Monday, 21 May 2012

Một số vấn đề về chuẩn mực hoá ngôn ngữ: Nhu-cầu mượn từ (Hoàng Tuệ)

Hành động mượn từ có thể chẳng có lí do gì chính đáng, chẳng đáp ứng một nhu cầu thực sự nào về ngôn ngữ, mà nhiều khi, chỉ là biểu hiện của ý thức không tôn trọng, không nghiêm túc đối với ngôn ngữ của dân tộc. Ở đâu cũng có sự tình này. Ở ta, rõ ràng là có khi đã như như thế. Thực ra, cái cớ lúc đầu là chưa có sẵn từ trong bản ngữ để đáp ứng ngay một nội dung mới, còn có tính chất ngoại. Thí dụ, chừng nửa thế kỉ trước, cái xe đạp là một trường hợp như thế và có người đã gọi nó là tự hành xa! Thí dụ này đáng chú ý, vì trước đây có lắm người thông tiếng Hán hễ gặp một nội dung mới từ phương Tây đến (đặc biệt là khái niệm trừu tượng về văn hoá, chính trị… nhưng cả khi là sự vật cụ thể cũng thế) thì một mặt, cự tuyệt chất liệu Pháp; mặt khác cũng không chịu tìm chất liệu Việt mà sẵn sàng dùng ngay chất liệu Hán, tức Hán Việt. Sự tình này, như đã nói, có nguyên nhân lịch sử trong quá trình tiếp xúc quá dài giữa tiếng Việt và “chữ Hán”, tức là dạng ngôn ngữ viết của tiếng Hán được tiếp tục dùng ở Việt Nam, từ khi nước ta thoát khỏi ách thống trị của Trung Hoa. Sự tình ấy đã ảnh hưởng khá rõ đến trạng thái chung của từ vựng tiếng Việt. Mặc dù thế, nếu dùng lạm từ Hán Việt, tức là mượn gốc Hán là vẫn gây ra phản ứng chống đối của người Việt Nam. Tự hành xa đã tự lúc đầu tỏ ra là một sự kém cỏi học giả, không chấp nhận được và đã nhanh chóng bị thay thế bằng xe đạp. Từ mượn gốc Pháp cũng có thể gây ra phản ứng đó. Tủ lạnh đã được hoan nghênh để thay thế fri-gi-deTi vi chắc chắn rồi sẽ chịu số phận như fri-gi-de và tự hành xathôi.
Những thí dụ trên đây về sự thay thế từ mượn bằng từ Việt chứng tỏ rằng bản ngữ là một nguồn chất liệu hình thức để thay thế, và xu hướng sử dụng chất liệu đó, một cách triệt để và sáng tạo, có ý nghĩa và tác dụng quan trọng trong sự chuẩn mực hoá bản ngữ. Tuy vậy, những thí dụ như thế trong tiếng Việt còn cho thấy là, tự khi mượn nó tới khi không mượn nữa, tức là tới khi thay thế được từ mượn bằng bản ngữ, thường là có thời gian, để nội dung đủ mức đi sâu vào đời sống và để tìm ra hình thức bản ngữ đáp ứng nội dung đó một cách đáng hài lòng. Sự thực, có khi phải tiếp tục dùng từ mượn, vì lẽ đơn giản là chưa có khả năng thay thế. Không dẫn thí dụ nhưng rất dễ thấy là trong tiếng Việt, có những bộ phận của cái xe đạp hay xe máy đã được gọi bằng từ sẵn có, hoặc từ đặt ra để thay thế từ mượn, hoặc từ mượn đồng hoá, nhưng rõ ràng là còn có những bộ phận phải tiếp tục gọi bằng từ mượn. Đó là những sự vật cụ thể. Khi là những khái niệm, những tư tưởng thì sự thay thế lại càng không phải đơn giản.
Cho nên, trong hành động mượn từ, và thái độ tiếp tục dùng từ mượn, còn phải thấy rằng có trường hợp, nhu cầu là thực sự.
Thường có hai nhu cầu chính: nhu cầu định danh chính xác và nhu cầu gợi cảm.
Tất nhiên, hoàn toàn không có căn cứ để nói rằng từ bản ngữ không đủ sức đáp ứng nhu cầu định danh chính xác. Tuy vậy, có những trường hợp, những phạm vi, khi nội dung có tính chất đặc biệt thì mượn, do chỉ có một nghĩa nên đáp ứng được tốt nhất đòi hỏi phải gọi tên cái nội dung ấy mà không gây ra lẫn lộn. Đó là, chẳng hạn trường hợp từ công-tây-nơ dẫn ra ở trên trong tiếng Việt: từ mượn này, vốn ở tiếng Anh là “container” chỉ cái chứa, cái đựng nói chung, và chỉ một loại thùng đặc biệt chuyên dùng trong vận tải; nếu thay thế nó bằng từ thùngcho đơn giản thì không thoả mãn nhu cầu định danh nói trên, bởi vì không phải loại thùng nào cũng là công-tây-nơ cả. Giống như trường hợp từ can cũng có nghĩa như là thùng và gốc ở tiếng Anh là từ “can“; nhưng để đựng dầu hoả của người này là cái can bằng kim khí hay bằng nhựa hẳn hoi, mà của người khác có thể tạm bợ một cái thùng nào đó không gọi là can được. Cái khác nhau là: chuyện can, chuyện đời sống bình thường, còn chuyện công-tây-nơ quan trọng hơn nhiều; đây là chuyện vận tải hàng hoá, theo tiêu chuẩn quốc tế của một ngành hoạt động kinh tế. Từ mượn công-tây-nơ là một thuật ngữ khoa học, một danh từ chuyên môn hay chuyên danh.
Thiết nghĩ đối với thuật ngữ thì giá trị định danh chính xác mà nó phải có là một yêu cầu cần để lên hàng đầu. Điều mà các nhà khoa học trong các ngành khoa học tự nhiên, khoa học kĩ thuật và khoa học xã hội đều muốn tránh, là tình trạng một khái niệm được định danh bằng những từ khác nhau, và một từ dùng để định danh những khái niệm không giống nhau. Cho nên, một mặt, nhà khoa học không thể không thấy yêu cầu của xã hội là chớ làm cho ngôn ngữ khoa học trở thành một thứ ngôn ngữ quá tách biệt khỏi ngôn ngữ chung của dân tộc; nhưng mặc khác, xã hội cũng không thể không thấy yêu cầu của nhà khoa học là chớ gây ra, bằng một quan niệm quá dễ dãi về thuật ngữ, những sự hiểu lầm có thể ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của khoa học. Trong tình hình hiện nay, ngành khoa học nào cũng có trình độ chuyên môn hoá sâu của nó cho nên tiếng nói quyết định trong việc xây dựng hệ thống thuật ngữ của mỗi ngành nói chung, và nói riêng, việc nên hay không nên dùng từ mượn, thay thế hay không thay thế từ mượn bằng từ của bản ngữ cần được dành cho các nhà khoa học của mỗi ngành. Tất nhiên, các nhà khoa học nên có sự cố gắng nhìn đến các nguyên tắc chuẩn mực hoá ngôn ngữ, trong khuôn khổ chuẩn mực hoá từ vựng.
