Thursday, 19 July 2018

Nhà thờ, thánh đường (Stephano Huỳnh Trụ - Công Giáo)

Nhà thờ, thánh đường

4/8/2015 1:06:06 PM 
(http://conggiao.info/nha-tho-thanh-duong-d-27660) 
Năm nọ, một linh mục được mời tham dự buổi họp về tôn giáo do Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc Quận 5 tổ chức. Trong buổi họp, khi nghe báo cáo viên thông báo thành tích của các đơn vị tôn giáo như nhà thờ họ Trần, nhà thờ họ Huỳnh, nhà thờ họ Lý, nhà thờ…
nhathoHoiAn.jpg
Nhà thờ Hội An (xây dựng năm 1965)-
Là nhà thờ của giáo xứ lâu đời nhất Việt Nam (thành lập năm 1615).

Linh mục ấy ngồi bên cạnh tôi hỏi: “Sao Quận 5 có
nhiều nhà thờ quá vậy?” Tôi mới nói: “Đó là những nhà ‘thờ kính tổ tiên’ thôi, thường gọi là ‘nhà thờ họ’ (Theo cách gọi chính thức của người Hoa là Trần thị, hay Huỳnh thị, hay Lý thị tông thân hội hay tông từkhông phải nhà thờ Công Giáo”. Vậy nhà thờ có nghĩa gì? Nơi thờ phượng Thiên Chúa gọi là thánh đường được không?

1. Nghĩa của nhà, thờ.

1.1. Nhà: có bốn chữ Nôm: , , , . Chữ thứ nhất mượn chữ gia () của Hán tự, 3 chữ sau là hài âm. Trong Dictionarium anamitico-latinum, của P.J. Pigneaux, 1772, tr. 358: Nhà là chữ (domus). Nghĩa là: (dt.) (1) Mái che làm chỗ trú trọ: Nhà cao cửa rộng. (2) Phòng, buồng: Nhà khách; Nhà ngủ. (3) Người trong nhà: Cả nhà ngồi ăn. (4) Họ thông gia trong đám cưới: Nhà trai nhà gái. (5) Tiếng vợ chồng nói về bạn đời: Nhà tôi. (6) Triều đại: Nhà Trần. (7) Địa vị trong xã hội: Nhà sang; Nhà nghèo. (8) Các cơ quan cai trị: Nhà nước. (9) Địa danh: Nhà Bè. (tt.) (10) Của ta: Ao nhà; Nhớ quê nhà. (quán từ) (11) Quán từ đi trước chức nghiệp: Nhà báo; Nhà buôn; Nhà nông.

1.2. Thờ: có sáu chữ Nôm: , , , , 𥚤𥚤, 𠄜𠄜. Hai chữ đầu là chữ từ (, ), chữ thứ ba là chữ thừ (), chữ thứ tư là chữ ư () mượn của Hán tự, hai chữ cuối được tạo ra. Trong Dictionarium anamitico-latinum, của P.J. Pigneaux, 1772, tr. 500: Thờ là chữ (colere, adorare). Nghĩa là (đt.) (1) Kính thần minh: Thờ Trời khấn Phật. (2) Kính nhớ người chết: Thờ chồng nuôi con.

2. Nghĩa của thánh, đường

2.1. Thánh1: Có hai chữ Hán: , (), 2: Ở đây là chữnày. Thánh là gì? Mạnh Tử nói: “Khả dục chi vị thiện, hữu chư kỷ chi vị tín. Sung thật chi vị mỹ, sung thật nhi hữu quang huy chi vị đại, đại nhi hoá chi chi vị thánh”.3 Nghĩa là: Người mà hành vi nhân phẩm đáng yêu, đáng kính, gọi là thiện. Người làm thiện theo lương tâm và bản tính không cưỡng ép và không giả trá gọi là tín. Người mà lòng thiện đầy đủ phát lộ ra khắp thân thể và mỗi cử động đều hợp ý lành, gọi là mỹ. Người có mỹ đức đầy đủ và làm nên sự nghiệp, khiến cho cái mỹ đức mình toả sáng trên đời, gọi là đại. Đã là bực đại nhân, lại đứng ra hoằng hoá cho đời, khiến cho thiên hạ đều quay về nẻo thiện, gọi là thánh.

Chữ thánh () gồm phần dưới là chữ nhâm (), nguyên gốc của chữ nhâm () là chữ nhân (); phần trên là chữ nhĩ () và chữ khẩu (); hàm ý: thánh là người thông sáng: thính tai, lợi khẩu. Trong cổ văn, “thánh” và “thính” là cùng một chữ: . Chữ thánh () có những nghĩa này: (dt.); (1) Đối với người đời thường, chỉ những người đạo đức: thánh nhân; (2) Những người tài giỏi tột bực về một việc nào đó cũng gọi là thánh, như Lý Bạch giỏi uống rượu, người ta gọi ông là tửu thánh; (3) Họ Thánh; (đt.); (4) Làm cho trở thành thánh; (5) Tinh thông: Đỗ Phủ thánh ư thi (Ông Đỗ Phủ giỏi làm thơ); (tt.); (6) Thông minh; (7) Tài giỏi; (8) Tôn xưng những gì thuộc về Đức Khổng Tử: Khổng thánh đản; (9) Tôn xưng những gì thuộc về vua: Thánh chỉ; (10) Thuộc về thần thánh: Thánh mẫu, thánh đản; (11) Thuộc về Đấng tối cao4; (12) (Nghĩa Nôm): Âm thanh dễ nghe: thánh thót.

2.2. Đường: có nhiều chữ Hán: , , , , , , , , , (), , , , . Trong trường hợp này là chữ, thuộc loại hình thanh, có bộ(thổ), và chữ(thượng) là âm, đồng thời là tượng hình, nghĩa là cao thượng, tao nhã. (thượng) cộng với(thổ), nghĩa là cung điện tao nhã. Nguyên nghĩa của chữ là phòng chính trong hoàng cung nơi cử hành nghi lễ trọng đại.

NhaTho.jpg

Diễn tiến của chữ đường: (1) Nghĩa gốc: (dt.) Phòng chính của hoàng cung: Điện đường, chính đường. Cho ra nghĩa (2) (tt.) Chính thức, sang trọng: Đường đường chính chính (đàng hoàng). Đồng thời cho ra các nghĩa 3, 4, 5: (3) (dt.) Phòng tế tổ chính của đại gia đình: Ngũ đại đồng đường (năm thế hệ cùng ở chung). (4) (dt.) Phòng rộng dùng cho hội họp: Công đường, hợp đường (phòng chung). (5) (quán từ) Dùng cho một không gian rộng: Nhất đường khoá. Từ số 3 cho ra nghĩa (6) rộng hơn: (dt.) Anh em cùng một ông tổ: Đường muội, đường huynh (em họ, anh họ).

Ngày nay đường có nghĩa (dt.) (1) Phòng chính trong nhà: Từ đường. (2) Hoàng cung nội điện hai mặt Nam Bắc: Minh đường (Nam). (3) Anh em cùng một ông tổ: Đường huynh đệ (anh em họ). (4) Tôn xưng mẹ người khác: Lệnh đường. (5) Chỗ núi bằng phẳng cũng gọi là đường. (6) Toà án: Công đường. (7) Cơ quan làm việc từ thiện: Vạn thiện đường. (8) Cung điện: Triều đường 朝堂. (9) Phòng có công dụng riêng: Thực đường

(phòng ăn); Dục đường (phòng tắm). (10) Người hầu bàn (cổ văn): Đường quan (11) Họ Đường. (12) Cửa hiệu: Hồi Xuân Đường. (tt.) (13) Sang trọng, rực rỡ: Đường hoàng; Đường đường chính chính. (quán từ) (14) Cả bộ: Nhất đường gia cụ (một bộ đồ dùng trong nhà).

3. Nhà thờ.

Theo các từ điển, nhà thờ chỉ có hai nghĩa: (1) Nhà thờ là “nhà để mà thờ phượng”5: Nhà thờ tổ; Nhà thờ họ (2) Cũng gọi là giáo đường hay thánh đường, là nơi các tín hữu thờ phượng Thiên Chúa: Đi lễ nhà thờ.

