Sunday 7 October 2012

TỪ ĐÂU NGƯỜI MÌNH KÊU NGƯỜI TÀU BẰNG "CHỆT" (Phan Khôi)


Người Việt Nam ta thường kêu người Trung Huê bằng người Tàu, người Khách, lại cũng kêu bằng Khách ngô, Khách trú, các chú;  những danh từ ấy đều có lai lịch, đều có thể cắt nghĩa cho thông được hết. Duy có tiếng "Chệt" hay "Chiệt"  ngoài Bắc nói Chiệc  người mình cũng có dùng mà kêu họ nữa, tiếng nầy thì chẳng biết từ đâu ra, có nghĩa chi.
Có người nói rằng chữ Chệt hay Chiệt đó có lẽ do chữ Chiết mà ra. Bên Tàu có tỉnh Chiết Giang, từ xưa người tỉnh ấy hay sang xứ ta, nên ta kêu người Chiết mà trại ra thành Chiệt hay Chệt.
Đó là nói ức chừng, chẳng có dựa vào bằng chứng đâu cả. Mà cứ theo sự thiệt lại không đúng. Vì tỉnh Chiết Giang ở gần Thượng Hải, về miền bắc Trung Huê, người tỉnh ấy ít có qua xứ ta lắm; người Tàu sang xứ ta nhiều nhứt là người hai tỉnh Quảng Đông và Phước Kiến, vậy nếu ta có lấy tên tỉnh mà kêu chung người Trung Quốc thì sao không lấy tên hai tỉnh nầy mà lại lấy tên Chiết Giang?
Ngoài cái thuyết ức chừng mà không có thể nghe được ấy, chưa thấy ai giải thêm một nghĩa nào khác.
Tôi đọc bộ sách Đông Dương sử, thấy có một chỗ nói về cái tên người Tây dùng mà kêu người Tàu đời xưa, thì tôi sực nhớ lại chữ "Chệt" hay chữ "Chiệt" ấy, dường như hai đằng có quan hệ với nhau thì phải. Tôi bèn viết ra đây cho nhà sử học dựa đó mà nghiên cứu, nếu lời tôi có ít nhiều giá trị.
Tôi phỏng định rằng tiếng "Chệt" hay "Chiệt" ấy là do tiếng Tây mà ra. Nói rằng "tiếng Tây" là chỉ về tiếng của một nước trong cõi Âu châu, không biết rõ nước nào, có lẽ là nước La Mã.
Sách Đông Dương sử nói rằng: Về thời đợi La Mã đế quốc thì những hàng tơ lụa Trung Huê, đã đem bán bên Âu châu. Người Tây kêu thứ hàng tơ lụa ấy bằng "Serge"; nhơn đó họ kêu đất Trung Huê là "Serica" và người Trung Huê là "Seres".
Trong chữ "Serge" đó, phần nửa trên (ser là do chữ "tăng nhi" ( 繒 兒 ) của Tàu mà ra; phần nửa dưới (ge) là cái ngữ vĩ (terminaison) của Tây thêm vào. Còn "Serica" nghĩa là xứ đất sanh sản ra thứ "ser" ấy.
(Tiếng Pháp bây giờ cũng có chữ "Serge" để kêu một thứ hàng dệt, song hàng nầy bằng lông không phải tơ).
Nếu vậy thì đời xưa vào khoảng trước và sau Giáng sanh, người phương Tây kêu người Trung Huê là "Seres" chớ không phải bằng "Chinois" như bây giờ. Chữ "Seres" ấy mà đọc mau thì gần như "xẹt" của tiếng ta, và "xẹt" thì có thể chuyển sang "Chệt" hay "Chiệt" dễ lắm.
Lại tại làm sao mà chữ "Seres" của Tây dùng mà kêu người Tàu đó lại truyền sang xứ ta được? Cũng theo Đông Dương sử, có chép những sự tích như vầy:
Năm 162 sau Giáng sanh, người La Mã chiếm được miếng đất của Vịnh Ba Tư, bèn do đó đi vòng Ấn Độ Dương thẳng đến Trung Quốc hải. Vị sứ thần của La Mã sai qua đó đi đã mấy năm mới đến Giao Chỉ. Theo như sách Hán thơ chép, thì năm thứ chín hiệu Diên Hy, đời vua Hán Hoàn đế, vua nước Đại Tần sai sứ đến Nhựt Nam dâng những ngà voi, u tây và đồi mồi. Âu châu với Á châu mà giao thông với nhau do đường biển, là bắt đầu từ đó (Đại Tần tức là La Mã).
Sau đó vào đời Tam Quốc, năm thứ 5 hiệu Hoàng Võ nhà Ngô (227), cũng có người lái buôn nước Đại Tần đến Giao Chỉ.
Coi đó thì đời xưa người Tây người Tàu giao thông với nhau là lấy nước ta làm đường đi băng. Bởi vì, cứ như sử chép đó, Giao Chỉ tức là đất thuộc về Bắc kỳ ta bây giờ, còn Nhựt Nam tức là đất thuộc về Trung kỳ ta bây giờ, vào đâu đỗi Quảng Nam và Huế; mà đời bấy giờ nước ta làm thuộc địa Tàu, cho nên Tàu với Tây cứ việc tự do lấy các phụ đầu(*) của ta làm chỗ giao thông, khỏi phải nạp món thuế kinh quá lôi thôi như bây giờ vậy.
Người Tây đời bấy giờ đã do đất ta mà giao thông với Tàu, và bấy giờ họ lại kêu người Tàu bằng "Seres", vậy thì trong khi họ lưu trú ở đây, ta cũng bắt chước tiếng của họ mà kêu người Tàu bằng "Xẹt", rồi lâu ngày trại bẹ, thành ra "Chệt", là sự có   thể lắm.
Nếu quả vậy thì tiếng "Chệt" của ta có lâu lắm, có gần hai ngàn năm nay; mà trong khi kêu "Chệt", cũng chẳng có ý gì khinh bỉ người Tàu đâu.(**)
PHAN KHÔI
Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s. 182 (22. 12. 1932)