Giá trị định danh chính xác của thuật ngữ, hiện nay, cũng có ý nghĩa quốc tế. Một trong các hoạt động của “Hội thuật ngữ học quốc tế” là thu thập thuật ngữ mới, của một số thứ tiếng trên thế giới (trong đó có tiếng Việt) để so sánh và phát hiện những hiểu lầm có thể sinh ra giữa các nhà khoa học ở những nước khác nhau nhưng hoạt động trong cùng một ngành. Tuy vậy, ở diện quốc tế, vấn đề thống nhất hoá hay quốc tế hoá thuật ngữ lại có một khía cạnh tư tưởng đáng chú ý là một số nước đã đi những bước trước trong một ngành khoa học nhất định, có ý muốn dùng thuật ngữ của nước mình là cái cơ sở cho thuật ngữ của những nước khác. Thí dụ, không ít người cho rằng các khái niệm của điều khiển học đã sinh ra và được hoàn chỉnh hoá trước ở Mĩ, cho nên đồng bộ thuật ngữ của ngành này ở bất cứ nước nào cũng nên mượn của Mĩ. Quan điểm ấy không phải đã được tán thành một cách dễ dàng, và cũng không ít người ở những nước khác, những nước có vai vế như Mĩ về mặt khoa học, cho rằng sự tràn lan của những “americanisme” ấy là vô lối, và cần phải nhìn lại. Những quan niệm như thế ở góc độ này hay ở góc độ kia, ở góc độ nào cũng thể hiện quan điểm tư tưởng, với ít hay nhiều màu sắc dân tộc chủ nghĩa, thậm chí sô-vanh chủ nghĩa. Vì thế, một nước đang phát triển về khoa học và đang làm công tác thuật ngữ học, như nước ta, không nên mắc vào sự tranh cãi như thế, và trong trường hợp cần phải dùng từ mượn làm thuật ngữ thì mượn của tiếng nào là chủ động lựa chọn theo tiêu chuẩn về tính chất hệ thống có thể đạt được trong tiếng Việt và theo quan điểm, như đã nói, về sự tiếp xúc ngôn ngữ càng ngày càng rộng mở giữa tiếng Việt với các thứ tiếng khác…
Về nhu cầu gợi cảm, cũng cần thấy rằng không phải chỉ từ mượn có khả năng đáp ứng, mà trái lại, ưu thế ở mặt này nói chung thuộc về từ bản ngữ. Nhưng thế nào là sự gợi cảm của từ? Có thể tạm nói rằng từ mà có sức gợi cảm là khi mà ngoài chức năng định danh, nó còn có thể tạo nên những mối liên hệ đặc biệt giữa ý thức với thực tế, trong một hoàn cảnh nhất định. Như vậy, nhu cầu gợi cảm một từ cũng có thể xem là nhu cầu về phong cách ngôn ngữ, và cũng có thể nhận thấy rằng trong những hoàn cảnh nhất định, từ mượn cũng có tác dụng riêng.
Chẳng hạn, trong tiếng Việt, thường có cách khai thác tác dụng gợi cảm của từ mượn gốc Hán, tức là từ Hán Việt. Thí dụ, từ nguyệt không phải “quốc âm” mà rất Đường thi ấy đã được Nguyễn Trãi dùng năm trăm năm trước, trong một câu thơ mà đọc lên ta cảm thấy không những có trăng, có rượu mà còn có tâm tư, có cả phong độ của một con người: “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng nghiêng chén”. Ngày nay, vẫn còn cách dùng từ nguyệt như vậy trong những câu thơ có ánh trăng, tất nhiên với sự thành công không giống nhau, và cả những lí do kĩ thuật có khác nhau, nhưng đều với cái ý thức của nhà thơ là muốn dùng một chất liệu hình thức ngoại, đã có phần đồng hoá, nhưng chưa hoàn toàn, và do đó mà chất liệu nội dung cũng có màu sắc riêng.
Ở những hoàn cách khác hẳn, cũng có thể thấy tác dụng gợi cảm của từ mượn. Thí dụ, trong nhiều ngôn ngữ, ở những hoàn cảnh có nói đến thể thao, đến việc ăn, việc mặc là cứ thấy cái thế mạnh khá rõ của từ mượn, của những từ như: gôn, pê-nan-ti… hay rô-ti, mằn thắn, va-li-de… Thực ra, những từ như thế đã rất gần với từ ngoại.
Trong phong cách khoa học, thì từ mượn dùng làm thuật ngữ do không có tác dụng gợi cảm riêng của nó, nên chính vì thế mà tạo cho phong cách này tính chất trung hoà, túc là ít gợi cảm, là đặc điểm của nó, so với phong cách thơ, phong cách nghệ thuật.
Nếu nói riêng về phong cách báo chí thì có thể khác, bởi vì phong cách này, có khi, cần phát huy tác dụng chiến đấu và thông tin, tức cũng là tác dụng gợi cảm, gợi nhiều mối liên hệ, cho nên loại từ mượn có tính chất thuật ngữ và gần với từ ngoại có thể có giá trị riêng. Thí dụ, nói lại gần như trích dẫn theo bài báo của bọn phản động quốc tế là “nhân quyền“, là “đề-tăng” (hoặc détente) thì thiết tưởng, do khác về chất liệu hình thức, nên khác về chất liệu nội dung, so với quan điểm và cách nói của ta là quyền con người, là làm dịu căng thẳng

