Tuesday 8 October 2013

Tôi làm văn thư đối ngoại của Hồ Chủ tịch (Lưu Văn Lợi - Thế Giới & Việt Nam)

Tôi làm văn thư đối ngoại của Hồ Chủ tịch*




Từ năm 1965, Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson chủ trương đưa lục quân Mỹ vào miền Nam chiến đấu, dùng không quân, hải quân Mỹ đánh phá miền Bắc, gây nên những tội ác ghê tởm. Thế giới cực lực phản đối. Thư và điện từ khắp các châu lục gửi tới tấp tới Phủ Chủ tịch. Đồng chí Nguyễn Duy Trinh và đồng chí Xuân Thủy thấy không nên để công việc dồn vào văn phòng Chủ tịch như thế và nhất trí đề cử tôi (lúc đó đang là Chánh Văn phòng Bộ Ngoại giao chuyên trách thảo và duyệt các căn bản tiếng Việt và tiếng Pháp), phụ trách văn thư đối ngoại của Hồ Chủ tịch. Bác đồng ý.
Từ ngày đó, ngoài nhiệm vụ Chánh Văn phòng Bộ, tôi phải đọc các thư, điện của bên ngoài gửi Hồ Chủ tịch và báo cáo với Người. Nếu thấy cần trả lời thì dự thảo nội dung trả lời. Các thư gửi Bác phần nhiều từ Mỹ, Anh, Pháp, Bắc Âu, Đức, Australia, một số từ châu Phi. Nội dung đều lên án Mỹ ném bom miền Bắc, đưa quân Mỹ vào miền Nam, kêu gọi chấm dứt chiến tranh, đồng thời bày tỏ cảm tình với nhân dân VN không chống nổi các cuộc tấn công của Mỹ, siêu cường có tiềm lực quân sự mạnh nhất thế giới. Thậm chí, có một người trích cả một đoạn trong Kinh thánh và gửi 2-3 lần cho Bác.
Đặc biệt, có một bức thư mà không bao giờ tôi quên: Bức thư của bà Mary Wheeldon. Bà là người Anh sinh sống ở Australia, chồng qua đời, có một con trai tên John. Bà không ở tổ chức nào, nhưng ủng hộ Việt Nam tích cực. Bà thường mang cờ của Mặt trận giải phóng, còn anh John mang cờ VNDCCH tham gia các cuộc biểu tình phản đối Mỹ. Khi đang sống ở Australia, thấy Chính phủ Holt tuyên bố toàn thể thanh niên 20 tuổi phải đăng ký nhập ngũ đi chiến trường Việt Nam, hai mẹ con bà trở về Anh. Bà cho biết, con bà khâm phục Bác Hồ, nên John may ngay bộ quần áo giống của Bác Hồ mặc trong ảnh và gọi đó là: “Bộ đồng phục cách mạng của Bác Hồ”.
Bức thư của bà dài nên tôi chỉ trích ra đây một đoạn: “Toàn thế giới đều biết Mỹ là kẻ xâm lược, và chúng tôi đã tìm hết cách để chứng minh điều đó cho tất cả những ai gặp chúng tôi. Sẽ đến lúc Chúa trừng phạt Chính phủ Mỹ về tất cả những hành động như ma quỷ, tra tấn, giết chóc, phá hoại nhà cửa, nhà thờ, trường học, đền chùa và các dinh thự khác. Máu của những trẻ em vô tội đã chết ngay trong bụng mẹ vì mẹ bị giết một cách tàn nhẫn không thể nào tránh khỏi sự xét xử của Chúa.
… Nhân dân Việt Nam thật anh hùng. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muôn năm! Cầu Chúa ban phước lành cho toàn thể các vị và làm cho cả nước Việt Nam được thống nhất để nhân dân Việt Nam được hưởng hòa bình và sự phồn vinh mà nhân dân VN xứng đáng được hưởng”.
Cả bà Mary và John đều ký tên vào bức thư.
Trở về London, mỗi tuần bà ủng hộ Việt Nam 5 bảng Anh 9 Livre. Năm 1967, bà tặng 13 bảng Anh (với ý nghĩa kỷ niệm 13 năm chiến thắng Điện Biên Phủ). Đến ngày 19/5, bà gửi thư chúc mừng Bác và tặng 19 bảng Anh. Năm 1968, bà gửi thiếp chúc mừng Bác 78 tuổi, đòi Mỹ rút khỏi Việt Nam và chúc nhân dân Việt Nam giành thắng lợi cuối cùng và độc lập. Bác Hồ đã chỉ thị cho tôi làm điện cảm ơn bà với danh nghĩa Văn phòng Phủ Chủ tịch.
Câu chuyện thư trả lời bà Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi cũng thật vui. Đầu năm 1966, bà Indira, con gái Thủ tướng Nerhu, được bầu làm Thủ tướng nước CH Ấn Độ. Hồi Thủ tướng Nerhu thăm Việt Nam, bà được đi theo và được Bác nhận làm cháu.
Trong thư, bà ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam, nêu trách nhiệm nặng nề của bà và mong muốn đặt những quan hệ mới giữa hai nước. Đầu thư, bà viết: “Thưa Bác Hồ thân mến! Trong những năm qua, quan hệ giữa hai nước chúng ta hình như ở mức độ hình thức, nên tôi nghĩ nhân dịp này, cần đặt những quan hệ mới. Bác đã vui lòng gọi tôi là cháu. Chính là với tư cách đó, mà cháu viết thư này cho Bác”.
Bản dự thảo thư trả lời được Bác sửa chỗ này chỗ kia, nhưng nói chung là được Bác chấp nhận. Chỗ lúng túng của chúng tôi là Bác nên xưng hô thế nào, gọi bà ấy là Thủ tướng hay là cháu? Chúng tôi bàn với nhau, sau viết là: “Cháu Indira Gandhi thân mến, Bác sung sướng thấy cháu vẫn giữ những tình cảm thân thiết đối với Bác. Bác vẫn giữ ấn tượng sâu sắc về nhân dân và đất nước Ấn Độ và luôn mong muốn quan hệ giữa hai nước chúng ta phát triển trên cơ sở 5 nguyên tắc chung sống hòa bình”.
Khi chúng tôi trình dự thảo thư, Bác bỏ ngay cụm từ mở đầu “Cháu Indira Gandhi thân mến” và đề là “Kính thưa bà Indira Gandhi, Thủ tướng nước Ấn Độ”. Và sửa câu đầu như sau: “Tôi cảm ơn Thủ tướng vẫn giữ những tình cảm thân thiết bác cháu giữa chúng ta và luôn mong muốn giữ quan hệ hai nước phát triển tốt đẹp trên cơ sở 5 nguyên tắc chung sống hòa bình”. Bác không gọi bà Indira là “cháu”, nhưng lại nói đến “tình cảm bác cháu chúng ta”, thì vẫn đủ nghĩa, kín đáo và lễ độ, thật tài tình!
Tôi giải quyết vấn đề các thư đối ngoại của Bác nói chung là suôn sẻ, chỉ có một lần sơ suất nhỏ. Lần đó, cụ mục sư Mỹ Muste, 82 tuổi, người đứng đầu phong trào hòa bình ở Mỹ, đến Việt Nam với danh nghĩa “Những người tình nguyện vì hòa bình”. Cụ được Hồ Chủ tịch tiếp rất thân tình. Bác cảm ơn cụ từ ngàn dặm xa xôi bỏ công đến thăm Việt Nam đang bị xâm lược. Ít lâu sau khi về nước, cụ Muste qua đời. Tôi thảo bức điện chia buồn với gia đình cụ. Bức điện đó bằng tiếng Anh được đưa Bác duyệt. Sau khi gửi điện đi rồi, tôi mới sực nhớ chưa đưa Bác bản dịch tiếng Việt để đăng báo. Hôm sau, tôi sang làm việc với Bác, Bác phê bình không đưa Bác duyệt và phê bình dùng chữ sai. Bác nói: “Các chú dùng chữ gửi gia đình những lời chia buồn sâu sắc” là không ổn. Gia đình là chỉ một cộng đồng lớn, đáng lẽ phải viết gửi “gia quyến” là những người gần gũi nhất, tiếng Pháp là “les proches”. Vạn tạ Bác đã cho chúng con một bài học về tính chính xác trong văn chương và cả một bài học về từ ngữ tiếng Việt.
Trong thời gian làm văn thư đối ngoại, có lần tôi làm phiên dịch cho Bác. Tháng 3/1968, khi Mỹ mở rộng chiến tranh, đưa quân Mỹ vào miền Nam và tiến hành chiến tranh leo thang phá hoại miền Bắc, ĐCS Pháp cử một đoàn đại biểu sang Hà Nội động viên nhân dân Việt Nam. Đoàn do đồng chí Jacques Duclos, Ủy viên Bộ Chính trị dẫn đầu. Duclos và Nguyễn Ái Quốc là hai người bạn thân quen biết nhau từ Đại hội Tua năm 1920 và từ đó thường gặp gỡ, trao đổi với nhau về các vấn đề chính trị. Hồ Chủ tịch rất cảm động được gặp lại Duclos. Tôi được dự với tư cách phiên dịch.
Bác phát biểu vui vẻ, ngắn gọn chào mừng đoàn, đặc biệt nhắc đến thời kỳ hoạt động ở Pháp và nhắc đến tình cảm sâu sắc đối với các đồng chí lãnh đạo ĐCS Pháp và nhiều đồng chí khác, đó là những năm tháng không thể nào quên. Bác nói đó là truyền thống của người Việt Nam: Cây đa, bến cũ, con đò năm xưa.
Đến đây các vị khách Việt Nam vỗ tay rầm rầm vì câu kết hợp thời và tình tứ làm sao! Anh Tố Hữu gọi: Anh Lợi đâu? Tôi không giật mình về sự thúc giục của anh vì chính tôi đang chuẩn bị dịch, nói đúng ra đang lúng túng không biết dịch thế nào cho hay. Ngay lúc đó, Bác đọc lại: Cây đa, bến cũ, con đò năm xưa. Rồi tự dịch: Le banian, l’embarcadère, le bac de l’année passée. Bấy giờ, đến lượt đồng chí Duclos và các đồng chí Pháp nồng nhiệt vỗ tay, tỏ ra hiểu được cái sâu sắc, cái đẹp trong câu thơ, cái nhân hậu của con người Việt Nam. Hú vía! Bác tâm lý lắm, đoán biết rằng tôi tài giỏi gì cũng không thể dịch ngay, dịch hay câu thơ đó.
Tôi làm văn thư đối ngoại của Bác đến đầu năm 1968, rồi đi công tác châu Phi. Hơn hai năm được làm với Bác thật là một vinh dự lớn đối với tôi. Thời gian hai năm là quá ngắn, nhưng vinh dự là cả cuộc đời.
Lưu Văn Lợi, Nguyên Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao
* Trích từ hồi ký « Gió bụi đường hoa » của tác giả Lưu Văn Lợi