 

(*)  Phụ đầu埠 頭  nơi bến sông, bến biển, tàu thuyền buôn bán đến đậu đông (port de commerce) (Đào Duy Anh, sđd.)
(**)  ý của bài này, tác giả đã nêu ở một bài trong mục Độc thư tùy bút trên báo Phổ thông (Hà Nội, 5 và 6.10.1930)


 
© Copyright Lại Nguyên Ân

Về địa danh Sài Gòn [tiếp theo] An Chi / Huệ Thiên - Năng Lượng Mới số 156 ,21-9-2012).


Năm 1778 những người Tàu sống sót của BNL mới bỏ Nông Nại đại phố chạy xuống phía dưới để lập ra thành phố Thầy Ngòn còn địa danh Sài Gòn đã tồn tại từ năm 1674 thì lúc đó người Việt lấy đâu ra “Thầy Ngồl” mà Việt hoá nó thành Sài Gòn”?
3.Sài Gòn và Sài Gọng.– BNL viết:
“Trong một quyển sách nhỏ, nhan là “Cantonese Speaking Students” do California State Department of Education xuất bản, soạn giả cho biết rằng trong tỉnh Quảng Đông có đến sáu phương âm khác nhau. Mỗi phương âm ăn khớp vào với một vùng đất của tỉnh ấy, và có một vùng đất kia tên là Sài Gọng (có G cuối). Sách nói trên là sách tiếng Anh, nhưng có chua chữ Tàu. Sài Gọng được chua là Tây Giang (……..)
“Cái điều mà ta cần biết là đã được biết, đó là nguồn gốc của địa danh Sài Gòn (không G cuối). Sài Gòn do Sài Gòng mà ra, và đó là tiếng Tàu, không bị Việt hóa theo cái lối chữ nho, mặc dầu văn tự đã bị đọc sai ra là Tây Giang (……)
“Thuyết của tôi là như thế nầy. Cái tên đầu tiên mà người Tàu đặt ra cho cái thành phố mà nay ta gọi Chợ Lớn, không phải là Đề Ngạn mà là Sài Gòng. Tại sao họ lại đặt như vậy? Là tại họ là người Quảng Đông gốc Sài Gòng (bên Tàu). Lối đặt tên đó giúp cho họ nhớ quê hương của họ.”    
Ở trên, chúng tôi có mạn phép nói rằng BNL không phải là một nhà ngữ học. Ấy là còn nói theo uyển ngữ chứ thực ra thì về mặt này ông rất tài tử. Chúng tôi hoàn toàn không tin ở những điều BNL đã nói trên đây. Ngay cái tên sách, ông cũng đã rút ngắn nó một cách tuỳ tiện. Cái quyển sách nhỏ do California State Department of Education xuất bản mà ông gọi là “Cantonese Speaking Students” thực ra là A Handbook for teaching Cantonese-speaking students (Sổ tay [dùng] cho việc giảng dạy sinh viên [là người] nói tiếng Quảng Đông). Đây là một quyển sách liên quan đến giáo dục và giáo học pháp. Chứ cái tên “Cantonese Speaking Students” mà ông đưa ra thì có nghĩa là “Sinh viên [là người] nói tiếng Quảng Đông”. Khác nhau một trời một vực. Còn trong quyển Nguồn gốc Mã lai của dân tộc Việt Nam (Bách Bộc xuất bản, không đề năm), khi nói về ngôn ngữ của các tộc người Thượng ở Trung Bộ Việt Nam, BNL viết: “Cái hội bác học của Mỹ, hội Summer Institute of Linguistic (sic) ở Saigon, cũng chỉ nhại lại các sách xuyên tạc của Pháp khi họ xuất bản quyển A Study of Middle Vietnamese Phonology tại Saigon.” Quyển này là của Kenneth Gregerson, trong đó tác giả đã khảo sát về âm vị của tiếng Việt thời trung đại (Middle Vietnamese). Nhưng BNL thì cứ ngỡ Middle ở đây dùng để chỉ Trung Bộ Việt Nam! Phải nói thẳng ra là kiến thức ngữ học của ông nhiều chỗ rất lơ mơ. Rồi như Tây Giang mà ông cho là tên của một vùng đất bên tỉnh Quảng Đông thì chúng tôi không tìm thấy. CònTrung Quốc địa danh từ nguyên của Giả Văn Dục 賈文毓 và Lý Dẫn 李引 (Hoa Hạ xuất bản xã, Bắc Kinh, 2005) thì cho biết rằng đây là một thị trấn ở phía Bắc huyện Lôi Sơn, tỉnh Quý Châu trên bờ sông Tây Giang 西江, lấy tên của con sông này làm tên. Đây là nơi ở tập trung điển hình của người Miêu (Hmong) bên Tàu, được mệnh danh là Thiên hộ Miêu trại 千户苗寨 (Trấn [trại] nghìn nhà của người Miêu) cho nên có câu “Khán Lôi Sơn Tây Giang, Tri thiên hạ Miêu tộc” ( Xem thị trấn Tây Giang ở Lôi Sơn thì biết được về người Miêu trong thiên hạ). Cái âm “Sài Gọng”(?) mà BNL đưa ra và khẳng định là thuộc một phương âm của tiếng Quảng Đông, chúng tôi sợ rằng đó chính là tiếng … Miêu! Vả lại, ta cũng còn chưa có thể yên tâm về sự ghi nhận và sự tường thuật của BNL vì nhiều khi ông còn tuỳ tiện, tuỳ hứng nữa.
