|
Đã có một thời, khi phiên âm một văn bản Nôm mà gặp phải những chữ khó, oái oăm không biết nên đọc như thế nào, người bảo nên đọc thế này, người bảo nên đọc thế nọ, mà không biết ai đúng ai sai. Người ta thường gọi những chữ Nôm hắc búa ấy là chữ Nôm cổ, vì nó có điểm nào đó khác hẳn chữ Nôm ngày nay. Lúc này chữ Nôm cổ đồng nghĩa với chữ Nôm khó.
Khi khảo sát sâu hơn một chút về chữ Nôm, ta nhận thấy có nhiều từ (cùng âm cùng nghĩa) trong chữ Nôm được viết khác nhau, trong đó qua thực tế đọc Nôm có thể khẳng định được chữ nào có trước, chữ nào có sau. Ví dụ từ trống (nhạc cụ gõ) đã trải qua các cách viết sau:
弄
Và ta gọi chữ Nôm nào xuất hiện trước là chữ Nôm cổ. Chữ cổ ở đây được đo bằng một thời gian tương đối. Một chữ Nôm cổ chỉ được xác định bằng sự đối lập với hình thức có sau nó, ví dụ chữ tay 1 cổ hơn chữ tay 2 ; chữ phướn 1 幡 cổ hơn chữ phướn ; chữ trước 1 cổ hơn chữ trước 2 và chữ trước 3
Song sự so sánh này cũng có chỗ khập khiễng và chưa đủ để xác định được một chữ Nôm cổ bởi vì không phải chữ Nôm nào trong quá trình phát triển lịch sử cũng được thay thế bằng một cách viết khác. Nếu chữ Nôm nào cũng thay đổi tự dạng thì chữ Nôm với tư cách là hệ thống chữ viết sẽ mất sự đứt đoạn trong văn tự. Nó khác với sự xuất hiện của chữ Quốc ngữ là kết quả sáng tạo ra một loại hình văn tự mới có thể thay thế chữ Nôm. Có thể có những mã chữ Nôm mà từ khi xuất hiện đến nay không hề thay đổi hoặc thay đổi không đáng kể. Ví dụ: căn cứ vào bản phụ lục các chữ Nôm gặp trong các văn bản có niên đại chính xác ở cuối sách Một số vấn đề về chữ Nôm của Nguyễn Tài Cẩn(1) ta sẽ thấy các chữ nêu sau đây đến nay vẫn không có gì thay đổi: oản (bộ mễ + uyển) năm 1210. Vườn 园 năm 1342, tiếng năm 1486, nhe 土而 (bộ thổ + nhi) năm 1210, đồng 同 năm 1210, dòng (bộ thủy + dụng) năm 1486 v.v.. vậy thì nhìn về hình thức tự dạng, các chữ cổ lại là những chữ rất mới vẫn còn dùng ở đầu thế kỷ XX. Điều này cũng dễ hiểu vì những chữ hay những từ cổ thực tế lại chính là những chữ và từ cơ bản, không thể thay thế, do được sử dụng liên tục không ngừng. Về mặt ngôn ngữ cũng thế, các từ: mặt, mũi, chân, tay, bụng, cổ, mắt, ăn, mặc... hiện nay vẫn đang dùng trong lời nói hàng ngày lại chính là những từ cổ nhất thuộc gốc mon-khmer có cách đây hàng mấy ngàn năm (tất nhiên ngày xưa đọc theo cơ chế âm thời Tiền Việt Mường). Vấn đề đáng nói là ở chỗ cách tính thời gian trước sau dựa vào tự dạng ở đây hầu như bất lực, trừ một số ít trường hợp.
