-
Nguyễn Đức Hiệp
-
(Australia)
Thành xây hướng về Đông Bắc và cao độ 1 trượng 3 xích có ba
bậc.Trong thành đặt nhà Thái miếu và kho về bên tả, bên hữu là xưởng
trại, ở giữa là hành cung. Trại lính thì bố liệt chung quanh (4).
Ở phía đông là hai cửa tiền (đông môn), một gọi là Gia định môn nhìn ra công trường và rạch chợ Saigon, cửa kia gọi là Phan Yên môn ngay cạnh các đại pháo, nằm trên đường chạy dọc xuống theo kênh Kinh Cây Cám. Rạch chợ Saigon (rạch chợ Vải) sau này thời Pháp có hai con đường chạy dọc theo rạch gọi là đường Rigault de Genouilly (chạy xuống sông) và đường Charner (chạy từ sông lên). Khi rạch chợ Vải được lấp đi thì thành một đường lớn gọi là đường Charner (nay là đường Nguyễn Huệ). Người dân gọi là đường Kinh Lấp.
Ở phía đông là hai cửa tiền (đông môn), một gọi là Gia định môn nhìn ra công trường và rạch chợ Saigon, cửa kia gọi là Phan Yên môn ngay cạnh các đại pháo, nằm trên đường chạy dọc xuống theo kênh Kinh Cây Cám. Rạch chợ Saigon (rạch chợ Vải) sau này thời Pháp có hai con đường chạy dọc theo rạch gọi là đường Rigault de Genouilly (chạy xuống sông) và đường Charner (chạy từ sông lên). Khi rạch chợ Vải được lấp đi thì thành một đường lớn gọi là đường Charner (nay là đường Nguyễn Huệ). Người dân gọi là đường Kinh Lấp.
Hai
cửa hậu ở phía Tây (tây môn) gọi là Vọng Khuyết môn và Cọng thìn môn
hướng về cầu thứ hai (cầu Bông) và thứ ba (cầu xóm Kiệu) trên rạch
Avalanche (Thị Nghè).
Hình 5. Vị trí thành Saigon (Gia định thành)
Ở
cửa trái về hướng bắc (bắc môn) là hai cửa Hoài Lai môn và Phục viễn
môn, hướng về cầu trên rạch Thị Nghè (gọi là cầu thứ nhất). Cửa phải của
thành (nam môn) có hai cửa Định biên môn và Tuyên hóa môn, ở phía đường
sau này gọi là đường Mac Mahon (Nam Kỳ Khởi Nghĩa), góc Nam Kỳ Khởi
Nghĩa và Nguyễn Thị Minh Khai (Định Biên môn) và góc Nam Kỳ Khởi Nghĩa
và Nguyễn Trãi (Tuyên Hóa môn). Hai cửa này dần ra hai đường, một là
đường chiến lược (rue strategique, đường đi Phú Thọ, Phú Lâm hay đường
3/2 ngày nay, và một nữa là đường cao đi Chợ Lớn (route haute, sau là
gồm đường Frère Louis nay là đường Nguyễn Trãi chạy tới đường Nancy, hay
Cộng Hòa trước 1975 nay là Nguyễn Văn Cừ và cuối cùng vào Chợ Lớn cũng
theo con đường Nguyễn Trãi nối dài ngày nay). Xưa đi Chợ Lớn còn có một
đường nữa từ trung tâm Saigon dọc theo rạch Bến Nghé và kênh Tàu Hủ qua
vùng cầu Ông lãnh và dưới Chợ quán ngày nay, gọi là “route basse” hay
đường dưới, đường Trần Hưng Đạo sau này vào thế kỷ 20 mới có.
Hình 6: Đường Saigon-Chợ Lớn (route haute, đường trên), từ Nguyễn Trãi, qua Nguyễn Văn Cừ (Thuận Kiều xưa) vào Chợ Lớn
Thành
xây hướng về Đông Bắc và cao độ 1 trượng 3 xích có ba bậc.Trong thành
đặt nhà Thái miếu và kho về bên tả, bên hữu là xưởng trại, ở giữa là
hành cung. Trại lính thì bố liệt chung quanh (4).
