc mẫu” được các nhà biên soạn từ điển tiếng Việt giảng nghĩa là gì:

1. “Từ điển tiếng Việt” (Vietlex): “quốc mẫu國母 d. [cũ, trtr] hoàng thái hậu [coi là mẹ của thần dân]”.
2. “Việt Nam tự điển” (Lê Văn Đức): “quốc mẫu • dt. Mẹ vua (được xem như mẹ của toàn-thể dân-chúng một nước)”.
3. “Việt Nam tân tự điển” (Thanh Nghị): “quốc-mẫu • dt. (xưa) Mẹ vua”.
Từ điển Tàu (Hán điển) giảng như sau: quốc mẫu: cổ đại xưng thiên tử đích mẫu thân” [國母: 古代稱天子的母親], nghĩa là: “thời cổ đại gọi mẹ vua [thiên tử] là quốc mẫu”.

Như vậy, cứ theo nghĩa của từ điển Ta và từ điển Tàu giảng hai chữ “quốc mẫu”, thì GS Vũ Khiêu đã đẩy lùi lịch sử Việt Nam lại hàng trăm năm. Ông coi Chủ tịch Hồ Chí Minh chẳng khác nào thiên tử, nên gọi thân mẫu cụ Hồ là “quốc mẫu”. Chỉ khác là thời cổ đại, danh xưng “quốc mẫu” do thiên tử phong cho mẹ mình, còn nay tôn xưng này do chính GS Vũ Khiêu phong tặng; xưa kia “quốc mẫu” chỉ có nghĩa là “mẹ của thần dân”, thì nay GS Vũ Khiêu phong hẳn thành “mẹ chung của Tổ quốc Việt Nam”(!).

GS Vũ Khiêu chỉ giảng: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ cao nhất của dân tộc ta”, nhưng danh xưng “Cha già dân tộc” vẫn còn đó. Mà như thế, GS Vũ Khiêu gọi thân mẫu của cụ Hồ là “mẹ chung của Tổ quốc Việt Nam” sao đặng? Ấy là chưa nói đến chuyện, bà Hoàng Thị Loan được gọi là "quốc mẫu",  thì ai sẽ được GS phong là "quốc phụ"?

Lật thêm vài trang nữa thấy GS Vũ Khiêu giới thiệu đôi câu đối tại “đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Nghệ An” như sau:

“Tới cổng nơi này, hoa cỏ như còn lưu dấu Bác;
Vào đền trong đó, khói hương gợi chút dãi lòng dân”.

Không biết “chút dãi lòng dân” ở đây là cái gì?
Lật thêm vài trang nữa…
Nhưng thôi!
Chữ nghĩa, sách vở của GS Vũ Khiêu là thế!

Tiếc rằng không ít người vẫn còn mê muội, sùng bái, xin bằng được “lời vàng ý ngọc” của GS Vũ Khiêu đem về khắc trên đá, khắc trên đồng, sơn son thếp vàng, treo cao khắp các đền đài trong nước, in ấn, phát hành bừa phứa mà không cần biết đúng sai thế nào, hay dở ra sao.

HTC/4/2017

[*] - Bạn đọc có thể kiểm chứng bằng cách tham khảo một số cuốn từ điển sau đây giảng về “triêu mộ” và “chiêu mộ” để thấy sự khác nhau của hai từ này như thế nào:
1.TRIÊU MỘ
-        “Việt Nam tự điển” (Hội khai trí): “triêu-mộ • Buổi sớm, buổi tối <>Tiếng chuông triêu mộ”.
-          “Việt Nam tự điển” (Lê Văn Đức): “triêu mộ • tt. Sớm và chiều: Tiếng chuông triêu-mộ”.
2. CHIÊU MỘ:
- “Từ điển tiếng Việt” (Vietlex): “chiêu mộ • 招募 đg. [cũ] tìm người ở khắp nơi và tập hợp lại để làm việc gì [nói khái quát] chiêu mộ binh sĩ ~ “Treo bảng văn chiêu mộ dân binh, Chứa lương thực đợi ngày cử sự.” (Hoàng Tăng Bí); chiêu tập, mộ”.
- “Tự điển Việt Nam phổ thông” (Đào Văn Tập): “chiêu mộ • Tuyển mộ (binh lính hay phu phen)”.

- “Từ điển tiếng Việt” (Lê Văn Đức): “chiêu mộ • đt. Mộ, tuyển người: Chiêu-mộ dân-quân, chiêu mộ dân phu”.