Vấn đề cần xét là ở khu vực nào thì chữ Nôm không thay đổi và ở khu vực nào thì hiện tượng này xảy ra ngược lại. Đây là điểm phức tạp từ trước đến nay ít ai nhắc tới. Nhưng không xét kỹ điểm này thì cũng khó tìm ra tiêu chí để xác định một chữ Nôm cổ theo nghĩa đã nêu ở đầu bài này. Chữ Nôm trong suốt 7, 8 thế kỷ vẫn liên tục được sử dụng nhưng chưa bao giờ được chuẩn hóa, chưa có một cuốn sách nào qui định về cách viết chữ Nôm. Vậy mà lạ thay, các nhà Nho vẫn viết chữ Nôm mà người cùng thời ai đọc cũng hiểu cả. Có một cái mã chung tiềm ẩn trong óc mọi người, khiến cho mọi người viết ra cả cộng đồng văn hóa cùng đọc hiểu được. Đó là cái mã ngữ âm của từng thời kỳ, điều mà nhiều nhà nghiên cứu đã thống nhất ý kiến và chúng tôi đã có dịp bày tỏ ở một số bài báo(2).
Do chỗ ngữ âm tiếng Việt có sự thay đổi, một số chữ Nôm ở thời trước đó có độ trật khớp khá lớn so với ngữ âm đương thời. Nhất là những chữ đó lại có mặt trong những văn cảnh dễ gây ra sự hiểu lầm thì buộc lòng người ta phải dựa trên cơ sở mã chữ cũ mà thay đổi đi ít nhiều (thường thay đổi bộ phận ghi ý) để tạo ra mã chữ mới dễ đọc hơn. Ví dụ chữ góc 1 角 (âm Hán là Kjak) khi đã có xu hướng k > g rồi thì góc 2 viết là (giác + cốc); chữ vuông 1 khi đã xảy ra sự biến âm b > v thì vuông 2 viết là (phương + bông); chữ buồng 1 房 (âm Hán cổ là Pjwang) khi đã có âm Hán Việt rồi thì buồng 2 viết là (phòng + bồng) v.v.. Nhưng không phải khi ngữ âm biến đổi, tất cả các chữ Nôm nằm trong luồng biến đổi này đều thay đổi dạng tự, một số chữ đã thực sự ổn định qua thời gian dài vẫn duy trì hình thức cũ cho đến tận ngày nay. Chính những chữ này đang làm cho giới Hán Nôm phải đau đầu (để tìm cách đọc đúng và giải thích đúng) và dễ gây ấn tượng chữ Nôm là một thức văn tự lỏng lẻo, không có quy củ. Cho nên khái niệm về chữ Nôm cổ không phải là căn cứ vào cái cốt ngữ âm cổ làm lõi cho tự dạng ấy. Vì vậy điều đáng quan tâm hàng đầu cũng chính là vấn đề ngữ âm.
Để diễn giải rõ hơn, ta có thể xem xét những dữ liệu sau đây: 1/ Các mã chữ Nôm hiện nay đang dùng và đang được tranh cãi về cách cấu tạo cũng như về cách đọc(3), và 2/ Các mã chữ Nôm rất ít xuất hiện nên khá xa lạ đối với một số người, nhưng lại là những cứ liệu rất đáng được bàn luận.
1. Trước hết hãy xem xét các chữ Nôm thuộc loại 1.
Để tiện phân tích và giải thích, khi nêu dẫn chứng, loại 1 còn có thể phân nhỏ thành 2 nhóm (1a và 1b):
a- Các mã chữ không đọc theo âm Hán Việt nhưng thông lệ đối với các chữ Nôm khác mà đọc theo âm Hán thượng cổ được Việt hóa, gọi là âm Tiền Hán Việt. Ví dụ:
bếp (bộ hỏa + phạp) (1)
mướp (bộ mộc + phạp) (2)
bướm (bộ trùng + phạp) (3)
mép 口乏 (bộ khẩu + phạp) (4)
bỏng (bộ hỏa + phụng) (5)
bóng (bộ nguyệt + phụng) (6)
bụng (bộ nhục + phụng) (7)
đêm (bộ nguyệt + triêm) (8)
đèo (bộ sơn + triêu) (9).
Trước nhất phạp và phụng là đọc theo âm Hán Việt, âm này không giải thích được cách đọc âm Nôm. Ở đây phải đọc theo âm Hán thượng cổ p thuộc mẫu bang, âm Việt hóa là bạp và bụng. Lại theo phép đối chuyển, nghĩa là các âm cuối -p, -t, -k có thể chuyển thành -m, -n, -ng và ngược lại, nên âm bạp có thể chuyển thành bam, bàm. Xét các chữ trên:
Chữ (1) đọc chuyển theo cách bạp > bếp
Chữ (2) đọc chuyển theo cách bạp > mướp.