Đợt phong quân hàm đầu tiên của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam là khi nào?


Đợt phong quân hàm đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam là khi nào?
Để trả lời câu hỏi này ta cần xác định rõ nghĩa của từ quân hàm.
Ngày 22 tháng 3 năm 1946 chủ tịch chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra sắc lệnh số 33/SL minh định các cấp bậc, quân phục, phù hiệu, cấp hiệu [...] để tổ chức quân đội. Theo sắc lệnh này quân nhân có thể được ban một cấp bậc từ binh nhì đến đại tướng.

Từ quân hàm chính thức xuất hiện lần đầu trong sắc lệnh số 116/SL ngày 25 tháng 1 năm 1948 của chủ tịch chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa về việc đặt một hệ thống quân hàm cho các nhân viên thuộc bộ quốc phòng không phải là quân nhân (điều 1). Hệ thống quân hàm này gồm có các cấp bậc từ hạ sĩ đến trung tướng (điều 2). Về phương diện danh vị và kỷ luật, những nhân viên có quân hàm được quyền hạn và có nhiệm vụ như những quân nhân cùng cấp bậc trong Quân Đội Quốc Gia (điều 3).

Chiếu sắc lệnh 116 này, ông Trần Đại Nghĩa, quân giới cục trưởng, nay thụ cấp quân hàm thiếu tướng (điều 1 sắc lệnh số 117 25 tháng 1 năm 1947), phải được hiểu là được đồng hóa với cấp (bậc) thiếu tướng trong quân đội (tiếng Pháp là assimilé au grade de général de brigade). Ở đây quân hàm thiếu tướng là một tổ hợp Hán Việt với trung tâm là thiếu tướng và thành phần phụ là quân hàm, cùng kiểu tổ chức với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (nước cộng hòa theo chế độ dân chủ), quân giới cục trưởng (nay là cục trưởng quân giới)...

Trong khi đó Hoàng Văn Thái, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Nguyễn Sơn đều là quân nhân và là thiếu tướng (thiệt thọ) chứ không phải quân hàm thiếu tướng. Điều 1 sắc lệnh 111 ngày 20 tháng 1 năm 1948 của chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi rõ:
Các quân nhân có tên dưới đây thụ cấp thiếu tướng kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1948
Ông Hoàng Văn Thái Tổng tham mưu trưởng Quân đội quốc gia Việt Nam
Nguyễn Sơn Khu trưởng Chiến khu 4
Chu Văn Tấn Khu trưởng Chiến khu 1
Hoàng Sâm Khu trưởng Chiến khu 2

Quân hàm hiện nay có nghĩa là cấp bậc trong quân đội (Hoàng Phê, 2006:805). Có nghĩa này là do quân đội nhân dân Việt Nam từ sau năm 1950 học tập cách tổ chức của quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Chế độ quân hàm (cấp bậc trong quân đội) được chính thức áp dụng trong quân đội Trung Quốc năm 1955. Ba năm sau đó Quốc Hội Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong phiên họp ngày 31-5-1958 biểu quyết thông qua Luật quy định chế độ phục vụ của sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam, chính thức sử dụng từ quân hàm. Trong luật này hai từ quân hàmcấp bậc là tuyệt đối đồng nghĩa.


Đôi khi quân hàmcấp bậc được sử dụng trong cùng một câu để tránh lặp từ:
Hệ thống quân hàm sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam gồm các cấp bậc sau đây:
...
Vì nhu cầu công tác hoặc vì lý do sức khoẻ một sĩ quan có thể được giao cho giữ một chức vụ thấp hơn chức vụ tương đương với quân hàm của mình. Nhưng trường hợp này không phải là giáng chức, sĩ quan vẫn giữ nguyên cấp bậc cũ.
Lại có khi cấp bậcquân hàm được ghép thành cấp bậc quân hàm:
Việc xét phong cấp bậc quân hàm cho cán bộ căn cứ vào phẩm chất chính trị, năng lực nghiệp vụ, cấp bậc và chức vụ hiện tại, thành tích phục vụ trong Quân đội và công lao đối với Cách mạng của cán bộ.
Việc xét thăng cấp bậc cho sĩ quan căn cứ vào niên hạn ở cấp bậc quân hàm hiện tại, phẩm chất chính trị, năng lực nghiệp vụ, thành tích chiến đấu và công tác.
Mỗi cấp bậc quân hàm có một chức vụ tương đương trong biên chế.
Hệ thống chức vụ trong biên chế của Quân đội do Chính phủ ấn định căn cứ vào tình hình tổ chức cụ thể của Quân đội trong từng giai đoạn.


Khái niệm quân hàm của sắc lệnh 116 (ngày 25 tháng 1 năm 1948) bị thủ tiêu bằng điều 47 của Luật quy định chế độ phục vụ của sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam.


Kể từ đây quân hàm thiếu tướng (đồng nghĩa với cấp bậc thiếu tướng) là một tổ hợp với trung tâm là quân hàm thiếu tướng đóng vai trò định ngữ:
 Ngay sau khi nhận quân hàm Thiếu tướng, Bộ Tư lệnh BĐBP đã tổ chức buổi lễ gặp mặt, chúc mừng các đồng chí được nhận quân hàm Thiếu tướng.
(Hoàng Anh, “Trao quân hàm Thiếu tướng cho 2 cán bộ cao cấp của lực lượng BĐBP”, http://bienphong.com.vn/BaoBienPhong/32/349/349/17427/Trao-quan-ham-Thieu-tuong-cho-2-can-bo-cao-cap-cua-luc-luong-BDBP/bbp.aspx)

Monday 7 October 2013

Cấp đại tướng, hàm đại tướng hay chức vụ đại tướng?



Sắc lệnh số 110/SL ngày 20 tháng 1 năm 1958 của chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi:
Ông Võ Nguyên Giáp, Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia và Dân quân Tự vệ, nay thụ cấp Đại tướng kể từ ngày ký Sắc lệnh.