Nhưng cứ cho rằng BNL đã tuyệt đối chính xác trong sự ghi nhận và sự tường thuật thì Sài Gọng chỉ có thể cho ra Sài Gọng chứ không phải Sài Gòn. Chuyện này hoàn toàn dễ thấy vì đây là trường hợp mà âm Quảng Đông tuyệt đối ăn khớp với âm của tiếng Việt ở Nam Bộ. Sài Gọng mà cho ra Sài Gòn mới là chuyện thực sự nghịch lý. Tại sao ư? Thưa rằng tiếng Việt ở Nam Bộ không có vần -ON [ɔn]; vần này luôn luôn bị người Nam Bộ phát âm thành -OONG [ɔ:ŋ]. Vì vậy cho nên nói rằng GỌNG (hoặc GÒNG?) của Tàu Quảng Đông trở thành GÒN [ɣɔ:n2] trong tiếng Việt ở Nam Bộ là một điều thậm vô lý. Dân Nam Bộ chánh cống chỉ có thể phát âm chữ này thành GOÒNG [ɣɔ:ŋ2]  mà thôi. Nếu BNL thực sự đúng thì ngay từ đầu, Hòn Ngọc Viễn Đông đã là SÀI GOÒNG [sa:j2 ɣɔ:ŋ2] chứ không phải SÀI GÒN [sa:j2ɣɔ:n2]. Đây là một điều dứt khoát.
4. “Chợ Sài Gòn” trên bản đồ Trần Văn Học 1815.– Bản đồ “Gia Định tỉnh” do Trần Văn Học vẽ năm 1815, mà bạn đã khoanh tròn địa điểm “Chợ Sài Gòn” bằng màu đỏ để gửi đến , thực ra đã được in trong Địa chí văn hoá Thành phố Hố Chí Minh, t.1 (Nxb TPHCM, 1987, tr. 229). Ở đây, chúng tôi chỉ in lại phần thể hiện “Chợ Sài Gòn”, mà trung tâm, theo đoán định của chúng tôi, nằm trong chu vi hiện nay của bốn con đường: Nguyễn Tri Phương (thời Pháp là Lacaze [dân chúng phát âm thành La-cai]) – Trần Hưng Đạo B (bấy giờ còn là một con kênh nhỏ) – Châu Văn Liêm (thời Pháp là đại lộ Tổng đốc Phương) – Nguyễn Trãi (thời Pháp là đường Cây Mai). Người thêm chữ quốc ngữ đã ghi chú địa điểm cần đánh dấu bằng danh ngữ “Chợ Sài Gòn” là đã thu hẹp phạm vi (diện tích), chứ nguyên văn trong bản đồ 1815 là danh ngữ tiếng Hán 柴棍處 “Sài Gòn xứ”, trong đó “xứ” là danh từ trung tâm (bị định ngữ) còn định ngữ là địa danh “Sài Gòn”, viết bằng hai chữ Nôm 柴棍, mà nhiều người, trong đó, tiếc thay, có cả học giả danh tiếng, từ lâu đời, cứ ngộ nhận là chữ Hán, nên đã đọc thành … “Sài Côn”! Thì cũng giống như “ville de Bien Hoa”, “province de Gia Dinh”, v.v., là những cấu trúc tiếng Pháp hẳn hoi nhưng trong đó Bien Hoa, Gia Dinh là những địa danh Việt Nam (Biên Hoà, Gia Định).
Trong bài đã nói trên Kiến thức Ngày nay số 36, vì chịu ảnh hưởng của một vị học giả về sự tồn tại song song của mỹ danh (hoặc tên chữ) và tục danh (hoặc tên Nôm), nên chúng tôi cũng đã chủ trương một cách ngu dốt rằng Sài Côn là tên chữ còn Sài Gòn là tên Nôm của Prei Nokor. Không, chẳng làm gì có “tên chữ” trong trường hợp này. “Sài Gòn xứ” là cách đọc duy nhất đúng cho ba chữ 柴棍處 trên bản đồ Gia Định 1815 của Trần Văn Học. Và Sài Côn xứ là “vùng Sài Gòn”, trong đó có chợ Sài Gòn. Đây là một khái niệm và một địa bàn rộng lớn hơn cái địa điểm ghi bằng chữ quốc ngữ “Chợ Sài Gòn”. Trong tỉnh Gia Định hồi thập kỷ 1810 thì ngôi chợ nằm ở vùng Sài Gòn – nên được gọi là “chợ Sài Gòn” – là một chợ lớn, nếu không phải là lớn nhất. Cho nên ta sẽ không lấy làm lạ nếu thấy Trịnh Hoài Đức gọi nó bằng hai chữ “đại nhai” 大街, mà âm Quảng Đông là “tài cái”. Họ Trịnh ít nhiều có chịu ảnh hưởng của tiếng Quảng Đông về mặt từ ngữ. Trong tiếng Quảng Đông thì chợ là “cái xị” 街市(nhai thị). “Tài cái xị” 大街市(đại nhai thị) là chợ lớn. Hai tiếng “đại nhai” tuy có nghĩa gốc là đường lớn nhưng trongGia Định thành thông chí thì Trịnh Hoài Đức đã dùng nó thay cho danh ngữ “đại nhai thị”. Vì vậy nên “đại nhai” ở đây có nghĩa là “chợ lớn”. Và vì Sài Gòn là một chợ lớn (so với hầu hết những cái chợ khác) nên dân chúng thường quen miệng chỉ Sài Gòn bằng hai tiếng “chợ lớn”, rồi dần dần “chết tên”. Chợ Lớn trở thành một địa danh.
Chúng tôi nghĩ rằng bài này chưa giải quyết hết mọi vấn đề mà bạn muốn chúng tôi làm sáng tỏ nhưng do khuôn khổ có hạn nên xin chờ một dịp khác để có thể nói thêm.
Nguồn: Facebook An Chi)

