Friday 27 September 2013

KHÁI QUÁT LỊCH SỬ TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY (1976-2011)


Lịch sử phát triển


KHÁI QUÁT LỊCH SỬ  

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY

(1976-2011)

      Trường Đại học Phòng cháy chữa cháy ra đời, trưởng thành và phát 

triển gắn liền với nhiệm vụ cách mạng của Đảng và lực lượng Công an 

nhân dân, đã trải qua các giai đoạn lịch sử sau đây:
I. THỜI KỲ TIỀN THÂN CỦA TRƯỜNG HẠ SỸ QUAN CẢNH SÁT 

PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY


(4/1957-9/1976)

1. CÁC LỚP PHÒNG HỎA, CỨU HỎA ĐẦU TIÊN

(4/1957-9/1963)
Ngày 7-5-1954 Miền Bắc hoàn toàn giải phóng. Tháng 12-1954 Bộ Công 

an Quyết định thành lập Đại đội Cứu hoả thuộc Ban Trị an dân cảnh - Sở 

Công an Hà Nội gồm 60 cán bộ, chiến sĩ và 7 xe cứu hoả.
Ngày 17-3-1957  Bộ Công an có Công văn số 274/TA-TP gửi các Sở, Ty 

Công an về việc cử cán bộ đi học bồi dưỡng nghiệp vụ về phòng hoả, cứu 

hoả. Địa điểm mở tại thành phố Hải Phòng.
- Lớp đầu tiên khai giảng vào ngày 16-4-1957, gồm 84 học viên;
- Lớp thứ hai khai giảng vào ngày 11-6-1957, gồm 107 học viên.
Tổng số 2 lớp có 191 học viên. Thời gian học 6 tháng.  

2. TỔ GIÁO DỤC PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY
(9/1963-12/1965)

Ngày 4-10-1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh số 53/LCT công bố 

Pháp lệnh Quy định việc quản lý của nhà nước đối với công tác phòng 

cháy, chữa cháy ”. (Bác Hồ đã sửa lại cụm từ “Phòng hoả, cứu hoả” trước 

đây thành cụm từ “Phòng cháy, chữa cháy” cho đúng với nghĩa của tiếng 


Việt). 


Tháng 9-1963 Bộ Công an đã ký Quyết định số 1226/CA-QĐ thành lập 

Tổ giáo dục Phòng cháy, chữa cháy.



Tổ Giáo dục PCCC là đơn vị trực thuộc Khoa Cảnh sát (Khoa Nghiệp vụ 

II) thuộc trường Công an Trung ương. Nay là Học viện An ninh nhân dân.

Tổ Giáo dục PCCC có chức năng, nhiệm vụ: “Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp 

vụ PCCC cho cán bộ cảnh sát PCCC đang công tác ở các đơn vị địa 

phương”.
Tổ Giáo dục PCCC có 4 đồng chí. Tổ trưởng là đồng chí Đinh Mười, 2 

đồng chí giáo viên tốt nghiệp trung cấp PCCC ở Lê-Nin-Grát (Liên Xô) về 

và 1 lái xe).
Ngày 2-12-1963, Trường Công an Trung ương chiêu sinh 1 lớp nghiệp vụ 

kỹ thuật PCCC gồm 60 học viên là cán bộ Công an các tỉnh phía Bắc cử 

đi học, lớp có phiên hiệu C156. Thời gian học 18 tháng.  
3. KHOA CẢNH SÁT PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY

(12/1965- 7/1971).

Ngày 30-12-1965, Bộ Công an ký Quyết định số 154/CA-QĐ về việc tách 

Khoa Nghiệp vụ II (Khoa Cảnh sát) và thành lập Phân hiệu Cảnh sát nhân 

dân, trực thuộc trường Công an Trung ương. Tổ chức, bộ máy của Phân 

hiệu Cảnh sát nhân dân gồm 4 Khoa và 4 Tổ, trong đó có Khoa Cảnh sát 

Phòng cháy, chữa cháy (phiên hiệu là Khoa 56).
Khoa Cảnh sát PCCC có chức năng, nhiệm vụ: “Đào tạo và bổ túc nghiệp 

vụ PCCC cho cán bộ, chiến sỹ lực lượng Cảnh sát PCCC; nghiên cứu góp 

phần vào việc tổng kết và xây dựng lý luận nghiệp vụ PCCC cho ngành 

Công an”.
Tổng số cán bộ, chiến sĩ có 9 đồng chí (trong đó: 4 cán bộ, 3 giáo viên, 2 

nhân viên). Lãnh đạo Khoa có 3 đồng chí: Trưởng khoa là đồng chí Đinh 

Mười; 2 Phó trưởng Khoa là đồng chí Nguyễn Thành Lâm và đồng chí 

Nguyễn Khải. Trình độ: 3 đồng chí trung cấp PCCC (2 đồng chí tốt 

nghiệp ở Liên Xô về; 1 đồng chí trong nước).
- Tháng 8-1965 nhà trường chiêu sinh lớp C256 gồm 56 học viên;
- Tháng 12-1970  nhà trường chiêu sinh lớp C356  gồm 53 học viên;
- Tháng 12-1971  nhà trường chiêu sinh lớp C456  gồm 53 học viên.
Tổng số 3 lớp có 162 học viên. Thời gian học 18 tháng. Chương trình đào 

tạo về nghiệp vụ kỹ thuật PCCC.

4. PHÂN HIỆU CẢNH SÁT PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY

(7/1971- 9/1976).