Ở
phía đông là hai cửa tiền (đông môn), một gọi là Gia định môn nhìn ra
công trường và rạch chợ Saigon, cửa kia gọi là Phan Yên môn ngay cạnh
các đại pháo, nằm trên đường chạy dọc xuống theo kênh Kinh Cây Cám. Rạch
chợ Saigon (rạch chợ Vải) sau này thời Pháp có hai con đường chạy dọc
theo rạch gọi là đường Rigault de Genouilly (chạy xuống sông) và đường
Charner (chạy từ sông lên). Khi rạch chợ Vải được lấp đi thì thành một
đường lớn gọi là đường Charner (nay là đường Nguyễn Huệ). Người dân gọi
là đường Kinh Lấp.
Hai
cửa hậu ở phía Tây (tây môn) gọi là Vọng Khuyết môn và Cọng thìn môn
hướng về cầu thứ hai (cầu Bông) và thứ ba (cầu xóm Kiệu) trên rạch
Avalanche (Thị Nghè).
Hình 5. Vị trí thành Saigon (Gia định thành)
Ở
cửa trái về hướng bắc (bắc môn) là hai cửa Hoài Lai môn và Phục viễn
môn, hướng về cầu trên rạch Thị Nghè (gọi là cầu thứ nhất). Cửa phải của
thành (nam môn) có hai cửa Định biên môn và Tuyên hóa môn, ở phía đường
sau này gọi là đường Mac Mahon (Nam Kỳ Khởi Nghĩa), góc Nam Kỳ Khởi
Nghĩa và Nguyễn Thị Minh Khai (Định Biên môn) và góc Nam Kỳ Khởi Nghĩa
và Nguyễn Trãi (Tuyên Hóa môn). Hai cửa này dần ra hai đường, một là
đường chiến lược (rue strategique, đường đi Phú Thọ, Phú Lâm hay đường
3/2 ngày nay, và một nữa là đường cao đi Chợ Lớn (route haute, sau là
gồm đường Frère Louis nay là đường Nguyễn Trãi chạy tới đường Nancy, hay
Cộng Hòa trước 1975 nay là Nguyễn Văn Cừ và cuối cùng vào Chợ Lớn cũng
theo con đường Nguyễn Trãi nối dài ngày nay). Xưa đi Chợ Lớn còn có một
đường nữa từ trung tâm Saigon dọc theo rạch Bến Nghé và kênh Tàu Hủ qua
vùng cầu Ông lãnh và dưới Chợ quán ngày nay, gọi là “route basse” hay
đường dưới, đường Trần Hưng Đạo sau này vào thế kỷ 20 mới có.
Hình 6: Đường Saigon-Chợ Lớn (route haute, đường trên), từ Nguyễn Trãi, qua Nguyễn Văn Cừ (Thuận Kiều xưa) vào Chợ Lớn
Năm
1860, vừa sau khi đánh chiếm Saigon, đã có đề nghị trong Hội đồng quản
hạt (consei colonial) về vấn đề lấp kinh chợ Vải (ngay đường Nguyễn Huệ
ngày nay). Vấn đề này đưa đến sự tranh cãi sôi nổi giữa hai bên: nhóm
ủng hộ về vấn đề vệ sinh rạch và nhóm thương nhân chống vì lợi ích thực
tiễn thương mại (10). Vấn đề lấp kinh được hoãn cho tới 25 năm sau.
Năm
1860, vừa sau khi đánh chiếm Saigon, đã có đề nghị trong Hội đồng quản
hạt (consei colonial) về vấn đề lấp kinh chợ Vải (ngay đường Nguyễn Huệ
ngày nay). Vấn đề này đưa đến sự tranh cãi sôi nổi giữa hai bên: nhóm
ủng hộ về vấn đề vệ sinh rạch và nhóm thương nhân chống vì lợi ích thực
tiễn thương mại (10). Vấn đề lấp kinh được hoãn cho tới 25 năm sau.