Theo nghĩa thứ nhất, nhà thờ (A: The cult house; P: Le maison de culte) là tiếng gọi tắt của nhà thờ họ hay nhà thờ tổ tiên, Hán Việt gọi là từ đường (祠堂); A: The ancestral temple; P: Le temple des ancêtres, là một trong những thứ mà chỉ có ở các nơi có đạo Khổng. “Nhà cất riêng hoặc một gian của nhà ở, dùng thờ ông bà”6. Cụ Phan Kế Bính7 giải thích: “Nhà thờ - Bao nhiêu con cháu dòng dõi trong một họ lập chung một nhà thờ Thủy Tổ, gọi là mỗ tộc (Trần tộc, Nguyễn tộc v.v.....) từ đường. Nhà thờ ấy chỉ thờ riêng một Thủy Tổ, và khi tế tự thì lấy các tổ tông biệt chi, biệt phái mà phối hưởng. Có họ không có nhà thờ thì xây một cái bàn lộ thiên, dựng bia đá ghi tên thụy hiệu các tổ tiên để khi tế tự thì ra tại đó mà tế. Có họ thì làm nhà thờ để cho chi trưởng nam đời đời giữ hương hoả, chi trưởng tuyệt thì mới truyền sang chi thứ. Có họ thì con cháu luân lưu thờ tổ ở nhà riêng của mình. Những họ về chi khác, cũng có nhà thờ tổ tông trong bản chi, gọi là bản chi từ đường. Nhà thường dân không có nhà thờ riêng thì thờ tại nhà mình ở. Dẫu nghèo cũng có một bàn thờ”.

nhathohoNguyen.jpg
Nhà thờ chi tổ họ Nguyễn, Vũ Đông, Thái Bình

Theo nghĩa thứ hai, nhà thờ còn gọi là giáo đường (教堂) hay thánh đường (聖堂), L: ecclesia; A: church; P: église, là:
- Nơi các tín hữu thờ phượng Thiên Chúa, cầu nguyện và tham dự các nghi thức phụng vụ (x. GL 1214).
- Nơi đặc biệt để con người gặp gỡ Thiên Chúa.
- Nơi đặc biệt để thờ kính Đức Chúa Giêsu hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể (x. GLHTCG 2691).
- Tượng trưng cho sự hiện diện của Hội Thánh trong địa phương đó 8.

Trong tiếng Latin, chữ Ecclesia (viết hoa) có nghĩa là một cộng đoàn tín hữu hay Giáo Hội; còn chữ ecclesia (viết thường) có nghĩa là thánh đường, nhà thờ. Chữ Église trong tiếng Pháp và chữ Church trong tiếng Anh khi viết hoa hay viết thường cũng có nghĩa như vậy. Tự điển ngoài đời thường nhầm lẫn hai thuật từ Giáo Hội và nhà thờ, họ hay dùng từ nhà thờ thay vì Giáo Hội. Các định nghĩa: Nhà thờ là “tổ chức điều hành Đạo Kitô: Những qui định chung của nhà thờ.9” hay “tổ chức nắm quyền cai quản giáo dân: Thế lực nhà thờ.10” hoàn toàn xa lạ với quan niệm của Công Giáo.

Ngày xưa, khi đạo Công Giáo mới được truyền sang Việt Nam, các cộng đoàn tín hữu có tổ chức theo địa dư, thường tụ tập để cầu nguyện và cử hành thánh lễ (khi có linh mục) trong những căn nhà nhỏ được dựng lên dành riêng cho việc thờ phượng Thiên Chúa, tương tự như những nhà thờ tổ, và họ cũng gọi đó là “nhà thờ”11 hay “nhà thánh”12. Paulus Của (1895) cũng gọi “nhà thờ đạo Thiên Chúa” là nhà thánh13. Nhưng về sau, thuật từ “nhà thánh” được dành chỉ các “chapel” (P.chapelle) 14 mà ngày nay chúng ta gọi là “nhà nguyện” hay “nguyện đường”, tức là nhà thờ nhỏ, gắn liền với nhà thờ chính của giáo xứ hoặc toà nhà biệt lập nằm trong địa hạt giáo xứ hoặc một phòng dành riêng cho việc phụng tự trong tu viện, bệnh viện, trường học hay tư gia. Tương tự như ở các nước khác, khi Giáo Hội Công Giáo ở Việt Nam tiến đến trưởng thành thì cũng xuất hiện nhiều nhà thờ với các qui mô và vai trò khác nhau, nên cũng có thêm những tước hiệu khác nhau:

- Những nhà thờ có tầm mức từ một ngôi nhà nhỏ đủ đặt bàn thờ đến những ngôi nhà đồ sộ, được xây cất và dâng hiến để tôn kính riêng một vị thánh hoặc một sự kiện lớn trong Đạo, gọi là đền, đền thờ hay đền thánh (santuarium, shrine15). Ví dụ: Đền thánh Antôn, đền thánh Matthêu Lê Văn Gẫm.

- Những nhà thờ chính của giáo phận hay tổng giáo phận, nơi có toà giám mục hoặc toà tổng giám mục cai quản giáo phận đó, gọi là nhà thờ lớn hay nhà thờ chính toà (cathedral). Ví dụ: Nhà thờ chính toà Hà Nội, nhà thờ chính toà Huế, nhà thờ chính toà Sài Gòn.

- Những nhà thờ với kiến trúc to đẹp và cổ kính, vì đã có lâu đời hay vì tầm quan trọng của nó, nên đã được Toà Thánh ban cho tước hiệu “Minor Basilica” tức là “Tiểu vương cung thánh đường”. Tại Việt Nam hiện nay có hơn có 5.456 nhà thờ nhưng chỉ mới có 4 nhà thờ được nâng lên bậc (tiểu) vương cung thánh đường đó là nhà thờ Đức Bà (Sai Gòn, được nâng lên vương cung thánh đường năm 1961), nhà thờ La Vang (Quảng Trị, 1961), nhà thờ Phú Nhai (Nam Định, 2008), và nhà

thờ Sở Kiện (Hà Nam, 2010). Như vậy, vương cung thánh đường có thể là một nhà thờ chính toà, một đền thờ nào đó hay cũng có thể là một nhà thờ bình thường.

4. Thánh đường.

Tín hữu Công Giáo ở Trung Quốc gọi nơi thờ phượng của mình là thánh đường (nhà thánh) hay Thiên Chúa đường (nhà của Thiên Chúa). Người Công Giáo ở Việt Nam cũng gọi nhà thờ là thánh đường, tức là nhà thuộc về Thiên Chúa, dành cho Thiên Chúa.

Thánh đường là từ Hán Việt, có nghĩa hẹp là “nhà thánh”. Như đã nói ở trên, hiện nay từ “nhà thánh” đã được thay bằng thuật từ “nhà nguyện”. Thánh có nghĩa là thuộc về Đấng tối cao, đường là phòng họp chính và lớn. Thiết nghĩ những nơi thờ phượng nhỏ hẹp nếu gọi là nhà thờ thì thích hợp hơn là thánh đường. “Thánh Đường” có thể sử dụng thay cho thuật từ “nhà thờ” để nói lên tính cách quy mô về kiến trúc, hoặc trang trọng về hình thức, hoặc trong những ngữ cảnh quen thuộc như: Nói “vương cung thánh đường”, chứ không thể nói “vương cung nhà thờ”; nói “nhà thờ chính toà”, chứ không nói “thánh đường chính toà” hay “chính toà thánh đường”.

5. Nơi thờ phượng của các tôn giáo.

Nơi thờ phượng của một tôn giáo thường có cách xưng hô riêng, như:

- Cao Đài gọi là thánh thất. Ví dụ: Thánh thất Mỹ Tho, Thánh thất Đa Phước;

- Đạo Giáo thì gọi là đạo quán16. Ví dụ: Trấn Vũ Quán hay đền Quán Thánh; Huyền Thiên Quán hay chùa Huyền Thiên; Đồng Thiên Quán hay chùa Kim Cổ; Đế Thích Quán hay chùa Vua, tất cả đều ở Hà Nội.

- Hồi Giáo gọi là thánh đường, nhà thờ hay đền thờ (mosque). Ví dụ: Thánh Đường Al Rahman ở Quận 1, TP. Hồ Chí Minh, được xây dựng sớm nhất (1885) tại Việt Nam; Thánh Đường Al Mubarak ở An Giang, thường được gọi là “chùa Chăm An Giang”.

- Phật giáo gọi là chùa17, tự 18 hay già lam19. Ví dụ: Chùa Vĩnh Nghiêm, Việt Nam Quốc Tự, Bát Nhã Già Lam ở Bình Thạnh, Già Lam Cổ Tự ở Phụng Hiệp.

- Tin Lành thì cũng gọi là nhà thờ, giáo đường hay thánh đường, nhưng có thêm hai chữ Tin Lành. Ví dụ: Nhà thờ Tin Lành Đà Lạt, thánh đường Tin Lành Khánh Hội (Quận 4), giáo đường Tin Lành tại Trường Xuân, Cát Lâm.