Ngày 20-7-1971, Bộ Công an ký Quyết định số 1099/CA-QĐ về việc tách 

Khoa Cảnh sát PCCC và thành lập Phân hiệu Cảnh sát Phòng cháy, chữa 

cháy (Phân hiệu II), trực thuộc trường Cảnh sát nhân dân. Địa điểm đặt tại 

xã Nhân Chính, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Phân hiệu Cảnh sát PCCC có chức năng, nhiệm vụ: “Đào tạo chuyên 

ngành kỹ thuật an toàn PCCC và Điều lệnh chiến đấu cho sĩ quan, hạ sĩ 

quan thuộc lực lượng Cảnh sát PCCC - Bộ Công an”.
Tổ chức, bộ máy Phân hiệu Cảnh sát PCCC gồm 3 Ban: Ban Chính trị; 

Ban Giáo dục; Ban Hành chính quản trị.
Tổng số cán bộ, chiến sĩ có 25 đồng chí. Lãnh đạo Phân hiệu 3 đồng chí 

(Đồng chí Lục Văn Giỏi - Phân Hiệu trưởng, 2 Phân Hiệu phó là đồng chí 

Lê Cừ và đồng chí Nguyễn Thành Lâm), 14 cán bộ, 8 giáo viên. Trình độ: 

1 Đại học, 5 trung cấp PCCC đào tạo ở Liên Xô và Cộng hòa dân chủ 

Đức về, số còn lại là sơ cấp.
- Tháng 12-1972 nhà trường chiêu sinh lớp C556 gồm 75 học viên;

- Tháng 3-1974 nhà trường chiêu sinh lớp C656 gồm 45 học viên; 



- Tháng 2-1975 nhà trường chiêu sinh lớp C756 gồm 57 học viên.
Tổng số 3 lớp có 177 học viên. Thời gian học 18 tháng. Chuyên ngành 

nghiệp vụ kỹ thuật PCCC.
Đầu tháng 3-1975, Phân hiệu được giao nhiệm vụ huấn luyện 250 cán bộ, 

chiến sĩ PCCC bổ sung cùng với lực lượng An ninh và Cảnh sát vào miền 

nam, tham gia tiếp quản các vùng mới giải phóng.
Từ năm 1963 - 1975, Phân hiệu Cảnh sát PCCC đã đào tạo 7 khóa với 

tổng số 373 cán bộ có trình độ sơ cấp PCCC.
II. TRƯỜNG HẠ SỸ QUAN CẢNH SÁT PHÒNG CHÁY CHỮA 

CHÁY
(9/1976-11/1984).
Ngày 2-9-1976, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Trần Quốc Hoàn ký Quyết định số 

5062-NV/QĐ tách Phân hiệu Cảnh sát PCCC ra khỏi trường Cảnh sát 

nhân dân và thành lập trường Hạ sĩ quan Cảnh sát Phòng cháy, chữa cháy, 

giao Cục Cảnh sát PCCC giúp Bộ trưởng trực tiếp quản lý.
Trường Hạ sĩ quan Cảnh sát PCCC có chức năng, nhiệm vụ: “Đào tạo, 

bồi dưỡng, bổ túc sĩ quan, hạ sĩ quan Cảnh sát Phòng cháy, chữa cháy 

của lực lượng Công an nhân dân”.
Quy mô đào tạo 600 học viên. Địa điểm đặt tại xã Nhân Chính, huyện Từ 

Liêm, thành phố Hà Nội.
 Tổ chức, bộ máy của trường Hạ sĩ quan Cảnh sát Phòng cháy, chữa cháy 

gồm 9 đơn vị (6 Khoa, 3 Phòng).
Tổng số cán bộ, chiến sĩ có 46 đồng chí. Ban Giám hiệu 3 đồng chí (Hiệu 

trưởng là đồng chí Nguyễn Thành Lâm, 2 Phó Hiệu trưởng gồm các đồng 

chí Nguyễn Khải và đồng chí Đinh Trung); lãnh đạo các đơn vị 9 đồng 

chí, cán bộ 22 đồng chí, giáo viên 14 đồng chí, công nhân viên 10 đồng 

chí. Trình độ: 10 Đại học, 9 trung cấp, số còn lại là sơ cấp và chưa qua 

đào tạo.
Ngày 25-9-1976, nhà trường đã tổ chức chiêu sinh đào tạo hệ trung cấp 

Cảnh sát PCCC khóa I. Tổng số 144 học viên (ký hiệu khóa K1).
Từ năm 1976-1984 nhà trường đã đào tạo 5 khóa trung cấp PCCC (620 

học viên), mở 2 lớp chuyên khoa sĩ quan PCCC do trường Cảnh sát 

chuyển đến (75 học viên). Ngoài ra nhà trường còn mở 2 lớp ngoại ngữ 

tiếng Nga, 2 lớp bồi dưỡng ngắn hạn về nghiệp vụ điều tra, xử lý nguyên 

nhân vụ cháy cho cán bộ kiểm tra an toàn PCCC các địa phương, 1 lớp 

thông tin liên lạc 70 học viên.
III. TRƯỜNG CAO ĐẲNG PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY
(11/1984-10/1999).
Ngày 19-6-1984, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ký Quyết định số 90 

QĐ/HĐBT, thành lập 9 trường cao đẳng trực thuộc Bộ Nội vụ, trong đó 

có Trường Cao đẳng Phòng cháy chữa cháy.
Ngày 25-9-1984, nhà trường đã tổ chức tuyển sinh đào tạo hệ Cao đẳng 

PCCC đầu tiên, gồm 27 học viên. Khóa học có phiên hiệu D1. Thời gian 

học 4 năm. Tốt nghiệp ra trường cấp bằng Kỹ sư an toàn PCCC
Ngày 6-11-1984, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Hùng ký Quyết định số 

2825/QĐ-BNV “Về việc nâng Trường Hạ sĩ quan Cảnh sát Phòng cháy 

chữa cháy thành trường Cao đẳng Phòng cháy chữa cháy”. Giao Tổng cục 

Cảnh sát nhân dân giúp Bộ trưởng trực tiếp quản lý.
Chức năng, nhiệm vụ: “Trường Cao đẳng Phòng cháy chữa cháy làm 

nhiệm vụ đào tạo cán bộ có trình độ đại học và trung cấp phòng cháy, 

chữa cháy cho lực lượng Công an nhân dân; là cơ sở nghiên cứu khoa học 

kỹ thuật về phòng cháy, chữa cháy”. Quy mô đào tạo 800 học viên. Thời 

gian đào tạo 4 năm.
Tổ chức, bộ máy của  Trường Cao đẳng Phòng cháy chữa cháy có 8 đơn 

vị (5 Bộ môn, 3 Phòng).
Tổng số cán bộ, chiến sĩ có 122 đồng chí. Ban Giám hiệu 4 đồng chí 

(Hiệu trưởng là đồng chí Bùi Danh Ý; 3 Phó Hiệu trưởng gồm các đồng 

chí Nguyễn Khải, đồng chí Đinh Trung và đồng chí Lê Văn Chử). Lãnh 

đạo các đơn vị có 14 đồng chí, cán bộ 61 đồng chí, giáo viên 40 đồng 

chí, công nhân viên 21 đồng chí. Trình độ: Đại học, cao đẳng 60 đồng 

chí, 3 tiến sĩ, 4 thạc sĩ, số còn lại là trung cấp và chưa qua đào tạo.
Tháng 12-1988 đồng chí Bùi Danh Ý nghỉ hưu, đồng chí Trần Văn Thảo 

được bổ nhiệm chức vụ Hiệu trưởng.
Tháng 7-1990 đồng chí Trần Văn Thảo được Bộ điều động đến nhận công 

tác tại Cục Cảnh sát PCCC và giữ chức vụ Cục trưởng, đồng chí Đặng 

Từng được bổ nhiệm chức vụ Hiệu trưởng.
Ngày 31-5-1989, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ký Nghị định số 57/HĐBT 

“Về hệ thống các trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp 

của lực lượng Công an nhân dân”.