Ngày 20-1-1948, Bác ký sắc lệnh phong quân hàm cho một số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy quân đội. Tôi được trao quân hàm Đại tướng.
...
Bác nói: “Hôm nay, thay mặt Chính phủ và nhân dân...” rồi bỗng ngừng lời, rút khăn tay lau nước mắt. Giây phút đó làm cho cả hội trường vô cùng xúc động. Lát sau, Bác nói tiếp: “Nhân danh Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trao cho chú chức vụ Đại tướng để chú điều khiển binh sĩ làm tròn sứ mạng mà quốc dân phó thác cho…”. Bác trao cho tôi sắc lệnh.
(Nhớ lễ phong tướng 60 năm trước – Quân Đội Nhân Dân 01/02/2008)



Nhậtký của bộ trưởng Lê Văn Hiến cũng ghi lại việc Hồ chủ tịch sử dụng cụm từ chức vụ đại tướng:
Giây lâu, Hồ Chủ tịch mới cất được tiếng mà tuyên bố: “Nhân danh Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trao cho chú chức vụ Đại tướng, để chú điều khiển binh sĩ làm trọn sứ mạng mà quốc dân phó thác cho”... Sau khi hết lễ, ai nấy ngồi xung quanh Hồ Chủ tịch và nghe Cụ nói sự xúc cảm của Cụ trong buổi lễ


Bài Tại buổi lễ thụ phong hàm đại tướng đầutiên của quân đội ta - 14/09/2009 trên báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam kể lại sự việc với từ ngữ hơi khác:
Tiếp đó, Bác giao bản Sắc lệnh cho đồng chí Võ Nguyên Giáp và nói: ''Nhân danh Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bác trao cho chú hàm Đại tướng để chú điều khiển binh sĩ, làm tròn sứ mệnh mà nhân dân phó thác cho''.