Saturday 6 October 2012

Nghĩa gốc của đa trong cây đa là nhiều (Năng Lượng Mới số 18 , 12-5-2001)


Bạn đọc : Có người nói đa trong cây đacây đề là một từ gốc Hán nhưng có người lại nghi đó là một từ gốc Sanskrit (vì liên quan đến đạo Phật). Xin ông vui lòng cho biết thực hư ra sao. (Nguyễn Trung Sơn).
An Chi : Trước nhất, xin nói rằng cây đa còn có một cái tên xưa hơn nữa là dong, một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 榕, mà âm Hán Việt hiện đại là dung. Chữ này đã được Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng (Sài Gòn, 1975) giảng là: “Tên một loài cây cực lớn, tàn cây rất rộng, bóng cây che được cả ngàn người.” Cứ như lời giảng này mà lại đặt vào nội dung của các Phật thoại, không khéo có người sẽ ngỡ rằng dung (> dong) là một giống cây huyền thoại, trong khi nó là một giống cây có thực: Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh đã đối dịch chữ dung 榕 một cách chính xác và cực gọn là “cây đa”. Đa là một giống cây có thể phát triển đến mức siêu khổng lồ mà toàn bộ cành, nhánh, rễ có thể chiếm đến mấy héc-ta. Cây đa lớn nhất còn sống tại Pune (Ấn Độ) có đường kính tán tới 800 m xung quanh thân chính của nó.
 Về nghĩa đã như thế còn về âm thì ta có hàng loạt trường hợp tương tự cho nên bất tất phải hoài nghi : bao dung – bao dong ; dung mạo – dong mạo ; hình dung – hình dong ; thung dung – thong dong ; v.v..
Nói dong xưa hơn đa là hoàn toàn có lý do. Ta cứ giở Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa ra thì sẽ thấy. Đây là một loại từ vựng giảng Hán bằng Nôm theo một trong hai nguyên tắc : hoặc đối dịch (bằng Nôm) kèm theo miêu tả ngắn gọn, hoặc giữ nguyên chữ cần dịch kèm theo miêu tả, nếu đây là một chữ có thể dùng như Nôm. Đoạn hữu quan dưới đây trích từ thiên “Mộc loại, Đệ tam thập ngũ” :
 Ngô đồng tạc rối cây vông,
Lá thu lác đác bay không đã vàng.
Cổ dung cây cả giữa đường,
Vô hoa hữu quả rễ cùng chồi ngay.”
Hai liên lục bát này mỗi liên là một mục từ : mục trước là “ngô đồng” được đối dịch là “(cây) vông”; mục sau là “cổ dung”, không có đối dịch vì thời đó, dung đang là một từ thông dụng và không có từ Nôm đồng nghĩa. Nếu lúc bấy giờ danh từ đa xuất hiện rồi thì nó đã được dùng để dịch dung theo nguyên tắc thứ nhất. “Ngọc âm giải nghĩa” mà lại!
