Saturday, 28 April 2012

Bàn về khái niệm từ Việt cổ (Nguyễn Đông Hưng)

Chữ Nôm là một sáng tạo độc đáo của dân tộc ta được chế tác trên chất liệu chữ Hán. Cứ liệu lịch sử cho thấy, những chữ Nôm đầu tiên chủ yếu được dùng để ghi tên người tên đất trong các bi kí, mộ chí, gia phả,... Sau đó, khi đã phát triển đến một mức độ tương đối hoàn thiện thì chữ Nôm được dùng để sáng tác văn học, ghi chép văn hóa dân gian, diễn âm các tác phẩm chữ Hán. Rõ ràng, chữ Nôm ra đời đáp ứng nhu cầu rất lớn của dân tộc ta về nhiều phương diện như ghi chép, giao tiếp, biểu đạt thái độ, tư tưởng, tình cảm,… Ngày nay, tuy chữ Nôm không còn được sử dụng rộng rãi như trước, nhưng vẫn không thể phủ nhận vai trò của nó, nhất là trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa dân tộc. Vì thế, trước nay đã có nhiều công trình nghiên cứu có tính chuyên sâu về chữ Nôm, trong đó, quyển Lí thuyết chữ Nôm văn Nôm(1) là một trong những công trình được xem là tương đối hoàn chỉnh, có hệ thống, đồng thời cũng có ý nghĩa(2) và giá trị rất cao!