Tại buổi lễ thụ phong hàm đại tướng đầu tiên của quân đội ta

Tại buổi lễ thụ phong hàm đại tướng đầu tiên của quân đội ta
10:56 | 14/09/2009
Hơn năm mươi năm qua rồi mà vẫn còn nhớ mãi những ngày tháng không thể nào quên của Bác Hồ: tháng 5-1948.Đó là những ngày Việt Bắc đang tưng bừng sau chiến thắng Thu - Đông 1947. Bác Hồ vui hơn và khỏe hơn sau gần 3 năm cùng với toàn dân bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ với nhiều thắng lợi vẻ vang.
Mở đầu tháng 5 năm ấy, đúng ngày mồng 1, Bác Hồ viết lời kêu gọi thi đua yêu nước:
''Cùng toàn thể đồng bào yêu quý,
Nước ta kinh tế lạc hậu, nhưng lòng yêu nước và chí quật cường chẳng kém ai.
Nay muốn tự cấp, tự túc, đi kịp người ta, thì chúng ta phải đi mau.
Vì vậy, sĩ, nông, công, thương, binh, gái trai già trẻ, toàn thể quốc dân ta, vô luận ở địa vị nào, làm công việc gì, phải ra sức tham gia cuộc Thi đua yêu nước, tức là tăng gia sản xuất.
Như thế thì:
Kháng chiến nhất định thắng lợi,
Kiến quốc nhất định thành công”.
Ngày 5-5-1948, Bác viết Thư gửi Đội lão du kích huyện Yên Dũng, Bắc Giang, bày tỏ lòng thương tiếc bảy vị lão du kích đã hy sinh vì nước. Thay mặt Chính phủ, Bác biểu dương công trạng của các vị và nêu rõ:
“Các cụ ấy đã hy sinh, nhưng lòng yêu nước, chí quật cường, tinh thần dũng cảm của các cụ sẽ ở trong lòng tất cả đồng bào, tất cả mọi người du kích. Và tiếng thơm của các cụ sẽ giai truyền với non sông của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thống nhất và độc lập''.
Càng đến ngày 19-5, cả nước sôi nổi phong trào thi đua lập thành tích chào mừng sinh nhật Bác Hồ. Thư, điện nhiều nơi gửi đến chúc thọ Bác.
Đúng ngày 19-5, Bác viết một lá thư cảm ơn chung Quốc hội, Chính phủ, các đoàn thể, bộ đội, đồng bào trong cả nước và kiều bào ở nước ngoài.
Cuối thư Bác viết:
Đồng bào yêu mến tôi, chúc thọ tôi, tôi biết lấy gì, nói gì để báo đáp lại lòng thân ái ấy. Tôi chỉ có một cách báo đáp là kiên quyết cùng đồng bào chịu cực khổ, quyết cùng đồng bào kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, quyết cùng đồng bào tranh lại độc lập, thống nhất thật sự cho Tổ quốc, quyết cùng đồng bào ra sức làm thế nào cho con cháu chúng ta bây giờ và muôn đời về sau được sung sướng và tự do.
Trước ngày sinh nhật lần thứ 58 mấy hôm, Bác nhận được thư của cụ Phùng Lục, một phụ lão Cứu quốc huyện Ứng Hòa, Hà Đông. Lời lẽ bức thư rất cảm động: ''Nhờ ơn Tổ quốc, năm nay tôi hưởng thọ 90 tuổi, theo cổ tục tất phải làm lễ thượng thọ. Nhưng trong lúc này, nước nhà có việc, nên tôi miễn sự tế lễ ăn uống, thành tâm đem món tiền 500 đồng kính dâng Chủ tịch để sung vào Quỹ kháng chiến toàn quốc.
Ước mong món tiền nhỏ trên đây được thu nhận để giúp ích trong muôn một thì lòng già rất được hân hoan''.
Trong thư phúc đáp, Bác viết: “Thưa cụ! Những vị Thượng thọ như cụ là của quý vô giá của dân tộc và nước nhà.
Trong ngày chúc thọ, cụ lại miễn sự tế lễ linh đình mà đem số tiền 500 đồng vào Quỹ kháng chiến. Như thế là cụ đã nêu cái gương hăng hái kháng chiến và cái gương sửa đổi cổ tục thực hành đời sống mới cho toàn thể đồng bào noi theo.
Cháu xin thay mặt Chính phủ cảm ơn cụ và trân trọng chúc cụ sống lâu và luôn luôn mạnh khỏe để kêu gọi con cháu ra sức tham gia công việc kháng chiến và cứu quốc.
Cháu lại kính gửi cụ lời chào thân ái và quyết thắng''.
Thời gian này, Bác được báo cáo rằng thực dân Pháp và chính quyền bù nhìn đang ráo riết dụ dỗ, lôi kéo giới trí thức đang tham gia kháng chiến trở lại vùng địch. Nhân dịp viết thư cho ông Vũ Trọng Khánh, Giám đốc Tư pháp Liên khu 10, chia buồn về việc bà cụ thân sinh ông Khánh mất, Bác động viên anh em trí thức trong cơ quan tư pháp nói riêng và anh em trí thức đang tham gia kháng chiến nói chung, sao cho xứng với nhiệm vụ thiêng liêng của mỗi người, xứng đáng với lòng tin của Chính phủ, xứng đáng với lịch sử, với đồng bào, với Tổ quốc.
Cuối thư, Bác viết những lời tâm huyết: Ai chẳng muốn no cơm, ấm áo. Nhưng sinh hoạt vật chất hết đời người đó là hết. Còn tiếng tăm xấu hay tốt sẽ truyền đến ngàn đời sau.., Chúng ta có tinh thần vững chắc thì ''Phú quý không dụ dỗ được ta, oai lực không dọa nạt được ta. Mà khó khăn gì chúng ta cũng vượt qua được, việc gì chúng ta cũng làm được”.
Tiếp đó, Bác viết thư gửi cụ Bùi Bằng Đoàn, Trưởng ban Thường trực Quốc hội, kèm theo bản dự thảo lời điếu cụ Nguyễn Văn Tố. Thư viết: ''Tôi muốn có một bài truy điệu cụ Tố. Nhưng nhờ người viết thì không biết nhờ ai. Tự viết lấy thì viết không được, vì xưa nay tôi chưa hề tập viết văn tế.
Vậy tôi cứ bạo dạn thảo ra đây, trình cụ xem. Nếu có thể sửa thì xin cụ sửa giùm. Nếu không thể sửa, thì ta làm văn xuôi vậy.
Khi tôi thảo xong, đọc lại, nghe khá chướng tai. Vì đối với cụ, tôi không dám giấu dốt, cho nên cứ gửi để cụ xem''.
Cuối bài văn tế cụ Tố của Bác có đoạn:
“Cụ dù hy sinh, tinh thần cụ ngàn thu sẽ vẻ vang bất diệt. Với cụ, dân tộc mất một người chí sĩ, thế giới mất một người danh nho.
Cho nên Chính phủ khôn xiết nỗi buồn rầu, đồng bào khôn xiết lòng thương tiếc… Tôi kính cẩn nghiêng mình trước anh linh cụ mà hứa rằng. Từ đây, quốc dân ta đã đồng tâm, càng thêm đồng tâm
Chính phủ ta đã kiên quyết, càng thêm kiên quyết
Quyết trường kỳ kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn
Quyết tranh thống nhất, độc lập cho nước nhà Nam Việt
Để anh linh cụ và những liệt sĩ đã hy sinh đều vui sướng ở chốn suối vàng
Và nền dân chủ cộng hòa của nước sẽ vững như vầng nhật nguyệt''.
Từ ngày 20-5-1948, Bác bắt tay vào chuẩn bị bản báo cáo để đọc trước cuộc họp Hội đồng Chính phủ dự kiến vào ngày 27-5-1948. Với tác phong làm việc dân chủ, thực sự cầu thị, hễ có điều kiện là Bác tranh thủ ý kiến của mọi người xung quanh để bổ sung cho bản báo cáo của mình.
Sáng ngày 24-5-1948, sau khi tham khảo lần cuối ý kiến của một số bộ trưởng, hoàn chỉnh bản thảo Bác vui vẻ dẫn mọi người ra vườn tăng gia của mình, cạnh bờ một con suối nhỏ, chụp chung một kiểu ảnh kỷ niệm. Sau đó Bác mời tất cả mọi người ở lại ăn cơm trưa với Bác. Bữa cơm có món gà rô ti do các đồng chí bảo vệ vừa bắn được trên rừng, có cả chị Hà, vợ anh Văn cùng dự nên càng thêm vui.
Buổi chiều có thêm hai vị khách mới là hai vị Bộ trưởng trên đường đi dự họp Hội đồng Chính phủ ghé qua và cũng được Bác mời cơmHôm nay Bác rất vui, nói chuyện nhiều, nhắc lại những ngày bôn ba hoạt động ở nước ngoài. Mọi người vây quanh Bác, chăm chú lắng nghe. Trong ngôi nhà sàn đơn sơ, giữa khu rừng đại ngàn vắng vẻ, hình ảnh Bác Hồ hiện lên thật đẹp, vừa lãng mạn vừa hào hùng...
Mới mười năm trước đây, năm 1938, Bác lặng lẽ rời Liên Xô, tìm cách vượt qua Xibêri mênh mông, về Diên An, Trung Quốc. Một cuộc ra đi bất ngờ và táo bạo, đón đúng thời điểm lịch sử của cách mạng thế giới và cả cách mạng Việt Nam. Đó là quyết định của những thiên tài. Chỉ một năm sau, tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, chỉ hai năm sau, tháng 9-1940, phát xít Nhật vào Đông Dương. Tháng 2-1941, Bác đã có mặt ở Pác Bó trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tháng 5-1941, Bác triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ tám, tiếp đó thành lập Mặt trận Việt Minh… Từ đây, cách mạng Việt Nam chuyển sang một bước ngoặt mới dưới bàn tay chèo lái tài tình của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Cơm chiều xong thì trời đổ mưa to. Những cơn mưa đầu mùa dữ dội của núi rừng Việt Bắc. Gió rít từng cơn, làm cho căn lán của Bác đôi lúc như bị chao nghiêng. Thế là không ai về được. Mọi người lại tiếp tục quây quần bên Bác nói chuyện tâm tình, ai cũng cho rằng đây là một thời cơ hiếm có. Bác hỏi thăm hoàn cảnh gia đình từng người, quan tâm đến từng cháu nhỏ.