Vậy thì chữ đa này bắt nguồn từ đâu? Có người đã có sáng kiến cưỡng duyên nó với chữ đa trong đa la, thậm chí bối đa la nữa! Ép dầu, ép mỡ; ai nỡ ép … âm! Đó là còn chưa nói đến chuyện rắc rối là cảđa la và bối đa la thực chất là hai từ khác nhau nhưng từ trước lại đồng âm với hai âm tiết sau của từ sau. Nếu truy nguyên cho thật chặt chẽ và chính xác thì đa la 多羅 vốn là hai chữ Hán dùng để phiên âm danh từ tāla của tiếng Sanskrit; còn bối đa la 貝多羅 thì để phiên âm (cũng của thứ tiếng này) danh từ pattraDictionnaire sanskrit-français của N. Stchoupak, L. Nitti. L. Renou dịch tāla là palmier à vin, borasse éventail. A Sanskrit English Dictionary của M. Monier-Williams (Delhi, 1999) cho một lời dịch tương tự với quyển từ điển trên: the palmyra tree or fan-palm (Borassus Flabelliformis, producing a sort of spirituous liquor […]). Ta có thể nghĩ rằng đây là cây thốt nốt. Quả nhiên, Sổ tay tra cứu danh pháp khoa học của KS Nguyễn Đại Hương – KS Lê Thị Thuỳ Trang (Nxb Trẻ, 2002) đã dịch cho taBorassus Flabelliformis là “thốt nốt”.
Còn pattra thì sao? Thì chỉ đơn giản có nghĩa là lá (cây), cánh (hoa, chim); ở đây là lá làm nền để viết chữ lên đó. Thứ lá hữu quan ở đây chính là lá thốt nốt, trên đó người ta chép kinh Phật. Vì vậy nên mới có danh từ ghép tāla-pattra, nghĩa là lá thốt nốt, mà nếu phiên âm sang tiếng Hán, thì sẽ là đa la bối đa la 多羅貝多羅. Rắc rối là ở chỗ hai tiếng đa la trước chẳng có liên quan gì về nghĩa với hai tiếng đa la của từ sau nhưng lại đồng âm trong nhiều ngữ cảnh của kinh Phật nên dễ sinh ra nhầm lẫn.
                Cứ như trên thì đa trong cây đa chẳng có liên quan gì đến đa trước hoặc đa sau trong cụmđa la bối đa la. Nhưng nó có trực tiếp liên quan gì đến tiếng Sanskrit hay không? Ta thử xét xem. Thứ tiếng này có hai từ để chỉ cây đa là nyag-rodha và vaa. Từ ghép nyag-rodha có nghĩa gốc là “cây mọc (rodha) ngược (nyag)”. Từ này được phiên sang tiếng Hán thành ni-câu-đà 尼拘陀 hoặc nhiều cách khác (ni-câu-luật-đàni-cồ-đàni-câu-lô-đàni-câu-loại-đàni-câu-lâu-đà) nhưng âm tiết cuối đều là “đà” (nên khác đa). Còn vaa thì, theo nguyên tắc và truyền thống phiên âm từ Sanskrit sang Hán, phải là bà đa 婆多, nhưng không thấy dùng trong văn chương Phật giáo, để chỉ cây đa.
Vậy, rốt cục thì ta có thể tìm từ nguyên của danh từ (cây) đa ở đâu? Thưa đó là với danh ngữ đa căn thụ 多根樹, cây nhiều rễ, một hình thức dân dã mà văn chương Phật giáo dùng để mô tả và gọi tên cây đa một cách súc tích nhất có thể có. Chính là với danh ngữ dân dã này mà người ta đã dịch tên ngôi vườn Nyagrodharama gần thành Ca-tì-la là Đa căn thụ viên/多根樹園 (Vườn Đa), trong khi hình thức bác học là Ni-câu-đà viên 尼拘陀園.Vậy đa căn thụ hiển nhiên là cây đa. Nhưng vào đến tiếng Việt thì danh ngữ này dần dần được rút ngắn để chỉ còn giữ lại có âm đa, là âm tiết, cũng là hình vị, cũng là từ, diễn đạt sinh động nhất đặc trưng của cây đa.

Wednesday 3 October 2012

Pháp có phim cấp 3 không?