6. Kết luận.

Cha Đỗ Quang Chính (SJ.) giải thích lý do Giáo Hội ở Đàng Trong lúc ban đầu sử dụng từ “Họ” để chỉ các giáo xứ như sau20: “Từ Họ theo nguyên ngữ có nghĩa là gia đình, họ hàng, thân thích, và nếu hiểu rộng hơn cũng chỉ các hiệp hội, hội đoàn, phường, có cùng một chí hướng... Khi cha ông ta sử dụng từ Họ là muốn làm nỗi bật sự liên kết chặt chẽ giữa các bổn đạo trong Họ chứ không lỏng lẻo như ở châu Âu. Vì ở đó có thể nói được những cá nhân liên hệ với nhau bằng việc duy nhất là họp nhau tham dự kinh lễ tại nhà thờ trong những ngày giờ nhất định. Trái lại, ở Việt Nam các bổn đạo trong Họ còn liên kết với nhau bằng nhiều cách, trong nhiều tổ chức, sinh hoạt, không phải chỉ tới nhà thờ tham dự kinh lễ mà thôi. Vì thế, Họ là một cơ sở hay nói đúng hơn là một cơ thể thực sự vững mạnh và sống động, mà chính L. Cadière cũng phải nhận xét như thế...”.

Thiết nghĩ, các vị tiền bối đã sử dụng từ Họ để chỉ cộng đoàn tín hữu cư ngụ gần nhau, để nói liên sự kết hợp chặt chẽ giữa bổn đạo với nhau như giữa những người cùng chung huyết thống, dòng họ. Và ở Việt Nam, mối dây họ hàng được nối kết chặt chẽ bằng việc tôn kính tổ tiên, cụ thể qua những việc tế tự tại nhà thờ tổ hay nhà thờ họ. Vì vậy, việc gọi nơi sinh hoạt tôn giáo thường xuyên của các tín hữu, nơi gắn bó các gia đình Công Giáo với nhau cách chặt chẻ như những người trong cùng một Họ, không từ ngữ nào thích hợp hơn là “nhà thờ”.

Trong một số trường hợp, để tránh hiểu lầm “nhà thờ” (Công Giáo) với “nhà thờ họ” hay nhà thờ tổ tiên, thì chúng ta có thể nói rõ là “nhà thờ Công Giáo” cũng như anh em Tin Lành luôn nói rõ là “nhà thờ Tin Lành” vậy.

Lm. Stephanô Huỳnh Trụ

-----------------------------
1 “Bài Giảng Chúa Nhật” của Tổng Giáo Phận TP.HCM, số 01/2011 đã giải thích rõ chữ này, bây giờ viết lại ở đây để tiện cho đọc giả khỏi phải truy tìm.

2 Xem “Bài Giảng Chúa Nhật” của Tổng Giáo Phận TP.HCM, số 05/2006.

3 可欲之謂善,有諸己之謂信。充實之謂美,充實而有光輝之謂大,大而化之之謂聖(Mạnh Tử, Tận Tâm chương cú hạ, tiết 24).

4 Không nên chỉ giải nghĩa thuộc về Thiên Chúa, làm như vậy thì thu hẹp ý nghĩa của chữ. Vì Tin Lành, Chính Thống và Hồi Giáo không bao giờ gọi Đấng Tối Cao là Thiên Chúa.

5 Huình Tịnh Paulus Của, ĐẠI NAM QUẤC ÂM TỰ VỊ, Rey, Curiol & Cie, Sài Gòn, 1895. nxb. Khai Trí, Sài Gòn, 1974, tr. 730.

6 Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ, TỰ ĐIỂN VIỆT NAM, nxb. Khai Trí, Sài Gòn, 1970, tr. 1068.

7 Phan Kế Bính, VIỆT NAM PHONG TỤC, nxb Tổng Hợp Đồng Tháp, 1990, tr. 20.

8 Tiểu ban từ vựng HĐGMVN, TỪ ĐIỂN CÔNG GIÁO - 500 MỤC TỪ, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, 2011, tr. 255.

9 Nguyễn Lân, TỪ ĐIỂN TỪ VÀ NGỮ VIỆT NAM, nxb. TP.HCM, TP.HCM, 2000, tr. 1301.

10 Bộ Giáo Dục Đào Tạo, Nguyễn Như Ý (chủ biên), ĐẠI TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT, nxb. Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, 1999, tr. 1227.

11 Trong bức thư viết tay (bằng chữ Quốc ngữ) ngày 12/9/1659 của thầy Igesico Văn Tín có đoạn: “những họ hàng nhà ông ấy cùng anh em chung làm quan hãy còn cầu nguyện, đến rầy chửa xong, cùng nhà thờ trong ấy thì nó làm hư hết” - Lm. Đỗ Quang Chính chú thích: “Có lẽ tác giả muốn nói: nhà thờ Công Giáo nơi đó đã bị tục hoá, nhưng nơi đó là nơi nào, thì không rõ” (xem Đỗ Quang Chính, LỊCH SỬ CHỮ QUỐC NGỮ 1620-1659, Ra khơi xb, Sài Gòn, 1972, tr. 96).

12 Trong tập “Lịch sử nước Annam” viết tay (bằng chữ Quốc ngữ) năm 1659 của Bento Thiện cho thấy nhà thờ Công Giáo được gọi là nhà thánh: “Nghệ An xứ, những nhà thánh thờ Đức Chúa Trời, được bảy mươi lăm nhà thánh. Sơn Nam xứ được một trăm tám mươi ba nhà thánh. Hải Dương xứ được ba mươi bảy nhà thánh. Kinh Bắc xứ được mười lăm nhà thánh. Thanh Hóa xứ được hai mươi lăm nhà thánh. Sơn Tây xứ được mười nhà thánh”. (xem Đỗ Quang Chính, sđd., tr. 129).

13 Huình Tịnh Paulus Của, sđd., tr. 730.

14 Lm. Eugène Gouin, MEP, DICTIONNAIRE VIETNAMIEN CHINOIS FRANÇAIS, D’Extrême Orient, Sài Gòn, 1957, tr. 951.

15 Các đền thờ thời Cựu Ước và đền thờ ngoại giáo thì gọi là templum (A & P: temple).

16 Đa phần các đạo quán hay am cốc ở Việt Nam chỉ tồn tại đến đầu thế kỷ 20, về sau thì tàn lụi mất dần, chỉ còn là phế tích. Một số đạo quán thì gian chính thờ Tam Thanh nhưng không thu hút bằng gian thờ bên trên, cạnh bên thờ chư Phật và Bồ Tát, kinh thì tụng kinh Phật, cúng kiếng theo nghi thức nhà Phật, cho nên tuy mang danh đạo quán nhưng thật ra nó đã là chùa.

17 Trong chữ Nôm, chùa được ghi bằng trù; trù có nghĩa là bếp, tiếng Hán hiện đại, trù phòng có nghĩa là nhà bếp, nơi ấm áp, yên bình trong mỗi gia đình. Suy rộng ra xã hội, nơi ấm áp, yên bình nhất chính là ngôi chùa. Chùa là nơi người ta được san sẻ, được thoả nguyện về cả vật chất lẫn tinh thần.

18 Tự () vốn là từ để chỉ cơ quan làm việc của chính quyền thời phong kiến. Tương truyền Hán Minh Đế Lưu Trang (25-75) - vị vua đầu tiên thừa nhận địa vị của Phật giáo ở Trung Quốc - nằm mộng thấy “người vàng” bay qua sân điện, bèn sai sứ giả sang Tây Trúc cầu tìm đạo Phật. Đó là sự kiện năm Vĩnh Bình thứ 7. Ba năm sau, sứ giả trở về với hai tăng sĩ Ấn Độ cùng rất nhiều kinh sách và tượng Phật được thồ trên lưng ngựa trắng. Lúc các tăng nhân cùng kinh, tượng, về đến kinh đô, triều đình chưa chuẩn bị kịp chỗ ở riêng nên cho ở tạm trong Hồng lô tự (một cơ quan trong Cửu khanh). Sau đó nhà vua mới cho xây dựng cái mà sau này chúng ta gọi là “chùa” để thờ Phật và các tăng nhân tu tập. Kiến trúc xây dựng theo kiểu mẫu dinh thự của quý tộc đương thời. Nhân vì kinh và tượng Phật được thồ về trên lưng ngựa trắng nên đặt tên chùa là Bạch Mã. Tự là chỗ đầu tiên tăng nhân tạm trú khi đến Trung Quốc nên được chuyển sang làm thành tố chính để gọi tên cho ngôi chùa: Bạch Mã Tự, ngôi chùa phật giáo đầu tiên của Trung Quốc. Ngày nay chữ này được dùng đứng sau làm thành tố chính để kết hợp với một từ định danh nào đó (định ngữ) tạo thành một cụm danh từ nêu tên gọi một ngôi chùa cụ thể, như Trấn Quốc Tự, Kim Liên Tự, Bửu Lâm Tự, Vĩnh Nghiêm Tự (Xem: Tạ Đức Tú, “Vì sao gọi là chùa”, https://giacngo.vn).