Đương nhiên, bên cạnh giá trị và đóng góp, công trình nghiên cứu nào cũng có thể mắc một vài khuyết điểm cần sự bổ sung, sửa chữa của nhiều người. Lí thuyết chữ Nôm văn Nômcũng vậy, những ai đọc qua quyển sách ấy sẽ dễ dàng nhận thấy giá trị và đóng góp to lớn của nó, còn ở đây, chúng tôi với tư cách là độc giả tâm đắc của quyển sách, cũng là người có chút tâm đắc với thứ văn tự xa xưa của dân tộc, xin mạn phép trình bày đôi điều chưa thỏa đáng (theo chúng tôi) trong sách.
Những điều chúng tôi trình bày dưới đây xuất phát từ mục Các từ Việt cổ trong văn thơ Nômbắt đầu từ trang 348.
Trước tiên, xin xác định khái niệm từ cổ trong tiếng Việt và từ Việt cổ.
1. Khái niệm từ cổ trong tiếng Việt
Hán Việt từ điển, Đào Duy Anh, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992, mục cổ ngữ (tức từ cổ-NĐT): tiếng nói ngày xưa;
Hiện đại Hán ngữ từ điển, Lã Thúc Tương (chủ biên), Thương vụ ấn thư quán xuất bản, Trung Quốc, 1998, mục cổ ngữ: cổ đại đích từ ngữ (từ ngữ xưa);
Tác giả Nguyễn Ngọc San cũng đưa ra nhận định về từ cổ như sau: “Từ cổ theo quan niệm truyền thống không phải là những từ có lịch sử lâu đời nhất trong một ngôn ngữ, mà là những từ đã được lưu lại trong các văn bản viết cổ hay văn bản miệng cổ (ca dao, tục ngữ) mà hiện nay không còn được sử dụng nữa, và để hiểu được chúng, người ta phải dùng đến các loại từ điển từ nguyên và các từ điển điển cố…”(3)
Qua ba định nghĩa trên, chúng ta thấy từ cổ là những từ ngữ (hoặc tiếng nói) được sử dụng vào thời xưa trong ngôn ngữ của một dân tộc. Tuy nhiên, ba định nghĩa trên vẫn chưa xác định đầy đủ tiêu chí của khái niệm từ cổ. Trên thực tế, khái niệm này “vốn là một khái niệm không được rõ ràng”(4). Theo chúng tôi, từ cổ theo nghĩa chung phải là những từ được sử dụng vào thời xưa của một dân tộc, có nguồn gốc bản xứ hoặc vay mượn từ một / các ngôn ngữ khác (cùng hệ hoặc không cùng hệ) và hiện nay không còn được sử dụng trong ngôn ngữ của dân tộc đó. (Đúng là để hiểu được chúng, người thời nay “phải dùng đến các loại từ điển từ nguyên và từ điển điển cố”.)
Như vậy, từ cổ trong tiếng Việt là những từ được dân tộc ta sử dụng vào thời xưa, có nguồn gốc bản xứ hoặc vay mượn từ các nhóm ngôn ngữ Mon-Khmer, Tày-Thái, Mường, Hán (có thể cả ngôn ngữ Châu Âu) và hiện nay không còn được sử dụng trong tiếng Việt.
2. Khái niệm từ Việt cổ
Từ khái niệm rộng về từ cổ trong tiếng Việt như trên, chúng ta dễ dàng đi đến xác định khái niệm hẹp về từ Việt cổ như sau, đó là những từ được dân tộc ta sử dụng vào thời xưa, có nguồn gốc bản xứ hoặc vay mượn từ các nhóm ngôn ngữ cùng hệ (Mon-Khmer, Tày-Thái, Mường) và hiện nay không còn được sử dụng trong tiếng Việt.
Hai khái niệm từ cổ trong tiếng Việt và từ Việt cổ không hoàn toàn trùng khớp với nhau. Chúng không phải là hai vòng tròn giao nhau mà là hai vòng tròn đồng tâm có đường kính khác nhau. Trong quyển sách của mình, Nguyễn Ngọc San đã đánh đồng hai khái niệm trên nên đưa ra danh sách các từ Việt cổ trong văn thơ Nôm nhầm với rất nhiều từ gốc Hán. Chúng tôi xin trình bày cụ thể như sau:
1. Mượn từ Hán Việt
Từ Hán Việt là bộ phận rất quan trọng trong từ vựng tiếng Việt. Theo nguyên tắc, mỗi chữ Hán đều có một hoặc vài âm Hán Việt, nhưng không phải âm Hán Việt nào cũng du nhập vào tiếng Việt trở thành từ Hán Việt. Tuy nhiên, trong các văn bản Nôm, bên cạnh hệ thống từ Hán Việt thông dụng, đôi khi cũng sử dụng cả một số âm / từ Hán Việt không thông dụng trong tiếng Việt hiện đại. Các từ Việt cổ trong văn thơ Nôm có cả hai trường hợp như thế.
1.1 Từ Hán Việt thông dụng:
gián 諫  (can gián, khuyên can): Tính cương ai gián chẳng nghe mọi điều (tr. 391-392);
kham 堪  (cam chịu, chịu đựng): Kham cười anh vũ mắc chưng lồng (tr. 398);
loạn thường亂常  (làm rối loạn cương thường): Xây trồng ra thói trăng hoa loạn thường (tr. 408);
nghiệt孽  (yêu nghiệt, tội ác): Chút còn dư nghiệt ngoài thành khoe khoang (tr. 429);…
1.2. Âm / từ Hán Việt không thông dụng:
chủ quỹ主櫃  (người vợ cả): Hiềm trong chủ quỹ chưa hòa có ai (tr. 370);
mâu眸 (con ngươi, tròng mắt): Mâu tử là đôi con mâu (tr. 371);
na儺  (ôn dịch): Đốt trúc khuơ na dắng lỗ tai (tr. 420);
tẫn mẫu牝牡 (cái và đực): Tẫn mẫu sấp ngửa sắp bày úp che (tr. 452),…
Ngoài ra, còn có thể kể ra nhiều từ khác như đàn hặctiên sàmgia nương,… đều là từ Hán Việt. Nhưng mỗi trường hợp chúng tôi chỉ nêu ra vài ví dụ minh họa. Những từ ngữ trên tuy xuất hiện trong văn bản Nôm nhưng không phải ghi từ Việt cổ mà là những đơn vị từ vựng được ghi bằng chữ Nôm vay mượn cả âm và nghĩa chữ Hán (từ gốc Hán). Những chữ này khi xuất hiện trong văn bản chữ Hán thì chúng hoàn toàn là chữ Hán. Chỉ khi nào chúng xuất hiện trong văn bản Nôm mới được gọi là chữ Nôm. Nếu liệt kê những từ ngữ trên vào danh sách từ Việt cổ thì có lẽ tất cả từ Hán Việt mà hiện nay tiếng Việt sử dụng cũng đều là từ Việt cổ.
2. Mượn từ Tiền Hán Việt
