Tuesday 13 May 2014

BỘ THỦ KHÔNG TRỰC TIẾP MANG NGHĨA TRONG CHỮ NÔM - Nguyễn Quang Hồng

21. Bộ thủ không trực tiếp mang ý nghĩa trong chữ Nôm (TBHNH 1998)
Cập nhật lúc 08h27, ngày 27/09/2007
NGUYỄN QUANG HỒNG
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Theo thống kê chưa đầy đủ, có hơn một phần ba trong số 214 bộ thủ của chữ Hán (theo Khang Hi tự điển, 1716) đã được dùng vào chữ Nôm. Đó đều là những bộ thủ mà trong chữ Hán vẫn rất thường gặp và đều mang nghĩa, tức là chúng thường làm thành tố biểu ý trong cấu tạo chữ Hán. Chẳng hạn: bộ thuỷ () là “nước” (biểu ý) cộng với chữ công (biểu âm) để thành chữ giang “sông”. Đi vào cấu tạo chữ Nôm, các bộ thủ Hán trên đại thể cũng đóng vai trò là thành tố biểu ý như vậy. Ví dụ: chữ Nôm sông viết tắt là gồm bộ thuỷ “nước” (biểu ý) và chữ long (biểu âm), v.v..
Tuy nhiên nếu xem xét kỹ hơn một chút các cứ liệu chữ Nôm ta sẽ thấy sự thể không phải bao giờ cũng đơn giản như vậy. Ví dụ như chữ gần thường được viết là 貝斤, trong đó thành tố biểu âm có thể là chữ cân , song còn lại bộ thủ bối “vỏ sò” thì làm sao mà bắt mối cho được với nghĩa “gần” của chữ Nôm này? Đi vào tìm hiểu nhiều trường hợp tương tự như vậy, chúng tôi muốn gọi chung đó là hiện tượng các bộ thủ không trực tiếp ngang nghĩa trong chữ Nôm. Phân tích kỹ các hiện tượng này, có thể phân chia chúng thành những lớp lang khác nhau và chúng tôi sẽ lần lượt gọi là “bộ thủ biểu âm”, “bộ thủ liên tưởng”, “bộ thủ lâm thời” và “bộ thủ liên kết”.
1. Bộ thủ biểu âm
Bộ thủ mà không biểu ý lại dùgn để biểu âm, thì rõ là một điều nghịch lý. Đã đành là vậy, nhưng ta không nên làm ngơ trước những hiện tượng sau đây:
a, Có không ít chữ Nôm được cấu tạo theo kiểu hình thanh (biểu ý + biểu âm), trong đó thành tố biểu âm là một chữ Hán mà đồng thời cũng là bộ thủ. Thành tố này được coi là chữ khi cần đến âm đọc của nó để biểu âm cho từ Việt được ghi, song nó cũng sẵn sàng được nhận diện là bộ thủ khi xem xét hình thể của chữ Nôm đó trong mối liên hệ với một loạt chữ khác có bộ thủ ấy. Ví dụ:
Nửa女半 Gồm nữ (âm) + bán (ý).
Cong弓曲 - cung (âm) + khúc (ý).
Mựa馬勿 - (âm) + vật (ý).
Khi phải xếp những chữ này vào tự điển, thật khó lòng cưỡng lại việc lần lượt quy chúng vào bộ nữ , bộ cung , bộ v.v…
b, Như GS.Vương Lực đã từng nhận xét, bộ khẩu “miệng” trong thành phần cấu tạo chữ Nôm không phải bao giờ cũng thực sự mang nghĩa, mà trong khá nhiều trường hợp nó chỉ giữ vai trò như là một dấu hiệu chỉnh âm đọc mà thôi.
Chẳng hạn chữ lo 口卢 trong câu:
- “Vì vậy chẳng hay là chẳng mắc lo vậy” (Truyền, I, 51a) được viết gồm khẩu + chữ . Lẽ ra phải dùng bộ tâm mới biểu thị được ý “lo lắng” trong lòng. Vậy bộ khẩu ở đây đơn giản chỉ là để báo rằng chữ được dùng biểu âm cần phải đọc chệch đi (thành lo) mà thôi.
Cũng vậy, chữ nguýt 口月 trong câu:
+ “Hàng thịt nguýt người hàng cá” (Bạch) được viết bằng chữ nguyệt (biểu âm) với bộ khẩu (mà lẽ ra phải với bộ mục “mắt” mới đúng).
Lại như chữ ra nhiều khi đã được viết với thành tố biểu ý là chữ xuất “ra” và thành tố biểu âm là chữ la (viết tắt là ): 罗出 hoặc 出罗. Song cũng không phải là hiếm khi chữ ra được viết với bộ khẩu là 口羅, như trong câu dưới đây:
- “Thủa ấy phương Tây thầy Khâu ra đời” (Cổ, 20b).