Theo đó, giải thể 8 trường Cao đẳng thuộc Bộ Nội vụ, chỉ giữ lại trường 

Cao đẳng Phòng cháy chữa cháy.  
Từ 1984 -1999 nhà trường đã đào tạo 15 khóa cao đẳng (727 học viên), 17 

khóa trung học (955 học viên), 2 khóa cao đẳng tại chức (148 học viên), 

đào tạo cho Bộ Nội vụ nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào 4 khóa (34 

học viên).
IV. TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY
(10/1999-10/2011).
Ngày 14-10-1999, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 203/1999/QĐ-

TTG về việc thành lập Trường Đại học PCCC trên cơ sở Trường Cao 

đẳng PCCC.
Ngày 25-2-2000, Bộ trưởng Bộ Công an Lê Minh Hương ký Quyết định số 

171/2000/QĐ-BCA(X13) “Quy định về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức 

bộ máy của trường Đại học Phòng cháy chữa cháy”. Giao Tổng cục Xây 

dựng lực lượng Công an nhân dân giúp Bộ trưởng trực tiếp quản lý.

Chức năng, nhiệm vụ: “Đào tạo cán bộ phòng cháy, chữa cháy có trình 

độ đại học và các trình độ thấp hơn; bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về 

phòng cháy, chữa cháy; nghiên cứu khoa học về phòng cháy, chữa cháy 

phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế -xã hội của đất nước. Trường Đại 

học Phòng cháy chữa cháy trực thuộc bộ công an. Quy mô đào tạo là 

1000 học viên. Thời gian đào tạo 5 năm”.
Tổ chức bộ máy của trường Đại học Phòng cháy chữa cháy có 12 đơn vị ( 

6 bộ môn, 5 phòng và 1 trung tâm)
Tổng số cán bộ, chiến sĩ có 140 đồng chí. Ban Giám hiệu 5 đồng chí 

(Hiệu trưởng là đồng chí Đặng Từng, 4 Phó Hiệu trưởng gồm các đồng 

chí Ngô Văn Xiêm, Đỗ Ngọc Cẩn, Phạm Văn Cố, Nguyễn Mạnh Hà). 

Lãnh đạo đơn vị 24 đồng chí, cán bộ 74 đồng chí, giáo viên 54 đồng chí, 

công nhân viên 12 đồng chí. Trình độ: Đại học- Cao đẳng 64 đồng chí, 17 

thạc sĩ, 4 tiến sĩ.
Tháng 12-2006 đồng chí Đặng Từng nghỉ hưu, đồng chí Đỗ Ngọc Cẩn 

được bổ nhiệm chức vụ Hiệu trưởng.
Ngày 25-12-2006  Bộ trưởng Bộ Công an Lê Hồng Anh ký Quyết định số 

2009/2006/QĐ-BCA(X13) “Quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn 

và tổ chức bộ máy của trường Đại học Phòng cháy chữa cháy”.
* Quyết định này thay thế Quyết định số 171/2000/QĐ-BCA ngày 25-2-

2000. 
Tổ chức, bộ máy của trường Đại học PCCC (theo Quyết định số 

2009/2006/QĐ-BCA (X13) do Bộ trưởng Bộ Công an Lê Hồng Anh ký 

ngày 25-12-2006) gồm 15 đơn vị (4 Bộ môn, 3 Khoa, 7 Phòng, 1 Trung 

tâm).
Ngày 14-1-2010, Bộ trưởng Bộ Công an Lê Hồng Anh ký Quyết định số 

188/QĐ-BCA "Về việc thành lập và tách một số đơn vị trực thuộc trường 

Đại học Phòng cháy chữa cháy".
* Quyết định này sửa đổi, bổ sung điều 3 trong Quyết định số 

2009/2006/QĐ-BCA (X13) ngày 25-12-2006.
Tổ chức, bộ máy của trường Đại học PCCC (Theo Quyết định bổ sung 

số 188/ QĐ-BCA ngày 14-1-2010) gồm 20 đơn vị (5 Bộ môn, 4 Khoa, 7 

Phòng, 3 Trung tâm và Tạp chí PCCC).
Ngoài ra do yêu cầu mở rộng quy mô đào tạo, nhà trường còn thành lập 

thêm Ban Quản lý dự án (ký hiệu BQLDA) để thực thi nhiệm vụ xây dựng 

trung tâm huấn luyện về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ  tại 

Lương Sơn - Hoà Bình.
Ngày 15-8-2011, Bộ trưởng Bộ Công an ký Quyết định số 3307/QĐ-BCA 

“Về việc tách Bộ môn Khoa học cơ bản và Ngoại ngữ thành Bộ môn 

Khoa học cơ bản và Bộ môn Ngoại ngữ”.
Từ năm 1999-2006 nhà trường đã đào tạo 2 khóa đại học chính quy (168 

học viên), 4 khóa đại học tại chức (235 học viên), 3 khóa hoàn chỉnh kiến 

thức (146 học viên), 7 khóa trung học (531 học viên). Đào tạo cho ngành 

ngoài 299 học viên, mở các lớp hoàn chỉnh kiến thức cho số cán bộ đã tốt 

nghiệp cao đẳng PCCC trước đây.
Từ năm 2006- 2011 đào tạo đại học chính quy: 510 học viên; tại chức 411 

học viên; liên thông Cao đẳng lên đại học 469 học viên. Trung cấp hệ 

chính quy: 1141 học viên; liên thông trung cấp lên đại học 36 học viên.
Hiện nay (Tính đến 6-2012) nhà trường có 22 đơn vị với tổng số trên 350 

cán bộ, chiến sĩ. Ban Giám hiệu có 5 đồng chí (Hiệu trưởng là đồng chí 

Đỗ Ngọc Cẩn, 4 Phó Hiệu trưởng gồm các đồng chí Ngô Văn Xiêm, 

Nguyễn Mạnh Hà, Đoàn Việt Mạnh, Vũ Văn Bình). Cán bộ 144 đồng chí, 

giáo viên 126 đồng chí, số còn lại là hợp đồng và công nhân viên Công an. 