Từ năm 1988 luật pháp Hồng Kông bắt buộc tất cả phim ảnh đều phải được cơ quan quản lý ngành truyền hình và giải trí kiểm tra phân loại và vé vào rạp phải in rõ loại phim để tránh việc khán giả nhỏ tuổi xem phải loại phim không phù hợp. Hệ thống phân loại của Hồng Kông có ba cấp; về sau có điều chỉnh chút đỉnh trong nội bộ của cấp thứ hai, nhưng về căn bản vẫn là ba cấp với cấp cao nhất (vẫn gọi là category III - cấp 3) là những bộ phim cấm khán giả dưới 18 tuổi.
Ở Việt Nam người trên 18 tuổi cũng không được xem các phim cấm trẻ em Hồng Kông dưới 18 tuổi. Khái niệm phim cấp 3 dần dần được mở rộng để chỉ tất cả các loại phim cấm bất kể nguồn gốc. Do đó mà có chuyện rủ nhau tải những bộ phim cấp 3 của Pháp, Mỹ, Nga... mặc dù các nước đó áp dụng những hệ thống phân loại và ký hiệu khác. Ở Pháp chẳng hạn, theo điều III sắc lệnh số 90-174 ngày 23/2/1990 có 5 loại phim:
- tous publics: ai xem cũng được, khỏi cần ai coi chừng;
- avertissement: ai xem cũng được nhưng người lớn dòm chừng một chút vẫn tốt hơn;
- interdit aux moins de 12 ans: cấm khán giả dưới 12 tuổi;
- interdit aux moins de 16 ans: cấm khán giả dưới 16 tuổi (gồm phần lớn các phim khiêu dâm nhẹ, tiếng Pháp là film érotique hay porno soft, với đội ngũ diễn viên trong trang phục của Adam và Eva, chỉ được phép gợi tả chứ không được đặc tả cơ quan sinh dục và cảnh giao hợp)
- interdit aux moins de 18 ans non classé X: không phải phim X nhưng vẫn cấm khán giả dưới 18 tuổi;
- interdit aux moins de 18 ans et classé X: phim X, cấm khán giả dưới 18 tuổi;
Như vậy đối với người Việt, phim cấm trẻ em Pháp dưới 16 tuổi đã là phim cấp 3 rồi.
Tưởng cũng nên nhắc lại rằng bộ phim L’amant sản xuất năm 1992 dựa theo tác phẩm cùng tên của Marguerite Duras, ở Pháp được xếp loại cấm trẻ em dưới 12 tuổi, nhưng khi được trình chiếu ở Việt Nam cho một số đối tượng rất hạn chế cũng bị cắt gần như toàn bộ các cảnh nóng. Trước đó báo chí Việt Nam dịch lại báo chí ngoại quốc, không ngớt lời bàn, nào là “khán giả đến nghẹt thở những cảnh quay táo bạo của cô đào Jane March và Lương Gia Huy”, nào là “cảnh quay công phu và nhiều hiệu ứng kỹ thuật” .... Rốt cục ai nấy đều bị tẽn, từ người xem đến anh nhà báo. Năm 1996 tôi sang Pháp, thấy ti vi chiếu L’amant, không muốn coi lại vì nghĩ phim không hay bằng tiểu thuyết. Đến chừng coi xong mới hiểu là chẳng những mình bị mấy ông kiểm duyệt bên nhà lừa bịp đã đành mà còn tội nghiệp cho lao động nghệ thuật bị các ông ấy coi là độc hại, cắt xén lam nham khiến cho tác phẩm trở nên tẻ nhạt, vô vị. Nhưng đâu còn cách nào khác, nếu không muốn thảy bộ phim đó vào sọt phim cấp 3? Trên thực tế, người ở Việt Nam hiện nay muốn coi nguyên bản phim L’amant chỉ có một cách là ghé vào các trang web dành cho phim cấp 3.

Monday 1 October 2012

Do đâu có tên cây xa mu?


Cây xa mu (tên khoa học của cây là Cunninghamia lanceolata) còn được gọi  là sa mu, sa mộc, sà mu, sa múc, thông mụ, co may (Dao), long len, thông Tàu. Tên tiếng Pháp là sapin de Chine (dịch nghĩa là lãnh sam Trung Hoa) và samou hoặc cha-mou (rõ ràng là phiên âm của杉木, sam mộc). Có lẽ cũng như trường hợp từ pơ mu, người Việt mượn từ xa mu qua tiếng Pháp hay qua tiếp xúc với tiếng Hán ở miền Nam Trung Hoa. Chưa rõ thứ tự xuất hiện các tên gọi khác nhau của cây nên chưa thể xác định chắc chắn lai lịch của từng tên một.

Sunday 30 September 2012

TÊN GỌI SAIGON TỪ ĐÂU ? (Hồ Đình Vũ)