Dùng bộ khẩu không để biểu ý mà cốt để chỉ báo cần đọc chệch âm Hán Việt của chữ Hán được mượn để ghi âm từ Việt như thế, là một hiện tượng rất phổ biến trong các văn bản chữ Nôm. Dẫu sao thì trong chức năng chỉ báo âm đọc, bộ khẩu vẫn chưa hẳn đã dứt khỏi nghĩa vốn có của mình là cái miệng, bởi vì miệng là cơ quan để ăn, đồng thời cũng là để nói (để phát âm).
c, Trong các văn bản chữ Nôm có niên đại sớm, thấy có khá nhiều những từ Việt được ghi âm bằng một chữ Hán, lại còn gia thêm một chữ Hán nữa làm thành tố biểu âm phụ trợ, để thể hiện các phụ âm kép như kl-, sl-, ml-, bl-,… trong tiếng Việt thời trung cổ. Trong các thành tố biểu âm phụ trợ đó có chữ xa @ trùng hợp với bộ thủ xa (với nghĩa “xe cộ). Sau đây là một vài ví dụ từ sách Phật thuyết:
Trong龍車 gồm long + : *[kl η]
Trước略車 - lược + : *[klak]
Sau 婁車: lâu + xa: *[slau]
So: + xa: *[sl ]
Chữ trong Hán ngữ cho 2 âm đọc khác nhau: (1) - cửu ngưthiếthoặc cân ưthiết : cho ta âm ; (2)- xương giáthiết: cho ta âm xa. Như vậy, tuỳ theo từng trường hợp, bộ (chữ) đã biểu thị tiền ân [k] hay [s] trong các phụ âm kép kl-, hoặc sl. Về sau này tiếng Việt không còn giữ các phụ âm kép đó nữa, nhưng những chữ Nôm đó vẫn tiép tục được sử dụng, bên cạnh các chữ mới thay vì bộ (biểu âm) là thành tố biểu ý thực sự, như trước 略前 (trong đó chữ tiền là “trước”), sau 婁後 (trong đó chữ hậu là “sau”), v.v…(1).
2. Bộ thủ liên tưởng
Trên kia có nói đến chữ Nôm gần được viết phổ biến là 貝斤 trong đó bộ bối “vỏ sò” khó lòng có mối quan hệ gì với nghĩa của từ gần. Nhưng tại sao lại có mặt nó ở đây, và vị trí bộ thủ của nó trong cấu trúc chữ này là không thẻ bác bỏ được. Ta biết rằng, trong hệ thống từ vựng của một ngôn ngữ, các từ luôn luôn được người bản ngữ liên tưởng, liên hội với nhau theo các trường ngữ nghĩa (và cả ngữ âm – như khi gieo vần thơ). Chính nhờ có sự liên tưởng này mà người bản ngữ không mấy khó khăn tìm ra những từ đồng nghĩa hay trái nghĩa vẫn tiềm tàng trong kí ức của mình. Cũng chính nhờ mối liên tưởng đó mà khi cấu tạo một chữ Nôm để ghi từ gần, người ta lập tức nhớ đến từ xa, và không ngần ngại mô phỏng chữ xa 贝余 để viết chữ gần. Mà một khi chữ xa đã có bộ bối , thì chữ gần cũng dùng bộ bối là điều hết sức tự nhiên(2).
Cũng theo cái cơ chế như thế, người xưa đã từng có lúc viết từ ghét 月结 gồm thành tố biểu âm là chữ kết với thành tố “biểu nghĩa” là bộ nhục “thịt”, chứ không với bộ tâm “lòng”. Đó là vì từ trước đã có chữ yêu vẫn có nghĩa là “eo lưng” trong tiếng Hán, được mượn để ghi từ yêu tiếng Việt (đọc theo âm Hán Việt), nên khi viết từ ghét cùng trường nghĩa với yêu, một cách tự nhiên là người ta có lý do để “nhái lại” bộ nhục ở chữ yêu. Thế là bộ nhục mặc nhiên được chấp nhận trong các chữ Nôm mà nghĩa của chúng đều chỉ liên quan đến trạng thái tâm lý, chứ đâu phải là chuyện của… “thịt”.
3. Bộ thủ lâm thời.
Gọi là bộ thủ lâm thời, vì những bộ thủ như thế chỉ có thể giải thích được lý do tồn tại của chúng là nhờ ở một văn cảnh nhất định. Thoát khỏi văn cảnh ấy, chúng trở nên vô nghĩa lý. Có không ít thí dụ để nói về loại bộ thủ lâm thời này. Chẳng hạn:
- “Đất rắn nặn chẳng nên nồi” (Ca, 52a).
Trong câu này hai chữ đất rắn 坦 土吝 đều viết với bộ thổ “đất”. Chữ đất phải dùng bộ thổ để biểu ý thì đã hẳn, nhưng chữ rắn là “cứng” thì sao lại là bộ thổ (biểu ý) + lận (biểu âm). Cứng rắn có thể là tính chất của nhiều vật thể, song tiêu biểu phải là sắt (bộ kim ) hay đá (bộ thạch ), chứ đâu là đất (bộ thổ ). Mặc dầu vậy, tính chất rắn trong câu này chính là thuộc về hòn đất: hòn đất khô cứng, khó nặn nên nồi. Và bộ thổ được dùng cho chữ rắn 土吝 chính là do cái nghĩa cụ thể, thực tại của câu văn quy định. Lại như:
- “Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu” (Ca, 38a).
Đựng là một đồng từ có nghĩa “chứa, để”, vậy mà ở đây nó được viết là 木登 với bộ mộc “gỗ” (biểu ý) + đăng (biểu âm). Sở dĩ như vậy được là vì cạnh nó là chữ cơi (cũng đọc khay) 木门 cũng với bộ mộc (biểu ý) + khai (biểu âm). Cái khay bằng gỗ thì đựng vào đó là việc cũng có thể liên quan đến gỗ vậy. Một thí dụ khác:
Dẻo quỳ bạch lạy tăng ông” (Tây, 3a).
Hai chữ dẻo quỳ trong câu này được viết là 足妙足危, đều dùng bộ túc “chân”. Chữ quỳ vốn là mượn nguyên từ chữ Hán (âm Hán Việt là quỵ). Quỳ trước hết đó là việc của đôi chân, nên chữ quỵ (quỳ) phải có bộ túc thì đã đành. Nhưng còn dẻo thì sao? Trong câu này không nói đến sự mềm dẻo hay dẻo dai nào bất kỳ, cũng không nói “dẻo lưỡi” hay “dẻo tay” (mặc dù ở đây có cả “bạch lạy”), mà chính là lưu ý đến sự dẻo dai chịu đựng của đôi chân trong tư thế quỳ. Vậy thì chữ dẻo ở đây phải dùng đến bộ túc là phải rồi. Lại như:
Lắng bên tai tỏ giải nguồn cơn” (Hiếu 9b).
Giãi ở đây là “giải bày ra bằng lời”, lẽ ra phải dùng bộ ngôn “nói” hoặc bộ khẩu “miệng”, nhưng người ta đã dùng bộ hỏa “lửa, sáng” để giống như chữ tỏ là “sáng tỏ, rõ ràng” đứng kề trước nó: 火新 火待.
Và cũng tương tự như vậy, ta hoàn toàn hiểu được tại sao chữ lỡ là “lầm” đã không dùng bộ tâm “lòng” mà dùng bộ túc “chân”, vì trong câu sau đây đang nói đến chuyện lỡ bước 足呂 足北 chân:
Tối tăm lỡ bước tới đây” (Lục, 36a).
4. Bộ thủ liên kết.
Nếu như bộ thủ lâm thời chỉ xuất hiện giữa những chữ không nằm trong một cấu trúc từ ngữ cố định, thì bộ thủ liên kết được dùng đến trong các đơn vị từ ngữ ổn định, nhằm liên kết gắn nối các chữ (ngữ tố) đó lại thành một khối hoàn chỉnh.
a, Trong một số từ ghép, lẽ ra theo nghĩa gốc từng ngữ tố, có thể phải viết với các bộ thủ khác nhau, song đôi khi người ta đã viết với cùng một bộ thủ. Thí dụ:
- Chữ dấy là “nổi lên” thường viết là 𧽈 (hoặc 𧽇) với bộ tẩu “chân đi”, song có khi được viết với bộ khẩu “miệng nói” trong từ ghép dấy dức 口曳 𠯅 nghĩa là “vang lên” (Truyền, II, 35b).
- Chữ dền là “đáp trả lại” thường viết với bộ bối “vỏ sò, của cải” là 貝田, nhưng trong đền bồi có khi đã được viết với bộ thổ cho thống nhất với chữ bồi “đắp bồi” 土田 培 (Kiều, 14a).
- Chữ rỡ là “rạng rỡ, sáng rực”, thường viết là 光呂 với thành tố biểu ý là chữ quang “sáng”, nhưng trong từ mừng rỡ 忄明 (Lục, 47b), nó đã dùng bộ tâm 忄呂 “lòng” cho thống nhất với chữ mừng.
b, Tuy nhiên, vai trò liên kết của bộ thủ thể hiện rõ nhất là ở những chữ Nôm ghi các từ láy âm trong tiếng Việt. Ta biết rằng, trong các từ láy âm bao giờ cũng có sự láy lại một phần âm thành nào đó giữa các tiếng (ngữ tố) và nhờ đó mà các ngữ tố này được liên kết gắn nối nhau về mặt ngữ âm, phân biệt với từng tiếng “rời rạc” khác trong lời nói. Trên hình thức chữ viết, với chữ Nôm thì thay vì sự láy lại âm đầu hoặc vần cái giữa các ngữ tố ấy, là sự láy lại các bộ thủ (hoặc thành tố biểu âm).
* Với những từ láy mà trong đó có một ngữ tố gốc mang nghĩa thì bộ thủ của ngữ tố láy lại sẽ “nhắc lại” bộ thủ đã có ở ngữ tố gốc. Đây là hiện tượng rất phổ biến trong chữ Nôm. Thí dụ:

Bươn
足 奔
-
Bươn bả
足奔 足把
Gầy
𤷍
-
Gầy guộc
𤷍 𤶹
Sợ
忄事
-
Sợ sệt
忄事 忄列
Của
貝古
-
của cải
貝古 貝改
Thơm
𦹳
-
thơm tho
𦹳 萩
火魯
-
Rõ ràng
火呂 火床
Nặng
石囊
-
nặng nề
石囊 石 尼
Đất
-
đất đai
坦 土帶
Bịt

-
bịt bùng
別 𩅛
Quanh
(3)
-
Quanh quất
縈 糸 屈

Trong các từ láy trên đây, bộ thủ của các chữ là ngữ tố gốc đều thực sự có mang ý nghĩa, và nghĩa ở bộ thủ láy lại là được “lây lan” từ các ngữ tố gốc sang.
Đôi khi cũng bắt gặp hiện tượng bộ thủ của chữ gốc thực ra chỉ là một (hoặc một phần) thành tố biểu âm trong chữ đó, mà khi viết cho ngữ tố láy, người ta đã lặp lại một cách “trung thành”. Thí dụ:
- Chữ Nôm nợ gồm 女債 thành tố biểm âm là bộ (chữ) nữ và thành tố biểu ý là trái nợ”. Theo đó, từ láy nợ nần được viết là 女債 女难.
- Chữ Nôm lẻ 𥛭 gồm chữ @ (âm) + chích “chiếc” (ý). Theo đó, từ láy lẻ loi được viết là 𥛭 礼雷.
- Cũng vậy, một khi đã có chữ rẻ 礼易 là thì từ láy rẻ rúng sẽ được viét là 礼易礼用(4).
* Với những từ láy mà các tiếng cấu thành tự thân đều không mang nghĩa riêng, thì bộ thủ chung cho chúng được quyết định bởi ý nghĩa chung của từ láy đó, mà lắm khi cũng do ý nghĩa thực tại của văn cảnh quy định.
Chẳng hạn: từ láy lẹt đẹt thường được hiểu là “chậm chạp, tụt lại sau” hoặc “tiếng nổ trầm, rời rạc”. Song trong hai câu sau đây, từ láy này được viết với bộ túc “chân”: 足列 足失, vì ở cả hai văn cảnh đều nói đến tiếng chân đi:
- “Nghe lẹt đẹt có tiếng lê dép” (Truyền III, 55b).
- “Có tiếng đi lẹt đẹt” (Truyền, IV, 53a).
Ở đây các bộ thủ liên kết trong từ láy âm đồng thời cũng mang tính cách của bộ thủ lâm thời trong văn cảnh, xét về mặt ngữ nghĩa.
Bài này thực hiện việc phân tích hiện tượng các bộ thủ không trực tiếp mang nghĩa trong chữ Nôm tiếng Việt theo các mối liên hệ tiềm tàng giữa chúng với nhau trong hệ thống văn tự - ngôn ngữ, cũng như trong các chu cảnh hành văn mà chúng xuất hiện. Kết quả phân tích cho phép ta giải thích được hầu hết những gì ngỡ là phi lí, nhưng thực ra không phải là không có duyên cớ sâu xa trong tâm lí tạo chữ và dùng chữ của người bản ngữ.
Mọi sự xem xét và phân tích ở đây mới chỉ hạn chế trong phạm vi các bộ thủ không trực tiếp mang nghĩa trong chữ Nôm. Chắc rằng vấn đề sẽ còn phức tạp nhưng cũng thú vị hơn nhiều nếu tiếp tục mở rộng và đi sâu nghiên cứu nhiều hiện tượng tương tự như thế nữa trong chữ Nôm.
Chú thích:
1. Ngoài chữ (bộ) xa , còn có hàng loạt các chữ khác nhau như cự , ba , , khả , , a ... cũng có thể đã từng làm thành tố biểu âm phụ trợ như thế trong tiếng Việt cổ.
2. Chữ xa 貝余 nghĩa gốc là “mua chịu” nên dùng bộ bối. Sau này dần dần có nghĩa là “xa rộng”. Trước khi mượn từ xa này, người Việt hẳn đã có các từ cùng nghĩa như thế, chẳng hạn: ngái (Nghệ Tĩnh), diễn (Nguyễn Trãi).
3. Chữ này được mượn nguyên từ chữ Hán, kể cả hình lẫn nghĩa, với âm Hán Việt là oanh hoặc quanh .
4. Với những chữ ghi các từ láy đang xét, vấn đề không chỉ là bộ thủ mà đã là các thành tố biểu âm nói chung (mà bản thân thành tố đó có chứa bộ thủ).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh: Chữ Nôm: Nguồn gốc - cấu tạo - diễn biến. Nxb KHXH, Hà Nội, 1975.
2. Nguyễn Tài Cẩn: Một số vấn đề về chữ Nôm. Nxb ĐH và THCN, Hà Nội, 1985.
3. Bảng tra chữ Nôm. (Viện Ngôn ngữ học). Nxb KHXH, Hà Nội, 1976.
4. Từ điển chữ Nôm tiếng Việt (Nguyễn Quang Hồng chủ biên. Bản thảo. Viện Hán Nôm, 1995).
5. Vương Lực. Hán Việt ngữ nghiên cứu. Trong sách “Hán ngữ sử luận văn tập”, Khoa học xuất bản xã, Bắc Kinh 1958.
6. Nguyễn Tá Nhí. Bộ phận chỉ nghĩa giả trong chữ Nôm. Tạp chí Hán Nôm, 2/1987.
7. Khang Hi tự điển. Trung Hoa thư cục xuất bản. Bắc Kinh, 1992 (in lần thứ 8).
8. Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh. Bản khắc in. Tư liệu riêng. (Viết tắt: Phật).
9. Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục. (Viết tắt: Cổ). Trong sách “Di văn chùa Dâu”. Nxb KHXH, Hà Nội 1996.
10. Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập. (Viết tắt: Bạch). Bản khắc in (Viện Hán Nôm, AB, 635).
11. Truyền Kỳ Mạn Lục tăng bổ giải âm tập chú. (Viết tắt: Truyền). Bản khắc in năm Cảnh Hưng 35 (Thư viện Viện Văn học, Hán Nôm 157-258).
12. Nguyễn Du: Đoạn trường tân thanh. (Viết tắt: Kiều). Bản khắc in (Viện Hán Nôm, AB, 12).
13. Lí Văn Phức. Nhị thập tứ hiếu diễn ca (Viết tắt: Hiếu). Bản khắc in (Viện Hán Nôm, VHV 1259).
14. Nguyễn Đình Chiểu, Lục Vân Tiên truyện (Viết tắt: Lục). Bản khắc in. Trong sách cùng tên. Nxb KHXH, Hà Nội, 1994.
15. Tây du truyện, (Viết tắt: Tây). Bản khắc in (Viện Hán Nôm, AB 81).
16. Lí hạng ca cao (Viết tắt: Ca). Bản khắc in (Viện Hán Nôm, VNv 303).
Thông báo Hán Nôm học 1998 (tr.168-178)