Sunday, 20 May 2012

Gá thổ đổ hồ là làm gì?


Gá thổ là chăn dắt gái mại dâm. Nhà thổ là nhà chứa gái.
Hồ là cái hộp đựng tiền xâu trong sòng bạc. Đổ hồ là mở sòng bạc.
Đó là những nghề bị ông bà ta ngày xưa xem là bất lương.

Chũ "bị" và con đường Việt hóa các từ gốc Hán (Lê Xuân Mậu)

Tác-giả: Lê-Xuân-Mậu
(Tạp chí Tài hoa trẻ)
Một chút lai lịch
Đúng ra thì phải “vẽ” ra cái chữ Hán này để khỏi lầm với ít nhất là ba, bốn chữ khác cũng đọc là “bị” (theo các ông Đào Duy Anh và Nguyễn Văn Khôn) nhưng làm thế là không cần lắm với nhiều bà con mình. Cái chữ “bị” nói đến ở đây thực ra có đến ba nghĩa. Hai nghĩa khác ta không đưa vào tiếng Việt là: cái mềm, khắp đến. Còn nghĩa “chịu, mắc phải” xin được nói sau.
Một điều đáng nói nữa là cái chữ này có tới hai cách đọc khi sang Việt Nam theo phát hiện của ông Nguyễn Tài Cẩn (*). Đó là cách đọc “bị” và cách đọc “phải” mà ta thường cho là thuần Việt.
Một bước tiền trạm
Theo ông Nguyễn Tài Cẩn, xưa kia tiếng Việt chưa có hình thức diễn đạt sắc thái đánh giá tiếp nhận tốt xấu, hoặc may rủi. Người ta đã mượn của tiếng Hán yếu tố được một hình thức phát âm một chữ, sau này âm Hán Việt đọc là đắc (đắc thắng, đắc ý, đắc cử…) để diễn đạt sắc thái đánh giá “tốt, may”: được khen, làm được… Và họ mượn yếu tố phải để diễn đạt sắc thái đánh giá xấu, rủi: phải phạt, giẫm phải gai…
Sự việc đó diễn ra trước khi có âm Hán Việt (mượn từ thời Đường) nên thường các chữ “được”, “phải” đều coi như từ thuần Việt. Khi đã có anh em sinh đôi (phải) diễn đạt ý nghĩa đánh giá tiếp nhận “rủi, xấu” thì bị không được mượn vào tiếng Việt nữa (vì không cần). Bị chỉ được mượn vào tiếng Việt với tư cách là một từ tố nằm trong vài từ ghép như bị cáo, bị động, (số) bị trừ, (số) bị nhân…
Đến lúc phải vào
Đó là tình hình trước đây chừng vài ba thế kỷ, sau đó thì bị phải vào, tức là tiếng Việt phải mượn nó để diễn đạt ý nghĩa đánh giá sự tiếp nhận “xấu, rủi”. Tại sao có bước ngoặt ấy?
ấy là vì có sự quá tải của chữ “phải”! Phải làm nhiều việc quá, dễ sinh nhầm lẫn. Phải đã chỉ cái sắc thái chịu sự “rủi, xấu” lại còn phải thể hiện thêm ý nghĩa “cần thiết phải”, “buộc phải làm” (Tôi phải ra ga). Nó lại còn phải thể hiện ý “đúng” (Anh phải, nó trái).
Thế là để khỏi lầm, người ta chuyển giao trách nhiệm diễn đạt sắc thái tiếp nhận “xấu, rủi” sang cho bị là chính. Do đó ngày nay, chủ yếu sắc thái này được thể hiện bằng từ bị: bị phạt, bị đòn, bị đánh, bị ế, bị điểm xấu… Tuy nhiên, do bị ở chữ Hán chỉ đi trước động từ, danh từ… nên vào tiếng Việt nó cũng chỉ ở vị trí đó. Cho nên, “phải” vẫn còn được lưu giữ ở một vài cụm từ đã dùng quen như phải gió, phải biết, phải vạ, phải một bữa đó… Đặc biệt, trong những trường hợp đối ứng với được đi sau động từ thì phải vẫn phải có mặt như kiểu: ăn được/ ăn phải, vớ được/ vớ phải…
Thực sự hòa nhập
Khi đã vào tiếng Việt lâu dài, bị đã hòa nhập cùng cộng đồng ngôn ngữ Việt. Nếu không biết chữ Hán, mấy ai biết cái chữ bị quen thuộc này lại là ngoại lai! Thế cho nên, bị hoạt động cũng thoải mái lắm. Nó không chỉ đi trước các động từ, tính từ, danh từ… mà còn cả các cụm động từ – bổ ngữ, cụm chủ vị (bị đau chân, bị vỡ sọ, bị người ta chê cười, bị vợ ăn vạ…) nghĩa là tất cả kết cấu làm được bổ ngữ chỉ đối tượng trực tiếp của nó.
Chữ bị này hoạt động mạnh mẽ quá nên nhiều lúc dường như nó không còn là một động từ nữa, nó “hư hóa” đi. Nó chỉ như một yếu tố “ngữ khí”, nhấn mạnh cái sắc thái đánh giá: cái áo này bị xanh rồi, lòng luộc bị dai (bỏ đi, nội dung thông báo không khác)…
Đặc biệt gần đây, trong khẩu ngữ còn có lối nói đùa cợt thân mật, trẻ trung và cả hài hước nữa, khi người ta thể hiện một sự đánh giá theo hướng “tốt, may” như kiểu: Cô ấy hơi bị xinh đấy! Giọt nước hơi bị trong!… Chưa biết rồi đây, cộng đồng sử dụng tiếng Việt chúng ta có chấp nhận cái bước ngoặt nghịch ngợm này của chữ bị hay không, xin cứ tạm ghi nhận.
Đôi điều nhận xét
Dõi theo bước đường nhập Việt của cái chữ bị gốc Hoa này, ta có thể thấy có nhiều chữ gọi là “thuần Việt” nhưng thực ra cũng là từ mượn. Chả nên quá phân biệt đối xử để kỳ thị các từ mượn hợp lý. Có một điều rất lý thú là khi mượn từ, người Việt ta có sàng lọc: Không mượn các nghĩa không cần (bị cũng có nghĩa là cái mền), không để lẫn lộn sắc thái tốt, xấu như ở ngôn ngữ gốc (Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh còn ghi bị tuyển cử nhân = người được nhân dân tuyển cử).
Điều thứ hai dễ nhận là việc du nhập của các từ mượn được cộng đồng chấp nhận, sử dụng đều do nhu cầu nội tại của hệ thống tiếng Việt và tuân theo các quy tắc khá chặt chẽ (như cần thì mượn, không thì thôi, vừa phải tiết kiệm lại vừa phải phân công giữa các từ để tránh hiểu lầm, khó cho giao tiếp…).
Điều thứ ba là khi đã mượn từ, dân mình rất thoáng, không định kiến, coi bình đẳng như các từ khác để nó thỏa sức hoạt động như con dân tiếng Việt thực thụ.
Vì vậy, chẳng nên như một số trong chúng ta bị phong cách nhà nho gò bó, “chiếu trải không ngay ngắn không ngồi”. Khi gặp từ Hán Việt là giở sách cổ ra đối chiếu chê chỗ này chệch âm, chỗ kia sai nghĩa cũ, và để rồi không bao giờ chấp nhận những cách dùng khá hay, nhưng chưa được ghi vào từ điển, sách ngữ pháp. Rõ ràng như thế là không tôn trọng cái thực tiễn của các từ ngữ sống động trong đời sống.
Lê Xuân Mậu
(Tạp chí Tài hoa trẻ)

Saturday, 19 May 2012

Cấp giấy chứng minh cho bốn chữ cái (Nguyễn Đức Dương, Tuổi Trẻ 7/5/2012)