Đây là một đề tài được các nhà nghiên cứu, học giả, Tây lẫn Ta, tốn rất nhiều thì giờ và công sức. Cho đến nay thì có khoảng 5 giả thuyết về xuất xứ của chữ Sài Gòn, trong đó có 3 thuộc loại quan trọng hơn. Xin ghi lại 3 thuyết quan trọng hơn dưới đây:
Sài Gòn từ Thầy Ngòn (Đề Ngạn), Xi- Coón (Tây Cống)
Đây là thuyết được đưa ra bởi 2 tay thực dân Pháp là Aubaret và Francis Garnier (người bị giặc Cờ Đen phục kích chết). Theo Aubaret, Histoire et description de la Basse-Cochinchine và Garnier, Cholen, thì người Tàu ở miền Nam, sau khi bị Tây Sơn tàn sát, đã lập nên thành phố Chợ Lớn vào năm 1778 và đặt tên cho thành phố đó là Tai-ngon hay Ti-ngan. Sau đó, người Việt bắt chước gọi theo và phát âm thành Sài Gòn.
Thuyết này được hai học giả là Vương Hồng Sển và Thái Văn Kiểm đồng ý. Quả thật, trên phương diện ngữ âm, thì Thầy Ngòn, Xi Coón, rất giống Sài Gòn! Tuy nhiên, theo lịch sử thì không phải.
Tại sao ? Vì lịch sử chứng minh rằng Saigon có trước, rồi người Tàu mới đọc theo và đọc trại ra thành Thầy Ngòn, Xi Coọn.
Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776, năm 1674 Thống Suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vở "Luỹ Sài Gòn"(theo Hán-Việt viết là "Sài Côn"). Đây là lần đầu tiên chữ Sài Gòn xuất hiện trong tài liệu sử sách Việt Nam . Vì thiếu chữ viết nên chữ Hán "Côn" được dùng thế cho "Gòn". Nếu đọc theo Nôm là "Gòn", còn không biết đó là Nôm mà đọc theo chữ Hán thì là "Côn".
Như vậy, ngay từ năm 1674 đã có địa danh Saigon! Thì làm gì phải đợi đến 1778 khi người Tàu ở Cù Lao Phố bị Tây Sơn tiêu diệt rồi chạy xuống lập nên Thầy Ngòn tức Đề Ngạn, hay Xi Coón tức Tây Cổng.
Sài Gòn từ Củi Gòn, Cây Gòn, Prey Kor.
Thuyết này được Petrus Trương Vĩnh Ký đưa ra dựa theo sự "nghe nói" như sau :
"Sài là mượn tiếng viết theo chữ Hán có nghĩa là củi gỗ; Gòn là tiếng Nam chỉ bông gòn .Người ta nói rằng tên đó phát sinh bởi sự kiện nhiều cây bông gòn do người Cao Miên đã trồng chung quanh đồn đất xưa của họ, mà dấu vết nay vẫn còn ở chùa Cây Mai và các vùng lân cận".
Pétrus-Trương Vĩnh Ký- Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs, trong Excursions et Reconnaissance X. Saigon , Imprimerie Coloniale 1885.
Không biết tại sao mà sau này Louis Malleret và Vương Hồng Sển lại quả quyết thuyết này là "của" Trương Vĩnh Ký , mặc dù ngay sau đoạn này, TVK lại viết tiếp "Theo ý tôi, hình như tên đó là của người Cao Miên đặt cho xứ này, rồi sau đem làm tên gọi thành phố. Tôi chưa tìm ra được nguồn gốc đích thực của tên đó". Tương tự, có nhiều thuyết phụ theo nói rằng Sàigòn từ "Cây Gòn" (Kai Gon) hay "Rừng Gòn" (Prey Kor) mà ra.
Nói chung, các thuyết này đều dựa trên một đặc điểm chính: cây bông gòn. Nhưng thuyết này phần lớn đã bị bác bỏ vì lý do đơn giản là không ai tìm đượcdấu tích của một thứ "rừng gòn" ở vùng Sàigòn, hay sự đắc dụng của củi gòn ở miền Nam, kể cả nhà bác học Trương Vĩnh Ký . Ngay vào thời của Trương Vĩnh Ký (1885) tức khoảng hơn 100 năm sau mà đã không còn dấu tích rõ ràng của thứ rừng này, mặc dù lúc đó Sàigòn không có phát triển hay thay đổi gì cho lắm. Ngay cả khi Louis Malleret khảo nghiệm lại, hình như cũng không có dấu vết gì của một rừng gòn ở Sàigòn.
Sài Gòn từ Prei Nokor
Đây là thuyết mà thoạt đầu khó có thể chấp nhận nhứt (về ngữ âm), nhưng hiện nay được coi như là "most likely".
Chính Petrus Trương Vĩnh Ký là người đưa ra thuyết này Trong Tiểu Giáo Trình Địa Lý Nam Kỳ, ông đã công bố 1 danh sách đôi chiếu 187 địa danh Việt Miên ở Nam Kỳ, như Cần Giờ là Kanco, Gò Vấp là Kompăp, Cần Giuộc là Kantuọc và Sài Gòn là Prei Nokọr
Trước nhất, theo sử Cao Miên được dịch lại bởi Louis Malleret, vào năm 1623, một sứ thần của chúa Nguyễn đem quốc thư tới vua Cao Miên và ngỏ ý muốn mượn xứ Prei Nokor (Saigon) và Kras Krabei của Cao Miên để đặt phòng thu thuế.