Từ Tiền Hán Việt cũng là một bộ phận của từ vựng tiếng Việt. Bộ phận này nếu không phân biệt kĩ sẽ dễ nhầm lẫn với từ Hán Việt Việt hóa và nghĩa của chữ. Các từ Việt cổ trong văn thơ Nôm không có sự nhầm lẫn như thế nhưng lại xem lớp từ này là từ Việt cổ.
bượp (âm Hán Việt là phạp 乏: thiếu): Đời bượp văn chương uổng mỗ danh (tr. 362). Phạpvà bượp có mối quan hệ về ngữ âm, chúng biến đổi theo một quy luật ngữ âm nhất định. Chúng tôi xin đưa ra một vài ví dụ tương tự về sự biến đổi ngữ âm giữa từ Hán Việt – từ Tiền Hán Việt để chứng minh cho quy luật này như sau (mỗi từ phía dưới chúng tôi cũng làm giống như vậy):
nạp 納― nợp / nượp (nờm nợp / nườm nượp);
[lâmlạp [林]拉 ― [lườmlượp (đông đảo);
hạp 盒― hộp;
nam 南― nôm / nồm;…
chiềng (âm Hán Việt là trình 呈: tâu trình, tuyên bố): Chiềng làng chiềng chạ thượng hạ tây đông (tr. 368). Ví dụ tương tự:
tỉnh 井― giếng;
kính 鏡― kiếng;
chinh 正― giêng;
chinh 鉦― chiêng;
thinh linh / thanh lanh 清靈 ―thiêng liêng;
thành 城清靈 ― thiềng;… - nàn (âm Hán Việt là nạn 難: điều rủi ro nguy hại): Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương (tr. 422). Ví dụ tương tự:
loạn 亂― loàn;
tự自 ― từ;
nguyện 願 ―nguyền;
dụng  dùng;
niệm 念 ― niềm;
vạn  vàn;
nệ   nề;
cộng  cùng;… - tày / tầy(5) (âm Hán Việt là tề : ngang bằng): Chúc thánh cho tày Nghiêu Thuấn nữa (tr. 451). Ví dụ tương tự:
tê (tê giác)  tây;
thế ― thay(6);
lễ  lạy;
phi  ¯ bay;
thi  thây;…
Các từ bượpchiềngnàntày rõ ràng không phải là từ Việt cổ vì chúng chẳng những có quan hệ về ngữ âm mà còn có quan hệ về ngữ nghĩa với các từ phạptrìnhnạntề trong tiếng Hán. Mặt khác, nếu đó là những từ Việt cổ thì tại sao hiện nay không ít từ vẫn còn được sử dụng trong tiếng Việt (như phàn nàntày trời, hay như đìa (ao hồ), cúng dàngxum vầy,… mà tác giả đã liệt kê trong sách)?
Theo chúng tôi, những từ Hán Việt và Tiền Hán Việt trên đây không phải là từ Việt cổ, riêng những từ hiện nay không còn sử dụng (natẫn mẫubượp,…) chỉ có thể gọi là từ cổ trong tiếng Việt.
3. Dịch nghĩa chữ Hán
Xét các mục từ được giải thích trong sách như sau:
con tuyết: kĩ nữ: Cắp cầm con tuyết tình cờ đến (tr. 371);
nhà tĩnh: nơi ở của các sư tăng: Không môn già lam, tĩnh xá:nhà tĩnh (tr. 429);
nước trăng: kinh nguyệt: Tự nhiên phải khí dương âm, nước trăng tự ấy ai cầm chẳng ra (tr. 435);…
Chúng tôi thấy xếp các từ ấy vào dạng từ cổ là chưa thuyết phục. Vì: thứ nhất, chúng không thật sự khó hiểu đối với người hiện nay; thứ hai, chúng là những từ được chuyển dịch từ chữ Hán thì đúng hơn.
con tuyết được dịch từ tuyết nhi雪兒(nhi là ‘con’), nghĩa là người con gái trẻ xoa kem trắng trên mặt, chỉ những cô gái làm việc trong lầu xanh(7).
nhà tĩnh được dịch từ tĩnh xá 靜舍 hoặc tĩnh thất (xá là ‘ngôi nhà đơn sơ’, thất là ‘nhà ở’) nghĩa là ngôi nhà yên tĩnh để tu tập.
- Về từ nước trăng chúng tôi lí giải như sau: kinh nguyệt 經 月 là hiện tượng sinh lí của phụ nữ, có yếu tố nguyệt là trăng, tháng. Kinh nguyệt còn một từ đồng nghĩa là kinh thủy 經 水(8), có yếu tố thủy là nước. Vậy nước trăng là dịch kết hợp từ chữ thủy trong kinh thủy với chữnguyệt trong kinh nguyệtNước và trăng (cũng như thủy và nguyệt) đều là những từ thông dụng hiện nay, và nước trăng chỉ là một cách dịch chữ Hán của người xưa để chỉ kinh nguyệt chứ không phải là từ Việt cổ.
Bên cạnh đó, ngoài từ Hán Việt và Tiền Hán Việt đã nói trên, chúng tôi thấy sách còn thu nhận cả từ Hán Việt Việt hóa, đó là vỗ(9) (âm Hán Việt là phủ ) trong câu Đức muôn vỗ chúng ân ngàn trị dân (tr. 473).
Trên đây chúng tôi trình bày một vài thiển ý mong có thể phần nào làm sáng tỏ vấn đề từ Việt cổ và những từ đ?ợc cho là từ Việt cổ trong Lí thuyết chữ Nôm văn Nôm, nếu có gì sai sót xin quý vị độc giả chỉ giáo để chúng tôi có dịp học hỏi thêm.
Chú thích
(1) Nguyễn Ngọc San, Lí thuyết chữ Nôm văn Nôm, Nxb. Đại học Sư phạm, 2003.
(2) Quyển sách được in với sự tài trợ của quĩ hỗ trợ và phát triển văn hóa Việt Nam-Thụy Điển.
(3) Nguyễn Ngọc San, Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử, Nxb. Đại học sư phạm, 2003.
(4) Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử, sđd.
(5) Trong Tiếng nói nôm na (Nxb. Văn nghệ Tp. HCM, 1999), Lê Gia cho rằng chữ này có nguồn gốc từ chữ tài 裁 (cắt cho bằng), đó cũng là điều nhầm lẫn.
(6) Trong Tìm về cội nguồn chữ Hán (Nguyễn Văn Đổng dịch), Nxb. Thế Giới, 1997, Lý Lạc Nghị cho rằng thay là âm Hán Việt Việt hóa của thế.
(7) Trong Bắc mộng tỏa ngôn có ghi câu chuyện khác: Tuyết Nhi là vợ lẽ của Lý Mật, giỏi ca múa. Mỗi khi tân khách có văn chư?ng hay, Lý Mật đều bảo Tuyết Nhi hiệp âm luật để ca múa làm vui.
(8) Theo Từ nguyên, Thương vụ ấn thư quán, Đài Loan, 1963 và Từ hải, Trung Hoa thư cục ấn hành, 1967.
(9) Trong Tiếng nói nôm na, sđd, Lê Gia cho rằng vỗ (vỗ về) có nguồn gốc từ chữ vũ là múa. Theo chúng tôi, như vậy không đúng.
Nguồn: Tạp chí Ngôn ngữ  và Đời sống, số 11 năm 2006




