Phân biệt hai từ này không khó.
Cái gì xảy ra giữa hai hay nhiều quốc gia với nhau thì gọi là quốc tế. Tiếng Anh, tiếng Pháp dùng từ international (inter là giữa, nation là quốc gia). Một trận cầu giữa Việt Nam và Cam-pu-chia là một trận cầu quốc tế, y như một trận banh giữa Ác-hen-ti-na và Hà Lan. Nếu mình đá thắng được hết các đội có tên trên đời này thì mình ẵm cúp thế giới (World Cup) và được người ta gọi là vô địch thế giới (World Champion). Hoa hậu Thế Giới là nữ hoàng sắc đẹp của cả thế giới, ở một đẳng cấp cao hơn hoa hậu châu Á - cả Miss World Pageant và Miss Asia Pageant đều là các cuộc thi quốc tế.
Nếu lập một công ty lấy tên tiếng Anh là The International Youth Movement for Human Rights Foundation Ltd thì Tây không thể bắt bẻ gì về quy mô, tầm vóc của công ty đó. Chỉ cần hai người trẻ tuổi, chẳng hạn một người Việt ở Úc kết hợp với một người Việt ở Mỹ hay ở Việt Nam cũng được, không nhất thiết phải có người Tàu, người Mã, người In-đô... Nhưng khi mình dịch tên đó sang tiếng Việt là Phong Trào Tuổi Trẻ Thế Giới Vì Nhân Quyền, không người nào biết tiếng Việt có thể ngộ nhận về tầm vóc, quy mô của công ty. Nó vĩ đại hơn hẳn.
Thursday, 3 August 2017
Thursday, 13 July 2017
Hội đồng chiến tranh nào cần thông ngôn?
Trần Hữu Tá (2016:14) viết về việc các quan chức thực dân không ưa Trương Vĩnh Ký:
Và D'Ariès tỏ thái độ: "Tôi không muốn chỉ định ông ta để Ngài chọn làm thông dịch viên cho các hội đồng chiến tranh của chúng ta".
(Từ bục giảng đến văn đàn - Chân dung 25 người thầy, nhà xuất bản Trẻ, Thành Phố Hồ Chí Minh, 2016,, 136 tr.)
Nghĩ mãi không ra hội đồng chiến tranh nào cần thông ngôn. Vả lại thời Trương Vĩnh Ký làm gì có cơ quan nào gọi là hội đồng chiến tranh.
Ông Trần Hữu Tá có lẽ chép lại của Nguyễn Vy Khanh:
Một bức thư của chỉ huy trưởng D’Ariès gửi đô đốc Charner đề ngày 21-5-1861 đề cử Trương Vĩnh Ký : "trong số người Nam nói được ngôn ngữ của chúng ta chỉ có một người tên là Petrus Ký là biết khá rành rẽ có thể giữ các chức vụ Ngài muốn thiết lập bên cạnh các thẩm quyền quân sự của chúng ta", nhưng D’Ariès than phiền thái độ hợp tác lơ là của người thanh niên 23 tuổi này: "từng là nhân viên Sở Sự vụ bản xứ Sài-Gòn, ông ta đã bị sa thải vì thiếu mẫn cán và tận tụy, rất thông minh, rất có khả năng làm tốt công việc, nhưng ông ta dần dà đánh mất sự tin tưởng tạo được. Tôi không muốn chỉ định ông ta để ngài chọn làm thông dịch viên cho các hội đồng chiến tranh của chúng ta". Dù vậy vị tổng chỉ huy Charner nói trên vẫn chọn Trương Vĩnh Ký và đưa ra các điều kiện để D’Ariès chuyển lại họ Trương "40 đồng một tháng và phải luôn có mặt tại Sài-Gòn".
(http://vietsciences.free.fr/vietnam/danhnhan/tacgia/truongvinhky-nguyenvykhanh)
Conseil de guerre trong tiếng Pháp có thể là hội đồng chiến tranh/bộ chỉ huy tối cao/hội đồng quốc phòng, tức là những chỗ mà cả Tây như d'Ariès hay Ta như Trương Vĩnh Ký không chen chân vào được. Nhưng conseil de guerre còn một nghĩa nữa là tòa án binh/ tòa án quân sự. Công việc mà viên đại tá hải quân d'Ariès nói đến chỉ có thể là việc thông dịch ở tòa án binh.