Hôm 3-5, TS giáo dục học Lê Vinh Quốc có bài viết nhận xét “bảng chữ cái tiếng Việt hiện hành” là thiếu “chính xác và nhất quán”.
Do đâu mà bộ ký tự hết sức ổn định gồm 29 chữ cái hiện hành, một công cụ vừa tiện dụng vừa khoa học để ghi lại một cách trung thực bộ mặt ngữ âm của tiếng Việt và từng được nhiều nhà ngữ học tên tuổi cả trong lẫn ngoài nước (như Cao Xuân Hạo, Laurence C. Thompson, các giáo sư Hoàng Phê, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Văn Lợi...) đánh giá rất cao lại bị chê trách nặng lời đến thế?
Câu trả lời chắc tự nó sẽ đến nếu chúng ta không hiểu công dụng chủ chốt của các bảng chữ cái và giá trị của bốn ký tự “bị dùng lậu” F, J, W và Z, như TS Quốc từng hiểu.
Thật thế, theo TS Quốc thì “tính khoa học” và “tính nhất quán” của một bảng chữ cái vốn được thể hiện rõ nhất và cơ bản nhất qua khả năng đánh số thứ tự các hàng ghế trong rạp hát hay rạp chiếu bóng, trong toa xe hay trên sân vận động, cũng như qua khả năng đánh số thứ tự các đề mục/tiểu mục trong những báo cáo khoa học hay công tác, hoặc qua khả năng gọi tên hình này hình nọ ở môn hình học.
Trong khi đó giới ngữ học lại quen đánh giá tính khoa học và tính nhất quán của một bảng chữ cái qua khả năng ghi lại đủ chân thực, đủ chân xác bộ mặt ngữ âm của các từ ngữ trong một thứ tiếng, vì theo họ hình dung đây mới là công dụng chủ chốt nhất và hệ trọng nhất của các bảng chữ cái. Cách nhìn nhận vấn đề khác nhau tất đưa đến các kết quả đánh giá khác nhau. Đó là điều dễ hiểu, cho nên chắc hẳn chúng ta khỏi phải bàn nhiều. Bởi thế, tiếp theo đây có lẽ chúng ta nên dành thì giờ để bàn đến chuyện: làm cách nào để cấp “giấy chứng minh” cho bốn chữ cái “bị dùng lậu”?
Thực tế ngôn ngữ cho thấy từ mấy thập niên gần đây, trên các văn bản viết bằng chữ quốc ngữ, bốn ký tự F, J, W, Z đã được dùng công khai và ngày một nhiều để ghi các ký hiệu trong mấy môn vật lý, hóa học, toán học... (F, J, W, Hz...), để viết các dạng tắt tên riêng của các tổ chức nước ngoài (FAO, WHO...), để viết các thuật ngữ khoa học - công nghệ (kim loại wonfram, định dạng file, các trang web), để viết các nhân danh/địa danh nước ngoài (California, Zagreb, Washington...), để ghi các từ ngữ nước ngoài dùng trong giao tiếp thường nhật (quần jeans áo jacket, võ judo...).
Trong các cuộc thảo luận về việc sử dụng bốn ký tự trên trong văn bản tiếng Việt thì hầu hết ý kiến đều tán thành việc dùng những ký tự ấy cho ba trường hợp đầu, nhưng dùng cho hai trường hợp cuối lại gây nên lắm cuộc tranh luận sôi nổi mà đến nay vẫn chưa ngã ngũ.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, ngay từ bây giờ chúng ta nên cấp “giấy chứng minh” cho bốn ký tự ấy thì hơn, bởi sớm muộn nước ta cũng sẽ hội nhập ngày càng sâu thêm vào cộng đồng thế giới, và các thế hệ đi trước càng đón đầu sớm bao nhiêu thì các thế hệ đi sau càng đỡ thiệt thòi bấy nhiêu.
NGUYỄN ĐỨC DƯƠNG

Có bị kỳ thị hay không (An Chi - Năng Lượng Mới số 121 ,18-5-2012)