(*) ThS. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tp. HCM.

Friday, 27 April 2012

ĐIỂM QUA VỀ TÌNH HÌNH TỪ CỔ TRONG CUỐN TỪ ĐIỂN CHỈ NAM NGỌC ÂM GIẢI NGHĨA - Hoàng Thị Ngọ

48. Điểm qua về tình hình từ cổ trong cuốn từ điển CHỈ NAM NGỌC ÂM GIẢI NGHĨA (TBHNH 2001)
Cập nhật lúc 22h51, ngày 22/03/2007

ĐIỂM QUA VỀ TÌNH HÌNH TỪ CỔ TRONG CUỐN TỪ ĐIỂN CHỈ NAM NGỌC ÂM GIẢI NGHĨA

HOÀNG THỊ NGỌ

Tiến sĩ. Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Hiện nay, vấn đề từ ngữ cổ là một trong những vấn đề nan giải đối với người đọc, người học khi tiếp xúc, tìm hiểu các văn bản Hán Nôm. Không thể hiểu thấu đáo một văn bản nếu không hiểu hết được nghĩa của các từ cổ trong văn bản. Đặc biệt, với các văn bản Nôm càng cổ, vấn đề lại càng đặt ra bức thiết hơn. Cho đến nay, ngày càng có nhiều người quan tâm đến lĩnh vực nghiên cứu này. Nhưng các công trình hiện có chưa thể bao quát được toàn bộ từ cổ trong các văn bản Hán Nôm, cần phải có sự bổ sung, đóng góp công sức của nhiều người, nhiều thế hệ. Trong Hội nghị này, chúng tôi xin điểm qua kết quả tìm hiểu về từ cổ trong cuốn từ điển song ngữ cổ nhất hiện còn là Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa.
Trước hết xin nhắc lại về khái niệm từ cổ. Từ cổ là những từ ngữ từng được sử dụng trong lịch sử nhưng qua quá trình phát triển của ngôn ngữ đến nay không còn được sử dụng nữa, nó chỉ còn lưu lại dấu vết ở 3 trường hợp sau:
- Chỉ còn trong các văn bản cổ (ví dụ: áng (cha), nạ (mẹ), mựa (chớ, đừng)...
- Trong các tổ hợp song tiết đẳng lập nhưng ý nghĩa đã bị lu mờ và chỉ được xác định giá trị, ý nghĩa trong mối tương quan với yếu tố kia (ví dụ: han trong hỏi han, nghê trong ngô nghê...).
- Nếu còn xuất hiện trong tiếng Việt hiện đại thì cũng đã có sự thay đổi về ngữ âm, ngữ nghĩa và khả năng kết hợp từ (ví dụ: Phủ phê --> phả phê; xấu thiết tha (chỉ mức độ xấu lắm) --> thiết tha (chỉ tình cảm gắn bó sâu sắc hoặc sự mong muốn, khẩn cầu); con (chỉ người: con bãi, con bợm, con chơi, con mày, con đòi trai... --> chỉ cả đồ vật, vật: con dao, con cá, con lươn...
Với những tiêu chí về từ cổ như trên, từ trước đến nay có thể tra tìm chúng trong một số từ điển như: Việt Bồ La của A. de Rhodes, 1651; Việt - Pháp Sài Gòn của M. Génibrel. 1898, Đại Nam quốc âm từ vị của Huỳnh Tịnh Của; Việt - La tinh của Pigneau de Behaie, 1772; Việt - La tinh của Taberd, 1838... Gần đây, năm 2001 mới thực sự có 2 cuốn từ điển từ cổ: Từ điển từ Việt cổ của hai tác giả Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện và Từ điển từ cổ của tác giả Vương Lộc. Nhưng thực sự các cuốn từ điển trên chưa thể bao quát được toàn bộ số từ cổ có trong các văn bản của kho thư tịch Hán Nôm. Hơn nữa các từ cổ này lại thường được ghi dưới dạng chữa Nôm, sau này một số được ghi bằng chữ quốc ngữ cổ nên việc phát hiện cũng không phải dễ dàng. Nó phải được phát hiện trong từng văn bản cụ thể và được xác định ý nghĩa trong càng nhiều ngữ cảnh càng tốt. Chúng tôi đã khai thác từ cổ trong một số tác phẩm thông qua sự rà xét chữ Nôm và lần này chúng tôi tiến hành trên văn bản Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa. Đây là một cuốn từ điển đối chiếu Hán Việt cổ nhất hiện còn, lần đầu tiên được Trần Xuân Ngọc Lan phiên âm giới thiệu năm 1985. Trong phần khảo cứu, tác giả đã giới thiệu và phân tích, khẳng định một số từ cổ. Dựa vào kết quả phiên âm của Trần Xuân Ngọc Lan, các tác giả của hai cuốn Từ điển từ cổ in năm 2001 cũng đã tìm thêm được nhiều từ nữa. Trên cơ sở chữ Nôm có đối chiếu với phần chữ Hán tương ứng, có tham khảo bản phiên âm, chú thích của Trần Xuân Ngọc Lan, chúng tôi đã tìm được 218 từ cổ, xuất hiện với tổng số 496 lần trong văn bản. Từ đó, chúng tôi đã có một bảng thống kê đầy đủ theo thứ tự, âm đọc, chữ Nôm, nghĩa chữ, tần số xuất hiện, xuất xứ, ngữ cảnh. Trong bài này chúng tôi chỉ xin điểm qua như sau:
Trong CNNÂ có mặt tương đối đầy đủ những từ cổ thường gặp trong các bản Nôm như: áy, ghẽ, ghê, ghín, mựa, chỉn, chưng, đăm, chiêu, đề đa, hoà, kẻ chợ, ngõ ngang, nữa, óc, sốt, tạn, thuở,... những từ này được thống kê đầy đủ nhưng xin phép không đề cập đến ở đây.
Chúng tôi xin nêu những trường hợp chỉ thấy xuất hiện trong CNNÂ. Một số trường hợp tuy xuất hiện chỉ có một, hai ngữ cảnh nhưng ý nghĩa rõ ràng và số ít có ghi trong từ điển của A. de Rhodes.
* Dùng cáicon:
Dùng cái để gọi hầu hết những động vật nhỏ mà sau này được gọi là con như: Cái ba ba, cái bạng, cái bọ hung, cái cáy, cái chả khoang, cái chích choè, cái chim công, cái còng, cái cua, cái cua càng, cái cuốc, cái da, cái dạm, cái dế, cái don, cái dơi, cái dơi vàng, cái đỉa, cái đười ươi, cái giá, cái giun, cái hà đồ, cái hến, cái lươn, cái mại, cái mối, cái muỗi, cái ngan, cái ngao, cái nhặng, cái rùa, cái ruồi, cái sam, cái sắc, cái sên, cái sò, cái sứa, cái tê tê, cái tò vò, cái tôi tôi, cái tôm vàng, cái trai, cái trạch, cái vích, cái vịt.
* Dùng từ con chưa có sự phân biệt rõ tính chất, giới tính, cách gọi rất khác ngày nay, có thể thấy như:
con bợm: con hát nói chung (11 - 11b)
con bãi, con chơi: gái mãi dâm (9 -11b,10 -11b)
con đòi trai: người hầu, người ở là con trai (5 -11b, 13b)
con đòi gái: người hầu, người ở là con gái (12 - 10b)
người con chèo: người lái đò (13 - 31)
con mắt cá tay: mắt cá tay (16 - 15b)
hai chân con ngươi: hai mắt cá chân (4 - 16a)
con sâu: con ngươi trong mắt (7 - 15a)
Từ con đã được dùng để gọi những động vật lớn như:
- Trường nhĩ hiệu là con lừa (1 - 58b)
- Ninh dương, đồng dương con dê (1 - 58b)
- Hoàng mi hiệu óc con nai (2 - 58b)
- Chương kinh chỉn thực con mang (7 - 58b)
Nhưng trong loại Mao trùng lại thấy ghi cái đười ươi.
* Dùng từ song tiết để gọi một số các động thực vật như:
bà cắt: chim cắt (9 - 56a)
bồ cắt: chim cắt (10 - 57b)
bồ cò: con cò (8 - 56a, 57b)
bồ cóc: con cóc (13 - 63a)
bệnh rết: con rết (7 - 66a)
bồ đài: mo cau (10 - 71b)
bồ nâu: củ nâu (7 - 71b)
bồ ngưu: hoa bồ ngưu (5 - 69a)
bồ nông: chim bồ nông (10 - 56b)
bồ cu: chim cu (5 -56b)
lồ mướp: mướp (7 - 77a)
lồ vừng: vừng (7 - 76a)
la đá: đá (6,7 - 6a)
* Dùng những từ rất khác ngày nay để gọi các bộ phận trong cơ thể người, ngoài các trường hợp đã nêu trên như con mắt cá tay, con ngươi (mắt cá chân), con sâu (con ngươi trong mắt), còn có các trường hợp như:
càng hàm : xương quai hàm
cằm ấn đường : xương bên trên chỗ hai lông mày giáp nhau
trái tay: bắp tay (7 - 17a)
trái chân: bắp chân (8 - 16a)
trái trôn: mông (12 - 17a)
* Chỉ các đồ vật:
cang la: cái thúng có quai đeo (13 - 44a)
cũi bát: chạn bát (9 - 44a)
dao tu rích: gươm ngắn (15 - 45a)
đầu lốc: hòn đá chườm (14 - 79b)
lù và: tù và (3 - 53a)
mặt mả: mặt nạ (3 - 55a)
miệt: giầy, dép (16 - 23b)
ống: súng (1 - 52a, 3 - 51a)
* Chỉ cỏ cây, mầu sắc:
gian: mầu, nhiều màu sắc (16 - 22b, 6 - 22a)
mùi tui: rau mùi, rau ngổ (12 - 72a)
cải lú bú: cải củ (9 - 76a, 12 - 78a)
nang: cau (12 - 41b)
nếp ác: nếp đen(12 - 34a)
nếp vang: nếp đỏ (12 - 34a) (12 - 34a)
nghệ máu: nghệ đỏ (11 - 77b)
lòm: đỏ(11 - 75a)
xanh mò: xanh sậm, xanh đen (12 - 66a, 16 - 64b)
* Chỉ mức độ, tính chất, tính cách, tâm lý:
song: lắm (5 - 50b, 1 - 522a)
mèn: nhỏ (6 - 53a)
chan: nhiều (2 - 74b)
hèo: hiệu nghiệm(5,16 - 74a; 8, 11- 79a)
tít: thít, thắt (13 - 70b)
dịu dàng: mịn màng (3 - 24b)
đang dạ: ưa thích (16 - 20a)
yêu đang: yêu đương (6 - 15a, 13 - 69a)
Điểm qua một số các từ ngữ cổ thấy trong CNNÂ, ít thấy trong các văn bản khác, chúng tôi sơ bộ có một số nhận xét sau:
- Với số lượng 218 từ ngữ cổ trong CNNÂ, có thể nói đó là sự bổ sung, góp mặt đáng kể vào các từ điển từ cổ, để từ đó làm cơ sở giải mã những tồn nghi hoặc xác định lại các từ đã bị thay thế khi phiên âm các văn bản từ Nôm ra quốc ngữ. Cũng có thể nói đây là một trong số rất ít những văn bản có sự đậm đặc nhất về từ ngữ cổ. Nhiều từ cổ thấy trong các văn bản: Khoá hư lục, Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập, Bạch Vân quốc ngữ thi tập... thì cũng được tìm thấy trong CNNÂ. Có nhiều từ ngữ cổ chỉ thấy xuất hiện trong CNNÂ như chúng tôi trình bày ở phần trên.
- Trong CNNÂ có nhiều từ cổ chỉ xuất hiện 1 lần nhưng qua chữ Nôm và đối chiếu với phần chữ Hán tương ứng nên có thể xác định được mặt nghĩa, còn âm đọc thì phải có thêm cứ liệu để khẳng định.
- Những từ ngữ cổ trong CNNÂ đã phản ánh được khá rõ tình hình ngôn ngữ tiếng Việt ở thời điểm văn bản ra đời. Đó là nguồn cứ liệu vô cùng quý giá cho nhiều lĩnh vực nghiên cứu và là một trong những giá trị lớn của cuốn từ điển cổ nhất này.
Chúng tôi đã sơ bộ điểm qua tình hình từ cổ trong văn bản CNNÂ, xin được trở lại vấn đề này kỹ hơn trong một dịp khác.
Thông báo Hán Nôm học 2001, tr.404-410

Thursday, 26 April 2012

Vang Bóng là gì? - Nguyễn Tuấn Cường

"VANG BÓNG" là gì?