7. Tổng kết: Saigon giai đoạn thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 19
Saigon
từ thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 19 là thời kỳ lưu dân người Việt từ miền
Trung và người Hoa từ nam trung quốc đến lập nghiệp và biến vùng đất
hoang vu ít người này thành một vùng định cư trù phú mang dấu ấn văn hóa
Việt-Hoa hấp thụ và thay thế dần nét văn hóa và đời sống của các dân
tộc bản xứ và người Khmer. Dù vậy cho đến đầu thế kỷ 20, chung quanh
Saigon vẫn còn nhiều người bản xứ như ở vùng Biên Hòa, Tân Uyên, Thủ Dầu
Một, Thủ Đức, Bà Rịa (còn được gọi là xứ Mọi và là nơi có nhiều thú dữ
như voi, cọp) và người Khmer cư ngụ như ở Long An. Ngay tại Saigon, cho
đến đầu thế kỷ 19, vẫn còn một số người bản xứ và nhiều người Khmer.
Người Âu từ phương tây cũng đã đến Saigon và các vùng phụ cận từ trước
thế kỷ 18. Những người này là người Bồ, Pháp, Ý, đa số là giáo sĩ,
thương gia và các người mạo hiểm. Sau này có thêm các quân nhân, sĩ quan
hải quân Pháp tình nguyện đi cùng giám mục Bá Đa Lộc giúp Nguyễn Ánh.
Các biến cố quan trọng ở Saigon trong thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19
-
Saigon là chiến trường giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Trong giai đoạn này
có sự có mặt của Bá Đa Lộc là một người thông thạo tiếng Việt, để lại
nhiều sách, bài viết về ngôn ngữ, văn hóa (22). Không thành công khi trở
lại Pháp với hoàng tử Cảnh trong sự việc mang đoàn tàu Pháp đến Gia
Định giúp Nguyễn Ánh như mong ước, nhưng đã có một số lính và sĩ quan
tình nguyện bỏ Hải quân theo Bá Đa Lộc đến Việt Nam như Dayot,
Chaigneau, Vannier..
-
Lê Văn Duyệt làm tổng trấn sau khi Nguyễn Ánh trở lại Huế. Chính sách
của Lê Văn Duyệt phản ảnh tư tưởng mở rộng đa chiều mà xã hội Saigon và
miền Nam được tạo thành. Nguyễn Ánh sau khi thống nhất đất nước thay vì ở
lại Saigon, vùng đất với tinh thần khai phóng lại trở về nguồn để tái
lập truyền thống phong kiến xưa. Saigon nói riêng và Việt Nam nói chung
mất cơ hội phát triển với hệ thống mở, trở nên đầu nguồn của các tư
tưởng mới
-
Khởi nghĩa của Lê Văn Khôi. Sự bất đồng giữa tổng trấn Lê Văn Duyệt
với chính sách độc đoán, bài ngoại, và đóng cửa với thế giới bên ngoài
của vua Minh Mạng dẫn tới sự trừng phạt những người thân tín và theo
tổng trấn của Minh Mạng sau khi Lê Văn Duyệt mất dẫn đến sự nổi dậy của
Lê Văn Khôi với sự tham dự của lưu dân người Việt, Hoa, người Chăm,
Khmer và bản xứ. Sự thất bại của khởi nghĩa và Việt Nam, qua Minh Mạng,
đã chọn lựa đi theo một chủ thuyết độc tôn văn hóa, cứng rắn tập trung,
bài thương mại, dẫn đến sự chạm trán các nền văn minh sau này.
Tham khảo
(1)
Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch và chú
giải, Nxb Đồng Nai,
http://namkyluctinh.org/a-sachsuvn/giadinhthanh-thongchi%5Bp3%5D.pdf
(2) Anatole Petiton, La Cochinchine française: la vie à Saïgon, notes de voyage, Éditeur: Impr. de L. Danel (Lille), 1883.
(3)
Jean Baptiste Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Souvenirs historiques
sur Saïgon et ses environs, conférence faite au collège des interprètes
par M. P. Truong Vinh Ky, Éditeur: Impr. coloniale (Saïgon), 1885.
(4)
Les colonies françaises: notices illustrées / publ. par ordre du
sous-secrétaire d'état des colonies sous la dir. de M. Louis Henrique,
Quantin (Paris), 1889-1890.
(5) Trần Ngọc Quang, Saigon và những tên đường xưa, http://namkyluctinh.org/a-lichsu/tngocquang-saigontenduongxua.pdf.