(ở đây có sự chuyển đổi âm đầu b ~ m như bồ hôi ~ mồ hôi; bồ hóng ~ mồ hóng; bồ hòn ~ mồ hòn(3) cũng có thể nghĩ âm mướp ngày nay có tiền thân là một thủy âm b, hiện nay mướp trong tiếng Tày còn đọc là buộp)
Chữ (3) đọc chuyển theo cách bạp > bàm > bướm
Chữ (4) đọc chuyển theo cách bạp > mạp > mép.
Chữ (5) đọc chuyển theo cách bụng > bỏng
Chữ (6) đọc chuyển theo cách bụng > bóng
Chữ (7) đọc chuyển theo cách bụng > bụng
Chữ triêu và triêm cũng đọc theo âm đầu Hán thượng cổ (t) thuộc mẫu đoan Việt hóa thành (đ) đọc là diêu và diêm, vậy thì:
Chữ (8) đọc chuyển theo cách diêm > đêm
Chữ (9) đọc chuyển theo cách điêu > đèo.
Đây là một sự thực còn thấy tồn tại trong nhiều văn bản cổ. Trong Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng Kinh(4), câu chữ Hán "Xan qua quả ngũ cốc" dịch là "ăn những Klái (trái) bí". Chữ bí được viết là (5) (bộ thủy + phi). Rõ ràng ở đây phi được đọc theo âm Hán thượng cổ là bi và cách đọc chuyển là bi > bí.
Cũng vậy, ở các văn bản sau này (kể cả Kiều) một số chữ vẫn được đọc theo âm Hán thượng cổ như trọc 濁 đọc là đục, trúng 中 đọc là đúng, phọc đọc là buộc, vụ 霧 (sương) đọc là mù, vu 巫 (bà đồng) đọc là mụ.
1b, Các mã chữ không đọc theo âm Hán Việt cũng không đọc theo âm Hán thượng cổ mà: a/ có thể nghĩ là đọc theo âm nửa vời trên con đường chuyển sang âm Hán Việt hoặc b/ đọc theo âm Việt cổ. Ví dụ âm đầu t Hán Việt có đi qua một âm trung gian là s(6) hoặc có thể nghĩ là âm đầu t Việt ngày nay trước thế kỷ XV còn đọc là âm đầu s. Ví dụ: Sách PT câu "bạch cốt phiêu linh" dịch là "Xương bạc 珊 (trong san hô) 索(7) (trong yêu sách)" san sách là từ tan tác sau này (7 trường hợp).
Các mã chữ có âm đầu th Hán Việt ngày nay được viết bằng các chữ có âm đầu s. Âm s cũng là âm trung gian s trước khi sang âm th Hán Việt(8) và cũng là âm đầu trong tiếng Việt cổ S, sang thế kỷ XVI sẽ chuyển thành th như là hệ quả của quá trình s > t đã xảy ra ở thế kỷ XV. Tất cả các từ thưa, thơ (thơ ca) trong Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú đều được ghi bằng chữ (9) (bộ túc + thúc Trong PT, tất cả các chữ ninh (thà) đều được dịch thành 蛇 10) như câu "ninh dĩ tỏa chủy trảm toái kỳ thân" dịch là "Sà (thà) lấy dùi sắt chém bướp (rách mướp) cong (trong) vóc (thân) này", câu "bất tôn sư phạm" dịch là "chẳng đòi (theo) 柴 (11) (thầy) dạy". Lại có nhiều chỗ dùng chữ Hán Việt đọc thiết để ghi từ sắt (đọc với âm s).