Nhân lúc vui vẻ chan hòa trong không khí đầm ấm thân tình, một đồng chí Bộ trưởng mạnh dạn nhắc khéo Bác về chuyện gia đình riêng. Bác cũng vui vẻ tâm sự: ''Mình chẳng phải thần thánh gì. Cũng như tất cả mọi người thôi. Nhưng trong hoàn cảnh hiện nay thì còn điều kiện nào mà nghĩ đến gia đình...''.
Thấy mọi người vẫn tỏ ý quan tâm, Bác cười xòa ra ý chống chế: ''Thôi, gia đình nhỏ không thể được thì ta cứ lo xây dựng gia đình lớn vậy''.
Hết chuyện gia đình, hạnh phúc riêng tư, câu chuyện lại chuyển qua tình hình thế giới, tình hình chiến sự trên các chiến trường Bắc, Trung, Nam. Bác cho biết Nga và Mỹ đang tìm cách hòa hoãn. Anh, Pháp nghi ngờ Mỹ đã bí mật liên kết với Nga mà không cho họ biết. Giữa Anh và Mỹ có mâu thuẫn trong vấn đề Palextin...
Sau đó câu chuyện lại chuyển sang âm mưu của thực dân Pháp dựng nên chính quyền bù nhìn Nguyễn Văn Xuân. Mọi người cho rằng phải có thái độ nghiêm khắc, kiên quyết đối với các loại Việt gian phản động, tề ngụy gian ác, có nhiều nợ máu, nhưng đồng thời cũng phải hết sức khôn khéo mềm dẻo đối với bọn còn lừng chừng chưa nhúng tay vào tội ác. Phải tìm cách vô hiệu hóa họ, tiến tới lôi kéo họ làm việc giúp ích cho kháng chiến.
Cứ thế, giữa rừng khuya, trong cái đêm cuối tháng 5-1948 đáng ghi nhớ đó, Bác đã truyền cho những người có mặt một niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến trường kỳ. Sáng sớm ngày 25-5-1948, khi sương còn phủ trắng núi rừng, Bác và anh em phục vụ lặng lẽ dọn đến chỗ ở mới. Đó là một chiếc nhà sàn đơn sơ đã được chuẩn bị từ hai ba hôm trước, trên một ngọn đồi con ở xóm Nà Lọ, gần chân đèo De, thuộc huyện Định Hóa, Thái Nguyên. Đây là nơi dừng chân thứ 20 của Bác kể từ đêm ngày 26-11-1946, Bác rời vào ngã tư Canh, Hà Đông, bắt đầu chặng đường trường kỳ kháng chiến.
Chỗ ở mới cũng được chọn theo đúng tiêu chuẩn do Bác đề ra: Trên có núi. Dưới có sông. Có đất ta trồng. Có bãi ta chơi. Tiện đường sang Bộ tổng. Thuận lối tới Trung ương. Gần dân không gần đường.
15 giờ, Bác đi dự họp Đảng đoàn Chính phủ, có bàn vấn đề tổ chức lễ phong hàm Đại tướng cho đồng chí Võ Nguyên Giáp.
Buổi tối, trong cuộc họp với Ban vận động thi đua ái quốc, lần đầu tiên Bác phát biểu một cách toàn diện về phong trào thi đua. Nội dung phát biểu của Bác gồm: Mục đích thi đua, cách thi đua, kế hoạch thi đua, hệ thống tổ chức thi đua. Đây là một phong trào rộng lớn do Bác đích thân phát động và đã tạo nên một động lực mạnh mẽ thúc đẩy cuộc kháng chiến mau chóng đến thắng lợi hoàn toàn.
Ngày 26-5, từ chiều cho đến nửa đêm Bác dự họp với Việt Minh đoàn. Đây là những cuộc họp chuẩn bị cho cuộc họp Hội đồng Chính phủ vào ngày 28-5-1948.
Ngày 27-5-1948, 8 giờ sáng, Bác khai mạc phiên họp thường kỳ Hội đồng Chính phủ và dự họp cho đến nửa đêm.
Ngày 28-5-1948 là một ngày lịch sử, ngày Chính phủ tổ chức lễ thụ phong hàm Đại tướng cho đồng chí Võ Nguyên Giáp, Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và dân quân tự vệ Việt Nam, theo Sắc lệnh số 110/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 20 tháng Giêng năm 1948.
Buổi lễ được tiến hành trong một căn nhà bằng gỗ, phên nứa, lợp tranh, cạnh bờ một con số lớn.
Sát vách gian giữa là bàn thờ Tổ quốc trang nghiêm. Hai bên là hai băng khẩu hiệu nền đỏ chữ vàng: ''Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi'' - ''Thống nhất độc lập nhất định thành công”.
Bác và cụ Trưởng ban Thường trực Quốc hội đứng hai bên bàn thờ. Toàn thể nhân viên Chính phủ đứng xếp hàng trước bàn thờ.
Đúng 13 giờ, buổi lễ bắt đầu.
Không khí trang nghiêm, Bác bước ra bước bàn thờ Tổ quốc, tay cầm bản Sắc lệnh, gọi đồng chí Võ Nguyên Giáp ra đứng bên cạnh. Mọi người chờ đợi Bác cất tiếng, nhưng sao chẳng thấy Bác nói gì mà chỉ thấy Bác cầm khăn mùi soa lau nước mắt, cùng với những tiếng nấc nghẹn ngào. Ai nấy đều vô cùng xúc động. Một số đồng chí cũng rơm rớm nước mắt. Bên ngoài tiếng suối vẫn réo ầm ầm như tiếng vọng từ ngàn xưa dội về.
Những giây phút im lặng thiêng liêng.
Mãi sau, Bác mới cất tiếng, giọng trầm trầm: ''Các cụ ta qua bao thế hệ chiến đấu cho độc lập mà không thành, nhắm mắt mà chưa thấy được dân tộc tự do. Chúng ta may mắn hơn. Nhưng còn phải bao nhiêu hy sinh cố gắng. Hôm nay việc phong Tướng cho chú Giáp và các chú khác cũng là kết quả của bao nhiêu hy sinh, chiến đấu của đồng bào, đồng chí, chúng ta phải cố gắng, phải quyết giành được độc lập, tự do cho thỏa lòng những người đã mất''.
Tiếp đó, Bác giao bản Sắc lệnh cho đồng chí Võ Nguyên Giáp và nói: ''Nhân danh Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bác trao cho chú hàm Đại tướng để chú điều khiển binh sĩ, làm tròn sứ mệnh mà nhân dân phó thác cho''.
Đồng chí Võ Nguyên Giáp tiến lên một bước, nhận tờ Sắc lệnh trong tay Bác.
Cụ Bùi Bằng Đoàn, Trưởng ban Thường vụ Quốc hội nói mấy lời căn dặn.
Ông Phan Anh thay mặt Chính phủ nói mấy lời chúc mừng.
Ông Tạ Quang Bửu, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thay mặt toàn thể bộ đội nói lên niềm phấn khởi tự hào khi quân đội ta có vị Đại tướng đầu tiên làm Tổng chỉ huy.
Cuối cùng đồng chí Võ Nguyên Giáp phát biểu ý kiến cảm ơn sự quan tâm của Quốc hội, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, hứa sẽ tiếp tục nỗ lực làm tròn nhiệm vụ mà Tổ quốc và nhân dân giao phó, góp phần cùng toàn dân, toàn quân đem lại độc lập và thống nhất cho đất nước.
Đồng chí Võ Nguyên Giáp vừa dứt lờiBác bước đến xiết chặt tay và ôm hôn vị Đại tướng trẻ tuổi giữa tiếng vỗ tay hoan hô của mọi người.
Cách đây 8 năm, tháng 6-1940, lần đầu tiên Võ Nguyên Giáp được gặp Hồ Chí Minh trên một con thuyền ở Thúy Hồ, Côn Minh, Trung Quốc. Kể từ đó, ông luôn luôn có vinh dự được sống và chiến đấu bên cạnh Người, dưới sự dìu dắt của Người.
Tháng 12-1944, Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên Giáp thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Bốn năm sau, người chỉ huy Trung đội Giải phóng quân 34 người trở thành Đại tướng Tổng chỉ huy quân đội quốc gia và dân quân tự vệ Việt Nam với hàng chục vạn chiến sĩ đã lập nên biết bao chiến công vang dội.
Tháng 5-1998, vị Đại tướng đầu tiên của Quân đội ta kỷ niệm tròn 50 năm lễ thụ phong hàm Đại tướng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì.
50 năm ấy, ông đã đi suốt một chặng đường vẻ vang, từ chiến dịch Việt Bắc, chiến dịch Biên giới đến chiến dịch Điện Biên Phủ, từ “Điện Biên Phủ trên không'' đến Đại thắng Mùa xuân lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Hơn 50 năm sau lễ thụ phong hàm Đại tướng, ở tuổi ngoài 90, ông vẫn mạnh khỏe, minh mẫn, và vẫn là một trong những người đứng ở hàng đầu trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh vĩ đại, bách chiến, bách thắng.