Bạn đọc : Nói về bảy chữ cái Ă, Â, Đ, Ê, Ô, Ơ và Ư, trong bài “Những chữ cái bị kỳ thị” đăng trên Tuổi Trẻ  ngày 3-5-2012, TS Giáo dục Lê Vinh Quốc viết:
“Nếu chỉ sử dụng để đánh vần (hay ghép vần), đọc, viết hay biên soạn từ điển thì những chữ biến thể này dường như không có vấn đề gì phải bàn. Nhưng khi sử dụng chúng trong những trường hợp khác lại có vấn đề phát sinh.”
Xin hỏi ông An Chi có nhận xét gì về “những trường hợp có vấn đề phát sinh” mà TS Lê Vinh Quốc đã nêu.
                                                                                      (Nguyễn Hữu Huỳnh Đức – Thành phố Vũng Tàu).
An Chi : Về “những trường hợp có vấn đề phát sinh”, TS Lê Vinh Quốc đã viết như sau:
“Khi cần sắp xếp một hệ thống nào đó theo vần chữ cái, người ta chỉ dùng các chữ cái Latin gốc mà không dùng đến các chữ biến thể đó. Chẳng hạn, khi dùng bảng chữ cái để ghi ký hiệu các hàng ghế của hội trường, nhà hát, rạp chiếu bóng, sân vận động hay tàu xe, người ta đều ghi theo thứ tự như sau: A, B, C, D, E, G (...) O, P, Q (...), T, U, V, X, Y... Như vậy tức là các chữ biến thể (Ă, Â, Đ, Ê, Ô, Ơ, Ư) đã hoàn toàn bị loại bỏ.
“Khi cần trình bày các luận điểm theo thứ tự vần chữ cái, người ta cũng thản nhiên bỏ qua những chữ đó. Trong các môn học ở nhà trường, khi cần dùng bảng chữ cái để trình bày các ký hiệu hay công thức, những chữ này không bao giờ được áp dụng. Chẳng hạn ở môn hình học luôn có các tam giác A - B - C, nhưng chưa bao giờ có tam giác A - Ă - Â!”
Về ý kiến trên đây của TS Lê Vinh Quốc,  nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương đã châm biếm nhẹ nhàng:
“Theo TS Quốc thì “tính khoa học” và “tính nhất quán” của một bảng chữ cái vốn được thể hiện rõ nhất và cơ bản nhất qua khả năng đánh số thứ tự các hàng ghế trong rạp hát hay rạp chiếu bóng, trong toa xe hay trên sân vận động, cũng như qua khả năng đánh số thứ tự các đề mục/tiểu mục trong những báo cáo khoa học hay công tác, hoặc qua khả năng gọi tên hình này hình nọ ở môn hình học.
“Trong khi đó giới ngữ học lại quen đánh giá tính khoa học và tính nhất quán của một bảng chữ cái qua khả năng ghi lại đủ chân thực, đủ chân xác bộ mặt ngữ âm của các từ ngữ trong một thứ tiếng, vì theo họ hình dung đây mới là công dụng chủ chốt nhất và hệ trọng nhất của các bảng chữ cái.” (Cấp “giấy chứng minh” cho bốn chữ cái, Tuổi Trẻ, ngày 7-5-2012).
Nhưng TS Quốc thì kết luận: “Nếu xét về tính khoa học của một ngôn ngữ thì việc 7/29, tức gần 1/4 số chữ cái không được sử dụng trong các trường hợp nêu trên lại cho thấy sự không bình thường của bảng chữ cái chính thức: những chữ cái biến thể không được coi là bình đẳng với những chữ khác.”
Nếu ta được phép diễn ra cho rõ cái ý châm biếm của nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương thì “các trường hợp nêu trên” lại thuộc những lĩnh vực phi ngôn ngữ nên ở đây chẳng làm gì có chuyện “những chữ cái biến thể không được coi là bình đẳng với những chữ khác”.
Đó là ta còn chưa nói đến sự nhầm lẫn nghiêm trọng của TS Lê Vinh Quốc khi ông viết:
“Đến nay, các nhà ngôn ngữ học vẫn không hiểu vì sao khi sáng tạo ra chữ quốc ngữ, linh mục Alexandre de Rhodes đã loại bỏ bốn chữ cái gốc Latin nêu trên (tức bốn chữ F, J, W, Z – AC) để rồi phải dùng PH thay cho F, dùng GI thay cho J và dùng D để ghi cái âm đáng lẽ thuộc về Z; rồi lại phải chế ra chữ Đ để ghi cái âm vốn thuộc về D?”