Ghi thêm của tác giả:
Bài viết này đã đăng tại Tạp chí Ngôn ngữ, số 6/2011, tr. 46-55.
Ban Biên tập Tạp chí Ngôn ngữ đã sửa chữa cách dẫn nguồn tài liệu trong bài viết theo quy định củaTạp chí, đây cũng chính là quy định trích dẫn rất oái ăm của Bộ Giáo dục và Đào tạo áp dụng cho Luận văn, Luận án. Trong bài này, tôi trích dẫn theo “kiểu Mĩ”, tức là dẫn “(tên tác giả, năm xuất bản, trang)”, ví dụ: (An Chi, 2005, tr. 81), nếu đã nói tên tác giả rồi thì chỉ dẫn năm xuất bản và số trang. Ban Biên tập sửa theo “kiểu Nga cũ”, tức là “[số thứ tự tài liệu, trang]”, ví dụ: [1, 81], mà cũng không sửa hết cho thống nhất, nên chỗ sửa chỗ không, dẫn đến tình trạng lộn xộn, “số” chú thích trong phần chính văn không tương ứng với “số” trong phần chú thích. Tác giả bài viết không được thông báo trước về sự sửa chữa này.
Trong bản đăng ở blog này, do có một số chữ Nôm có thể không hiển thị được trên nhiều máy tính không có font chữ, nên những đoạn có chữ Nôm sẽ được cắt ra dưới dạng ảnh, click vào ảnh để phóng to. Toàn bản PDF: http://www.mediafire.com/?zceomr9b1du9x79. Bản điện tử này là bản chính thức. 

Chân thành cảm ơn học giả An Chi và bạn Cao Việt Dũng đã đọc góp ý bản thảo bài viết! Dù cho một số quan điểm trong bài viết này mâu thuẫn với quan điểm của học giả An Chi, nhưng nếu không được gợi ý từ những bài viết của Ông, thì cũng không thể có bài viết này.

Hà Nội, 8/8/2011
NTC
-------------


TIẾNG VANG VÀ CÁI BÓNG:
KHẢO LUẬN NHAN ĐỀ “VANG BÓNG MỘT THỜI CỦA NGUYỄN TUÂN
(qua ngữ liệu chữ Hán, Nôm, Quốc ngữ)[i]
ThS. Nguyễn Tuấn Cường
(GV. Khoa Văn học, Trường ĐH KHXH&NV – ĐH Quốc gia Hà Nội)

I. Nhìn lại các quan điểm về “vang bóng”
Tác phẩm Vang bóng một thời (1940) của Nguyễn Tuân (1910-1987) khiến người ta phải chú ý từ cái nhan đề trở đi. Chẳng vậy mà đã có nhiều lời bàn đi luận lại lại về cách hiểu nhan đề này, tập trung chủ yếu vào giải nghĩa từ tổ “vang bóng”. Tựu trung có hai quan điểm:
Quan điểm thứ nhất: “vang bóng” là từ tổ danh từ ghép đẳng lập giữa hai danh từ “vang” (tiếng vang) và “bóng” (cái bóng). Nhiều độc giả của Nguyễn Tuân giữ quan điểm này, như trong các câu hỏi của độc giả cho mục “Chuyện Đông chuyện Tây” trên tờ Kiến thức ngày nay (An Chi, 2005).
Xin lưu ý, ngoài trường hợp mà Nguyễn Tuân dùng “vang bóng” làm nhan đề tác phẩm, còn ít nhất ba trường hợp khác cũng dùng “vang, bóng” mà nhiều người đã chỉ ra: Nguyễn Tuân viết “vang và bóng ngày kí vãng” (Một chuyến đi, 1938); Vũ Ngọc Phan viết: “cái tiếng vang của thời đã qua, cái bóng của thời đã qua” (Nhà văn hiện đại, 1942-1945); Vương Trí Nhàn viết: “tìm lại vang và bóng” (Vang và bóng, biết tìm đâu, 1997)[ii]. Ba trường hợp trên đây đều sử dụng “vang” và “bóng” với tư cách danh từ, tất nhiên trong hai trường hợp dưới thì Vũ Ngọc Phan và Vương Trí Nhàn đều chịu ảnh hưởng của cách dùng từ của Nguyễn Tuân.
Quan điểm thứ hai: “vang bóng” là từ tổ vị từ (động từ) ghép chính phụ giữa một vị từ (vang) và một danh từ (bóng), về mặt thành phần cú pháp thì “vang bóng” cũng có cấu trúc giống hệt “nổi tiếng”. Học giả An Chi là người chủ trương quan điểm này một cách riết róng. Quan điểm của An Chi được đăng trên mục “Chuyện Đông chuyện Tây” của tờ Kiến thức ngày nay (rải rác các năm 1997-1998)[iii] trong tư thế tranh luận với các độc giả chủ trương quan điểm thứ nhất kể trên, sau đó cuộc tranh luận này được in lại trong cuốn Chuyện Đông chuyện Tây (tập III, NXB Trẻ, 2005)[iv]. Xin trích lược một số đoạn quan trọng trong các lập luận của An Chi:
- “Từ ‘vang’ chưa bao giờ là một danh từ”, “Vả lại khi nói đến ‘vang bóng’, người ta vẫn cảm nhận được rằng ‘vang’ là từ chính – và là một vị từ – còn ‘bóng’ là từ phụ thêm nghĩa cho nó để tạo ra một từ tổ vị từ, và rằng về mặt thành phần cú pháp thì vang bóng cũng có cấu trúc giống hệt nổi tiếng” (2005, tr. 62).
- “Nhưng như đã nói ở trên, ‘vang’ chưa bao giờ là danh từ, vì vậy mà tất nhiên trong ‘vang bóng’ nó cũng không thể là danh từ được. Do đó không thể xem ‘vang bóng’ là một từ tổ ghép đẳng lập” (2005, tr. 115).
- “Còn sự thật thì bóng dứt khoát là danh từ chứ không phải động từ, cũng như vang dứt khoát là động từ chứ không phải danh từ cho nên vang bóng chỉ có thể là một từ tổ động từ, nghĩa là một từ tổ vị từ mà thôi” (2005, tr. 115-116).
- “Dù biệt tài sử dụng từ ngữ của Nguyễn Tuân có cao siêu đến đâu, nhà văn này cũng không thể nào tạo ra một từ tổ ‘đẳng lập’ mà lại gồm có một vị từ (vang) và một danh từ (bóng), nghĩa là gồm có hai tiếng thuộc hai từ loại khác nhau vì hiện tượng này trái hẳn với quy tắc của tiếng Việt” (2005, tr. 81).
- “Vậy chẳng có lẽ Nguyễn Tuân lại không có quyền nói ‘vang bóng’ để dùng vị từ vang theo ẩn dụ mà chỉ sự diễn tiến kéo dài và lan rộng của sự việc này sự việc khác trong thời gian và trong không gian, nhất là khi mà ông lại là nhà văn nổi tiếng về cách dùng từ độc đáo” (2005, tr. 63).
- “Xin thưa rằng lỗi ở đây không tại người đọc mà tại chính nhà văn vì ông đã dùng từ ngữ không đúng với quy tắc của ngữ pháp”. “… chỉ xin nhấn mạnh rằng riêng trong trường hợp này[v] thì Nguyễn Tuân đã viết sai ngữ pháp còn Vũ Ngọc Phan thì lại bất chấp ngữ pháp khi diễn ý như trên[vi]” (2005, tr. 116).
- “Vậy vang bóng một thời là đã từng có một thời vàng son huy hoàng nay đã qua đi” (2005, tr. 117).
Phần trích dẫn trên có lẽ hơi dài dòng, nhưng mục đích là để nhấn mạnh tới những lập luận rành mạch và cả quyết của tác giả An Chi. Tóm lại, quan điểm của An Chi có thể lược thuật như sau:
- “Vang bóng” là sáng tạo của Nguyễn Tuân về cách dùng từ tiếng Việt. Đây thật ra là một quan điểm chung của nhiều người, chứ không riêng gì An Chi.
- “Vang bóng” là từ tổ vị từ + danh từ, “vang” chưa bao giờ là danh từ.
- “Vang bóng một thời” nghĩa là đã từng có một thời vàng son huy hoàng nay đã qua đi.
Hai bên tranh luận hầu như chỉ dựa vào cảm nhận ngôn ngữ của người ngày nay để luận giải nhan đề Vang bóng một thời, tác phẩm tính đến nay đã có 70 năm tuổi đời; thảng hoặc cũng có người trích được đôi ba văn cảnh của bản thân Nguyễn Tuân hay một vài người cùng hoặc sau thời ông (Vũ Ngọc Phan, Vương Trí Nhàn) có sử dụng “vang, bóng” nhưng dường như còn chưa đủ để giải nghĩa nhan đề này, bởi trong lập luận của họ, tính lịch sử của ngôn ngữ đã không được coi trọng đúng mức.
Bài viết này chủ trương khảo nguồn ngữ liệu tiếng Việt xưa nay có liên quan đến “vang bóng”, đặc biệt là nguồn ngữ liệu trước thời và cùng thời Nguyễn Tuân viết Vang bóng một thời (1940), để từ đó luận về những vấn đề sau:
- Về ngữ nguyên: có phải Nguyễn Tuân là người đầu tiên tạo ra từ tổ “vang bóng”?
- Về ngữ pháp: cấu tạo từ của “vang bóng” như thế nào?
- Về ngữ nghĩa: nghĩa của “vang bóng” và “vang bóng một thời” là gì?
II. Khảo cứu ngữ liệu chữ Hán, Nôm, Quốc ngữ
Ngoài những ngữ liệu mà các bên tranh luận đã đưa ra như trên, bài viết này sẽ cung cấp thêm ngữ liệu hữu quan từ 9 văn bản, trong đó có 4 văn bản chữ Hán – Nôm niên đại từ khoảng thế kỉ XVI đến thế kỉ XX, và 5 văn bản chữ Quốc ngữ ở giai đoạn cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, tức là 9 văn bản này đều nằm trước và trong bối cảnh mà Nguyễn Tuân viết tác phẩm Vang bóng một thời (1940) nổi tiếng của mình. Riêng các tư liệu chữ Hán Nôm sẽ được chụp ảnh nguyên bản để minh họa.
1. Truyền kì mạn lục tăng bổ giải âm tập chú 傳奇漫錄增補解音集注
            Tư liệu đầu tiên là một bản dịch cổ từ Hán sang Nôm, cuốn Truyền kì mạn lục tăng bổ giải âm tập chúmà giới nghiên cứu vẫn quen gọi là Truyền kì mạn lục giải âm. Văn bản chữ Hán Nôm mà tôi dựa theo là văn bản được in kèm cuối bản phiên âm Quốc ngữ của Nguyễn Quang Hồng (2001). Bản giải âm này có kí hiệu sách HN.257 và HN.258 tại Thư viện Viện Văn học (Hà Nội), ván khắc năm Cảnh Hưng thứ 35 (1774), nhưng theo phỏng đoán của Nguyễn Quang Hồng thì bản dịch Nôm này có thể có niên đại sớm hơn, khoảng từ cuối thế kỉ XVI đến đầu thế kỉ XVII (2001, tr. 11), điều đó có nghĩa là ngôn ngữ được ghi lại bằng chữ Nôm trong văn bản này phản ánh tiếng Việt quãng thế kỉ XVI-XVII, tức là cách ngày nay trên dưới 400 năm. Theo sở kiến, đây là cứ liệu sớm nhất xuất hiện “bóng vang” (mà biến thể hoán vị của nó là vang bóng”, như sẽ chứng minh ở phần sau) trong tiếng Việt, nó được dùng để dịch từ tổ “ảnh hưởng” trong Hán văn. Ngoài ra, trong văn bản còn có 2 lần dịch từ “hưởng” thành “tiếng vang”:








5. Huỳnh Tịnh Của, Đại Nam quốc âm tự vị (tập 1), 1895,  tr. 14, cột 1:
Ảnh hưởng: Hình bóng, tiếng vang. Phiêu phiêu ảnh hưởng thì là không thấy tăm dạng”.
6. Hội Khai Trí Tiến Đức, Việt Nam tự điển1931, tr. 7, cột 2:
Ảnh hưởng: Chính nghĩa là vang bóng. Bởi câu: Ảnh tùy hình, hưởng ứng thanh: Bóng theo hình, vang thuận tiếng. Nghĩa bóng là nói cái gì vô hình mà chuyển động biến hóa đến cái khác: Người Việt Nam vẫn chịu cái ảnh hưởng văn minh của Tàu
7. Đào Duy Anh, Giản yếu Hán Việt từ điển (quyển thượng), 1932, tr. 11, cột 1:
Ảnh hưởng: Bóng và tiếng vang. Hình sinh ra ảnh, thanh sinh ra hưởng – Nch Quan liên với nhau, cảm ứng với nhau – Không có thực tại, hư không. Vd. ảnh hưởng chi đàm”[vii].
8. Ngô Quang Châu, Phải bạo dùng tiếng Việt, 1946, tr. 20-24:
Ảnh hưởng. - Ảnh nghĩa là bóng, hình; Hưởng nghĩa là tiếng vang. Nói: ‘Ảnh hưởng của công cuộc cải cách xã hội’, nói vậy cũng tức như nói: ‘Vang bóng của công cuộc cải cách xã hội’”.
9. Hoàng Thúc Trâm, Hán Việt tân từ điển1951, tr. 22, cột 1:
Ảnh hưởng: (Ngch) Bóng và vang (bóng theo hình, vang theo tiếng. (Ngr) Việc dấy lên ở một chỗ, rồi ba cập đến cả xung quanh. Ảnh hưởng văn hóa Đông phương[viii].
III. Luận giải về “vang bóng”
Từ những ngữ liệu trưng dẫn trên, sau đây xin từng bước cắt nghĩa “vang bóng” từ các bình diện ngữ nguyên, ngữ pháp và ngữ nghĩa.
1. Về ngữ nguyên: Những ngữ liệu trên cho thấy một sự thực đã kéo dài trên dưới 400 năm qua trong tiếng Việt: từ tổ “bóng vang” (mà biến thể hoán vị là “vang bóng”) trong tiếng Việt được dùng để dịch từ “ảnh hưởng” () trong Hán văn. “Bóng vang” đã tồn tại liên tục trong tiếng Việt suốt từ thời Truyền kì mạn lục giải âm cho tới khoảng đầu thế kỉ XX. Đến năm 1931, tức 9 năm trước Vang bóng một thời (1940), trong từ điển của hội Khai Trí Tiến Đức chúng ta đã sớm thấy xuất hiện dạng hoán vị (thay đổi trật tự) của “bóng vang” là “vang bóng. Từ đó chẳng khó khăn gì cũng có thể suy ra: Nguyễn Tuân hoàn toàn không phải là người sáng tạo ra cách dùng “vang bóng” trong tiếng Việt, mà ông chỉ có công làm cho nó trở nên nổi tiếng qua việc dùng nó để định danh tác phẩm văn chương của mình.
Về mối quan hệ giữa “vang bóng” với “ảnh hưởng”, trước đây cũng đã có một độc giả của mục “Chuyện Đông chuyện Tây”[ix] phỏng đoán rằng: “Trong vốn từ chữ Hoa chúng ta tìm gặp từ ‘ảnh hưởng’, có nghĩa là ‘vang bóng’, nghĩa là sự vang dội làm cho mắt phải thấy, tai phải nghe; nó dùng để chỉ sự nổi tiếng, sự thành danh, có tiếng tăm… đã được nhiều người biết đến” (An Chi, 2005, tr. 79). Đằng sau sự phỏng đoán này có hai điều đáng tiếc: một là độc giả này không đưa ra được một ngữ liệu thực tế tiếng Việt nào cho thấy mối liên hệ giữa “vang bóng” với “ảnh hưởng”; hai là An Chi trong phần trả lời độc giả của mình lại không hề lưu tâm tới cái nguyên ngữ đó (An Chi, 2005, tr. 81).
2. Về ngữ pháp: Mặc dù học giả An Chi đã dồn rất nhiều tâm lực để chứng minh rằng: cấu tạo từ của “vang bóng” là từ tổ vị từ (động từ), tức là “vang” là vị từ còn “bóng” là danh từ; nhưng với những dẫn liệu trên, thiết nghĩ quan điểm của An Chi cần được xem xét lại. Cấu tạo từ của “ảnh hưởng” trong những văn cảnh của Truyền kì mạn lục giải âmĐại học giảng nghĩaPhải bạo dùng tiếng Việt (đã dẫn) đều là danh ngữ ghép đẳng lập, vậy không có cớ gì để ép chúng ta phải hiểu “vang bóng” (vốn được dịch từ “ảnh hưởng”) là từ tổ vị từ.
Chính cái khả năng linh động về trật tự từ giữa “bóng vang” với “vang bóng” cũng góp phần chứng tỏ “vang bóng” và tất nhiên là cả “bóng vang” không thể là từ tổ vị từ ghép chính phụ, mà chỉ có thể là từ tổ danh từ ghép đẳng lập, bởi theo nhiều nhà ngữ pháp học tiếng Việt, nếu là từ tổ vị từ ghép chính phụ thì không thể thay đổi trật tự từ, còn ghép đẳng lập thì nhiều trường hợp có thể thay đổi trật tự từ[x]. Có thể kể ra rất nhiều ví dụ về hiện tượng hoán vị trong từ ghép đẳng lập: nhà cửa – cửa nhà, vàng bạc – bạc vàng, bạn bè – bè bạn, trời đất – đất trời, thề hẹn – hẹn thề, than thở – thở than, mắng nhiếc – nhiếc mắng, đấu tranh – tranh đấu, đón đưa – đưa đón, khờ dại – dại khờ, giản đơn – đơn giản, mạnh khỏe – khỏe mạnh… Những trường hợp này xét về bình diện thay đổi trật tự từ thì không khác gì vang bóng – bóng vang.
Cái kết luận của An Chi rằng “từ ‘vang’ chưa bao giờ là một danh từ” thật ra đã đúng… một nửa, bởi các ngữ liệu trong Truyền kì mạn lục giải âmĐại học giảng nghĩaPhải bạo dùng tiếng Việt đã chỉ ra một ngoại lệ của kết luận ấy: “vang” sẽ là danh từ nếu nó đi cùng với “bóng”! Còn bản thân người viết bài này cho đến nay cũng chưa tìm được trường hợp nào dùng “vang” (độc lập với “bóng”) mà lại có từ loại là danh từ, ngay cả những ngữ liệu trong Truyền kì mạn lục giải âm cũng dịch “hưởng” (khi dùng độc lập với “ảnh”) thành “tiếng vang” (đã dẫn) chứ không phải “vang”. Tuy nhiên, “vang bóng” nếu đi kèm với nhau thì luôn là từ tổ danh từ ghép đẳng lập giữa hai danh từ “vang” (tiếng vang) và “bóng” (cái bóng).
3. Về ngữ nghĩa: Ngôn ngữ có tính lịch sử của nó, và điều này cần được tôn trọng, nhất là khi hậu nhân đã có một độ lùi lịch sử đủ xa để có thể dễ dàng hiểu sai lệch cách dùng từ của tiền nhân. Đối với tiếng Việt, từ đầu thế kỉ XX đến đầu thế kỉ XXI mặc dù thời gian mới có khoảng 100 năm, nhưng mức độ thay đổi của ngôn ngữ thì không thể xem nhẹ. Nếu đọc toàn bộ tác phẩm Vang bóng một thời (1940) thì có thể thấy không chỉ chủ đề tác phẩm mà cả phạm vi ngôn ngữ của Nguyễn Tuân trong tác phẩm này cũng có thiên hướng “hoài cổ”, “ôn cố” hơn là “tri tân”, và cái nhan đề ấy cũng nằm trong phạm vi “ôn cố” này. Vậy thì để hiểu cái nhan đề ấy, việc cần làm là phải tìm cái gốc gác của “vang bóng” (tức là tìm nguyên ngữ của nó), và xem thời bấy giờ người ta hiểu “vang bóng” là gì.
Phần trình bày tư liệu trên đã chứng tỏ nguyên ngữ của “vang bóng” là từ “ảnh hưởng” trong Hán văn. Vậy muốn lí giải nghĩa của từ tổ “vang bóng” thì không có con đường nào tốt hơn là phải lí giải ý nghĩa của nguyên ngữ của nó là “ảnh hưởng”. “Ảnh” là cái bóng, “hưởng” là tiếng vang. “Vang bóng một thời” tức là “ảnh hưởng một thời”, lập luận như vậy cũng giống cái cách mà Ngô Quang Châu cho rằng “ảnh hưởng của công cuộc cải cách xã hội” cũng tức là “vang bóng của công cuộc cải cách xã hội” (đã dẫn). Vậy thì “ảnh hưởng” ở đây liệu có nên hiểu theo cách cắt nghĩa trong cuốn từ điển tiếng Việt hiện đại rất phổ biến hiện nay do Hoàng Phê chủ biên:
Ảnh hưởng. 1. Tác động có thể để lại kết quả ở sự vật hoặc người nào đó. Ảnh hưởng của khí hậu đối với cây cối. Ảnh hưởng của gia đình. Tranh giành ảnh hưởng. 2. Có ảnh hưởng đến. Sự giáo dục của gia đình ảnh hưởng tốt đến các em” (Hoàng Phê, 2002, tr. 7, cột 2).
hoặc theo cách giải nghĩa trong một cuốn từ điển sớm hơn một chút nhưng vẫn là từ điển tiếng Việt hiện đại do Văn Tân chủ biên:
Ảnh hưởng. 1. Tác dụng của vật nọ đối với vật kia làm cho vật thứ hai ít nhiều chịu sự chi phối của vật thứ nhất: Thắng lợi của Cách mạng Trung Quốc có ảnh hưởng đến phong trào giải phóng ở châu Á. 2. Uy tín và thế lực: Ảnh hưởng các Đảng Cộng sản mỗi ngày một lớn. 3. Những quyền lợi kinh tế, chính trị và văn hóa của nước nọ ở nước kia: Đế quốc Mĩ đã mất hết ảnh hưởng ở Trung Quốc” (Văn Tân, 1967, tr. 18, cột 2).
Hai cuốn từ điển tiếng Việt hiện đại này đã cắt nghĩa “ảnh hưởng” theo kiểu mới, “hàn lâm” hơn, tách khỏi truyền thống lí giải xưa (ảnh = bóng, hưởng vang) như trong các tư liệu đã dẫn (Tam thiên tự giải âm, Tam thiên tự giải dịch quốc ngữ, Huỳnh Tịnh Của, hội Khai Trí Tiến Đức, Đào Duy Anh, Ngô Quang Châu, Hoàng Thúc Trâm). Đây chính là nguyên nhân khiến cho độc giả ngày nay của Nguyễn Tuân khó mà tưởng tưởng ra mối liên hệ giữa “vang bóng” với “ảnh hưởng”, ngay cả hai nhóm chuyên gia biên soạn từ điển tiếng Việt hiện đại trên có thể cũng không chú ý đến mối quan liên giữa “ảnh hưởng” với “vang bóng” để dẫn giải trong từ điển của họ.
Tóm lại, về mặt ngữ nghĩa, để hiểu cách nói “vang bóng” của Nguyễn Tuân, thiết nghĩ cần phải căn cứ vào cách lí giải của những người cùng thời với ông, cùng sử dụng vốn từ chung như ông, cần xem họ cắt nghĩa “ảnh hưởng” hoặc “vang bóng” thế nào. Những người cùng thời ấy chính là Đào Duy Anh, Ngô Quang Châu, Hoàng Thúc Trâm và hội Khai Trí Tiến Đức (đã dẫn). Qua cách cắt nghĩa của họ, đặc biệt là của nhà từ điển học Đào Duy Anh, có thể hình dung rằng: từ tổ danh từ ghép đẳng lập “vang bóng” có nguyên ngữ Hán văn là “ảnh hưởng” (), “ảnh” nghĩa là cái bóng, “hưởng” nghĩa là tiếng vang. “Vang bóng một thời” tức là “ảnh hưởng một thời”, nghĩa đen là “tiếng vang và cái bóng của một thời”, nghĩa bóng là sự nối dài về cả thời gian (đặc điểm của vang) và không gian (đặc điểm của bóng), hay sự cảm ứng lan tỏa từ quá khứ tới hiện tại thể hiện qua những dấu ấn văn hóa của ngày xưa còn đọng lại với ngày nay như một niềm “hoài cổ” và “ôn cố” của một bậc thức giả sống trong thời kì văn hóa dân tộc đang chuyển hình từ cổ đại sang hiện đại(*).
Hà Nội, nóng tháng 6/2010
Nguyễn Tuấn Cường