Và D'Ariès tỏ thái độ: "Tôi không muốn chỉ định ông ta để Ngài chọn làm thông dịch viên cho các hội đồng chiến tranh của chúng ta".
(Từ bục giảng đến văn đàn - Chân dung 25 người thầy, nhà xuất bản Trẻ, Thành Phố Hồ Chí Minh, 2016,, 136 tr.)
Nghĩ mãi không ra hội đồng chiến tranh nào cần thông ngôn. Vả lại thời Trương Vĩnh Ký làm gì có cơ quan nào gọi là hội đồng chiến tranh.
Ông Trần Hữu Tá có lẽ chép lại của Nguyễn Vy Khanh:
Một bức thư của chỉ huy trưởng D’Ariès gửi đô đốc Charner đề ngày 21-5-1861 đề cử Trương Vĩnh Ký : "trong số người Nam nói được ngôn ngữ của chúng ta chỉ có một người tên là Petrus Ký là biết khá rành rẽ có thể giữ các chức vụ Ngài muốn thiết lập bên cạnh các thẩm quyền quân sự của chúng ta", nhưng D’Ariès than phiền thái độ hợp tác lơ là của người thanh niên 23 tuổi này: "từng là nhân viên Sở Sự vụ bản xứ Sài-Gòn, ông ta đã bị sa thải vì thiếu mẫn cán và tận tụy, rất thông minh, rất có khả năng làm tốt công việc, nhưng ông ta dần dà đánh mất sự tin tưởng tạo được. Tôi không muốn chỉ định ông ta để ngài chọn làm thông dịch viên cho các hội đồng chiến tranh của chúng ta". Dù vậy vị tổng chỉ huy Charner nói trên vẫn chọn Trương Vĩnh Ký và đưa ra các điều kiện để D’Ariès chuyển lại họ Trương "40 đồng một tháng và phải luôn có mặt tại Sài-Gòn".
(http://vietsciences.free.fr/vietnam/danhnhan/tacgia/truongvinhky-nguyenvykhanh)
Conseil de guerre trong tiếng Pháp có thể là hội đồng chiến tranh/bộ chỉ huy tối cao/hội đồng quốc phòng, tức là những chỗ mà cả Tây như d'Ariès hay Ta như Trương Vĩnh Ký không chen chân vào được. Nhưng conseil de guerre còn một nghĩa nữa là tòa án binh/ tòa án quân sự. Công việc mà viên đại tá hải quân d'Ariès nói đến chỉ có thể là việc thông dịch ở tòa án binh.
Wednesday, 14 June 2017
từ nguyên của "NHÀ CẢ" trong thơ Nôm Nguyễn Trãi (Trần Trọng Dương)
Từ nguyên của "NHÀ CẢ" trong thơ Nôm Nguyễn Trãi
nhà cả ◎ Nôm:
dt. dịch chữ đại trạch大宅, nghĩa là “trời đất, kiền khôn, vũ trụ” [Từ Nguyên: 0358]. Sách Hậu Hán thư phần Phùng Diễn liệt truyện: 游精神於大宅兮 (thần khí chơi khắp vũ trụ chừ).
Đống lương tài có mấy bằng mày, Nhà cả đòi phen chống khoẻ thay. (Tùng 219.2).
Trong bài thơ, rõ ràng là cả đống lương (phẩm chất kẻ trượng phu) và nhà cả đều được dùng với nghĩa bóng. Không có chuyện gỗ tùng có thể chống nhà lớn. Vì nếu đã làm cột thì lấy đâu cội rễ bền, còn dâu “nhuốm tuyết sương”. Tác giả đem đến cho ta một hình ảnh tùng trực diện giữa trời đất thiên nhiên và một biểu tượng về đại trượng phu tùng trong ngầm ý so sánh với chính phẩm cách mình, tâm trạng mình [Nguyễn Hùng Vỹ 2005: 34].
(Trích Nguyễn Trãi Quốc âm từ điển)
Nhân đây xin đăng lại toàn văn bài của Nguyễn Hùng Vỹ.