19 Già lam là tên gọi tắt của Tăng-già-lam-ma (Sangharama), là một nhóm tăng nhân đi hoằng pháp, thường từ bốn người trở lên. Tăng-già-lam-ma僧伽藍: là nơi ở của các tăng nhân để tu hành, sau chỉ chung kiến trúc ngôi chùa.

20 Lm. Đỗ Quang Chính, SJ., TẢN MẠN LỊCH SỬ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM, Nxb Antôn & Đuốc sáng, Montreal, 2003, tr. 241-242.


Wednesday, 18 July 2018

Săn bắn thú vật hoang dã ở Nam Bộ đầu thế kỷ 20 (Nguyễn Đức Hiệp - Hiệp's Blog)


Săn bắn thú vật hoang dã ở Nam Bộ đầu thế kỷ 20

Nguyễn Đức Hiệp

Trong vòng chỉ khoảng hơn 100 năm, môi trường sinh thái ở Saigon và các tỉnh xung quanh đã thay đổi nhanh chóng không thể tưởng tượng được. Cả bao ngàn năm trước đó, môi trường thiên nhiên thật hoang dã, hầu như không thay đổi bao nhiêu qua các năm tháng, với sông nước chăng trịt, rừng dầy đặc đầy hoang thú, nơi mà các dân tộc bản địa như Mạ, Stiêng đã sống bao đời từ thời tiền sử cho đến cuối thế kỷ 19. Nhưng ngày nay dân số con người tăng trưởng, rừng bi tàn phá và các loài sinh vật dần biến mất: tê giác, cọp, beo, voi, bò tót, cá sấu và cá heo nước ngọt (không còn trên sông Đồng Nai. Và Cửu Long)…
Vào đầu thế kỷ 19, một thương gia người Anh, ông Purefroy đến Saigon buôn bán dưới thời tổng trấn Lê Văn Duyệt đã có viết (16) là trong các sản phẩm buôn bán trong vùng này có sừng tê giác, sừng nai, ngà voi, cá khô. Vào giữa thế kỷ 19, khi quân Pháp trú đóng ở Saigon, trong đêm 2, 3 tháng 9 năm 1864 có con cọp vào vườn nơi lính pháo binh ở. Những điều này cho thấy Saigon và các tỉnh chung quanh vào thế kỷ 19 còn rất hoang dã, thưa dân và còn nhiều thú vật như cọp, voi, tê giác, nai, heo rừng.
Cho đến cuối thế kỷ 19, nhiều loài thú trên vẫn còn sinh sống ở nhiều nơi khắp đồng bằng và trong lưu vực sông Đồng Nai và sông Cửu Long. Ông George Dürrwell, luật sư người Pháp và là chủ tịch Hội “Etudes indochinoises de Saigon” sống ở Nam Kỳ từ năm 1881 đến 1910, đã mô tả như sau (2):
Những con cọp và beo không phải là các loài thú duy nhất sống ở vùng quê Nam Kỳ, mà còn có các đoàn voi hoang dữ phá hoại. Ngày xưa chúng ở khắp nơi trong vùng Đồng tháp mười (plaine des Joncs) rộng lớn, nơi mà một vài thợ săn gan dạ, người Âu và người bản xứ, đã có một cuộc chiến tranh đẫm máu với chúng, và sau đó chúng đã dần dần rút về phía bắc, để vào xứ sở đất Khmer, nơi mà trong số các con voi có những con đã được thiên nhiên cẩn thận quan tâm sinh ra màu trắng (albino), các con voi trắng này trở thành con vật đặc biệt được người Khmer sùng bái, tôn kính.
Gần đây những con voi to lớn vẫn còn làm nhiều người nói về chúng khi các con voi này đi vào vùng Cần Thơ mà chúng phá hoại không thương tiếc, tàn phá tất cả những gì trên đường chúng đi qua. Những cuộc săn bắn thật sự được tổ chức chống lại các đàn voi đều không có hiệu quả: những thợ săn voi cự phách nổi tiếng, thực tế đã biến mất khỏi thuộc địa này khi Tổng đốc Lộc ngủ giấc ngủ cuối cùng trong một nghĩa địa nhỏ ở Cái Bè, và người bạn đồng hành dũng cảm trong các cuộc thám hiểm của ông Lộc, bá tước V., cựu thống sứ (resident superieur) ở Cam Bốt, mà mới đây tôi đã có dịp đi đưa đám tang ở trong thành phố lớn Paris của chúng ta, nơi mà ông ta đã tìm thấy một nơi yên nghỉ tốt đẹp xứng đáng. 
Để có thể hình dung về sự thay đổi môi trường sinh thái qua thời gian và không gian ở vùng Nam Bộ, ta có thể đọc lại các tư liệu và hồi ký về thú tiêu khiển săn bắn của một số người Pháp, người ngoại quốc và người Việt giàu và có thế lực tổ chức đi săn ở các tỉnh Nam Kỳ, được coi là một trong những địa đàng săn bắn ở Đông Dương vào đầu thế kỷ 20.
Ông L. Roussel (11) đã tả ở chung quanh Saigon vào đầu thế kỷ 20, thú hoang dã còn nhiều, người ta tổ chức những chuyến đi săn vịt trời, gà rừng, nai, heo, bò rừng ở Tây Ninh, bò rừng, heo rừng, chim trĩ, công, cọp ở vùng Thủ Dầu Một (Hương Quan), hươu, gấu ở Biên Hòa (Vĩnh Cửu, Phước Thọ, Phước An), voi, gấu ở Đồng Nai.
Hoàng tử Thụy Điển Wilhem, viếng Saigon đầu năm 1912 đi qua các vùng phụ cận Saigon (và sau đó không lâu đi săn bò tót với ông hoàng Duc de Monpensier ở rừng núi Chứa Chan) đã mô tả (12) về nhiều loài thú vật như khỉ, cọp, beo, cá sấu, voi, các loài chim…
Các địa điểm có thú rừng quanh Saigon hấp dẫn các thợ săn vào cuối thế kỷ 19 đến các thập niên đầu thế kỷ 20 gồm có Thủ Đức, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Long Thành – Bà Rịa, Chứa Chan Bình Thuận, Bảo Lộc – Djiring, và nhất là khu vực chung quanh thành phố Đà Lạt và Ban Mê Thuột ở vùng Cao Nguyên Lang Bian.
hinh-1
Hình 1: Bản đồ các trung tâm săn bắn ở Nam Đông Dương