Trình độ: Đại học-Cao đẳng hàng trăm đồng chí, 02 Phó giáo sư, 19 tiến 

sĩ, 59 thạc sĩ. 

THÀNH TÍCH 35 NĂM CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC PCCC


(1976- 2011) 

I. CÔNG TÁC ĐÀO TẠO

* Hệ chính quy Công an.

- Đại học: 13 khoá;

- Cao đẳng: 15 khoá;

- Trung cấp: 35 khóa;

- Liên thông từ Trung cấp lên Đại học: 3 khoá;

- Liên thông từ Cao đẳng lên Đại học: 11 khoá.

* Hệ vừa làm vừa học Công an.

- Đại học: 15 khoá;

- Liên thông từ Cao đẳng lên Đại học: 2 khoá;

- Trung cấp: 7 khóa.

* Đào tạo cán bộ PCCC dân sự.

- Hàng ngàn học viên



* Đào tạo cán bộ PCCC cho Bộ An ninh CHDCND Lào.

- Đại học PCCC: 4 khoá (28 học viên);

- Cao đẳng PCCC: 4 khoá (34 học viên);

- Trung cấp PCCC mở tại Lào: 58 học viên;

- Bồi dưỡng Nghiệp vụ PCCC mở tại Lào: 200 học viên.

* Đào tạo cán bộ PCCC cho Bộ Nội vụ Căm-Pu-Chia.

- Bồi dưỡng nghiệp vụ PCCC mở tại trường: 30 học viên;

- Bồi dưỡng nghiệp vụ PCCC mở tại nước bạn: 54 học viên.
II. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Tổ chức cho cán bộ, giáo viên, học viên tham gia nghiên cứu hàng trăm đề 

tài, chuyên đề khoa học. Biên soạn và biên dịch hàng trăm cuốn tài liệu, 

giáo trình, và tập bài giảng. Hướng dẫn hàng trăm học viên làm đồ án tốt 

nghiệp và đồ án môn học.


III. KHEN THƯỞNG

- 428 lượt tập, cá nhân được Đảng, Nhà nước, Bộ Công an tặng thưởng 

Huân chương, Huy chương các loại;

- 12 đơn vị được Bộ Công an tặng “Cờ thi đua xuất sắc” (trong đó nhà 

trường được 5 lần);
- 198 lượt tập thể, cá nhân được Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công an và các 

Bộ, Ngành khác tặng Bằng khen;

- 73 lượt tập thể được công nhận danh hiệu “Đơn vị quyết thắng”;

- 227 lượt tập thể được công nhận danh hiệu “Đơn vị tiên tiến”;

- 263 lượt cá nhân được công nhận danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở”. 

Trong đó có 1 đồng chí “Chiến sĩ thi đua toàn lực lượng”;

- 2698 lượt cá nhân được công nhận danh hiệu “Chiến sĩ tiên tiến”;

- 126 lượt giáo viên được công nhận danh hiệu “Giáo viên dạy giỏi”. trong 

đó có 5 đồng chí đạt “Giáo viên dạy giỏi cấp Bộ”;

- 12 đồng chí được công nhận danh hiệu “Nhà giáo ưu tú”; 2 đồng chí 

Phó Giáo sư; 19 đồng chí Tiến sĩ; 59 đồng chí Thạc sĩ ./.

Năm mươi năm chống giặc lửa (Trà My - Công An Thành Phố Hồ Chí Minh)


Kỷ niệm 50 năm Pháp lệnh phòng cháy chữa cháy:
 Năm mươi năm chống giặc lửa
 Thứ năm, 06/10/2011 12:52 
 
(CATP) Ngày 4-10-1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh công bố Pháp lệnh “Quy định việc quản lý của Nhà nước đối với công tác phòng cháy chữa cháy”, đánh dấu sự ra đời lực lượng Cảnh sát phòng cháy chữa cháy (PCCC). Ngày 4-6-1996, Chính phủ quyết định lấy ngày 4-10 hàng năm là ngày PCCC toàn dân. Ngay sau khi thành lập, lực lượng Cảnh sát PCCC đã nhanh chóng xây dựng, hoàn thiện tổ chức bộ máy từ Trung ương đến các địa phương trên toàn miền Bắc. Từ cuối năm 1961 đến năm 1969 các đơn vị PCCC Hà Bắc, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Ninh Bình, Hà Tĩnh, Quảng Bình được thành lập. Toàn lực lượng đã triển khai các nhiệm vụ theo Pháp lệnh PCCC.

Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho lực lượng Cảnh sát PCCC


Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đặc biệt là trong những năm chống chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân của đế quốc Mỹ, lực lượng Cảnh sát PCCC đã xây dựng được phong trào quần chúng tham gia công tác PCCC rộng khắp, làm nòng cốt trong phong trào ba phòng “phòng gian, phòng gián, phòng hỏa”; tham mưu đề xuất và chỉ đạo, hướng dẫn việc sơ tán, phân tán tài sản, vật tư chiến lược, vũ khí, đạn, đặc biệt là phân tán các bể, xi téc xăng dầu thành những điểm nhỏ, vừa thuận tiện cho việc phục vụ chiến đấu, vừa hạn chế thiệt hại trong trường hợp bị máy bay địch đánh phá đã đem lại hiệu quả rất lớn, bảo vệ an toàn hàng triệu tấn vũ khí, đạn, xăng dầu, hàng hóa, vật tư. Lực lượng Cảnh sát PCCC đã không ngại hy sinh gian khổ, sáng tạo và dũng cảm chiến đấu cứu tài sản, hàng hóa trong làn bom đạn của giặc Mỹ, dập tắt kịp thời hàng ngàn vụ cháy. Điển hình là các vụ chữa cháy trận địa tên lửa và pháo phòng không tại Đồng Giao, Ninh Bình (8-6-1965) lực lượng chữa cháy đã dùng sức mạnh của lăng A cắt đứt luồng nhiên liệu tên lửa đang bị cháy để chuyển tên lửa ra ngoài. Phương pháp chữa cháy này đã mở ra chiến thuật chữa cháy tên lửa và đã được nhiều đơn vị PCCC áp dụng có hiệu quả. Với chiến công đó, đơn vị PCCC Hoa Lư, Ninh Bình được tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất và năm 1967 được phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; chữa cháy bốn xà lan lớn chở xăng dầu trên Vịnh Hạ Long, chữa cháy thị xã Đồng Hới, Quảng Bình, chữa cháy tàu Alecxandra của Liên Xô chở hàng viện trợ cho ta ở cảng Hải Phòng và chữa cháy kho xăng dầu Thượng Lý, Hải Phòng; chữa cháy khu lắp ráp tên lửa ở đồi Nhơm, Triệu Sơn, Thanh Hóa; chữa cháy tổng kho xăng dầu Đức Giang và hàng trăm vụ cháy lớn phức tạp khác xảy ra trong chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” ở Hà Nội... Đặc biệt là vụ cháy kho xăng dầu Đức Giang, do biết vận dụng sáng tạo kỹ thuật và chiến thuật phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của chiến tranh, lực lượng Cảnh sát PCCC đã dập tắt nhanh chóng đám cháy cứu được hàng ngàn tấn xăng dầu. Với thành tích này, lực lượng Cảnh sát PCCC thủ đô đã được Bác Hồ gửi thư khen, trong đó có bốn điều dạy của Người đã trở thành kim chỉ nam cho hoạt động của lực lượng Cảnh sát PCCC.

Trong cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, lực lượng Cảnh sát PCCC đã nghiên cứu, chế tạo trên 5.000 bom cháy và vũ khí gây cháy phục vụ việc đánh phá kho tàng, hậu cứ của địch. Trong cuộc tổng tiến công giải phóng miền Nam năm 1975, lực lượng Cảnh sát PCCC đã theo sát quân chủ lực tiếp quản những đô thị mới được giải phóng và triển khai kịp thời lực lượng, phương tiện và các biện pháp PCCC, góp phần giữ gìn và ổn định an ninh trật tự cho nhân dân.

Ngày 29-3-1975, Bộ Công an quyết định điều 182 cán bộ chiến sĩ, 30 xe chữa cháy của cục và 11 đơn vị các tỉnh phía bắc chi viện cho chiến trường B2 và tham gia đoàn tiếp quản, quản lý thành phố Sài Gòn và chi viện cho Ban an ninh nội chính miền Nam Việt Nam. Ngày 30-4-1975, đoàn cán bộ PCCC của Công an Hà Nội phối hợp với lực lượng PCCC chi viện cho chiến trường B2 tiếp quản Sở chữa lửa Sài Gòn - Chợ Lớn và Phòng Cảnh sát PCCC thành phố Sài Gòn được thành lập. Tiếp đó, lần lượt các đơn vị PCCC miền Trung Nam bộ, đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên và Lâm Đồng được thành lập.

Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh, lực lượng Cảnh sát PCCC vừa củng cố, xây dựng lực lượng tại các tỉnh phía nam vừa thực hiện tốt nhiệm vụ tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia PCCC; kiểm tra, hướng dẫn biện pháp an toàn cho các kho tàng, bến bãi, cơ sở kinh tế, quốc phòng, phục vụ phát triển kinh tế. Trong lúc đất nước gặp khó khăn về nhiên liệu, lại liên tiếp xảy ra cháy hầm lò khai thác than, việc cứu chữa rất khó khăn vì thiếu phương tiện, thiết bị đặc chủng, nhưng với sự sáng tạo trong việc ứng dụng khoa học kỹ thuật, lực lượng Cảnh sát PCCC đã ngăn chặn và dập tắt không để gây thiệt hại nghiêm trọng, điển hình là chữa cháy mỏ than Ngọc Kinh (Đà Nẵng) lực lượng Cảnh sát PCCC đã sáng tạo dùng khói bom Napan để dập tắt đám cháy; vụ cháy mỏ than Vàng Danh sâu trong lòng đất gây nhiều khó khăn cho công tác cứu chữa, bằng những giải pháp khoa học, sáng tạo, lực lượng Cảnh sát PCCC đã dập tắt đám cháy, giúp mỏ khôi phục hoạt động, khai thác ngay sau đó.

Ngày 4-10-2001, Luật PCCC có hiệu lực thi hành. Mười  năm qua, được sự quan tâm, lãnh đạo toàn diện của Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ, công tác PCCC đã được tăng cường, phong trào toàn dân PCCC ở nhiều nơi đã đi vào nề nếp.