Hai chữ NHÀ CẢ trong bài thơ “Tùng” của Nguyễn Trãi
Nguyễn Hùng Vĩ
“Tùng” là một bài thơ hay nằm trong di cảo thơ Nguyễn Trãi. Nó không bị lẫn vào các thơ Nôm Lê Thánh Tông, Tao Đàn hay thơ ca thời Lê- Trịnh. Các nhà sưu tập thơ Nguyễn Trãi đều để tâm đến bài thơ này khi phiên âm và chú giải nó. Bùi “Tùng” đã vào sách giáo khoa và được chú thích, bình giảng nhiều lần. Song rất tiếc, có hai chữ trong bài thơ này chưa được hiểu cặn kẽ, thậm chí còn được hiểu sai lệch. Đó là hai chữ “nhà cả” trong câu thơ:
Nhà cả đòi phen chống khỏe thay.
Các tác giả cuốn “Nguyễn Trãi toàn tập” (Nxb.KHXH, 1976) chú thích về hai chữ này: “nhà cả: chữ Hán là đại hạ. Có câu thơ “nhất mộc chi đại hạ” (một cây đỡ tòa nhà). Câu này có ý là mình đã từng đôi phen làm cái việc lớn ấy.
Chúc thích này cung cấp cho ta những thông tin sau:
- Nhà cả là dịch từ chữ đại hạ.
- Đòi phen được hiểu là “đôi phen”.
- “Tòa nhà lớn” được hiểu là “triều đình”, “đỡ tòa nhà lớn” là làm việc triều đình, làm làm lương đống cho quốc gia.
Có lẽ từ chú giải này, sách giáo khoa dần dần chỉ hiểu rằng cây tùng cây tùng có thể làm rường cột để xây dựng ngôi nhà lớn cũng như người quân tử có thể làm lương đống cho nước nhà.
Trước đây, khi tiếp xúc với văn học Nguyễn Trãi, chúng tôi đã có ý nghi ngờ chú giải cho rằng, gỗ tùng có thể là vật liệu khỏe để xây dựng nhà cửa. Trong quan sát văn hóa truyền thống, ở Việt Nam, hầu như chúng tôi chưa thấy người ta dùng thông làm rường cột chịu lực bao giờ. Gỗ thông mềm, dọc thớ, dễ choác, dễ mục. Ngay cả việc dùng nó làm ván vách trwcs đây cũng cực kỳ hiếm hoi. Như vậy, ắt hẳn hai từ “nhà cả, trong bài thơ không thể hiểu là ngôi nhà lớn, cụ thể như nhiều người vẫn hieur. Nguyễn Trãi khi sáng tạo ra bài thơ này đã không dùng với nghĩa đó.
Trong Quốc âm thi tập , chúng tôi thấy tất cả các kết cấu có gắn liền với từ cả đều có dấu ấn của sự chuyển dịch từ những ẩn ngữ Hán. Ví dụ như:
- Liêm cần tiết cả (đại tiết) tua hằng nắm.
- Ẩn cả (đại ẩn) lọ chi thành thị nữa.
- Người xưa ẩn cả lọ lâm tuyền.
- Tự nhiên cả muốn (đại dục) chúng suy nhường.
- Kìa ai cây cả (đại thụ) nhàn ngồi tựa.
- Hằng lấy đạo trung làm nghĩa cả (đại nghĩa).
- Cả lòng (đại lượng) mượn lấy đắp hơi cùng.
- Tài đống lương cao ắt cả dùng (đại dụng).
Tất cả các từ trên đều được các từ điển và các chú giải thơ ca giải thích nghĩa ẩn dujg của nó. Ngay cả trường hợp từ cả đứng một mình trong câu thơ sau:
Nước càng tuôn đến bể càng cả.
Thì cũng gợi ý ta nhớ về thành ngữ quen thuộc “tràng giang đại hải”. Rõ ràng là trong việc xây dựng ngôn ngữ thơ ca, văn học Việt Nam đã tiếp thu tinh hoa một nền văn chương kỳ cựu nhất thế giới, một nền thơ ca giá trị nhất thế giới để làm giàu có cho mình.