Các từ khóa theo tin:
(HP (Theo Thư ký Bác Hồ kể chuyện))

Nhớ lễ phong tướng 60 năm trước (Võ Nguyên Giáp - Quân Đội Nhân Dân)



Đại tướng Võ Nguyên Giáp (12-1992). Ảnh: TRẦN HỒNG

Ngày 19-1-1948, Hội đồng Chính phủ họp.

Sau chiến thắng Việt Bắc, Bác đã bàn với Trung ương nhân dịp này để động viên tinh thần bộ đội, đánh dấu sự trưởng thành của lực lượng vũ trang qua hơn hai năm chiến đấu, cần thành lập Bộ Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia Việt Nam, phong quân hàm cho một số cán bộ quân đội và tặng thưởng huân chương cho những người đã lập được chiến công. Chủ trương của Đảng được toàn thể thành viên trong hội đồng Chính phủ hoan nghênh.
Ngày 20-1-1948, Bác ký sắc lệnh phong quân hàm cho một số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy quân đội. Tôi được trao quân hàm Đại tướng. Các anh Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình được phong Thiếu tướng. Đối với Nam Bộ, quân và dân Nam Bộ chiến đấu sớm nhất, đã hơn hai năm; Bác và Trung ương đã cân nhắc; cuối cùng, đi tới quyết định phong quân hàm Trung tướng cho anh Nguyễn Bình. Ngoài ra một số cán bộ cấp cục hoặc chỉ huy các liên khu được phong cấp đại tá. Việc phong quân hàm chỉ mới tiến hành trong những cán bộ chủ chốt, chưa thực hiện với toàn quân.
Hội đồng Chính phủ dự định tổ chức lễ phong quân hàm Đại tướng vào ngày 27-5-1948.
Mấy ngày này trời mưa rất to.
Ngày 27-5, trời vẫn mưa, các sông suối nước lớn không qua lại được. Các đại biểu chưa đến đủ. Cụ Bùi Bằng Đoàn, đại diện Quốc hội, cũng chưa đến được. Hội đồng Chính phủ tranh thủ họp phiên toàn thể để giải quyết một số vấn đề quan trọng: đánh giá tình hình trong nước, âm mưu của bọn thực dân phản động Pháp, nhất là âm mưu chia rẽ của bọn chúng và cách đối phó; lập quy chế công chức mới thay cho chế độ công chức thời thuộc Pháp và giao cho Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính nghiên cứu thang lương công chức; ra sắc lệnh thành lập Ban thi đua toàn quốc và chọn ngày 19-6-1948, ngày kỷ niệm 1.000 ngày kháng chiến làm ngày phát động phong trào thi đua ái quốc.
Cuộc họp kéo dài tới nửa đêm vẫn chưa xong, phải tiếp tục họp vào sáng hôm sau.
Ngày 28-5-1948, vào lúc 1 giờ chiều, lễ phong quân hàm được tổ chức trọng thể.
Một hội trường mới dựng bên dòng suối lớn, dưới tán cây rừng, dựa vào sườn núi, vách mới đan còn thơm mùi nứa. Phía trong, đặt một bàn thờ Tổ quốc trang hoàng giản dị, có cờ đỏ sao vàng và lọ hoa cắm một chùm hoa núi; xung quanh là các băng đỏ ghi khẩu hiệu: “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi; Thống nhất độc lập nhất định thành công”. Bác và cụ Bùi Bằng Đoàn, Trưởng ban thường trực Quốc hội, đứng hai bên bàn thờ, các thành viên Chính phủ đứng trước bàn thờ. Bác, tay cầm sắc lệnh, gọi tôi lên. Bằng giọng nghiêm trang và xúc động, Bác nói: “Hôm nay, thay mặt Chính phủ và nhân dân...” rồi bỗng ngừng lời, rút khăn tay lau nước mắt. Giây phút đó làm cho cả hội trường vô cùng xúc động. Lát sau, Bác nói tiếp: “Nhân danh Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trao cho chú chức vụ Đại tướng để chú điều khiển binh sĩ làm tròn sứ mạng mà quốc dân phó thác cho…”. Bác trao cho tôi sắc lệnh. Cụ trưởng Ban thường trực thay mặt Quốc hội, anh Phan Anh thay mặt Hội đồng Chính phủ phát biểu chúc mừng. Anh Tạ Quang Bửu thay mặt Bộ Quốc phòng bày tỏ lời chúc mừng và lời hứa của toàn thể bộ đội sẽ nêu cao tinh thần chiến đấu anh dũng dưới sự chỉ huy của Đại tướng. Tôi xúc động phát biểu mấy lời, tự đáy lòng vô cùng nhớ tiếc các anh hùng liệt sĩ, chân thành biết ơn Bác, Quốc hội và Chính phủ đã dành cho tôi vinh dự cao cả. Tôi hứa sẽ đem hết tinh thần và nghị lực làm tròn nhiệm vụ, góp phần khiêm tốn của mình vào sự nghiệp đấu tranh cho độc lập và thống nhất của Tổ quốc.
Sau buổi lễ, chúng tôi ngồi quây quần bên Bác. Bác nói: Việc phong tướng cho chú Giáp và các chú khác hôm nay là kết quả biết bao hy sinh chiến đấu của đồng bào, đồng chí… Các thế hệ đi trước chiến đấu cho độc lập mà sự nghiệp không thành, nhắm mắt vẫn còn chưa thấy độc lập tự do. Chúng ta ngày nay may mắn hơn, nhưng trước mắt vẫn còn nhiều khó khăn. Nghĩ tới hàng nghìn, hàng vạn người đã ngã xuống cho ngày hôm nay, chúng ta càng phải cố gắng giành cho được độc lập, tự do để thỏa mãn vong linh những người đã khuất… Cuộc nói chuyện trở thành buổi ôn lại truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, truyền thống cách mạng của dân tộc ta.
Sau đó các thành viên Chính phủ chụp chung một bức ảnh kỷ niệm.
Khi sự việc này được công bố trên đài Tiếng nói Việt Nam, một phóng viên phương Tây hỏi Bác vì sao một lúc phong nhiều tướng tá như vậy, việc phong cấp này được tiến hành dựa theo những tiêu chuẩn nào. Bác trả lời giản dị: Đánh thắng đại tá phong đại tá, đánh thắng thiếu tướng phong thiếu tướng, thắng trung tướng phong trung tướng, thắng đại tướng phong đại tướng.
Tháng 8 năm đó, tại Hội nghị quân sự lần thứ năm, Bác nói về “Tư cách một người tướng”: “Trong quân đội, nhiệm vụ của người tướng là phải: Trí, Dũng, Nhân, Liêm, Trung”. Đối với kỷ luật: “Mệnh lệnh từ trên xuống dưới, phải thấm tới mỗi đội viên… Báo cáo từ dưới lên trên phải thật thà, nhanh chóng, thiết thực… Phải thưởng phạt cho công minh… Chớ vì ưa ai mà thưởng, ghét ai mà phạt. Ai hẩu với mình thì dùng, ai trực tính nói ngay thì bỏ”. Đối với binh sĩ thì: “từ lời ăn tiếng nói, niềm vui, nỗi buồn tới cái ăn, cái mặc, nhất thiết phải biết rõ và hết sức chăm nom. Có đồng cam cộng khổ với binh sĩ thì khi dẫn họ đi đâu, dù nguy hiểm mấy, họ cũng vui lòng đi, khi bảo đánh, họ sẽ hăng hái đánh… Bộ đội ta tuy còn trẻ mà tiến bộ rất mau, nếu người tướng không chịu học hỏi, cứ đứng một chỗ thì nhất định bị lạc hậu”. Đối với dân “bộ đội được dân yêu, dân tin, dân phục thì nhất định thắng lợi”. Đối với địch thì “tuyệt đối chớ khinh địch… Khinh địch thì nhất định sẽ thất bại”.
Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP

Hồ Chủ tịch qua “Nhật ký của một bộ trưởng” (Trí Quân)


Kỷ niệm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5):
TP - Mùa thu năm 1995, tôi - người ghi lại những dòng này may mắn được tiếp xúc phỏng vấn hai nhân vật đáng kính là Lê Văn Hiến - Lê Thị Xuyến khi hai cụ về thăm  quê hương Đà Nẵng - Quảng Nam.
Hồ Chủ tịch tăng gia sản xuất tại chiến khu Việt Bắc
Cụ Hiến vui vẻ cho chúng tôi xem bản thảo tập nhật ký viết tay ghi lại những tháng ngày ở Thủ đô Kháng chiến Việt Bắc, mà khi đó cụ đang giữ trọng trách Bộ trưởng Bộ Tài chính đầu tiên của Chính phủ Cách mạng Lâm thời.
Khi ấy cụ Lê Văn Hiến - tác giả hồi ký “Ngục Kon Tum” nổi tiếng thuở nào - đã 91 tuổi, cụ Xuyến cũng đã 86. Tuổi cao, nhưng phong thái hai cụ thật nhẹ nhõm, khỏe khoắn, và vẫn chan chứa tình cảm nồng ấm của một đôi bạn đời từng ngót 50 năm bên nhau trong mỗi bước đường cách mạng.
Bộ nhật ký quý báu đó sau đó không lâu được NXB Đà Nẵng ấn hành, gồm  hai tập dày tới hơn 1.000 trang khổ lớn với nhan đề “Nhật ký của một bộ trưởng”.
Độc giả bắt gặp trong “Nhật ký của một bộ trưởng” hình ảnh gần gũi, sống động của hầu hết những nhân vật lịch sử lừng lẫy của cách mạng Việt Nam giai đoạn trường kỳ kháng chiến, từ những sinh hoạt, những tâm tư đời thường nhất cho tới những giây phút thiêng liêng, trọng đại nhất quyết định vận mệnh cách mạng Việt Nam.
Giá trị ở chỗ đây không phải cuốn hồi ký thông thường được tổng kết sau một đời nhìn lại, mà là thể loại nhật ký, với độ chính xác của thời gian tới từng phút, với từng sự kiện dù nhỏ nhất, và với một cảm xúc tức thời mang hơi thở ấm nóng cùng những âm thanh, cảnh sắc kỳ diệu của Thủ đô Kháng chiến những năm tháng trường kỳ gian khổ.
“Nhật ký của một bộ trưởng” được giới sử học đón nhận với một sự trân trọng đặc biệt, bởi nó “giúp những nhà viết sử phục dựng lại được cả một cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ... (Dương Trung Quốc – Lời giới thiệu “Nhật ký của một bộ trưởng”).
Trong đó, một hình ảnh quán xuyến tư tưởng và cảm xúc của toàn bộ cả ngàn trang sách, không ai khác, là Chủ tịch Hồ Chí Minh – linh hồn của cuộc kháng chiến. Những dòng nhật ký về Hồ Chủ tịch trong “Nhật ký của một bộ trưởng” đều thuộc những chuyện ít được nghe kể, đặc biệt gây xúc động bởi tính chân thực của nó.
Đồng cam cộng khổ
“... Gần tối, trong lúc chúng mình đang ăn cơm, thì Hồ Chủ tịch đến trong bộ áo quần bí mật của Cụ. Lần này thì lưng mang một gùi, vai mang súng, mình mặc bộ áo quần nâu, đội mũ như bộ đội, mới trông như người đi săn trong rừng sâu, không ai tài nào nhận ra được.
Bắt tay vui vẻ tất cả mọi người, rồi giản dị hơn ai hết, Cụ bảo thêm một chén một đũa để Cụ cùng ngồi ăn chung trong lúc mâm cơm đã gần tàn. Cụ và hai tùy tùng phải đi hàng mấy chục cây số mới đến đây ... 7 giờ bắt đầu hội đồng (Họp Hội đồng Chính phủ – chú thích của PV), ai nấy ngồi xếp ve quanh mấy chiếc chiếu trải dài.
Giữa để mấy ngọn đèn dầu, chúng mình có cảm tưởng như ngồi trong một sòng xóc đĩa. Ai nấy nhìn nhau cười. Cụ cũng cười ...”. Trang nhật ký đó ghi ngày 30/4/1947, nghĩa là chỉ hơn bốn tháng sau ngày toàn quốc kháng chiến, Chính phủ mới chuyển lên rừng núi với bộn bề  gian khó, hiểm nguy. 
Trang nhật ký đề ngày 24/4/1948: “Trời càng về đêm càng mưa lớn. Chúng mình phải ở lại kéo dài câu chuyện với Cụ trong lúc chờ đợi hết mưa. Cụ ân cần hỏi thăm gia đình của mọi người.
Đến lúc chúng mình vui câu chuyện nhắc đến gia đình Cụ, Cụ phì cười và nói: “Mình chẳng phải thần thánh gì, cũng người như tất cả mọi người. Nhưng với hoàn cảnh này, còn điều kiện nào nghĩ đến gia đình, không phải đạo đức mà phải chịu đạo đức”. Cụ cười và nói tiếp : “Gia đình nhỏ không thể được thì ta cứ lo gia đình lớn đi vậy !””.
Nhưng có những phút giây tạm ngơi việc nước, trải lòng với thiên nhiên và cuộc sống, Người mới có dịp thổ lộ những tâm tư sâu lắng mà chỉ những ai thật gần gũi mới hiểu: “26/8/1949 - Hơn 11 giờ, chúng mình tạm nghỉ với Hồ Chủ tịch trên sàn nhà riêng...
Cụ giới thiệu cảnh hữu tình trong những đêm trăng, thỉnh thoảng vừa cười vừa thổ lộ đôi câu: “Cảnh càng đẹp, mình cũng cảm thấy như thiếu thiếu cái gì !” ... Chống không nổi với sự mệt nhọc trong ngày, mình ngủ lúc nào không hay, Đồng (Phạm Văn Đồng) nằm bên cạnh đã một giấc, chỉ một mình Hồ Chủ tịch vẫn tiếp tục vừa hút thuốc vừa nghĩ ngợi”.
Trang nhật ký đề ngày 30/4/1947: Một nhân vật đem biếu Cụ một cây baton làm bằng xương rắn. Một phiên họp Hội đồng Chính phủ, Cụ đem tặng cụ Bùi (Bùi Bằng Đoàn) cây baton quý giá ấy với câu nói vừa giản dị vừa ý nghĩa: “Khi đỡ tay với cây gậy này, Cụ sẽ luôn luôn nghĩ đến nhân dân”.
“19/8/1948 - Vừa tưng tửng sáng, Hồ Chủ tịch và mấy người tùy tùng lên đường, Cụ cố tránh gặp dân chúng vì hôm nay là ngày kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám. Đâu đâu đều có biểu tình (mít tinh - PV) lớn, nhất là ở Tân Trào, nơi xuất phát cuộc Cách mạng. Một điều đặc biệt là trong lúc toàn quốc nhân dân biểu tình, hoan hô vị anh hùng dân tộc, thì “Cụ già” ấy phải cải trang, lủi thủi tìm đường vắng trong rừng để tránh sự gặp gỡ ...”
Một tâm hồn
Hồ Chủ tịch đã khóc trong lễ thụ phong chức Đại tướng cho Võ Nguyên Giáp. Đó là ngày lịch sử 28/5/1948 : “Trong một căn nhà dựng bên bờ suối lớn, dựa một bên núi, cây cối chen phủ kín ... Một phòng trưng bày đặc biệt.
Có bàn thờ Tổ quốc, chung quanh băng đỏ ghi các khẩu hiệu: “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi”, “Thống nhất độc lập nhất định thành công ...” Sự trưng bày rất đơn giản mà trang nghiêm. Đến giờ làm lễ, Hồ Chủ tịch và cụ Trưởng ban Thường trực Quốc hội (cụ Bùi Bằng Đoàn) lên đứng hai bên bàn thờ, toàn thể nhân viên chính phủ đứng sắp hàng trước bàn thờ.
Hồ Chủ tịch tay cầm sắc lệnh gọi Võ Nguyên Giáp lên trước bàn thờ, rồi Cụ nín lặng, sụt sùi rơi nước mắt mà không nói được tiếng gì. Một phút vô cùng cảm động có lẽ trong chúng mình, tuy không ai nhìn thấy ai, nhưng mỗi người đều phải rơm rớm nước mắt.
Giây lâu, Hồ Chủ tịch mới cất được tiếng mà tuyên bố: “Nhân danh Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trao cho chú chức vụ Đại tướng, để chú điều khiển binh sĩ làm trọn sứ mạng mà quốc dân phó thác cho”... Sau khi hết lễ, ai nấy ngồi xung quanh Hồ Chủ tịch và nghe Cụ nói sự xúc cảm của Cụ trong buổi lễ.
Trước những ngày lễ có tính cách long trọng, Cụ không thể nào không nhớ đến các tiên liệt, các bạn đồng chí từ bao nhiêu năm chiến đấu cho đất nước, chịu bao gian lao khổ sở, kẻ hy sinh đầu này người hy sinh chỗ nọ, nhờ những sự hy sinh dũng cảm ấy nên mới có ngày nay. Mỗi lần nhớ đến các bạn ấy, là mỗi lần Cụ cầm lòng không đặng nên phải có những giây phút khó chịu, Cụ xin lỗi anh em ...”  
Ít ai biết thời gian ở chiến khu, Hồ Chủ tịch từng làm mối xe duyên cho cán bộ của mình, nhưng lại không thành. Được làm mối là ông Lê Văn Hiến. Trước sự quan tâm của Hồ Chủ tịch, ông Hiến đành thú nhận là đã “có hứa hẹn” với một người là Lê Thị Xuyến, tức bà Phan Thanh.
Biết chuyện, Cụ Hồ tỏ ý ngạc nhiên. “26/7/1947 - Một giây nghĩ ngợi, Cụ nói: “Điều đó là không nên đâu chú ạ. Dân ta đương còn óc phong kiến, tôi e về danh nghĩa cả hai đều mang tiếng, không nên, chú nghĩ lại”. Nghe Cụ nói, mình tê tái cả người...  Thế là từ phút đó, mình như người say thuốc ngồi xỉn một góc, chẳng buồn nói, ăn không vô...”.
Vợ của ông Hiến là nữ chiến sĩ cách mạng Thái Thị Bôi - cháu ruột của Thái Phiên - mất năm 1938, sau khi có với ông một người con gái. Còn bà Lê Thị Xuyến là vợ nhà cách mạng nổi tiếng Phan Thanh.
Cả bốn người đều quê ở Quảng Nam - Đà Nẵng, và cùng chung lý tưởng cách mạng. Năm 1939, Phan Thanh mất, bà Xuyến vừa hoạt động cách mạng vừa nuôi dạy hai con Phan Vịnh và Phan Diễn.
Ngót chục năm kể từ những sự kiện đau thương trong hai gia đình, hai người đồng chí, đồng hương gặp nhau trên bước đường kháng chiến chông gai nơi chiến khu Việt Bắc (*) Mới chỉ là giấm ý, chưa kịp thổ lộ với ai, đã bị Cụ Hồ ngăn lại, hai người dẫu rất buồn, nhưng đã xếp việc riêng lại. “Chúng mình cảm thấy một tội rất lớn nếu để Cụ phải bận ý về việc mình”.
Thú vị ở chỗ, mối tình của họ được hầu hết mọi người ủng hộ, ra sức tìm cách vun vào, trong đó nhiệt tình nhất là anh Cả Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Tố Hữu...
Các anh “dùng kế đánh vào tình cảm của Bác, nên Bác cầm lòng không nỡ, đồng ý cho chúng mình thành lập gia đình nhưng vẫn dặn đi dặn lại “Phải thận trọng khéo léo” 6/5/1948”. Đám cưới hai người, ông Cụ không trực tiếp dự nhưng tỏ ý vui, và gửi tặng  đôi khăn thêu.
Chiến dịch Đông Khê năm 1950, Hồ Chủ tịch thân hành ra chỉ huy mặt trận. Chỉ khi đọc “Nhật ký của một bộ trưởng”, mới biết thêm một chi tiết quý giá: Trong những ngày ấy, vị lãnh tụ kháng chiến cải trang thành một thương binh để đi gặp và nói chuyện với các tù binh Pháp (Nhật ký ngày 15/11/1950).
Cương quyết không khoan nhượng, nhưng cũng lại đầy nhân hậu, là phẩm chất mà thế giới đã biết nhiều về Chủ tịch Hồ Chí Minh. “Nhật ký của một bộ trưởng” cho ta thêm một ví dụ sâu sắc về phẩm chất ấy của Người.      
28/12/1946: “Được thư Cụ dặn cho Vũ Đình Huỳnh ra phụ trách chăm sóc  tù binh Pháp, trong thư dặn rất kỹ về sự đối đãi tù binh và thường dân.
Theo ý Cụ, phải chăm sóc hết sức chu đáo và đối đãi thật nhã nhặn để tỏ sự ân cần của ta đối với người Pháp, và cũng để cho họ thấy sở dĩ ta chiến đấu vì tiền đồ của quốc gia và dân tộc Việt Nam, chớ vốn không có ý gì ghét bỏ người Pháp.
Khẩu phần của họ phải cho hơn người Việt Nam và sự nấu nướng ăn uống phải chăm nom kỹ lưỡng. Thể theo ý ấy, Bộ Tài chánh cấp cho mỗi người Pháp bất kỳ lớn bé đều 200 đồng một tháng.
Số ấy đối với người Pháp cũng không lấy làm nhiều nhưng nấu chung lại thì cũng khá. Vả chăng, bộ đội ta mỗi người một tháng chỉ có 150 đồng... Ta có thể chịu kham khổ được nhưng đối với họ phải rộng rãi hơn ...”. 
Trí Quân (giới thiệu)
    
(*) Tại thành phố Đà Nẵng hiện có 4 con đường mang tên Phan Thanh - Lê Thị Xuyến - Lê Văn Hiến và Thái Thị Bôi

Sunday 6 October 2013

HỎI ĐÁP VỀ HUẤN THỊ “Dignitas Personae: Về một số vấn đề Đạo đức Sinh học” (linh mục Nguyễn Anh Tuấn)