Đã có 15 tập thể Cảnh sát PCCC được tuyên dương “Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”; nhiều đồng chí hy sinh, bị thương trong khi làm nhiệm vụ đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân tôn vinh; hàng vạn lượt cán bộ chiến sĩ được các cấp khen thưởng. Đặc biệt ngày 29-9-2006, Cục Cảnh sát PCCC đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đặc biệt là trong những năm chống chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân của đế quốc Mỹ, lực lượng Cảnh sát PCCC đã xây dựng được phong trào quần chúng tham gia công tác PCCC rộng khắp, làm nòng cốt trong phong trào ba phòng “phòng gian, phòng gián, phòng hỏa”; tham mưu đề xuất và chỉ đạo, hướng dẫn việc sơ tán, phân tán tài sản, vật tư chiến lược, vũ khí, đạn, đặc biệt là phân tán các bể, xi téc xăng dầu thành những điểm nhỏ, vừa thuận tiện cho việc phục vụ chiến đấu, vừa hạn chế thiệt hại trong trường hợp bị máy bay địch đánh phá đã đem lại hiệu quả rất lớn, bảo vệ an toàn hàng triệu tấn vũ khí, đạn, xăng dầu, hàng hóa, vật tư. Lực lượng Cảnh sát PCCC đã không ngại hy sinh gian khổ, sáng tạo và dũng cảm chiến đấu cứu tài sản, hàng hóa trong làn bom đạn của giặc Mỹ, dập tắt kịp thời hàng ngàn vụ cháy. Điển hình là các vụ chữa cháy trận địa tên lửa và pháo phòng không tại Đồng Giao, Ninh Bình (8-6-1965) lực lượng chữa cháy đã dùng sức mạnh của lăng A cắt đứt luồng nhiên liệu tên lửa đang bị cháy để chuyển tên lửa ra ngoài. Phương pháp chữa cháy này đã mở ra chiến thuật chữa cháy tên lửa và đã được nhiều đơn vị PCCC áp dụng có hiệu quả. Với chiến công đó, đơn vị PCCC Hoa Lư, Ninh Bình được tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất và năm 1967 được phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; chữa cháy bốn xà lan lớn chở xăng dầu trên Vịnh Hạ Long, chữa cháy thị xã Đồng Hới, Quảng Bình, chữa cháy tàu Alecxandra của Liên Xô chở hàng viện trợ cho ta ở cảng Hải Phòng và chữa cháy kho xăng dầu Thượng Lý, Hải Phòng; chữa cháy khu lắp ráp tên lửa ở đồi Nhơm, Triệu Sơn, Thanh Hóa; chữa cháy tổng kho xăng dầu Đức Giang và hàng trăm vụ cháy lớn phức tạp khác xảy ra trong chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” ở Hà Nội... Đặc biệt là vụ cháy kho xăng dầu Đức Giang, do biết vận dụng sáng tạo kỹ thuật và chiến thuật phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của chiến tranh, lực lượng Cảnh sát PCCC đã dập tắt nhanh chóng đám cháy cứu được hàng ngàn tấn xăng dầu. Với thành tích này, lực lượng Cảnh sát PCCC thủ đô đã được Bác Hồ gửi thư khen, trong đó có bốn điều dạy của Người đã trở thành kim chỉ nam cho hoạt động của lực lượng Cảnh sát PCCC.Trong cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, lực lượng Cảnh sát PCCC đã nghiên cứu, chế tạo trên 5.000 bom cháy và vũ khí gây cháy phục vụ việc đánh phá kho tàng, hậu cứ của địch. Trong cuộc tổng tiến công giải phóng miền Nam năm 1975, lực lượng Cảnh sát PCCC đã theo sát quân chủ lực tiếp quản những đô thị mới được giải phóng và triển khai kịp thời lực lượng, phương tiện và các biện pháp PCCC, góp phần giữ gìn và ổn định an ninh trật tự cho nhân dân.Ngày 29-3-1975, Bộ Công an quyết định điều 182 cán bộ chiến sĩ, 30 xe chữa cháy của cục và 11 đơn vị các tỉnh phía bắc chi viện cho chiến trường B2 và tham gia đoàn tiếp quản, quản lý thành phố Sài Gòn và chi viện cho Ban an ninh nội chính miền Nam Việt Nam. Ngày 30-4-1975, đoàn cán bộ PCCC của Công an Hà Nội phối hợp với lực lượng PCCC chi viện cho chiến trường B2 tiếp quản Sở chữa lửa Sài Gòn - Chợ Lớn và Phòng Cảnh sát PCCC thành phố Sài Gòn được thành lập. Tiếp đó, lần lượt các đơn vị PCCC miền Trung Nam bộ, đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên và Lâm Đồng được thành lập.Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh, lực lượng Cảnh sát PCCC vừa củng cố, xây dựng lực lượng tại các tỉnh phía nam vừa thực hiện tốt nhiệm vụ tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia PCCC; kiểm tra, hướng dẫn biện pháp an toàn cho các kho tàng, bến bãi, cơ sở kinh tế, quốc phòng, phục vụ phát triển kinh tế. Trong lúc đất nước gặp khó khăn về nhiên liệu, lại liên tiếp xảy ra cháy hầm lò khai thác than, việc cứu chữa rất khó khăn vì thiếu phương tiện, thiết bị đặc chủng, nhưng với sự sáng tạo trong việc ứng dụng khoa học kỹ thuật, lực lượng Cảnh sát PCCC đã ngăn chặn và dập tắt không để gây thiệt hại nghiêm trọng, điển hình là chữa cháy mỏ than Ngọc Kinh (Đà Nẵng) lực lượng Cảnh sát PCCC đã sáng tạo dùng khói bom Napan để dập tắt đám cháy; vụ cháy mỏ than Vàng Danh sâu trong lòng đất gây nhiều khó khăn cho công tác cứu chữa, bằng những giải pháp khoa học, sáng tạo, lực lượng Cảnh sát PCCC đã dập tắt đám cháy, giúp mỏ khôi phục hoạt động, khai thác ngay sau đó. Ngày 4-10-2001, Luật PCCC có hiệu lực thi hành. Mười  năm qua, được sự quan tâm, lãnh đạo toàn diện của Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ, công tác PCCC đã được tăng cường, phong trào toàn dân PCCC ở nhiều nơi đã đi vào nề nếp.Đã có 15 tập thể Cảnh sát PCCC được tuyên dương “Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”; nhiều đồng chí hy sinh, bị thương trong khi làm nhiệm vụ đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân tôn vinh; hàng vạn lượt cán bộ chiến sĩ được các cấp khen thưởng. Đặc biệt ngày 29-9-2006, Cục Cảnh sát PCCC đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh.
 
 TRÀ MY

PHÁP LỆNH SỐ 53/PL NGÀY 27 THÁNG 09 NĂM 1961 CỦA UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI VỀ VIỆC QUY ĐỊNH VIỆC QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC PHÒNG CHÁY VÀ CHỮA CHÁY

UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
********
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
Số: 53/PL
Hà Nội, ngày 27 tháng 09 năm 1961