Có thể hai từ “nhà cả” trong câu thơ của Nguyễn Trãi là chuyển dịch từ hai từ đại hạ như tác giả NTTT đã chú vì hai từ này có nghĩa bóng rộng hơn là ngôi nhà lớn. Song chúng tôi cho rằng hợp lý hơn cả là Nguyễn Trãi đã chuyển dịch từ hai từ “đại trạch”.
“Trạch” trong từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh giải thích nghĩa là “nhà ở, mồ mả, ở”. Từ nguyên giair thích “đại trạch” nghĩa thứ nhất, phổ biến là “thiên địa”, nghĩa thứ hai là ngôi nhà lớn dành cho các vua chư hầu. Đến đây đọc lại đoạn thơ của bài Tùng ta thấy tác giả đã dùng từ nhà cả rõ ràng với nghĩa “trời đất”, “thiên địa”, “vũ trụ|:
Đống lương tài có mấy bằng mày
Nhà cả đòi phen chống khỏe thay
Cội rẽ bền rời chẳng động.
Tuyết sương đã thấy đặng nhiều ngày.
(Năng lực, phẩm cách làm lương đống có mấy ai bằng được tùng
Bao phen đứng ”chống trời chống đất” vững vàng thay.
Thế mà cội rễ vẫn bền chuyển chẳng hề lay
[Vì đứng giữa đất trời nên] thấy nhiều ngày nhuốm trải tuyết sương).
Trong bài thơ, rõ ràng là cả đống lương (phẩm chất kẻ trượng phu) và nhà cả đều được dùng với nghĩa bóng. Không có chuyenj gỗ tùng có thể chống nhà lớn. Vì nếu đã làm cột thì lấy đâu cội rễ bền, còn dâu “nhuốm tuyết sương”. Tác giả đem đến cho ta một hình ảnh tùng trực diện giữa trời đất thiên nhiên và một biểu tượng về đại trượng phu tùng trong ngầm ý so sánh với chính phẩm cách mình, tâm trạng mình, một con người đâu chỉ ẩn dật, khách lâm tuyền mà còn là một đấng trượng phu như sách Mạnh tử nói: phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất.
Viết đến đây, tôi thoạt nhớ đến câu thơ của Mai Nham Trần Bích San:
Tiếu hàn nhiên hậu tri tùng bách
Nhân bất phong sương vị lão tài.
dt. dịch chữ đại trạch大宅, nghĩa là “trời đất, kiền khôn, vũ trụ” [Từ Nguyên: 0358]. Sách Hậu Hán thư phần Phùng Diễn liệt truyện: 游精神於大宅兮 (thần khí chơi khắp vũ trụ chừ).
Đống lương tài có mấy bằng mày, Nhà cả đòi phen chống khoẻ thay. (Tùng 219.2).
Trong bài thơ, rõ ràng là cả đống lương (phẩm chất kẻ trượng phu) và nhà cả đều được dùng với nghĩa bóng. Không có chuyện gỗ tùng có thể chống nhà lớn. Vì nếu đã làm cột thì lấy đâu cội rễ bền, còn dâu “nhuốm tuyết sương”. Tác giả đem đến cho ta một hình ảnh tùng trực diện giữa trời đất thiên nhiên và một biểu tượng về đại trượng phu tùng trong ngầm ý so sánh với chính phẩm cách mình, tâm trạng mình [Nguyễn Hùng Vỹ 2005: 34].
(Trích Nguyễn Trãi Quốc âm từ điển)
Nhân đây xin đăng lại toàn văn bài của Nguyễn Hùng Vỹ.
Hai chữ NHÀ CẢ trong bài thơ “Tùng” của Nguyễn Trãi
Nguyễn Hùng Vĩ
“Tùng” là một bài thơ hay nằm trong di cảo thơ Nguyễn Trãi. Nó không bị lẫn vào các thơ Nôm Lê Thánh Tông, Tao Đàn hay thơ ca thời Lê- Trịnh. Các nhà sưu tập thơ Nguyễn Trãi đều để tâm đến bài thơ này khi phiên âm và chú giải nó. Bùi “Tùng” đã vào sách giáo khoa và được chú thích, bình giảng nhiều lần. Song rất tiếc, có hai chữ trong bài thơ này chưa được hiểu cặn kẽ, thậm chí còn được hiểu sai lệch. Đó là hai chữ “nhà cả” trong câu thơ:
Nhà cả đòi phen chống khỏe thay.