Thực ra thì chính TS Quốc không hiểu chứ đâu phải “các nhà ngôn ngữ học vẫn không hiểu”. Trước nhất, và sai từ gốc, là TS Quốc không biết rằng A. de Rhodes không phải là người đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ. Vâng, không hề. Thứ đến, là về sự chế tác các chữ hoặc chữ kép PH, GI, D (thay cho Z) và Đ (để ghi cái âm vốn thuộc về D), ông cũng nói sai.
Về PH, chính A. de Rhodes đã viết như sau:
“F, hay đúng hơn là ph, bởi vì không đòi phải giề hai môi như của chúng ta, nhưng đúng hơn là, trong khi đọc hay phát âm, thì nhếch môi cách nhẹ nhàng với một chút hơi thở ra, vì thế trong từ điển chúng tôi không dùng chữ f, mà dùng chữ ph, bởi vì các sách đã chép từ lâu đều sử dụng như vậy.” (Từ điểnAnnam-Lusitan-Latinh, Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính phiên dịch (phần “Báo cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh”, tr.6), Nxb Khoa học xã hội, 1991).
Khi mà “các sách đã chép từ lâu đều sử dụng như vậy”, như chính A. de Rhodes đã thừa nhận, thì hiển nhiên chữ kép PH cũng đâu phải do ông ta đặt ra. Và sự chế tác này có lý do ngữ học thực tế và xác đáng của nó, như chính A. de Rhodes đã giải thích và như sau đó 344 năm, Nguyễn Tài Cẩn đã chứng minh và khẳng định:
“ Lên đến thế kỉ 17 ta chỉ thấy cách phát âm tắc bật hơi Ph. K.J. Gregerson đã nghiên cứu kĩ cuốn từ điển 1651 (tức cuốn của A. de Rhodes – AC), đối chiếu cách miêu tả của A. de Rhodes với các văn bản Quốc ngữ cổ, với các cách nói địa phương, và đã đi đến kết luận như vậy.” (Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (Sơ thảo), Nxb Giáo dục, 1995, tr.96).
Vậy cho đến thời của A. de Rhodes thì PH dùng dể ghi phụ âm tắc bật hơi chứ đâu có phải là một phụ âm xát  vô thanh mà TS Quốc đòi những người đặt ra chữ kép đó phải thay nó bằng F.
Về GI thì A. de Rhodes cho biết như sau khi nói về chữ G :
“G được sử dụng giống như chúng ta, thí dụ gallina (con gà mái); tuy nhiên cần ghi nhận điều này, khi viết ghe và ghi thì chúng tôi theo lối chính tả của Ý vì nó tiện lợi hơn cho ngôn ngữ này,cũng thế cả những tiếng giagiogiơgiu và giư đều phải phát âm theo kiểu Ý, vì như vậy, xem ra tiện lợi hơn. Vả lại trong các sách đã biên soạn thì thói quen đó đã thịnh hành (…)”. (Chỗ đd, tr.6-7).
Rõ ràng, như chính A. de Rhodes đã thừa nhận, cách ghi GI cũng chỉ là do chính ông ta đã làm theo những người đi trước và trong trường hợp này thì họ đã mượn cách ghi âm của chữ Ý là GI. Bảng chữ cái chính thức của tiếng Ý không có J nên đòi phải dùng chữ này thay cho GI là một điều không thực tế.
Về chữ D, mà TS Quốc cho là dùng để ghi cái âm đáng lẽ thuộc về Z, thì ý kiến của ông cũng sai nốt. Vào cái thời tương ứng với lúc (hoặc trước lúc) chế tác chữ quốc ngữ thì Nguyễn Tài Cẩn cho ta biết D có hai nguồn gốc : một là từ *t của tiếng Hán và hai là từ thanh mẫu dương (hay di) với âm trị là *j. (Sđd, tr.63). Dĩ nhiên là *t không thể ghi bằng Z đã đành mà cả *j cũng không thể ghi bằng Z. Đáng chú ý là hiện nay, trong Nam vẫn phát âm D thành [j].
Còn về mối quan hệ “anh em” giữa D và Đ thì Nguyễn Tài Cẩn đã chứng minh để khẳng định rằng xưa kia chúng vốn có cùng một nguồn gốc (Sđd, tr.63). Vậy cũng không có gì lạ nếu mấy ông cố đạo đã ghi hai cái âm cùng gốc bằng hai chữ cái cùng một “khuôn hình”.
Tóm lại, bài của TS Lê Vinh Quốc là một bài không có chất lượng về phương diện ngữ học; đặc biệt việc ông đưa ra “những trường hợp có vấn đề phát sinh” thì lại là những trường hợp tuyệt đối chẳng liên quan gì đến việc sử dụng “bảy chữ cái bị kỳ thị” về mặt ngôn ngữ.