Năm 1747, theo danh mục các họ đạo trong Histoire de la Mission Cochinchine, có ghi Rai Gon Thong (Sài Gòn Thượng) và Rai Gon Hạ (Sài Gòn Hạ).
Đó là theo sử sách, còn theo tiếng nói thì Prei Nokor (hay Brai Nagara theo tiếng Phạn mà người Miên mượn), có nghĩa là "thị trấn ở trong rừng",Prei hay Brai là rừng, Nokor hay Nagara là thị trấn. Đây là vùng mà chúa Nguyễn đã mượn làm nơi thu thuế như đã nói ở trên.
Theo tiến trình của ngôn ngữ, Prei hay Brai biến thành RAI, thành "Sài", Nokor bị bỏ "no" thành "kor", và từ "kor" thành "Gòn". Từ Prei Nokor …mà thành SàiGòn thì thật là …dễ sợ ! Còn sở dĩ có Saigon viết dính nhau là do các giáo sĩ Tây phương đã bỏ mất dấu và gắn liền nhau khi in. Sau khi chiếm nước ta, để khỏi đọc "sai" ra "sê" theo giọng Pháp nên Saigon được viết với hai dấu chấm trên chữ i.
Saigon… muôn thuở là Sàigòn !
Ca dao - Tục ngữ
Saigon là Hòn ngọc Viễn Đông, là một thành phố lớn nhất Việt Nam. Những nơi như Saigon được mệnh danh là Kẻ Chợ, đã là Kẻ Chợ ắt có chợ, mà phải là ngôi chợ lớn, khách Lục tỉnh lên thăm Saigon, ra vào chợ Saigon hẳn không quên. Chợ Saigon được đồng bào Hậu Giang so sánh với ngôi chợ tỉnh nhà:
Chợ Saigon cẩn đá,
Chợ Rạch Giá cẩn xi măng.
Giã em xứ sở vuông tròn,
Anh về xứ sở không còn ra vô.
Người con gái ở đô thành tiêm nhiễm nếp sống Tây phương, chàng trai xa nàng khỏi sao thắc mắc, lo nàng ở lại chẳng vuông tròn nên phải ra vô, nàng vuông tròn chàng yên tâm về xứ sở.
Cúc mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy,
Chợ Saigon xa, chợ Mỹ cũng xa.
Viết thư thăm hết mọi nhà,
Trước thăm phụ mẫu sau là thăm em.
Saigon và Mỹ Tho, hai nơi cách nhau trên sáu chục cây số, nay tuy thật gần những xưa thật xa,vì phương tiện di chuyển đâu có dồi dào như nay, chàng và nàng dù đã yêu nhau, nhưng mỗi lúc tới thăm đâu có dễ dàng, đôi bên cùng bận làm ăn buôn bán, nàng ở chợ Saigon, chàng ở chợ Mỹ Tho. Nhớ nhung nhau, chỉ biết tin thư thăm hỏi, lấy giấy thay lời. Chàng yêu nàng vì duyên, vì tình, tình yêu chân thật, đâu thấy nàng giàu mà ham hoặc thấy nàng nghèo mà chê.
Chợ Saigon đèn xanh, đèn đỏ,
Anh coi không tỏ, anh ngỡ đèn tàu.
Lấy anh em đâu kể sang giàu,
Rau dưa mắm muối có nơi nào hơn em.
Chợ Saigon với những hàng quảng cáo đèn màu xanh đỏ, chàng trai quê lên nhầm lẫn đó là đèn tàu. Sự lầm lẫn thị giác này có thể có được, nhưng lầm về yêu đương, chàng đâu có lầm. Chàng lấy nàng đâu có kể sang giàu, vì tiền tài bao nhiêu cũng có thể hết, duy tình nghĩa mới bền lâu, như người xưa đã nói:
Theo vàng bỏ ngãi ai hơi,
Vàng thời đã hết, ngãi tôi vẫn còn.
Chính vì nghĩa mới bền lâu, nên khi xa người nghĩa, người con trai đứng ngồi không yên :
Chim quyên xuống đất tha mồi,
Tôi xa người nghĩa đứng ngồi không yên!
Giấy tây bán mấy,
Mua lấy tờ nguyên,
Làm thơ hỏi bạn tình duyên chuyện gì ?
Mến thương nàng, đem nàng so sánh với các nàng Lục tỉnh, cô gái Saigon thật hơn:
Nội trong lục tỉnh Nam kỳ,
Mấy ai được nết nhu mì như em.
Hai hàng lụy ngọc ướt nhèm,
Làm sao cho đặng anh với em giao hòa.
Phú Lê post (theo Hồ Đình Vũ)

Saturday 29 September 2012

Do đâu có tên cây pơ mu?


Trong tiếng Việt cây này còn có các tên như đinh hương, bách dầutô hạp hương, mạy vạc (người thiểu số ở Lào Cai), mạy long lanh (người Thái ở miền Tây Bắc và Thanh Hóa), khơ mu (Hà Tĩnh), hòng he (người Ba Na ở Gia Lai và Kon Tum). Nhưng cái tên pơ mu thì không gắn với một ngôn ngữ dân tộc nào cả.
Tên khoa học của cây pơ mu là Fokienia hodginsii (Dunn) A. Henry & H. H. Thomas. Tên này có liên quan đến tỉnh Phúc Kiến bên Trung Hoa (Fokienia) vì đó là nơi người ta (ông Hodgins) thu thập được mẫu vật đầu tiên để đem về châu Âu. Tên cây bằng chữ Hán là 福建柏  (fu jian bai / Phúc Kiến bách). Gỗ bách (bách mộc) tiếng Hán là 柏木, có phát âm (băi mù) rất gần với cách người Pháp gọi tên cây: pé-mou / pemou / peu-mou... Từ pơ mu của tiếng Việt có thể từ một trong hai nguồn này mà ra.