Monday 12 May 2014

ĐI THEO TÀU LÀ MẤT NƯỚC, MẤT ĐẢNG (Ngô Minh)

KÍNH CÁO VIỆC BỊ GỠ BÀI

"QUÀ TẶNG XỨ MƯA post bài ĐI THEO TÀU LÀ MẤT NƯỚC, MẤT ĐẢNG được đông đảo bạn đọc tán đồng nhiệt liệt. Số truy cập 18 tiếng sau khi đăng bài, đến 13 giờ ngày 17/5/2013 là 1.600 lượt. Nhưng bài viết đã bị Admin Vnweblogs và an ninh mạng gỡ khởi giao diện. Họ đã thông báo với Ngô Minh một cách tử tế. Ngô Minh xin cám ơn. Mời đọc giả muốn đọc bài viết ĐI THEO TÀU LÀ MẤT NƯỚC, MẤT ĐẢNG, truy cập trên quechoa.vn. KÍNH CÁO"

Thời buổi này mà còn bưng bít thông tin nữa, bà con nào chưa đọc bài đó, xin mời:

----

ĐI THEO TÀU LÀ MẤT NƯỚC, MẤT ĐẢNG

Ngô Minh

Mấy hôm nay tôi vô cùng bức xúc với việc, ngày 13-5, 32 tàu cá Trung Quốc đã kéo đến vùng biển phía tây nam quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Đoàn tàu “đánh cá” của bọn Đại Hán này hoàn toàn nằm trong thềm lục địa của Việt Nam. Ấy thế mà Việt Nam không một lời lên tiếng*. Nghĩa là Trung ương đã để mặc lãnh hải cho bọn Trung Quốc muốn làm gì thì làm. Uất quá, buộc phải lên tiếng.

Trong lịch sử Việt Nam, nước ta bị giặc Tàu đô hộ ngàn năm, nhưng từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn , không có triều đại nào đi theo Tàu, bán đất nước cho Tàu. Nhiều triều đại còn xưng “ĐẾ” ngang với Thiên Triều. Nam quốc sơn hà Nam đế cư/Tuyệt nhiên định phận tại Thiên Thư-“Đế”, con trời do Sách Trời định , ngang hàng với Đế Tàu, chứ không phải vua do Tàu phong…. Hay như Nguyễn Huệ tự xưng là Hoàng đế Quang Trung.

Bọn Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc ôm chân giặc Tàu để mong chúng giúp giành ngôi để làm tôi mọi cho Tàu, bị lịch sử lên án ngàn đời. Lịch sử Việt Nam thời cận đại có ba triều đại Lê Trịnh, Tây Sơn và Nguyễn, đối nghịch lăm le tiêu diệt lẫn nhau, gây cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn hàng thế kỷ, tuy nhiên có điều là cả ba cùng một ý nguyện tìm cách đòi lại phần đất bị mất bởi Trung Quốc, đòi lại 10 châu thuộc phủ An Tây, Hưng Hóa, là địa phận tỉnh Điện Biên, Lai Châu hiện nay . Ðại Nam Nhất Thống Chí xác nhận rằng 6 châu bị mất vào nhà Thanh gồm : Tung Lăng, Hoàng Nham, Hợp Phì, Lễ Tuyền, Tuy Phụ, Khiêm. Riêng 4 châu còn lại thì đời đầu Nguyễn thuộc phủ An Tây, đến thời Thiệu Trị trích lấy đất lập Châu Lai, tiền thân của tỉnh Lai Châu, năm Tự Ðức thứ 4 [1851] trích lấy châu Quỳnh Nhai và châu Luân cho lập phủ Ðiện Biên, tiền thân của tỉnh Ðiện Biên ngày nay. Đó mới là người Việt Nam