Hỏi đáp về Huấn thị Dignitas Personae
Tìm hiểu Giáo huấn của Giáo Hội:
1. Huấn thị này thuộc loại văn kiện nào?
Đây là một “huấn thị” của cơ quan cao nhất của Giáo hội Công Giáo về giáo thuyết, Bộ Giáo Lý Đức Tin của Tòa Thánh Vatican. Huấn thị nhằm áp dụng những nguyên tắc luân lý ngàn đời vào những vấn đề và hoàn cảnh mới phát sinh từ lãnh vực công nghệ sinh học. Huấn thị không tự tuyên bố như là một tín điều mới có tính bất khả ngộ, nhưng đã được Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI chuẩn nhận và có thẩm quyền của ngài. Như hầu hết các tài liệu giáo huấn của Giáo hội, những phán quyết luân lý của Huấn thị này thuộc về “Quyền Giáo huấn thông thường phổ quát” của Giáo hội. Những người Công giáo được mời gọi học hỏi với “lòng vâng phục kính cẩn” để tâm thức được thấm nhuần bởi những giáo huấn như thế (GLHTCG, 892).
2. Tựa đề của Huấn thị có nghĩa gì?
Tựa đề tiếng la tinh Dignitas Personae có nghĩa là “phẩm giá của con người”. Mọi kết luận của tài liệu đều dựa trên phẩm giá vốn có của mọi người và của từng người, kể từ lúc thụ thai cho đến lúc chết với cái chết tự nhiên, và trên nhu cầu phẩm giá đó phải được người ta kính trọng từ phía mọi thứ công nghệ và mọi hoạt động con người. Đang khi Giáo hội phải nêu lên những phán định tiêu cực về một số lạm dụng của kỹ thuật công nghệ, Huấn thị giải thích rằng “đằng sau mỗi tiếng “không” từ chối chính là một tiếng “vâng” tuyệt vời nhìn nhận phẩm giá và giá trị bất khả nhượng của  mỗi hữu thể nhân linh, độc đáo và duy nhất, được kêu gọi đi vào hiện hữu” (Dignitas Personae, 37).
3. Giáo huấn có từng được nói tới trong các tài liệu trước đây của Giáo hội không?
Có. Huấn thị này là một tiếp nối của “Donum Vitae: huấn thị về Tôn trọng Sự Sống con người từ Cội nguồn và về Phẩm giá của việc Truyền sinh”. Huấn thị Donum Vitae (Tặng phẩm Sự Sống) được Bộ Giáo Lý Đức Tin ban hành năm 1987 nói về sự thụ tinh con người “trong ống nghiệm” và về những lạm dụng cũng như những can thiệp tùy tiện trên sự sống con người trong các giai đoạn đầu tiên mà công nghệ này có thể tiến hành. Những phán quyết khác trong tài liệu – như về kỹ thuật nhân bản trên con người (human cloning), nghiên cứu tế bào gốc từ phôi và tế bào gốc từ người lớn, công nghệ di truyền, các dược phẩm và dụng cụ ngăn cản sự đậu thai, v.v… – đã xác nhận và nêu lên những gì đã được tuyên bố trong các diễn văn hay trong các tài liệu khác của Đức giáo hoàng Gioan-Phaolô II hoặc của Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI, hoặc trong những tham luận của Tòa Thánh tại những diễn đàn quốc tế như Liên Hiệp Quốc. Những năm gần đây các đề tài này cũng là chủ đề của các hội thảo và các tài liệu của Viện Hàn Lâm Giáo Hoàng về Sự Sống, một hội đồng cố vấn.
4. Tại sao Giáo Hội Công Giáo chống các kỹ thuật sinh sản như loại thụ tinh “trong ống nghiệm”?
Đứa bé được cưu mang trong sinh sản con người là một nhân vị, bình đẳng về phẩm giá với cha mẹ nó. Bởi thế em xứng đáng để được chào đời qua một hành vi của tình yêu vợ chồng đúng nghĩa và dấn thân. Những kỹ thuật nào trợ giúp các đôi vợ chồng kết hợp để sinh con thì tôn trọng phẩm giá đặc biệt đó của nhân vị. Những kỹ thuật nào thay thế việc đó bằng một tiến trình của kỹ thuật viên trong phòng thí nghiệm thì không tôn trọng phẩm giá ấy. Vấn đề luân lý càng trở nên nghiêm trọng khi người ta cố gắng đưa vào những giao tử (tinh trùng hoặc trứng) lấy từ những người ngoài cuộc (hôn nhân), khi nhờ đến một người phụ nữ khác mang thai, hoặc khi người ta thực hành “kiểm tra chất lượng” trên em bé như một sản phẩm đồ vật. Kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm như được tiến hành ngày nay tạo ra một tỷ lệ các phôi tử vong rất cao, và mở đường cho những lạm dụng xa hơn nữa như kỹ thuật bảo quản phôi đông lạnh và những thí nghiệm gây ra sự sống bị hủy diệt hàng loạt.
5. Những chủ đề nào trong tài liệu này chưa được đặc biệt nói đến trong các tài liệu trước đây?
Một số chủ đề rất mới được thảo luận ở đây lần đầu tiên. Một số đề nghị những phương pháp thay đổi kỹ thuật cho việc nhân bản con người sao cho để nó tạo ra những tế bào gốc từ phôi mà không phải là một phôi (ví dụ như “thay đổi nhân”). Điều đó về mặt đạo đức đòi phải được nghiên cứu kỹ hơn và rõ ràng hơn trước khi có thể được đem áp dụng trên con người, vì người ta buộc phải bảo đảm luôn luôn trong tiến trình là đã không tạo ra một con người mới và rồi lại đi hủy diệt nó. (Không cần phải thận trọng như thế nếu áp dụng cho một kỹ thuật mới hơn, sử dụng những nhân tố di truyền hay hóa học, để tái lập trình trực tiếp cho những tế bào người lớn bình thường đưa trở thành những “tế bào gốc có nhiều năng lực” với khả năng linh hoạt cao như các tế bào gốc từ phôi. Việc này dĩ nhiên không dùng đến một trứng hoặc tạo ra một phôi, và như thế không gây sự phản đối từ phía giới thần học Công giáo.) Những ý kiến về việc “nhận con nuôi” đối với những phôi đông lạnh bị bỏ rơi cũng tạo ra vấn đề, bởi lẽ Giáo hội chống việc sử dụng những giao tử hay phần thân thể của người khác ngoài giao ước hôn nhân để áp dụng cho sinh sản. Huấn thị nêu lên những điều cần phải cẩn trọng hay những vấn đề phát sinh từ những sáng kiến mới đó, nhưng không chính thức đưa ra những phán quyết dứt khoát chống lại chúng. Tài liệu của Tòa Thánh cũng đi sâu vào chi tiết hơn các tài liệu trước đây bằng cách nêu lên những quan ngại về luân lý về việc sử dụng công nghệ di truyền trên “các tế bào mầm” đối với con người, để chữa bệnh và nhất là để “mở rộng” hay sửa đổi những đặc tính di truyền của con người.
6. Những nhắc nhở hay phán quyết tiêu cực về những tiến triển như thế có cho thấy một thái độ ngờ vực đối với khoa công nghệ sinh học hiện đại hay không?
Ngược lại là đàng khác. Tài liệu nói rằng khi sử dụng những sức mạnh kỹ thuật mới đó con người “tham dự vào sức mạnh sáng tạo của Thiên Chúa” và con người hành động như “kẻ phục vụ các giá trị và cái đẹp bên trong của tạo thành”. Chính vì sức mạnh này mang trong mình một trách nhiệm rất lớn mà chúng ta phải không bao giờ được để xảy ra những lạm dụng kỹ thuật mà hạ thấp phẩm giá con người, nhưng trái lại phải luôn luôn phục vụ giá trị và phẩm giá của mỗi con người không loại trừ ai. Việc lạm dụng công nghệ di truyền có thể tạo ra những hình thức kỳ thị mới, kẻ yếu bị áp chế bởi người mạnh, tạo ra tình huống một số người lại điều khiển vận mệnh cuối cùng của những người khác, chẳng hạn như tạo ra rồi lại hủy đi những con người vì cái được cho là lợi ích của những người khác, tự tiện thao túng trên số phận con người để tạo ra những con người “ưu tuyển” hơn, hoặc từ chối những sinh linh ấy các quyền con người cơ bản nhất vì các em bé đã không thỏa mãn tiêu chuẩn cho một con người hoàn hảo của một ai đó. Bởi vì khoa học và kỹ thuật có một sức mạnh rất lớn để làm cả điều thiện lẫn điều ác, chúng phải được hướng dẫn bởi một nền đạo đức học đặt cơ sở trên phẩm giá con người.
Tháng 12 / 2008
Lm. Lu-y Nguyễn Anh Tuấn,
TTMV Tgp.Tp Hcm, chuyển ngữ



 
 
Lm Lu-y Nguyễn Anh Tuấn