DANH MỤC TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1.        An Chi, Chuyện Đông chuyện Tây (tập III), NXB Trẻ, 2005.
2.        Đại học giảng nghĩa 大學講義 (sách chép tay không ghi niên đại, ước đoán cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX), kí hiệu sách tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm AB.277.
3.        Đái Xuân Ninh, Hoạt động của từ tiếng Việt, NXB Khoa học Xã hội, 1978.
4.        Đào Duy Anh, Giản yếu Hán Việt từ điển (quyển thượng), Imprimerie TIENG DAN, Huế, 1932.
5.        Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, 2002 (in lần thứ 8, có sửa chữa, đợt 2).
6.        Hoàng Thúc Trâm, Hán Việt tân từ điển, Nhà sách Vĩnh Bảo Sài Gòn, 1951.
7.        Hội Khai Trí Tiến Đức, Việt Nam tự điển, Hanoi Imprimerie Trung Bac Tan Van, 1931.
8.        Huình Tịnh Paulus Của, Đại Nam quấc âm tự vị (tập 1), Saigon Imprimerie REY, CURIOL & CIE, 1895.
9.        Ngô Quang Châu, Phải bạo dùng tiếng Việt, in trong tạp chí Tiên Phong (tạp chí của Hội văn hóa cứu quốc Việt Nam), số 8 ra ngày 1/4/1946, tr. 20-24; dẫn lại theo: Lại Nguyên Ân và Hữu Nhuận sưu tầm,Sưu tập trọn bộ Tạp chí Tiên Phong (1945-1946), NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1996, tr. 348-352 (phần giải nghĩa mục từ ảnh hưởng tại trang 348, cột 2).
10.    Nguyễn Tài Cẩn, Ngữ pháp tiếng Việt, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004 (tái bản lần thứ 6, in lần đầu năm 1975).
11.    Tam thiên tự giải âm 三千字解音, Hoàng triều Tân Mão niên (1831), Phú Văn đường tàng bản, kí hiệu Thư viện Quốc gia R.468.
12.    Tam thiên tự giải dịch quốc ngữ 三千字解譯國語, Duy Tân Kỉ Mão niên (1915), Liễu Văn đường tàng bản, kí hiệu Thư viện Quốc gia R.1667.
13.    Truyền kì mạn lục tăng bổ giải âm tập chú 傳奇漫錄增補解音集注, bản in tại Liễu Chàng năm Cảnh Hưng thứ 35 (1774), kí hiệu Thư viện Viện Văn học HN.257 và HN.258; văn bản được in kèm trong: Nguyễn Quang Hồng (phiên âm và chú giải), Truyền kì mạn lục giải âm, NXB Khoa học Xã hội, 2001.
14.    Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Ngữ pháp tiếng Việt, NXB Khoa học Xã hội, 1983.
15.    Văn Tân (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, NXB Khoa học Xã hội, 1967.