Thursday, 3 August 2017

Quốc tế và thế giới khác nhau thế nào?

Phân biệt hai từ này không khó. 

Cái gì xảy ra giữa hai hay nhiều quốc gia với nhau thì gọi là quốc tế. Tiếng Anh, tiếng Pháp dùng từ international (intergiữa, nationquốc gia). Một trận cầu giữa Việt Nam và Cam-pu-chia là một trận cầu quốc tế, y như một trận banh giữa Ác-hen-ti-na và Hà Lan. Nếu mình đá thắng được hết các đội có tên trên đời này thì mình ẵm cúp thế giới (World Cup) và được người ta gọi là vô địch thế giới (World Champion). Hoa hậu Thế Giới là nữ hoàng sắc đẹp của cả thế giới, ở một đẳng cấp cao hơn hoa hậu châu Á - cả  Miss World Pageant và Miss Asia Pageant đều là các cuộc thi quốc tế.

Nếu lập một công ty lấy tên tiếng Anh là The International Youth Movement for Human Rights Foundation Ltd thì Tây không thể bắt bẻ gì về quy mô, tầm vóc của công ty đó. Chỉ cần hai người trẻ tuổi, chẳng hạn một người Việt ở Úc kết hợp với một người Việt ở Mỹ hay ở Việt Nam cũng được, không nhất thiết phải có người Tàu, người Mã, người In-đô... Nhưng khi mình dịch tên đó sang tiếng Việt là Phong Trào Tuổi Trẻ Thế Giới Vì Nhân Quyền, không người nào biết tiếng Việt có thể ngộ nhận về tầm vóc, quy mô của công ty. Nó vĩ đại hơn hẳn.

Thursday, 13 July 2017

Hội đồng chiến tranh nào cần thông ngôn?

Trần Hữu Tá (2016:14) viết về việc các quan chức thực dân không ưa Trương Vĩnh Ký:

Và D'Ariès tỏ thái độ: "Tôi không muốn chỉ định ông ta để Ngài chọn làm thông dịch viên cho các hội đồng chiến tranh của chúng ta".
(Từ bục giảng đến văn đàn - Chân dung 25 người thầy, nhà xuất bản Trẻ, Thành Phố Hồ Chí Minh, 2016,, 136 tr.)

Nghĩ mãi không ra hội đồng chiến tranh nào cần thông ngôn. Vả lại thời Trương Vĩnh Ký làm gì có cơ quan nào gọi là hội đồng chiến tranh.
Ông Trần Hữu Tá có lẽ chép lại của Nguyễn Vy Khanh:
 Một bức thư của chỉ huy trưởng D’Ariès gửi đô đốc Charner đề ngày 21-5-1861 đề cử Trương Vĩnh Ký : "trong số người Nam nói được ngôn ngữ của chúng ta chỉ có một người tên là Petrus Ký là biết khá rành rẽ có thể giữ các chức vụ Ngài muốn thiết lập bên cạnh các thẩm quyền quân sự của chúng ta", nhưng D’Ariès than phiền thái độ hợp tác lơ là của người thanh niên 23 tuổi này: "từng là nhân viên Sở Sự vụ bản xứ Sài-Gòn, ông ta đã bị sa thải vì thiếu mẫn cán và tận tụy, rất thông minh, rất có khả năng làm tốt công việc, nhưng ông ta dần dà đánh mất sự tin tưởng tạo được. Tôi không muốn chỉ định ông ta để ngài chọn làm thông dịch viên cho các hội đồng chiến tranh của chúng ta". Dù vậy vị tổng chỉ huy Charner nói trên vẫn chọn Trương Vĩnh Ký và đưa ra các điều kiện để D’Ariès chuyển lại họ Trương "40 đồng một tháng và phải luôn có mặt tại Sài-Gòn".
(http://vietsciences.free.fr/vietnam/danhnhan/tacgia/truongvinhky-nguyenvykhanh)

Conseil de guerre trong tiếng Pháp có thể là hội đồng chiến tranh/bộ chỉ huy tối cao/hội đồng quốc phòng, tức là những chỗ mà cả Tây như d'Ariès hay Ta như Trương Vĩnh Ký không chen chân vào được. Nhưng conseil de guerre còn một nghĩa nữa là tòa án binh/ tòa án quân sự. Công việc mà viên đại tá hải quân d'Ariès nói đến chỉ có thể là việc thông dịch ở tòa án binh.