(6) Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, 1992, Nxb Trẻ
(7)
John Crawfurd, Journal of an embassy from the governor of India to the
courts of Siam and Cochinchina; exhibiting a view of the actual state of
those kingdom by John Crawfurd. London. Henri Colburn and Richard
Bentley, New Burlingtong Street. 1830.
(8)
John White, A Voyage To Cochin China; by John White, Lieutenant in The
United State Navy, London, 1824. Online:
http://www.archive.org/stream/voyagetocochinch00whitrich#page/n15/mode/2up
(9) Nguyễn Công Tánh, Thay đổi tên đường của Thành Phố Sài Gòn
từ năm 1928 đến năm 1993, http://motgocpho.com/forums/showthread.php?1895-L%E1%BB%8Bch-S%E1%BB%AD-Saigon
(10) Hình ảnh, tư liệu, http://belleindochine.free.fr/Saigon1882.htm
(11) Albert Morice, Voyage en Cochinchine pendant les années 1872-73-74, par M. le Dr Morice, H. Georg (Lyon), 1876.
(12)
John Barrow, A voyage to Cochinchina in the years 1792 and 1793:
containing a general view of the valuable productions and the political
importance of this flourishing kingdom, T. Cadell and W. Davies in the
Strand, London, 1806. online : http://purl.pt/126
(13)
Jules Blancsubé, Notes sur les réformes les plus urgentes à apporter
dans l'organisation des pouvoirs publics en Cochinchine (Signé : Jules
Blancsube [31 Décembre 1878]), Impr. de Ve Remondet-Aubin (Aix), 1879.
(14)
Réveillère, Paul-Émile-Marie (dit Paul Branda), Ça et là. Cochinchine
et Cambodge. L'âme khmère. Ang-Kor. Troisième edition, Fischbacher
(Paris), 1887.
(15)
P. Midan, La Pagode des clochetons et la pagode Barbé, contribution à
l'histoire de Saïgon-Cholon, Impr. de l'Union Nguyên-van-Cua (Saïgon),
1934.
(16) Excursions et reconnaissances, No. 4, Imprimerie du gouvernement, Saïgon, 1880. http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5747850m.image.hl.r=Wang-Tai.f5.langEN.pagination
(17)
J. Bouchot, Saigon sous la domination cambodgienne et annamite,
Bulletin de la Société des études indochinoises, année 1926, 1926 (Nouv
Ser,T1), pp. 3-82, Société des études indochinoises (Saïgon).
(18)
Nguyễn Đình Đầu, Địa lý lịch sử thành phố Hồ Chí Minh, trong “Địa chí
văn hóa thành phố Hồ Chí Minh”, Nxb Tph Hồ Chí Minh, 1987, Quyển I,
trang 125-231.
(19)
Trần Văn Giàu, Lược sử thành phố Hồ Chí Minh, trong Địa chí văn hóa
thành phố Hồ Chí Minh”, Nxb Tph Hồ Chí Minh, 1987, Quyển I, trang
235-420.
(20)
Josiah Conder, Birmah, Siam, and Anam, London: printed for J. Duncan,
Oliver & Boyd, Edingburgh, M. Ogle, Glasgow and R. M. Tims, Dublin,
1826, http://www.archive.org/stream/birmahsiamanam00condrich#page/n11/mode/2up
(21)
George Finlayson, The mission to Siam and Hue the capital of Cochin
China in the years 1821-2, London, John Murray, Albemale Street, 1826. http://www.archive.org/stream/missiontosiaman00raffgoog#page/n7/mode/1up
(22)
R. Purefoy, Cursory remarks on Cochin-China, The Asiatic journal and
monthly register for Bitish India and its dependencies, Vol. 22, pp.
143-147, pp. 652-655 London, 1826.
(23) Charles Darwin, The Descent of Man: and selection in relation to sex, John Murray, London, 1879.
(24)
Charles Lemire, Cochinchine française et royaume de Cambodge, avec
l'itinéraire de Paris à Saïgon et à la capitale cambodgienne, Challamel
aine, Paris, 1869.
Nguồn: Tác giả cung cấp
http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-nam-bo/1805-nguyen-duc-hiep-saigon-cho-lon-the-ky-17-den-the-ky-19-phan-3.html
http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-nam-bo/1805-nguyen-duc-hiep-saigon-cho-lon-the-ky-17-den-the-ky-19-phan-3.html