Đau đớn thay, từ giữa thế kỷ XX đến nay, nước ta dưới thời CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN, với khẩu hiệu “Bốn phương vô sản đều là anh em”, ngây thơ “đi theo” Trung Quốc đã bị mất đất, mất người nhiều lần. Chúng lấm chiếm biên giới lấy mất Mục Nam Quan, lấy mất 2/3 Thác Bản Dốc. Theo nhà báo Huy Đức trong tác phẩm ”Bên thắng cuộc”, thì Trung Quốc đã dừng mọi thủ đoạn để lấn chiếm 50.000 m2 Việt Nam dọc biên giới. Năm 1974, giặc Tàu chiếm Quần đảo Hoàng Sa, 1988, chúng đánh chiếm đảo Gạc Ma thuộc Trường Sa của Việt Nam. Các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam là đội quân thiện chiến vừa mới thắng Mỹ, nhưng “lệnh trên” để “giữ tình hữu nghị”, không được bắn trả, chỉ ôm lá cờ chịu chết , chịu mất đảo . Đau đớn thay. Việt Nam chiến tranh 20 năm, trên 5 triệu người cả hai miền Nam-Bắc bi chết, để thực hiện âm mưu “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” của Mao Trạch Đông. Hiện nay, sâu trong lãnh thổ Việt Nam, hàng ngàn lính Tàu gian manh đã đứng chân trên đất Tây Nguyên với kế hoạch khai thác boxite ký kết giữa Tổng Bí thư 2 đảng. Boxite là thứ rẻ độn, mua đâu cũng có hàng tỷ tấn, tại sao chúng đòi cho bằng được Tây Nguyên? Vì ai chiếm được Tây Nguyên thì kẻ đó chiếm được Đông Dương. Quân tàu cũng đang chiếm cứ 300.000 ha rừng đầu nguồn phía Bắc, do bọn quan tỉnh tham lam bán đất cho chúng. Nếu chiến tranh xẩy ra thì đất ấy là hậu cứ của Tàu.

Ở trên là nói về đất. Bây giờ xin nới về người. Ngoài việc hàng triệu người hy sinh trong “chiến tranh lạnh” để bảo vệ Trung Quốc và “phe XHCN”, 74 chiến sĩ Hải Quân Việt Nam Cộng hòa hy sinh ở Hoàng Sa, 64 chiến sĩ Hải Quân Việt Nam hy sinh ở Gạc Ma, còn một kiểu “mất người” tàn bạo khác do đi theo Tàu. Đó là thảm họa Cải cách ruộng đất theo mô hình thổ địa cải cách của Mao Trạch Đông , cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc được tổ chức với tinh thần đấu tranh giai cấp triệt để với sự chỉ huy trực tiếp của cố vấn Trung Quốc với phương châm: “Trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ”. Kết quả từ 1953- 1956 đã phá nát hệ thống thiết chế văn hóa nông thôn Việt Nam, làm cho nông thôn tan nát. Theo thông kế chưa đầy đủ, cả nước , Đội CCRĐ đã bắt tù đày đọa 5% nông dân, nghĩa là gần 500.000 người bị bắt tù, bị đấu tố, nhục mạ. Đội CCRĐ đã giết 15 vạn địa chủ, thực ra là những người có tài kinh doanh, biết sử dụng ruộng đất hiệu quả, nên đời sống cao hơn người khác và cả những chí sĩ yêu nước bị ghép vào tội “Quốc dân đảng”, bị quy địa chủ bị bắt tù rồi chết oan trong tù như Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm ở Hà Tĩnh.

Sau CCRĐ là Cải tạo Công thương nghiệp tư doanh ở miền Bắc năm 1956 và ở miền Nam sau năm 1975, cũng là cách làm theo Mao Trạch Đông và Stalin, đã phá nát nền công nghiệp non trẻ của Việt nam, đẩy các chủ doanh nghiệp tài giỏi đến cùng quẫn phải đi bán hàng rong hoặc vượt biên, làm mồi cho cá trên đại đương.