(1) Khu vực Thủ Đức, Biên Hòa, Tây Ninh và Bà Rịa

Chỉ cách đây khoảng 100 năm, qua các tư liệu như một số đã đề cập trên, ta thấy muôn thú và sự đa dạng sinh học rất cao ở Việt Nam ngay cả ở gần thành phố.
hinh-2
Hình 2: Cá sấu bắt được ở Mỹ Tho
Người Pháp thường tổ chức đi săn thú trong rừng gần Saigon. Năm 1891, nhân dịp hoàng tử Nga Nicolas II (sau này là vị vua, sa hoàng, cuối cùng của Nga trước cách mạng tháng 10) ghé Saigon trên đường đi chu du nhiều nước ở Á Châu (Siam, Nhật, Hong Kong, Ấn Độ, Tích Lan), chính quyền thuộc địa Pháp ở Saigon có tổ chức đi săn cho hoàng tử Nicolas II (nhưng thật ra họ lấy thú nai, hươu từ sở thú rồi thả vào rừng ở Thủ Dầu Một) để chúng dễ được săn cho vị hoàng tử này (1)(2).
Vị Sa hoàng cuối cùng (1868-1918) trong lịch sử Nga viếng Saigon vào ngày 21 tháng 3.1891 trong chuyến viễn du đi nhiều nước như Siam, Đông Dương, Trung Quốc và Nhật. Hạm đội hải quân Nga và vị Sa hoàng tương lai được đón tiếp trọng thể ở cảng Saigon, có cổng chào ở công trường Rigault de Genouilly (Mê Linh).
Nhiều người dân được Pháp vận động và những người tò mò đứng chen xem đoàn xe ngựa và kỵ binh tùy tùng của thái tử Nga đi trên đường phố Saigon như trên đường Catinat, đại lộ Norodom. Trong những ngày viếng thăm có buổi dạ tiệc ở dinh thống đốc do toàn quyền Piquet chiêu đãi, dạ vũ trên tàu hải quân “La Loire”, xem opera Giroflé-Girofla ở nhà hát, đến Chợ Lớn xem múa lân ở rạp người Hoa, đến vườn thành phố, và đi săn…
hinh-3
Hình 3: Cổng chào mừng hoàng tử Nga Nicolas II viếng thăm Saigon
Những người Pháp ở Saigon, Biên Hòa và Tây Ninh cũng đi săn bằng xe hơi ban đêm dọc trên đường nối Saigon với miền Đông, các con thú ra ăn cỏ dọc đường bị đèn xe chiếu không thấy nhảy qua hai bên đường để trú ẩn, xe chỉ chạy chậm và bắn chúng dễ dàng (2). Ở những cánh rừng giữa Biên Hòa và Bà Rịa thuộc địa phận Long Thành là nơi săn bắn thú đủ loại, hoặc đi săn chim, cò ở Gò Công.
Cọp, beo, voi có mặt khắp Nam Kỳ. Ở Đồng Tháp Mười, có nhiều đàn voi hoang dã phá phách đến tận vùng Cần Thơ và các cuộc săn voi trong đó có Tổng đốc Lộc. Cọp, beo có nhiều ở miền Đông Nam Bộ lên đến tận Trung Kỳ, tuy vậy ngay cả ở miền Tây Nam Bộ cũng có chúng, chúng ở các cánh rừng, bụi cây vùng Châu Đốc, Hà Tiên và ngay cả vùng đầm lầy Rạch Giá.
Có những lúc cọp tấn công người, như một người đưa thư cưỡi ngựa băng qua rừng ở Bình Thuận đã bị cọp bắt ăn cả người và ngựa (2). Hay trong bụi rậm ở Phuoc Thinh, một người Pháp đi săn phải đánh nhau với cọp và đã bị thương nặng ở chân, phải cưa đi. Ở Vũng Tàu, có một con cọp đi vào nhà ăn ở trong khu ở của các người Anh đang xây dựng trạm điện tín. Ngay ở giữa chợ Bà Rịa, cọp bắt và ăn một bà già. Khoảng năm 1889, có nhiều người đi săn ở ngoại ô Saigon và đã săn bắt được cả beo.
hinh-4
Hình 4: Người Cho Ro bắt cọp ở Biên Hòa hinh-5
5b
Hình 5: Săn cọp ở Nam Kỳ
Hoàng tử Thụy Điển Wilhem ghé Saigon, Nam Kỳ và tham dự một chuyến đi săn gần Saigon đã viết:
.. Nhưng ngoài những thông tin trên, tôi dám nói chắc là có một nơi nữa như là thiên đàng Eldorado của săn bắn, trong lãnh vực các thú lớn, mà có thể chắc chắn so sánh được với vùng hoang dại ở Phi châu, đó là Nam Kỳ và Trung Kỳ ở bán đảo Viễn Ấn. Nơi đây voi hoang dã vẫn còn đi lại tư do trong những cánh rừng mà phần lớn chưa bao giờ con người hẻo lánh đến; nơi đây có hàng ngàn trâu bò rừng dương những sừng cong của chúng trên đầu ngọn cỏ cao trong những cánh đồng, hăm dọa bất cứ ai đến xâm phạm lãnh địa đồng cỏ của chúng qua quyền của thú nào có sức mạnh hơn; nơi đây các con tê giác da dầy đi trên các đường lối ẩn xuyên qua rừng dây lá dầy đặc, và cọp, beo với chân mềm ẩn hiện trong rừng ít ánh sáng, nằm chờ mai phục các con mồi, trong lúc các con khỉ nhảy không nghĩ từ cành này qua cành khác. Thế giới loài chim cũng hiện diện rất nhiều, từ con công màu lòe loẹt cho đến các con két kêu la, con chim mỏ kèn (hornbill) xấu xí, hay con chim địa đàng (bird of paradise) rực rỡ. Những loài nai, tuy vậy không có nhiều như ở Đông Phi; và ngựa vằn dĩ nhiên thì ở đây không có.
Wilhem cũng có nói chung quanh Saigon và ngay cả vùng rất cận sát Saigon có rất nhiều muông thú mà ông thấy hay được cho biết qua các chuyến đi ra ngoài Saigon:
.. khi thì qua nhiều dặm các đồn điền cao su, khi qua các rừng rậm, khi qua cầu nhẹ làm băng cây tre mà bên dưới là các kênh phân nửa phủ bởi cây lá, chảy qua những thực vật nhiệt đới choáng ngợp. Các con khỉ la hét nhảy từ cành này qua cành nọ, và đủ loại chim nhiều màu sắc khác nhau bay nhanh trước xe khi xe hơi chạy sát đến.
Có một câu chuyện là một ngày nọ có một con trăn to lớn nằm giữa đường, trải hết mặt đường. Người tài xế không kịp thắng lại và nguyên chiếc xe cán băng qua chướng ngại vật là con trăn này. Con trăn, tuy vậy, không hề bị suy xuyển, chỉ lắc mình một chút cái thân hình dài của nó và trườn đi mất như không có việc gì xảy ra. Những sự kiện nhỏ như vậy dĩ nhiên là ngoại lệ, nhưng chỉ cách đây vài năm dã thú là gây sợ hãi thực sự trên nhiều nơi của xứ này.
Trên tất cả sợ hãi, dĩ nhiên, là cọp mà con người gặp nạn rất nhiều, nhất là những người bản xứ, nhưng các con voi cũng gây rất nhiều phiền toái, đặc biệt là trên các đường xe lửa. Cách đây không lâu, một trong những quái vật khổng lồ này đã làm một xe lửa trật đường rầy và lật đi một phần. Đúng thật là con voi đã bị đụng chết bởi cú sốc này, nhưng từ đó trở đi các xe lửa chỉ còn chạy ban ngày mà thôi. 
Mùa săn bắn thuận lợi nhất ở phía nam Đông Dương là từ tháng 5 đến tháng 10 và ở phía bắc Đông Dương là từ tháng 10 đến tháng 4 (7). Các thú săn gồm: voi (nhiều ở nam Đông Dương, những cũng có ở Thượng Lào và Bắc Kỳ), bò rừng (Bos gaurus, bắc Nam Kỳ, nam Trung Kỳ, Hạ Lào và vùng gần Vinh), tê giác (trong những rừng có đầm lầy và rậm rạp ở Nam Đông Dương), trâu rừng (sống từng đàn ở cánh đồng và thung lũng đầm lầy ở nam Đông Dương), cọp và beo (khắp Đông Dương), gấu, nai hưu, cá sấu (đầm lầy, sông ở Nam Kỳ), các loài khỉ, công, trĩ, vịt trời, chim có bộ lông quí đẹp như cò già (marabouts) vùng Cà Mau, Bà Rịa, bồ nông (pelican) và cò bạch (aigrettes) vùng đồng bằng châu thổ Nam Kỳ, Bắc Kỳ và biển hồ ở Cam Bốt…
Trong nghị định (arrêté) quản lý điều hành săn bắn ở Nam kỳ được ban hành ngày 11 tháng 3.1926, ngoài các thú được bảo vệ và cấm buôn bán sản phẩm thú như da, đầu thú… thì trong điều 7 của nghị định này săn bắn được cho phép trong mọi thời gian, không cần giấy phép và không giới hạn số lượng các thú vật được coi là phiền nhiễu, có hại như: cọp, beo, mèo rừng, chó hoang dại, chó ngao (loup-cervier), chồn đen (martre), chồn sóc (fouine), chồn hôi (putois), sóc (belette), chồn hương (civette), đại bàng, diều mốc (buse), chim ưng (faucon), chim bồ cắt (épervier), diều hâu, chim kền kền (vautour), quạ, chim biềm bịp (coq de pagoda), trăn (pithon). Săn bắn các thú khác như voi, tê giác, bò tót (gaurs), bò và trâu rừng thì phải có giấy phép (loại A) có giá trị trong 1 năm và lệ phí 120 đồng (piastres) và chỉ được săn tối đa 2 voi, 2 tê giác, 2 bò tót, 4 trầu rừng và 4 bò rừng và phải chịu thuế phụ thâu 40 đồng mỗi con (trừ trâu và bò rừng là 20 đồng mỗi con) (9).
Sau đây là đoạn trích từ sách “Continental Saigon” của ông Philippe Franchini, chủ khách sạn Continental ở Saigon, viết về sự thình hành của thú đi săn bắn ở Nam Kỳ như sau:
Sau hoàng tử Henri d’ Orléans, tiếc đã ra đi quá sớm, thì hoàng tử Waldemar của Đan Mạch, kế đó là ông hoàng Duc de Montpensier, đến Saigon, họ đều bị thu hút bởi đi săn thú. Heo rừng, nai đực cao, nai con chạy rông chỉ vài cây số cách thủ đô Nam kỳ (Saigon). Trong vùng Thủ Đức, người ta nghe từ rừng tiếng tù và săn và tiếng đàn chó săn sủa. Ngạc nhiên bởi những cách săn bắn này, người Việt nhanh chóng chạy biến mất vì họ sợ chính họ có thể trở thành vật bị săn. Những tai nạn xảy ra nhiều.Những con cọp và beo cũng thường đến rừng này và khi chúng đến thì cả đàn chó săn đều chạy hết
Ông hoàng Duc de Montpensier thì đi săn bò rừng và voi ở nơi xa hơn.”
Ông hoàng Monpensier là người ở Việt Nam trong một thời gian khá lâu, ông thích đi săn bắn nên rất thông thuộc các nơi đi săn. Chính ông là người đã mời hoàng tử Thụy Điển Wilhem đi săn trong lúc Wilhem và vợ là công chúa Maria Pavlovna ghé Đông Dương vào đầu năm 1912 để viếng thăm Angkor trong chuyến đi du lịch các nước Á châu của gia đình hoàng tử Wilhem (3).
Wilhem vì ham săn bắn nên sau khi thăm quốc vương Cam Bốt vua Sisowath, đã để vợ và phái đoàn đi Angkor còn ông và một thân tín tên là Lewenhaupt đi tàu trở về Saigon bỏ dở cuộc viếng thăm Angkor để được đi săn cùng với ông hoàng Monpensier.