Friday, 18 May 2012

Bản chất của loạn phiên âm hiện nay là gì?


Có vẻ như tình trạng phiên âm tên riêng (nhân danh và địa danh) trên sách báo hiện nay đã loạn đến mức các nhà ngôn ngữ học cảm thấy cần phải lên tiếng can thiệp. Có hai quan điểm chính:
-          Một là không nên phiên âm. Cụ thể hơn, có người đề nghị phải giữ nguyên ngữ nếu đó là ngôn ngữ dùng hệ chữ cái La Tinh; với các ngôn ngữ không dùng chữ La Tinh thi áp dụng biện pháp chuyển tự sang hệ chữ La Tinh.
-          Nếu phải phiên âm thì cần thống nhất cách phiên âm theo hướng khoa học và hiện đại hóa. Cụ thể hơn, phải có cơ quan có thẩm quyền đứng ra chủ trì công việc này, có sự bàn bạc dân chủ với các chuyên gia đầu ngành (tức là thường dân ngoại đạo xin tránh xa ra).

Cả hai quan điểm đều không có gì mới mẻ.
Người chủ trương quy tất cả về bộ chữ La Tinh thừa biết đó không thể là giải pháp hoàn hảo, chưa bao giờ được chính thức xem là một giải pháp khả dĩ và chắc chắn là sẽ không có cơ hội được chấp nhận trong hoàn cảnh hiện nay. Với các từ gốc Anh, Pháp dĩ nhiên không vấn đề gì, nhưng thế giới ta đang sống không chỉ có hai nước Anh và Pháp. Viên đại tá mới bị lật đổ cách đây không lâu bên Li-bi có tên được ghi bằng cả chục cách trên sách báo Anh, Pháp: Kadhafi, Gaddafi, Qaḏḏāfī, Qadhāfy... Biết chọn cách ghi nào đây? Đã chẳng giải quyết được loạn phiên âm trong nước, ông Việt nào có can đảm đứng ra làm công việc san định cách phiên âm, chuyển tự của các ông Tây?
Chuyện dựng lên một cơ quan có thẩm quyền chủ trì công việc phiên âm cũng lại là một ước mơ không tưởng khác, ngắc ngoải suốt mấy mươi năm qua cùng với huyền thoại về sự trong sáng của tiếng Việt, lâu lâu lại trỗi dậy để nhắc nhở rằng không có chính quyền ra tay là không xong. Nhà văn, nhà báo, thầy cô giáo, sinh viên, học sinh... hãy đợi các chuyên gia đầu ngành chọn ra cách phiên âm tốt nhất rồi nhà nước sẽ ra pháp lệnh cho quý vị sử dụng. Bóng ma của cung cách hoạch định chính sách ngôn ngữ học thời Xta-lin vẫn còn vất vưởng đâu đây. Hãi quá.