Để bảo vệ tài sản của Nhà nước, tính mạng và tài sản của nhân dân, bảo vệ sản xuất và trật tự an ninh chung;
Để nâng cao ý thức trách nhiệm phòng cháy và chữa cháy của cán bộ, công nhân, viên chức và của toàn dân, đẩy mạnh công tác phòng cháy và chữa cháy;
Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định việc quản lý của Nhà nước đối với công tác phòng cháy và chữa cháy như sau:
Việc phòng cháy và chữa cháy là nghĩa vụ của mỗi công dân.
Mỗi công dân phải tích cực đề phòng không để nạn cháy xảy ra, luôn luôn nâng cao tinh thần cảnh giác, triệt để tuân theo các quy định về phòng cháy, chuẩn bị sẵn sàng để khi cần có thể chữa cháy kịp thời và có hiệu quả.
Trong các cơ quan, xí nghiệp, kho tàng, công trường, nông trường, việc phòng cháy và chữa cháy là nghĩa vụ của toàn thể cán bộ, công nhân, viên chức và trước hết là trách nhiệm của thủ trưởng các đơn vị ấy.
Việc quản lý công tác phòng cháy và chữa cháy do Bộ Nội vụ phụ trách. ở các cơ quan, xí nghiệp và đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng, công tác phòng cháy và chữa cháy do Bộ Quốc phòng quản lý, với sự cộng tác chặt chẽ của Bộ Nội vụ.
Bộ Nội vụ tổ chức ra Cục Phòng cháy và chữa cháy. Cục này có nhiệm vụ và quyền hạn như dưới đây:
1. Nghiên cứu để Bộ Nội vụ ban hành các điều lệ, biện pháp và tiêu chuẩn kỹ thuật về phòng cháy và chữa cháy;
2. Kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các điều lệ, biện pháp và tiêu chuẩn kỹ thuật về phòng cháy và chữa cháy ở các cơ quan, xí nghiệp, kho tàng, công trường, nông trường, hợp tác xã, nhà ở của nhân dân và ở những nơi khác cần thiết phải kiểm tra;
3. Thoả thuận về thiết kế và thiết bị phòng cháy và chữa cháy của các công trình xây dựng về kinh tế và văn hoá và các công trình xây dựng khu nhà lớn, trước khi thi công các công trình ấy;
4. Chỉ đạo công tác nghiệp vụ phòng cháy và chữa cháy và tổ chức công tác phối hợp chiến đấu của các đội chữa cháy;
5. Tổ chức việc nghiên cứu và phổ biến khoa học, kỹ thuật phòng cháy và chữa cháy;
6. Hướng dẫn việc tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân về nhiệm vụ và cách thức phòng cháy và chữa cháy;
7. Hướng dẫn và kiểm tra việc sản xuất và mua sắm các máy móc, phương tiện, dụng cụ và hoá chất chữa cháy, về mặt chất lượng, số lượng và mẫu mực;
8. Cùng với cơ quan công an tiến hành điều tra và kết luận về các vụ cháy.
Uỷ ban hành chính các cấp phụ trách việc quản lý công tác phòng cháy và chữa cháy của địa phương dưới sự hướng dẫn của Bộ Nội vụ và của Uỷ ban hành chính cấp trên.
Ở các khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương và tỉnh sẽ tuỳ theo nhu cầu mà tổ chức Sở, Ty Phòng cháy và chữa cháy. Nhiệm vụ và quyền hạn của Sở, Ty Phòng cháy và chữa cháy do Hội đồng Chính phủ quy định.
Ở các thị xã, khu phố, thị trấn, xã, thôn, xóm, cơ quan, xí nghiệp, kho tàng, công trường, nông trường và các nơi cần thiết khác sẽ thành lập các đội phòng cháy và chữa cháy có tính chất nghĩa vụ của nhân dân;
Ở các thành phố, thị xã lớn, ngoài các đội phòng cháy và chữa cháy có tính chất nghĩa vụ của nhân dân, sẽ thành lập đội chữa cháy chuyên nghiệp. Kinh phí cần thiết cho các đội chữa cháy chuyên nghiệp do ngân sách địa phương đài thọ.
Ở các xí nghiệp quan trọng, ngoài đội phòng cháy và chữa cháy có tính chất nghĩa vụ của nhân dân, có thể thành lập đội chữa cháy chuyên nghiệp. Kinh phí cần thiết do quỹ xí nghiệp đài thọ.
Trong trường hợp xét thấy cần thiết phải tăng cường lực lượng và phương tiện chữa cháy, người chỉ huy chữa cháy có quyền huy động lực lượng và phương tiện của các cơ quan Nhà nước và của nhân dân để chữa cháy.
Trong trường hợp xét thấy cần thiết, để ngăn ngừa lửa cháy lan tràn gây thiệt hại nặng nề, người chỉ huy chữa cháy có quyền quyết định dỡ những nhà cửa hoặc dời những vật ở gần kề nơi cháy.
Khi một đơn vị vi phạm các quy định về phòng cháy, gây nên nguy cơ trực tiếp phát sinh nạn cháy thì Cục trưởng Cục phòng cháy và chữa cháy, thủ trưởng các Sở, Ty phòng cháy và chữa cháy có quyền tạm thời đình chỉ hoạt động của từng bộ phận hoặc của toàn bộ đơn vị ấy, đồng thời báo cáo ngay lên Bộ Nội vụ và Uỷ ban hành chính sở quan; nếu đơn vị ấy do trung ương trực tiếp quản lý thì phải đồng thời báo cáo ngay quyết định tạm thời đình chỉ hoạt động đó lên cơ quan trung ương sở quan.
Đơn vị hoặc cá nhân có thành tích phòng cháy hoặc chữa cháy sẽ được khen thưởng.
Người nào vi phạm các quy định về phòng cháy và chữa cháy hoặc gây ra nạn cháy thì tuỳ trách nhiệm nặng nhẹ mà bị thi hành kỷ luật hành chính, bị xử lý theo thể lệ quản lý trị an hoặc bị truy tố theo pháp luật.
Hội đồng Chính phủ quy định biện pháp cụ thể thi hành pháp lệnh này.
Pháp lệnh này đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thông qua ngày 27 tháng 9 năm 1961.

Hồ Chí Minh
(Đã ký)

Thursday 26 September 2013

Ký ức người chỉ huy “Cao điểm cuối cùng” (Phương Liên - Chính Phủ)


Ký ức người chỉ huy “Cao điểm cuối cùng”

08:03 SA, 07/05/2013
(Chinhphu.vn) - Đối với Thiếu tướng Nguyễn Dũng Chi, mặc dù đã vào “cái tuổi xưa nay hiếm”, nhưng trong ông những ký ức sâu đậm về chiến thắng hào hùng trên đồi A1 tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ cách đây 59 năm vẫn còn nguyên vẹn.
Thiếu tướng Nguyễn Dũng Chi. Ảnh VGP/Phương Liên
Ít ai biết rằng nguyên mẫu nhân vật người tiểu đoàn trưởng trong tiểu thuyết Cao điểm cuối cùng của Nhà văn Hữu Mai chính là Thiếu tướng Nguyễn Dũng Chi.
Sinh ra và lớn lên tại Huế, ngưỡng mộ và quyết đi theo con đường cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 1945, khi 18 tuổi mặc dù tốt nghiệp Trường Quốc học Huế, đậu tú tài Pháp nhưng Thiếu tướng Nguyễn Dũng Chi quyết định xếp bút nghiên tham gia cách mạng và tròn 30 năm sau, sau khi đã đi qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc, ông mới trở về gặp lại gia đình.