CHÚ THÍCH
[i] Bài viết nhân kỉ niệm 100 năm sinh Nguyễn Tuân và 70 năm ra đời Vang bóng một thời.
[ii] Cả ba trường hợp này đều dẫn theo: An Chi, 2005, tr. 114, 116, 118.
[iii] Kiến thức ngày nay số 247 (ra ngày 1/6/1997), số 251 (10/7/1997), số 258 (20/9/1997), số 273 (1/3/1998).
[iv] An Chi, Chuyện Đông chuyện Tây (tập III), NXB Trẻ, 2005, tr. 62-63, 79-83, 113-118, 198-204.
[v] Tức trường hợp Nguyễn Tuân viết “vang và bóng ngày kí vãng” trong Một chuyến đi, 1938.
[vi] Tức trường hợp Vũ Ngọc Phan viết “cái tiếng vang của thời đã qua, cái bóng của thời đã qua” trong Nhà văn hiện đại, 1942-1945.
[vii] Kí hiệu viết tắt theo nguyên bản: Nch = Như chữ, Vd = Ví dụ.
[viii] Kí hiệu viết tắt theo nguyên bản: Ngch = Nghĩa chính, Ngr = Nghĩa rộng.
[ix] Kiến thức ngày nay, số ra ngày 10/7/1997.
[x] Xin xem: Nguyễn Tài Cẩn, 2004, tr. 92-93; Đái Xuân Ninh, 1978, tr. 167, 171-172; Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, 1983, tr. 57, 59. Trong các tài liệu này, ghép “đẳng lập” còn được gọi là ghép “song song” hoặc ghép “láy nghĩa”; ghép “chính phụ” còn được gọi là ghép “phụ nghĩa”.
(*) Bài viết này được hoàn thành với sự tài trợ của Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia Việt Nam (NAFOSTED).