Loạn phiên âm về bản chất là nội loạn xã hội và chính trị. Không có một trung tâm quyền lực nào đủ mạnh để áp đặt quan điểm của mình lên toàn bộ xã hội. Nhưng cũng không nhóm lợi ích nào chịu nhượng bộ.
Người ta dễ đạt được đồng thuận với những từ ngữ kêu boong boong như thống nhất, khoa học, hiện đại, dân tộc, trong sáng, chuẩn hóa... Không thể nói khác. Nói khác là nó đập mình chết tươi. Nhưng hiểu khác thì không sao. Có anh hiểu hiện đại là sao chép nguyên ngữ, nhưng không tiện nói trắng ra là sao chép tiếng Anh. Mấy ông cốp cả đời gắn bó với Nga, với Tiệp... sẽ không vừa ý  Vì vậy anh chỉ nên nói là hệ chữ La Tinh cho nó lành. Bao giờ toàn xã hội đồng loạt quy phục Mỹ, tự khắc sẽ viết theo Mỹ cả, khỏi phải nói nhiều. Còn nếu chẳng may Trung Quốc nó sang, cũng khỏi phải nói tương lai sẽ ra sao.
Bây giờ các ông đầu ngành có ngồi lại với nhau cũng không thể giải quyết được việc gì vì các ông chỉ có thể đại diện cho một số nhóm lợi ích / quyền lực nào đó mà thôi, không thể nói thay cho các nhóm lợi ích khác. Có người đại diện cho ý muốn của đảng cầm quyền hoặc một phe nhóm nào đó trong đảng. Có người không thích Liên Xô / Mỹ / Trung Quốc/ bần cố nông / đại gia mới phất..... Có người từ trước đến nay chỉ quen tư duy theo kiểu chuẩn là tốt, lệch chuẩn là không tốt. Có người lại nghĩ rằng trừ khi dí súng vào đầu hay cắt sổ gạo, sổ dầu, không ai có thể bắt người ta nói/viết như mình muốn được. Triệu triệu tên người, tên đất chờ được các vị thống nhất xong cách phiên âm có lẽ đã trở thành lịch sử mất rồi, như tên ông Gà bên nước Li-bi là một bằng chứng.

Dẹp loạn phiên âm giống như gãi ngứa ngoài da. Làm cách nào cũng chỉ là trị bệnh ở ngọn, không đụng gì tới gốc. Xã hội càng ngày càng phân hóa sâu sắc, phân cực gay gắt: giàu/nghèo, sang/hèn, kẻ mạnh người yếu không thể có chung tiếng nói. Cần tìm ra thuốc chữa được căn bệnh đó trước đã.  

Wednesday, 16 May 2012

Kí ninh là từ gốc Pháp hay gốc Hán?


Đào Tiến Thi (2010) trong bài “Bàn tiếp về chuyện i ngắn y dài” cho rằng kí ninh là từ mượn âm Hán Việt nhưng gốc Ấn Âu. Từ quinine trong tiếng Pháp, tiếng Anh ứng với 奎寧tiếng Trung, âm Hán Việt là khuê ninh, không phải kí ninh. Không có văn bản nào cho thấy người Việt mượn âm kí ninh từ sách vở Trung Quốc.
Kí ninh xuất hiện trong tiếng Việt trước năm 1922:
 Nhà nước có lệ phát các thứ thuốc (như nước rửa mắt, tanh-tuya-ri-ốt, kí-ninh) không lấy tiền, Ấu-trĩ-viên dược viện theo lẽ ấy.
Nam Phong Tạp Chí số 61 (1922:4)
Theo ví dụ trên thì có vẻ như là  kí ninh được phiên âm từ tiếng Pháp cùng loạt với tanh-tuy-ri-ốt (teinture d’iode).
Ấy là khoa y-học Âu-tây ngày nay đã vào thời-kỳ phát-đạt lắm; biết bao nhiêu nhà bác-học đã chịu lao-tâm tổn-trí để nghiên-cứu mà bệnh phong cũng chưa thể trị được một cách hoàn-hảo, vì chưa tìm được thứ thuốc nào chuyên-trị công-hiệu như thuốc “ký-ninh” trị bệnh “sốt-rét”, thuốc “thủy-ngân” (水銀) và thuốc “thạch-tín” (石信) trị bệnh “dang-mai” vậy.
Nam Phong Tạp Chí số 80 (1924:107, Đỗ Uông)
Nếu ký-ninh được mượn từ tiếng Trung Quốc, có lẽ Đỗ Uông đã kèm chứ Hán bên cạnh như đã làm với các từ thủy ngânthạch tín.
Quinine có lúc được phiên âm khá sát là kí-nin:
 Người Mường ở đất Mường chưa hiểu phép vệ-sinh, ít khi dùng kí-nin mà nào có mấy khi kêu sốt-rét. Nam Phong Tạp Chí số 95 (1925:436, Nguyễn Văn-Ngọc)