Các tác giả cuốn “Nguyễn Trãi toàn tập” (Nxb.KHXH, 1976) chú thích về hai chữ này: “nhà cả: chữ Hán là đại hạ. Có câu thơ “nhất mộc chi đại hạ” (một cây đỡ tòa nhà). Câu này có ý là mình đã từng đôi phen làm cái việc lớn ấy.
Chúc thích này cung cấp cho ta những thông tin sau:
- Nhà cả là dịch từ chữ đại hạ.
- Đòi phen được hiểu là “đôi phen”.
- “Tòa nhà lớn” được hiểu là “triều đình”, “đỡ tòa nhà lớn” là làm việc triều đình, làm làm lương đống cho quốc gia.
Có lẽ từ chú giải này, sách giáo khoa dần dần chỉ hiểu rằng cây tùng cây tùng có thể làm rường cột để xây dựng ngôi nhà lớn cũng như người quân tử có thể làm lương đống cho nước nhà.
Trước đây, khi tiếp xúc với văn học Nguyễn Trãi, chúng tôi đã có ý nghi ngờ chú giải cho rằng, gỗ tùng có thể là vật liệu khỏe để xây dựng nhà cửa. Trong quan sát văn hóa truyền thống, ở Việt Nam, hầu như chúng tôi chưa thấy người ta dùng thông làm rường cột chịu lực bao giờ. Gỗ thông mềm, dọc thớ, dễ choác, dễ mục. Ngay cả việc dùng nó làm ván vách trwcs đây cũng cực kỳ hiếm hoi. Như vậy, ắt hẳn hai từ “nhà cả, trong bài thơ không thể hiểu là ngôi nhà lớn, cụ thể như nhiều người vẫn hieur. Nguyễn Trãi khi sáng tạo ra bài thơ này đã không dùng với nghĩa đó.
Trong Quốc âm thi tập , chúng tôi thấy tất cả các kết cấu có gắn liền với từ cả đều có dấu ấn của sự chuyển dịch từ những ẩn ngữ Hán. Ví dụ như:
- Liêm cần tiết cả (đại tiết) tua hằng nắm.
- Ẩn cả (đại ẩn) lọ chi thành thị nữa.
- Người xưa ẩn cả lọ lâm tuyền.
- Tự nhiên cả muốn (đại dục) chúng suy nhường.
- Kìa ai cây cả (đại thụ) nhàn ngồi tựa.
- Hằng lấy đạo trung làm nghĩa cả (đại nghĩa).
- Cả lòng (đại lượng) mượn lấy đắp hơi cùng.
- Tài đống lương cao ắt cả dùng (đại dụng).
Tất cả các từ trên đều được các từ điển và các chú giải thơ ca giải thích nghĩa ẩn dujg của nó. Ngay cả trường hợp từ cả đứng một mình trong câu thơ sau:
Nước càng tuôn đến bể càng cả.
Thì cũng gợi ý ta nhớ về thành ngữ quen thuộc “tràng giang đại hải”. Rõ ràng là trong việc xây dựng ngôn ngữ thơ ca, văn học Việt Nam đã tiếp thu tinh hoa một nền văn chương kỳ cựu nhất thế giới, một nền thơ ca giá trị nhất thế giới để làm giàu có cho mình.
Có thể hai từ “nhà cả” trong câu thơ của Nguyễn Trãi là chuyển dịch từ hai từ đại hạ như tác giả NTTT đã chú vì hai từ này có nghĩa bóng rộng hơn là ngôi nhà lớn. Song chúng tôi cho rằng hợp lý hơn cả là Nguyễn Trãi đã chuyển dịch từ hai từ “đại trạch”.