Tại chiến dịch Điện Biên Phủ, Nguyễn Dũng Chi khi đó mới 27 tuổi, đã là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 251, Trung đoàn 174 chịu trách nhiệm chỉ huy một mũi quân đánh trực tiếp vào đồi A1, “đầu não” chỉ huy của địch. Trận đánh đồi A1 là một trận đánh dài ngày nhất, ác liệt nhất của chiến dịch Điện Biên Phủ, kéo dài từ ngày 31/3 đến 7/5/1954.

16h ngày 31/3/1954, Tiểu đoàn của Nguyễn Dũng Chi bắt đầu xuất phát từ trong giao thông hào sâu đến 1m60 để tiếp cận địch. Trong ký ức của ông còn nhớ, ngày hôm đó bầu trời trong vắt không một gợn mây. Chỉ sau vài tiếng chuẩn bị, trận A1 đã bắt đầu vào lúc 19h30 ngày 31/3/1954.

Trận chiến A1 trải qua những ngày tháng cam go, liên tục giằng co giữa sự sống và cái chết. Những ngày tháng đó, Nguyễn Dũng Chi cùng đồng đội chỉ có một ý chí quyết tâm bằng mọi giá phải đánh thắng.

Trong suốt hơn một tháng trời, các đơn vị bộ binh đã chiến đấu ác liệt, Nguyễn Dũng Chi tận mắt chứng kiến đồng đội mình hy sinh, xác lẫn trong bom đạn của quân thù. Ông bồi hồi: “Thương tiếc vô cùng! Tên anh em giờ đây tôi không nhớ, chỉ biết họ là những chiến sĩ tin cậy được chọn trong số những người dũng cảm nhất để đánh trận quyết định”.

Trưa 7/5/1954, Pháp bắn loạt đạn cuối cùng từ đồi A1 mà theo ông Nguyễn Dũng Chi, đó là một sự đáp trả trong quằn quại và nhục nhã của những kẻ thua trận.

Hơn 15h chiều ngày 7/5, ông cùng các đồng đội nhìn xuống sông Nậm Rốm thấy thấp thoáng đã có vài mảnh vải trắng, cờ trắng đuôi nheo ở phía Tây và đầu sân bay, nhìn xuống phía Nam, mấy cứ điểm 205, 311 gần trung tâm chỉ huy cũng thấy vải trắng đủ kiểu và một số lính Pháp lố nhố phía Tây bờ sông. Lúc đó ông vội nhảy ra khỏi hào, vụt xuống đồi, lội bộ qua sông Nậm Rốn để chạy vào khu trung tâm.

Trước mắt ông, cả đồi A1 là một rừng cờ trắng ngợp trời, từng đoàn lính Pháp tỏa ra các phía để đầu hàng. Đồng hồ lúc đó điểm 16 giờ. Và chiến thắng từ đồi A1 đó đã mang ý nghĩa quyết định: kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ.

Khi Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Dũng Chi vào hầm De Castries thì hầm đã trốn trơn. Ông thấy trên chiếc bàn tròn của De Castries còn một khẩu súng Browning9 kim loại bóng, một con dao đa năng và một bút máy hiệu Parker. Hiện nay ông vẫn còn giữ con dao đa năng của vị tướng Pháp thất trận làm kỷ niệm.

Sau giây phút rà soát hầm De Castries, Nguyễn Dũng Chi đã gặp tiếp một sự kiện đặc biệt: nhận lời đầu hàng vô điều kiện của Viên quan tư Pháp Marcel Bigeard, sau này trở thành Đại tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Pháp, lúc đó cũng còn rất trẻ, khoảng 30 tuổi.

Nguyễn Dũng Chi kể rằng khi ông đang đứng giữa lưng chừng đồi A1 dốc về phía trung tâm Điện Biên Phủ thì Đại đội trưởng Lâm Viết Hữu chạy ngược lên:

- Báo cáo ban chỉ huy, có quan tư Tây đầu hàng muốn gặp.

Ông lập tức ra lệnh:

- Cho nó lên.

Ngay sau đó, một tên quan Tây cao lớn, mang quân hàm thiếu  tá, đầu đội mũ bêrê lệch, ngực đeo Bắc đẩu bội tinh đồng, đánh gót đưa tay chào:

- Thiếu tá Bigeard thuộc quyền ngài. Quân số chỉ còn 150 người. Đợi lệnh ngài.

Ông bồi hồi nhớ lại: "Chao ôi! Hãnh diện biết chừng nào! Lần đầu tiên trong đời binh nghiệp, một tiểu đoàn trưởng Việt Nam nhỏ con tay chắp sau lưng ngắm nghía tên quan tư nổi tiếng của quân đội Pháp, viên chỉ huy cơ động của De Castries đang chào và đợi lệnh của tôi”.

Thiếu tướng Nguyễn Dũng Chi kể rằng Bigeard xin phép được hút thuốc lá và xin cho y tá bó gót chân của y đang bị sái gân và ông đã gật đầu cho phép. Sau đó, Bigeard cùng toán tàn quân, có cả lính lê dương cõng tù binh bị thương trên cổ, lùi lũi leo lên đồi A1 để tiếp tục chờ đợi sự phán quyết của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Thiếu tướng Nguyễn Dũng Chi vẫn còn nhớ như in xúc cảm trong giờ phút ấy: “Người tôi nhẹ bẫng, lảo đảo như đang đi trên thuyền. Thắng trận rồi, tôi sung sướng cực độ, mà điều kỳ diệu là mình vẫn còn sống! Tôi bất giác sờ xuống đầu gối, các vết thương dính lựu đạn trên đồi A1 lần đầu đã đóng vẩy tự bao giờ, bước thấp bước cao và trong đầu tôi văng vẳng lời Chính ủy Chu Huy Mân đã luôn nhắc tôi trước lúc vào trận: "Ra đi phải chiến thắng trở về".

Phương Liên