Cách ghi các nhóm âm đầu tiếng Việt cổ cũng có những nét đặc biệt ở một số chữ Nôm. Trong PT và Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi (bản Dương Bá Cung) từ trong nhất loạt được ghi bằng chữ 工 (công). Một số sách phiên âm trước đây phiên là cong, thực ra là cách ghi đặc biệt của Klong sau biến âm thành trong. Cũng vậy, ở các sách trên từ trả nhất loạt được ghi là 把 (bả) ví dụ câu "dĩ thử báo thân ân" dịch là "lấy vậy mà bả (trả) ơn áng ná", câu “lục giả nhĩ bú dưỡng dục ân” dịch là: "sáu là bả ơn bú mớm". Từ trăm sách PT đều ghi là 林 (ghi ăm tlăm), như câu "mẫu niên nhất bách tuế" dịch là "tuổi mẹ một lâm (trăm) năm" từ trẻ được ghi là 禮 (lễ), ví dụ câu "hài nhi tại mẫu phúc" dịch là "con lễ" (trẻ) ở cong (trong) lòng mẹ". Ta biết các âm đầu ts ngày nay đều bắt nguồn từ các âm kl, bl và tl cổ. bl và tl còn tồn tại đến thế kỷ XVII trong từ điển của A.de Rhodes. Trong chữ Nôm có thể ghi bằng âm đầu l như vừa dẫn trên, cũng có thể ghi bằng kl như cự-l..., cá-l..., cổ-l hoặc ba-l..., ví dụ ở PT câu "chiêm ngưỡng tôn nhan" dịch là " (12) (Klong > (trông) mặt Bụt", từ trạng ghi là ba-lăng .
Cách ghi bằng l cự-l..., cô-l..., còn được dùng để ghi nhóm phụ âm kr sau này sẽ biến thành S tiếng Việt hiện đại. Do hệ thống âm Hán Việt không có thủy âm r nên phải dùng l thay thế vào. Ta gặp ở PT rất nhiều trường hợp này, ví dụ câu "đệ tử như hà nhận biện" dịch là "đệ tử làm 牢(13) (Krao) mà biết", câu "ẩm nương bát hộc tứ đấu bạch nhũ" dịch là "uống vào tám hộc tư đấu (14) (Krã > sữa); câu "huyết lưu biến địa" dịch là "máu chảy 律(15) (Kruat > suốt) hết đất" - trường hợp này cũng có thể ghi theo từ cổ, ta biết từ suốt tiếng Việt ngày nay đồng nghĩa với từ lọt trong tiếng Tày cổ; câu "đề khốc mục thũng" dịch là "Kêu khóc mắt (16) (Krưng > sưng)".
Các hiện tượng s > t; s > th đã được Nguyễn Tài Cẩn chứng minh rất rõ (sđd). Hiện tượng kl, bl, kl > thì bl và tl ta thấy ở thế kỷ XVII nó còn tồn tại song song với tr. Trong từ điển của A.de Rhodes có 25 trường hợp tl tồn tại song song với tr, 7 trường hợp bl tồn tại song song với tr. Xét về nguồn gốc, gl và tl có thể bắt nguồn từ kl. Maspéro(17) cũng cho rằng kl đã được thay thế bằng tl trước khi chuyển sang tr trong tiếng Việt, bằng gl trong tiếng Thái, Mèo. Trong tiếng Mường hiện tồn tại cả kl và tl hiện tượng kr > s thì ta thấy trong Việt Mường chung tồn tại các nhóm phụ âm có r như kr trong tiếng La ven. Úy Lô, gr trong tiếng Thái, pr trong tiếng Bana. Những nhóm phụ âm này được duy trì trong một thời gian dài sau đó r chuyển thành âm lỏng l trong các tiếng Hung, Khong Kheng, Sách và Tha vừng. Ở tiếng Việt thì nhóm phụ âm này tới thế kỷ XV chuyển sang âm sát quặt lưỡi s (s quốc ngữ). Theo M.Ferlus(18) có lẽ trước nhất các nhóm có r phải hòa lẫn vào nhau thành Kr rồi qua Khr để thành ks trong tiếng Thạch bì. Từ đây K bị rụng lại r trong tiếng Mường Làng Lỡ, trong khi ấy /kh/ ở tiếng Vân Mộng và Tân Lạc cũng bắt nguồn từ Kr do tính xát mà chuyển sang s, ta có thể so sánh như sau:
|