Về văn hóa, chính trị, 2 lần làm theo lệnh Trung Quốc, làm cho hàng ngàn vạn trí thức lớn Việt Nam bị bắt bớ, tù đày, bị quản thúc. Đó là vụ Nhân Văn-Giai phẩm và vụ Chống xét lại. Vụ Nhân Văn Giai phẩm bắt đầu diễn ra đấu tố năm 1958. Hàng trăm văn nghệ sĩ , trí thức lớn như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Trần Dần, Văn Cao, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang… và những người liên quan vị bắt tù, bị treo bút hoặc mất việc. Có người như ông Nguyễn Hữu Đang- nhà văn hóa lớn, Trưởng ban tổ chức Lễ tuyên ngôn Độc lập Quảng Trường Ba Đình 2-9 1945, bị tù ở nhà tù heo hút ở sát biên giới Trung Quốc, dài đến mức ông không biết có một cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc do không quân Mỹ tiến hành. Nhà văn Lê Hoài Nguyên tên thật là Thái Kế Toại, nguyên Đại tá công an, công tác tại A25 (chuyên theo dõi văn nghệ sĩ và văn hóa) sau này đã có chuyên luận dài về Nhân Văn Giai Phẩm, đã nhận định: VỤ NHÂN VĂN–GIAI PHẨM TỪ GÓC NHÌN MỘT TRÀO LƯU TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ, MỘT CUỘC CÁCH MẠNG VĂN HỌC KHÔNG THÀNH. Ông Thái Kế Toại cho rằng, NVGP không phải là một vụ án gián điệp phản động. Các văn nghệ sỹ trí thức NVGP không có mục đích lật đổ chế độ. Họ chỉ mong muốn ĐCSVN, chính phủ sửa chữa những sai lầm và xây dựng ngay một nền dân chủ pháp trị, một đời sống tinh thần có tự do tư tưởng, một đời sống văn học nghệ thuật tự do sáng tạo”. Vụ án đã tiệt tiêu một thế hệ văn nghệ vàng của Việt Nam.

Vụ án Xét lại hiện đại cũng xuất phát từ việc đi theo và làm theo Trung Quốc. Vụ này có hai giai đoạn : giai đoạn đầu , bắt đầu từ đầu những năm 1960, đối tượng đấu tố là các văn nghệ sĩ có các tác phẩm yêu đương, buồn rất người, theo cách của các tác phẩm Khi đàn sếu bay qua, Người thứ 41.v.v.. ở Liên Xô sau chiến tranh thế giới thứ 2, như : Mở hầm của Nguyễn Dậu, Mùa hoa dẻ của Văn Linh.v.v..Các văn nghệ sĩ và các giáo viên dạy văn cấp 3 bị quy là xét lại phải kiểm điểm. Có người mất việc trong cơ quan nhà nước. Vụ án xét lại lớn thứ hai được gọi là Vụ án Tổ chức chống Ðảng, chống Nhà nước, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài” do Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn trực tiếp chỉ đạo, là vụ bắt giam lâu năm không xét xử nhiều nhân vật quan trọng trong nội bộ Đảng và bộ máy chính quyền tại miền bắc Việt Nam từ năm 1967, với cáo buộc là đi theo Chủ nghĩa Xét lại. Vụ án bắt đầu từ việc, tại đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, Khrushchyov TBT Đảng CS Liên Xô đã đọc báo cáo về Tệ sùng bái cá nhân của I.V. Stalin. Ông chủ trương chung sống hòa bình với thế giới Tư bản (“Các nước không cùng lập trường chính trị có thể sống chung”). Đường lối của Khrushchyov bị Mao Trạch Đông, chống lại và gọi là “Chủ nghĩa Xét lại”. Việt Nam đi theo Mao nên cũng triển khai bắt giam và giết hại “bọn xét lại trong nước”. Ước lượng trong Vụ án Xét lại Chống Đảng, khoảng 300 người bị bắt trong đó có 30 nhân vật cao cấp. Đây là thế hệ trí thức, cán bộ cấp cao có trình độ nhất Việt Nam thời bấy giờ. Có nhà phân tích cho rằng, vụ án xét lại này cũng là do Lê Đức Thọ muốn dùng “hiểm họa xét lại” để hạ bệ tướng Võ Nguyên Giáp. Dù phân tích theo hướng nào thì những vụ án như thế cũng là do Trung Quốc chỉ đạo nhằm tiêu diệt giới trí thức hàng đầu Việt Nam.

Trung Quốc là quốc gia do bọn bành trướng Đại Hán thống trị. Chúng không bao giờ là “anh em hòa hảo” với ai mà coi các nước lân bang là miếng mồi để chiếm đất. Chúng đã chiếm Tây Tạng, gây hấn với Mông Cổ, Liên Xô , Ấn Độ, Việt Nam …Theo tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, một trong số ít người Việt nam hiểu Trung Quốc nhất, thì chúng không bao giờ có truyền thống văn hóa với Việt Nam, không chung ý thức hệ với Việt Nam (Lãnh đạo Trung Quốc đã từ lâu rời bỏ ý thức hệ Mác-Lê Nin, để trở thành một tập đoàn Hán tộc tham lam, muốn đầu độc cả thế giới bằng hàng hóa độc hại và chiến tranh, lấn đất, lấn biển). Cho nên đi theo Tàu là chết !

o0o

Chỉ có 2 lần lãnh đạo Việt Nam không nghe theo Trung Quốc và đã giành thắng lợi vang dội : Đó là Chiến dịch Điện biên Phủ ( 1954) và Chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 và Chiến dịch Hổ chí Minh năm 1975. Trong Chiến dịch Điên Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyễn Giáp đã không nghe theo sự chỉ đạo của cố vấn Trung Quốc, dù kế hoạch của cố vấn đã được Bộ chỉ huy chiến trường phê duyệt, đã thay đổi cách đánh từ “Đánh nhanh tiến nhanh” của Trung Quốc thành “Đánh chắc, tiến chắc” của Việt Nam . Nên kéo pháo vào rồi lại kéo pháo ra. Kết quả là Võ Nguyên Giáp đã đúng. Việt Nam đã thắng Pháp và thắng cả mưu mô của Trung Quốc. Còn thời đánh Mỹ, TBT Lê Duẩn đã không nghe theo Mao Trạch Đông “Đánh Mỹ đến người Việt nam cuối cùng”, nên đã tổ chức các cuộc tấn công năm 1968, 1972, 1975 và đã giành thắng lợi. Việt Nam đã thắng Mỹ và thắng cả mưu mô thâm hiểm của Trung Quốc.