(2) Khu vực núi Chứa Chan, Bình Thuận

Hoàng tử Wilhem đã viết hồi ký đầy đủ về chuyến đi săn chung quanh Saigon trong vùng rừng núi Chứa Chan (12). Ông cho biết vùng hoang dã này có rất nhiều trâu rừng (hay bò tót) và nai. Sau đây là một đoạn ông nói về một chuyến đi săn với ông hoàng Duc de Monpensier :
Ngay sau khi cái nóng tệ nhất của buổi trưa đã qua, chúng tôi tiếp tục lên ngựa và đi qua cánh đồng với kính che mắt. Một vài con nai thấp thoáng trong cỏ cao và nhanh chóng nhảy qua các khoảng trống. Ông hoàng (Monpensier) – với một trong những cú bắn đạt nhất mà tôi được chứng kiến – đã có cơ hội bắn được hai con; phát đầu của ông hạ gục con nai cách khoảng 150 bước chân (yards), và phát thứ hai bắn vào con chim đại bàng lớn, lúc đó đang bay trên đầu chúng tôi làm nó rơi xuống đất với một viên đạn 0,405 li xuyên qua mình.
Sau đó đoàn bắn được một con bò tót lớn. Ngày hôm sau ông kể đoàn của ông bị hàng trăm con bò tót đuổi, nhưng may mắn thoát khỏi cảnh bị đàn bò tót đạp chết như sau :
Ngày hôm sau, chúng tôi trải qua một cuộc mạo hiểm thích thú nhất, mà tôi tin rằng cho đến nay là một sự kiện rất hi hữu. Dù gì chăng nữa, ông Oddéra, người đã tham dự vào nhiều cuộc đi săn và đã bắn hơn ngàn con bò tót, cũng đã chưa từng gặp trường hợp như vậy.
Chúng tôi cỡi ngựa đi trong cánh đồng gần nguyên cả buổi sáng mà chưa thấy con vật nào, và mặt trời bắt đầu hâm nóng làm khó chịu, thì thình lình các lưng đen của một vài con bò tót xuất hiện trên cỏ cao. Chúng tôi vui mừng nhảy xuống ngựa, ngựa sau đó được dắt ra một khu rừng nhỏ, và chúng tôi như thường lệ bò rạp tiến tới gần các con bò tót. Khi chúng tôi bò một lát và cảm thấy đúng trong tầm khoảng cách, chúng tôi cẩn thận ngửng đầu lên trên cỏ cao. Và đúng là khoảng cách tốt, trước mắt chúng tôi trong một vùng bán nguyệt rộng, không phải có một hay vài con bò tót mà chúng tôi tưởng, mà là khoảng hai mươi đến ba chục con bò tót to lớn, tất cả đều đăm mắt nhìn về hướng chúng tôi. Các khẩu súng hầu như bắn liền một lúc, tuy vậy không thấy có ảnh hưởng gì. Cả đàn bò tót quay đi chậm rãi. Chúng tôi đứng lên không mãn nguyện và đứng nhìn một lúc đàn bò rút lui, thì thình lình chúng quay đầu lại và bắt đầu đi thẳng đến chúng tôi.
Nhưng chưa hết. Từ một vũng bùn cạnh đó, mà chúng tôi không thấy do vị trí của chúng tôi, từng con quái vật đen này đến con khác trỗi dậy và gia nhập đàn bò tót vừa bị bắn ; và chẳng bao lâu, ở khoảng cách chưa đầy 200 bước (yards, 1 yard dài khoảng 0.9m) là một dãy hàng dài có khoảng 120 con bò tót trải dài khoảng 300 bước đứng đối diện với chúng tôi. Quả là một quang cảnh vĩ đại khi ta thấy tất cả các con quái vật này tiến tới phía mình, với cổ của chúng giãn thẳng về phía trước và mặt mõm ướt của chúng ở độ cao cùng với cổ, phản chiếu dưới ánh sáng mặt trời và chớp sáng như sét. Nhưng do vì chúng tôi là đối tượng của sự giận dữ của chúng, và khoảng cách giữa chúng tôi và đàn bò như lũ tràn đến ngắn dần một cách báo động sau mỗi giây phút, đây chính là thời khắc chúng tôi phải chạy cứu lấy mình, nếu không muốn bị đè bẹp, bị cán nghiền dưới sức nặng của những quái vật khổng lồ này, và sau đó trở thành bữa ăn tối thuận tiện cho các con chim kên kên
Tình hình thật nghiêm trọng không chối cãi. Khoảng cách tới bờ khu rừng nhỏ, nơi các con ngựa của chúng tôi đứng thì vào khoảng 5 fulông (1 furlong dài khoảng 200m) nên chắc chắn không có cơ hội nào chạy đến được trước khi lũ bò tràn đến chúng tôi. Đứng yên chờ sự tấn công của chúng, bắn hạ vài con nhưng bị đè nát bởi các con khác cũng không có gì hấp dẫn cho chúng tôi cả. Bắn một vài viên đạn vào con đầu đàn, môt con bò tót lớn tuổi với sừng khổng lồ mà tôi rất mong ước có được để thêm vào bộ sưu tập của tôi – trúng đích rất tốt, nhưng không có tác dụng gì đối với sự tiến công bạo lực của đàn bò. Trong khoảnh khắc chúng tới chúng tôi, không làm gì được ngoài cách chạy để cứu mình. Đó là một trong những lúc thất vọng nhất tôi đã trải qua : bị bắt buộc bỏ chạy trước những con vật săn tuyệt diệu khi trong tay có khẩu súng tốt. Nhưng sự tất yếu không có luật, vì thế chúng tôi chạy.
Đàn bò hoang dã tiếp tục tiến chạy khoảng 100 yards, khoảng cách giữa chúng tôi và đàn bò chạy đuổi ngắn dần, và đến phía trú bờ rừng vẫn còn xa. Tình hình thật là tuyệt vọng.
Thế rồi đàn bò đang nước phóng thình lình dừng lại ngay tại chỗ mà chúng tôi lúc trước đã nằm và bắn chúng. Những vỏ đạn vung vãi và có lẽ mùi của chúng tôi để lại ở đó dường như ảnh hưởng đến những miệng mõm chớp sáng của chúng một cách khó chịu. Sự kiện này cho chúng tôi có cơ hội một lúc, một khoảng cách thở. Một vài phát súng bắn ra, lúc đó một hay hai con quay hẳn lại, kế đó đàn bò tiếp tục tiến. Hàng dãy bò dài lúc này được chia ra làm hai, một tiếp tục tiến chạy tiếp, trong khi dãy kia làm một động thái bọc chung quanh chúng tôi, hiển nhiên có ý định ập về phía sườn chúng tôi\. Nhưng không biết có một lý do nào đó, chúng dần dần chạy chậm lại và chạy sau chúng tôi từ từ. Hết hơi và chảy đầy mồ hôi, chúng tôi cuối cùng chạy được đến chỗ ngựa của chúng tôi, và cảm thấy làm chủ lại được tình hình.
6
Hình 6 : Săn beo ở Nam Kỳ