“Trạch” trong từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh giải thích nghĩa là “nhà ở, mồ mả, ở”. Từ nguyên giair thích “đại trạch” nghĩa thứ nhất, phổ biến là “thiên địa”, nghĩa thứ hai là ngôi nhà lớn dành cho các vua chư hầu. Đến đây đọc lại đoạn thơ của bài Tùng ta thấy tác giả đã dùng từ nhà cả rõ ràng với nghĩa “trời đất”, “thiên địa”, “vũ trụ|:
Đống lương tài có mấy bằng mày
Nhà cả đòi phen chống khỏe thay
Cội rẽ bền rời chẳng động.
Tuyết sương đã thấy đặng nhiều ngày.
(Năng lực, phẩm cách làm lương đống có mấy ai bằng được tùng
Bao phen đứng ”chống trời chống đất” vững vàng thay.
Thế mà cội rễ vẫn bền chuyển chẳng hề lay
[Vì đứng giữa đất trời nên] thấy nhiều ngày nhuốm trải tuyết sương).
Trong bài thơ, rõ ràng là cả đống lương (phẩm chất kẻ trượng phu) và nhà cả đều được dùng với nghĩa bóng. Không có chuyenj gỗ tùng có thể chống nhà lớn. Vì nếu đã làm cột thì lấy đâu cội rễ bền, còn dâu “nhuốm tuyết sương”. Tác giả đem đến cho ta một hình ảnh tùng trực diện giữa trời đất thiên nhiên và một biểu tượng về đại trượng phu tùng trong ngầm ý so sánh với chính phẩm cách mình, tâm trạng mình, một con người đâu chỉ ẩn dật, khách lâm tuyền mà còn là một đấng trượng phu như sách Mạnh tử nói: phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất.
Viết đến đây, tôi thoạt nhớ đến câu thơ của Mai Nham Trần Bích San:
Tiếu hàn nhiên hậu tri tùng bách
Nhân bất phong sương vị lão tài.
Saturday, 10 June 2017
Vông mồng gà (Đông A)
Vông mồng gà
いろみえて
うつろふ物は
世中の
人の心の
花にそありける
iro miede
utsurou mono wa
yo no naka no
hito no kokoro no
hana ni zo arikeru
Ono no Komachi
Sắc ngoài không phai
mà vẫn biến đổi
là hoa trong lòng
của người từng trải
ở cõi đời này
うつろふ物は
世中の
人の心の
花にそありける
iro miede
utsurou mono wa
yo no naka no
hito no kokoro no
hana ni zo arikeru
Ono no Komachi
Sắc ngoài không phai
mà vẫn biến đổi
là hoa trong lòng
của người từng trải
ở cõi đời này
Lần đầu tôi thấy cây hoa này ở một con phố nhỏ ở Hà Nội. Tôi không biết cây hoa có tên là gì, hỏi những người bạn đi cùng cũng không ai biết. Về nhà tra Google mới biết là cây vông mồng gà, có tên khoa học là Erythrina crista-galli. Nhìn bức ảnh tôi chụp ở trên, bạn có nhận ra đặc điểm gì đặc biệt của Hà Nội không? Bụi. Bụi bám trên những chiếc lá. Hà Nội của tôi bụi bặm, đông đúc và ồn ào. Không gian ngột ngạt, chỉ còn những chùm hoa như những ngọn lửa trên cây, như phương Tây gọi cây là cây bông lửa (flame tree), và không biết đến bao giờ chúng mới bùng cháy cả Hà Nội này, và tôi chợt nhớ tới bài thơ của Akhmatova mà tôi đã từng dịch:
... Và tôi cảm thấy những ngọn lửa cháy rực
Bốc cùng tôi cho tới tận rạng đông
Và tôi vẫn chưa làm sao dò ra được
Chúng màu gì, những con mắt đó lạ lùng
Tất cả vừa run run vừa ca hát bốn phương
Lẫn cả tôi không nhận ra, ngươi kẻ thù hay bè bạn
Và mùa đông hay mùa hạ ở đây.
Bốc cùng tôi cho tới tận rạng đông
Và tôi vẫn chưa làm sao dò ra được
Chúng màu gì, những con mắt đó lạ lùng
Tất cả vừa run run vừa ca hát bốn phương
Lẫn cả tôi không nhận ra, ngươi kẻ thù hay bè bạn
Và mùa đông hay mùa hạ ở đây.