Nhân dân Việt Nam, đặc biệt là giới trí thức hiểu rất rõ bản chất thâm hậu của bọn Tàu. Nhưng đáng buồn thay , một số lãnh đạo Đảng CS Việt Nam lại mơ hồ ( hay giả vờ mơ hồ ?) về người bạn “16 chữ vàng”, “4 tốt “ lừa mị, để hướng đất nước theo chúng. Một số học giả chính trị của Quân Đội nhân dân Việt Nam mà tiêu biểu là Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Ưu tú Trần Đăng Thanh thuộc Học viện Chính trị của Bộ Quốc phòng, người đã đăng đàn bảo vệ quan điểm “đi theo Trung Quốc” để “bảo vệ cái sổ hưu”. Họ cho rằng: “Trung Quốc có đánh ta, nhưng là ân nhân của nước ta”. Thậm chí họ còn vạch chiến lược huấn luyện tác chiến của Quân đội Việt Nam với đối tượng tác chiến là Quân Mỹ chứ không phải quân Trung Quốc. Tôi cho rằng, đó là nhận định sai lầm, có nguy cơ dẫn đến mất nước và mất cả đảng ( đối với những người cộng sản chân chính). Vì ta đánh Mỹ là bảo vệ Trung Quốc và phe XHCN, không có nợ nần gì chúng. Nếu có chút nợ nần thì cuộc chiến xâm lược Việt Nam mà Trung Quốc phát động tháng 2- 1979 và cuộc chiến Gạc Ma 1988, hàng chục vạn người Việt Nam dọc biên giới đã bị giết hại, không những xóa sạch nợ nần, mà chúng còn gây nợ máu đối với nhân dân Việt Nam rất lớn. Thế thì làm sao gọi là “ân nhân” hỡi ông Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Ưu tú ” bảo vệ cái sổ hưu”?

Cả ngàn năm Bắc thuộc, đất nước ta nghèo, không biết gì thế giới bên ngoài, mà các triều đại tuyệt đối không theo Trung Quốc, không bị Trung Quốc đồng hóa. Ngày nay Việt Nam có thế lực và tiềm năng rất lớn để giữ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trước bọn bành trướng Đại Hán, vì chúng ta có Nhân Dân cực kỳ yêu nước, Quân đội nhân dân thiện chiến, có điểm tựa là khối ASAEN với 10 nước liền kề, lại còn có các nước bè bạn khắp năm châu như Nga, Ấn Độ, Anh, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ…Nếu chúng ta biết khai thác những lợi thế đó thì bọn Đại Hán không làm gì được ta.

Trung Quốc là nước láng giềng. Chúng ta phải tôn trọng và ứng xử hữu hảo theo luật lệ thế giới. Nước Việt Nam là nước độc lập có chủ quyền, nếu Trung Quốc gây hấn ở Biển Đông hay biên giới, nhân dân Việt Nam biểu tình phản đối sao lại “bắt tù “ nhân dân ? Phải ngay lập tức triệu đại sứ Trung Quốc tới, trao công hàm, nói với họ rằng, nếu các ông sống hữu hảo, đừng xâm phạm lãnh hải Việt Nam thì nhân dân Việt Nam sẽ không biểu tình chống Trung Quốc. Sao không nói với họ như thế, lại đi đàn áp nhân dân mình ? Nước có chủ quyền gì mà lạ thế !

Có người bảo:” Đi với Trung Quốc thì mất nước, nhưng còn đảng” . “Đi với Mỹ thì mất đảng, nhưng còn nước”. Nên các vị lãnh đạo ĐCS Việt Nam đã chọn con đường đi theo Trung Quốc, vậy còn đất nước và nhân dân thì sao ? Đây là một thực tế rõ ràng, 86 triệu dân Việt Nam ai cũng biết, chứ không phải là luận điệu của “bọn thù địch”. Người viết bài này là một người từng đi đánh Mỹ, vào Đảng nhân dân Cách mạng miền Nam, là nhà văn sống bằng lương tâm và lao động của mình, không bao giờ bị bọn thù địch nào mua chuộc nổi .

Vì thế tôi cầu mong các vị hãy tỉnh trí lại , và khắc sâu vào tâm can : Đi với Trung Quốc, nghe theo Trung Quốc sẽ mất nước và mất cả đảng !

……………………….

* Sự lên tiếng như ông Lương Thanh Nghị vẫn lên tiếng đã nhàm, rập khuôn và giả tạo, dân không còn coi đó là “sự lên tiếng” nữa. (QC)