(3) Tây Nguyên : Cao nguyên Lang-Bian, Djiring

Vùng nhiều thú và đa dạng nhất ở Đông Dương có thể nói là cao nguyên Lang-Bian ở Tây Nguyên. Ông Fernand Millet, một viên chức kiểm lâm và cũng là thợ săn lão luyện đã tổ chức nhiều cuộc đi săn cọp, bò tót, voi, bò Kouprey,… trên cao nguyên Lang Bian cùng với một số nhân vật mạo hiểm như phi công Pelletier-Doisy, nhà văn Albert Londres, các quan chức cao cấp trong các thập niên đầu thế kỷ 20.
Pierre Bouvard (18) cho biết và quảng cáo trong sách về cao nguyên Lang-Bian là nơi thu hút khách du ngoạn thế giới vì nơi đây là nơi lý tưởng săn những thú lớn như cọp, beo, gấu, voi, tê giác, nai, bò tót, trâu rừng. Ngoài ra còn có chim trĩ, công và nhiều loài chim khác. Ở các thung lũng trung lưu sông Đồng Nai và các suối phía dưới Di Linh còn có tê giác một sừng. Toàn quyền Philippines (lúc này là thuộc địa của Mỹ), Sir Harrison, đã đến cao nguyên Lang-Bian đi săn và đã bắn được 2 con cọp, 3 con conminh (một loại bò rừng nhưng lớn hơn, bibos concavifrons, cao 1m9 va dài 3m) và 5 hay 6 con Cà Tong (katang là một loài nai, Rucervus Eldi).
7
Hình 7: Bản đồ trong sách hướng dẫn của Pierre Bouvard, Fernand Millet
các vùng săn các loại thú (cọp, bò tót, voi, nai) gần Đà Lạt trên cao nguyên
Lang Bian (nay là tỉnh Lâm Đồng và Daklak) (10).
8
Hình 8: Các lộ đường quanh Đà Lạt (10). 9
Hình 9: Những thú săn được sau một tuần đi săn ở cao nguyên Lang-Bian
(trích trong sách “Dalat, sanatorium de l’Indochine française.
La chasse au Lang-bian”
của Pierre Bouvard và Fernand Millet)

Cao nguyên Lang-Bian đầu thế kỷ 20 còn rất nhiều cọp. Ông Millet, người đi săn cùng với Sir Harrison, vào tháng 11 năm 1906 đã săn được trên đỉnh Lang-Bian một con cọp với bộ long dầy không kém các con cọp vùng núi lạnh ở Vân Nam và Himalaya. Gần Đà Lạt, ông Barthe, một cảnh vệ địa phương, đã bắn được hai con cọp.

(4) Kỹ nghệ săn bắn dã thú

Saigon là trung tâm dịch vụ cho kỹ nghệ săn bắn đầu thế kỷ 20. Trên đường Catinat (Đồng Khởi), có tiệm bán súng đạn để đi săn của ông Cafford ở số 32-36 đường Catinat (theo niên giám Đông Dương năm 1910, 1911). Sau này vào thập niên 1950-1960, tiệm súng đạn Cafford được chuyển về ở góc đường Tự Do và Nguyễn Thiệp, đối diện với quán café Brodard.
Cửa hàng bán súng đạn dược « Comptoirs Généraux de l’Indochine » lớn nhất cũng nằm trên đường Catinat. Ở đây bán đủ các loại súng săn của các hảng Merkel và Walter, đạn dược từ công ty Coopal và là đại lý cho hãng Mauser (5).
Công ty du lịch « Didier & Defrosse Safari Service », của ông Didier và ông Defrosse, trụ sở đặt ở số 61 đường Pellerin (Pasteur ngày nay), tổ chức các chuyến đi săn, cắm trại, du ngoạn viếng các bộ lạc dân tộc thiểu số, bắt thú cho các viện nghiên cứu, bảo tàng, chuyến bay thưởng ngoạn trên vùng có thú săn, bán các da thú như voi, cọp, beo. Các hướng dẫn viên của công ty này đều nói được tiếng Anh, phục vụ cho khách hàng từ các nước khác đến đi săn ở Việt Nam (5).
Ngoài ra còn có công ty vận chuyển du lịch, « Société Indochinoise de Transports », có các chuyến xe hơi và xe ca đi Saigon-Pnom Penh-Kampot-Angkor-Poipet, và các chuyến đi săn những thú lớn, có hướng dẫn viên nói tiếng Anh, trụ sở đặt ở 93 đường Mac-Mahon (Nam Kỳ Khởi Nghĩa) ở Saigon và 35 đường Hassokan ở Pnom Penh. Công ty này có liên hệ trực tiếp với các công ty Thomas Cook & Sons, The American Express, The Borneo Company, Siam Steam Navigation, K.P.M Line…
10
Hình 10: Quảng cáo bán phim chụp ảnh của hãng Kodak-Pathé
ở tiệm “Pharmacie Solirène” trên đường Catinat, Saigon, năm 1937 (5)
11
Hình 11: Nhóm đi săn gần Saigon dừng nghỉ uống rượu.
Các sản phẩm của các thú được phép săn, như ngà voi, da cọp,… được một số các cửa tiệm ở Saigon bán cho công chúng. Ông Dương Chấn Kỷ, một gia chủ giàu có ở Bình Thủy, Cần Thơ có mua một cặp ngà voi ở một tiệm trên đường Catinat, Saigon mà Hồng Hạnh, trong sách “Dấu xưa Nam bộ” (17), đã kể lại như sau:
..Cụ Dương Chấn Kỷ vốn có một đam mê lạ lùng với việc sưu tập đồ cổ mặc dù trông bề ngoài của cụ không ra vẻ tay chơi mấy. Ấy mới sinh chuyện về sau. Số là trong một dịp về Sài Gòn xem mấy cái chành lúa, tiện đi ngang qua đường Catinat, ông vào xem chơi một gian hàng bán tiêu bản thú vật của một tay chủ tiệm, thợ săn người Pháp. Tay nầy thấy ông già mặc đồ bà ba, tay cắp bị bàng cứ đứng mân mê cặp ngà voi bèn nạt lớn – “Nè ông già, đây không phải là chỗ chơi của ông đâu. Lỡ tay ông có làm trầy xước nó thì bán cả gia sản cũng không đủ thường bồi cho tôi”. Liếc nhìn tay chủ tiệm bằng nửa con mắt, cụ Dương Chấn Kỷ thủng thỉnh hỏi lại: “Cỡ bao nhiêu mà dữ vậy chú em. Nói qua nghe thử coi”.
Tấn hài kịch vừa nêu không biết diễn ra bao lâu, chỉ biết rằng ông Dương Chấn Kỷ đã đặt cọc một số tiền lớn để rồi dong xe về Cần Thơ chở lên 4 ngàn đồng bạc trắng “con cò” – tiền Liên bang Đông Dương chính hiệu để rinh về quê nhà. Tay chủ tiệm cầm tiền rồi mà ngỡ như mơ. Chỉ một ngày sau đó, đích thân gia đình công tử Bạc Liêu đánh tiếng mua lại cặp ngà với giá gấp đôi. Quả là không có một thương vụ nào lại sinh lãi cỡ đó chỉ sau một ngày, thế nhưng cụ Dương Chấn Kỷ nhất định không bán. Một phần vì máu mê đồ cổ, một phần vì sĩ diện với tay chủ tiệm người Tây vốn coi người Việt như rơm, như rác.
Cũng xin mô tả một chút cho bạn đọc được rõ. Cặp ngà này có một cái dài độ 1,9 mét, cái kia độ 2,2 mét. Dương lão gia đoan chắc, cặp ngà của ông Diệm để trong dinh Độc lập cũng chưa lớn bằng (?). Ông đưa tôi xem tấm hình đen trắng tuy hơi ố vàng như vẫn còn nguyên nét – hình chụp ông lúc trai trẻ đứng bên cạnh cặp ngà, ông to cao là thế nhưng cũng chỉ mới tới mức hai phần ba độ dài của chiếc ngà. Nhưng tiếc một nỗi, gia tộc họ Dương lại không có duyên để giữ cặp ngà.
12
Hình 12: Săn voi ở Cần Thơ 13
Hình 13: Bán da cọp ở Saigon (1952).
Ngoài ra ở Chợ Lớn, có bán các bộ da thú săn có nguồn gốc ngoài Đông Dương. Theo tờ báo “The Straits Times” ngày 2/7/1902 (15) thì trong Chợ Lớn giá bán các bộ da cọp, da mèo rừng, da beo từ Trung Quốc cực kỳ rẻ.