Thiết mộc lan (Đông A)
Thiết mộc lan
夜の蘭 香にかくれてや 花白し
yoru no ran ka ni kakurete ya hana shiroshi
Buson
Dạ lan
trong mùi hương ẩn giấu
màu hoa trắng
yoru no ran ka ni kakurete ya hana shiroshi
Buson
Dạ lan
trong mùi hương ẩn giấu
màu hoa trắng
Bài haiku của Buson viết về một loài hoa lan nở trong đêm. Trong bóng đêm chúng ta không nhìn thấy sắc hoa nhưng ngửi thấy hương hoa, cứ như là cây giấu hoa của mình trong mùi hương. Hương vị che giấu màu sắc là một cảm nhận rất vi tế.
Thiết mộc lan có tên khoa học là Dracaena fragrans, không phải là một loài hoa lan. Hoa của thiết mộc lan cũng nở vào buổi tối và hương cũng rất thơm. Thiết mộc lan rất dễ trồng và rất dễ sống. Đây cũng là loại cây có tác dụng lọc formaldehyde trong không khí, và theo nghiên cứu của NASA là một trong top 10 loài cây lọc không khí tốt nhất, và như vậy rất có ích trồng ở trong nhà.
Xích đồng (Đông A)
Xích đồng
桐の花咲くや都の古屋敷
Kiri no hana saku ya miyako no furuyashiki
Shiki
Hoa đồng nở
ngôi nhà cổ kinh đô
bày ra
Kiri no hana saku ya miyako no furuyashiki
Shiki
Hoa đồng nở
ngôi nhà cổ kinh đô
bày ra
Cây xích đồng (hay mò đỏ) có tên khoa học là Clerodendrum japonicum. Tên gọi xích đồng khá thống nhất với tên gọi trinh đồng của người Trung Quốc và phi đồng (higiri) của người Nhật Bản [xích, trinh, phi đều có nghĩa là màu đỏ]. Tuy cũng gọi là "đồng" nhưng cây không có liên quan với cây ngô đồng mùa thu lá rụng. Bài haiku của Shiki nói về cây ngô đồng.
Trúc Nhật (Đông A)
Trúc Nhật
稲妻にこぼるる音や竹の露
inazuma ni koboruru ota ya take no tsuyu
Buson
Trong tia chớp
tiếng rơi khắp
những giọt sương lá trúc
inazuma ni koboruru ota ya take no tsuyu
Buson
Trong tia chớp
tiếng rơi khắp
những giọt sương lá trúc
Tia chớp lóe lên nhưng không nghe thấy tiếng sấm, mà nghe thấy tiếng những giọt nước rơi khắp trên cây trúc, nhìn ra thì lại là những giọt sương. Trong ánh chớp đấy, những giọt nước mưa trên lá trúc trông giống như những giọt sương, long lanh, tròn trịa, nhưng lại khác những giọt sương ở chỗ chúng tạo ra âm thanh, như một hệ quả của tia chớp.
Cây trúc Nhật có tên khoa học là Dracaena surculosa. Cái tên trúc Nhật là một cách gọi tùy tiện của dân gian, kiểu cũng giống như trúc Pháp, lan Ý. Những cây này hoàn toàn không có nguồn gốc riêng biệt từ Nhật, Pháp hay Ý. Tuy gọi là trúc, chi Dracaena không có liên quan gì tới tre trúc. Trái lại, cây trúc Nhật khá gần gũi với thiết mộc lan hay cây phất lộc (phát lộc, Dracaena sanderiana). Người Việt còn gọi cây trúc Nhật là trúc Quan Âm, trong khi đấy người Trung Quốc, Nhật Bản gọi cây trúc Quan Âm là cây trúc mây. Người Nhật gọi cây trúc Nhật là tinh thiên niên mộc, còn người Trung Quốc gọi là du điểm mộc, cho thấy cả người Nhật lẫn người Trung Quốc đều không coi cây trúc Nhật thuộc loại tre trúc. Vì cây trúc Nhật thuộc chi Dracaena nên hoa của nó hoàn toàn không giống hoa tre trúc cũng như hoa cau, cọ. Chúng nghiêng về phía thiết mộc lan.
Subscribe to:
Posts (Atom)