(5) Chính sách và quản lý săn bắn thời Pháp thuộc

Những biện pháp đầu tiên quản lý săn bắn ở Đông Dương qua luật lệ bắt đầu từ năm 1891, nhất là bảo vệ các loài chim cò bạch (aigrettes), cò già (marabouts) và chim hồng hạc (flamants) ở Nam Kỳ, điều hành qui luật bắt voi và ngăn cấm sự tiêu diệt chúng (7).
Năm 1911, một bộ luật của bộ trưởng Thuộc địa được ban hành để nghiên cứu những biện pháp thích hợp bảo đảm bảo tồn và sự trường tồn các loài sinh vật trong các loài hoang dã ở các thuộc địa.
Qua bộ luật đó, các chính quyền ở các thuộc địa đã ban hành các biện pháp điều hành bảo về dã thú, giới hạn quyền săn bắn của những người Âu cũng như bản xứ trong những thời hạn thích hợp ở mỗi nơi.
Ở cao nguyên Liang-Bian, một vùng có nhiều cuộc săn bắn lớn, đã được chia ra vùng nào là vùng được bảo tồn ngăn cấm săn, vùng tự do săn bắn và vùng bảo vệ.
Nghị định ngày 11 tháng 3 1926 ở Nam kỳ và đạo luật (decret) ban hành ngày 7 tháng 4 1927, quản lý điều hành săn bắn ở Đông Dương phản ảnh những điều luật và các biện pháp như trên. Đạo luật này áp dụng ở Nam Kỳ, vì lúc ấy là thuộc địa Pháp. Trong chương II của đạo luật này là các điều khoản cụ thể, như bằng và giấy phép săn bắn, giấy phép miễn phí săn bắn cho các công trình nghiên cứu khoa học, hay cho những người Âu đang sống biệt lập, xa cách trong rừng đôi khi cần thực phẩm hoang dã. Và cuối cùng là dân bản xứ săn bắn thường ngày trong cuộc sống của họ bằng cung, nỏ, lao, kiếm mà không dùng súng thì hoàn toàn được phép.
Chương III của đạo luật gồm các phương cách bảo vệ động vật hoang dã; dự kiến thành lập các công viên bảo tồn quốc gia, mà trước tiên thành lập các rừng bảo hộ tạm thời mà số lượng và diện tích để cho các chính quyền địa phương xác định; ngoài ra còn có nhiều biện pháp đa dạng khác như bảo vệ chặc chẻ một số loài động vật càng ngày càng quí và hiếm, một số các động vật khác không cần thiết bảo vệ lắm để bảo đảm an ninh cho dân chúng và canh nông mùa màng.
Và cuối cùng là dự kiến một loạt các biện pháp cấm một vài vũ khí có độ tàn phá cao các thú bị săn, cấm săn bắn ban đêm bằng đèn và buôn bán động vật đã chết và da của chúng. Một số các hình phạt tùy theo mức độ vi phạm và các qui định xử lý khi vi phạm, giao phó trách nhiệm theo dõi quản lý săn bắn cho nhân viên kiểm lâm cũng được trình bày trong bộ luật (7).

Kết luận

Những tư liệu để nói về động vật và môi trường sinh thái ở chung quanh Saigon và các tỉnh Nam Kỳ cho thấy từ cuối thế kỷ 19 cho đến những thập niên đầu thế kỷ 20, sự đa dạng sinh học rất lớn với môi trường sống còn hoang dã và dân cư còn thưa thớt và người dân tộc sống còn nhiều ở các tỉnh thành chung quanh Saigon, nhất là vùng Đông Nam Bộ.
Chỉ trong vòng chưa đến 100 năm, môi trường sinh thái hoàn toàn thay đổi. Các động vật lớn như voi, cọp, beo, trâu rừng, bò tót, tê giác, nai, heo rừng, cá sấu hoàn toàn biến mất. Rừng nơi chúng trú ẩn, sinh sống đã bị khai phá hay hoàn toàn biến mất. Hiện nay chỉ còn lại khu rừng Cát Tiên ở gần Saigon thuộc vùng Đông Nam Bộ và một số các vườn quốc gia ở Tây Nguyên là những cụm sinh thái rời rạc còn sót lại
Ngày nay không còn nơi nào ở Việt Nam được phép cho săn bắt. Nhưng ngay cả ở những nơi còn được bảo tồn như vườn quốc gia, con người vẫn còn xâm lấn trái phép để săn bắt động vật hoang dã hay phá rừng lấy gỗ. Nếu chúng ta muốn con cháu chúng ta trong tương lai vẫn còn có cơ hội được xem và biết đến di sản thiên nhiên, sinh vật đặc hữu và sự phong phú của đa dạng sinh học ở Việt Nam thì sự bảo tồn những môi trường sinh thái còn sót lại phải được thực thi nghiêm chỉnh và ưu tiên là nâng cao ý thức bảo vệ môi trường sinh thái trong công đồng. Vì thế các tổ chức xã hội dân sự có vai trò quyết định trong sự bảo tồn di sản sinh học ở một nước văn minh văn hóa.

Nguyễn Đức Hiệp

Chú thích:

(1) Chính quyền Pháp ở Saigon trước đó cũng cho một hoàng tử Miến Điện , Myingun Min, được lưu vong tại đây từ năm 1889 cho đến 1921 (4).
(2) Hoàng tử Wilhem là em của ông nội của vua Thụy Điển ngày nay

Tham khảo

  1. Albert Morice, Voyage en Cochinchine 1872, Le Tour du Monde – Volume 30 -1875-2nd semestre – Pages 369-38, http://collin.francois.free.fr/Le_tour_du_monde/Frame7_textes/TdM_frame7.htm
  2. George Dürrwell, Ma chère Cochinchine, trente années d’impressions et de souvenirs, février 1881-1910, E. Mignot (Paris), 1911
  3. Nguyễn Đức Hiệp, Saigon-Chợ Lớn và Nam bộ: Từ tiền sử đến Phù Nam, đế quốc Khmer và vương quốc Champa (Phần 2), 2011, http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/nam-bo-tu-tien-su-2/
  4. Tsaw Hla Phroo, France Burma and the Myingun prince, The Singapore Free press and Mercantile Advertiser, 16 September 1893. pp. 2, http://newspapers.nl.sg/Digitised/Article/singfreepressb18930916.2.7.aspx
  5. Les grandes chasses en Indochine / édité par le Bureau officiel du tourisme indochinois, Bureau officiel du tourisme indochinois, 22 Rue Grandière, Saigon, 1937
  6. Exposition coloniale internationale de Paris. Commissariat général, Publisher : Société d’éditions géographiques, maritimes et coloniales (Paris), Vol. 1, 1931
  7. Exposition coloniale internationale de Paris. Commissariat général, Éditeur : Société d’éditions géographiques, maritimes et coloniales (Paris), Vol. 2, 1931, Contributeur : Exposition coloniale (1931 ; Paris). Éditeur scientifique.
  8. Recueil Général de la Législation et de la Réglementation de l’Indochine”, Textes locaux 1926-27, pp 168-179, March 11, 1926.
  9. Pierre Bouvard, F. Millet, Dalat, sanatorium de l’Indochine française. La chasse au Lang-bian. Nouveau guide illustré , Impr. de J. Castenet (Bergerac), 1920.
  10. Lucien Roussel, La chasse en Indochine, dix neuf gravures, Plon-Nourrit et Cie, Paris, 1913 http://www.archive.org/stream/lachasseenindoc00rousgoog#page/n11/mode/2up
  11. Wilhem, Prince of Sweden, In the lands of the sun: notes and memories of a tour in the East, Eveleigh Nash, London, 1915, http://ebooks.library.cornell.edu/cgi/t/text/text-idx?c=sea;idno=sea026
  12. Fernand Millet, Les grands animaux sauvages de l’Annam, leurs mœurs, leur chasse et leur tir, Plon, Paris 1930.
  13. Fernand Millet, Le Lang-Bian, joyau touristique de l’Indochine, A. Tournon, Paris . In-8°, 60 p.
  14. R. Purefoy, Cursory remarks on Cochin-China, The Asiatic Journal and monthly register for Bitish India and its dependencies, Vol. 22, pp. 143-147, pp. 652-655 London, 1826.
  15. Hồng Hạnh, Dấu xưa Nam bộ, Nxb Văn Nghệ, Tp HCM, 2005.
  16. Pierre Bouvard, Le Lang-Bian (Indochine française), sanatorium et chasses. Nouveau guide illustré, avec texte anglais-français, S. Montégout (Saïgon), 1917.