Thursday, 7 June 2012

Không có “học” được không?


Tiếng Pháp có một số từ vừa chỉ sự vật vừa chỉ ngành học về sự vật đó, ví dụ như:
-morale tương đương với luân lý trong tiếng Việt, nhưng cũng có khi chỉ ngành luân lý học;
-éthique có thể được dịch là đạo đức và cũng có nghĩa là đạo đức học;
-algèbre là đại số học và cũng là đại số (như K-đại số, đại số xích ma, đại số Bun...);

-statistique vừa là việc thống kê, vừa chỉ ngành học về công việc đó (thống kê học);
-philosophie khi là triết lý, khi là triết học;
-psychologie là tâm lý và cũng là tâm lý học.
Có khi người Việt thấy cần phải thêm học để nói rõ đó là ngành khoa học chứ không phải đối tượng của ngành:
Một người nghiên cứu tâm lý học phụ nữ ắt phải rành tâm lý đàn bà.
Các K-đại số là đối tượng nghiên cứu của đại số học.
...
Tuy nhiên nếu không sợ gây ngộ nhận, người ta vẫn có thể bỏ học. Khoa triết chính là khoa triết học; chuyên ngành triết Tây là triết học phương Tây; không ai hiểu nhầm. Người sành tâm lý phụ nữ là người biết ý các bà muốn gì mà có thể chẳng cần học, chẳng cần thi gì hết; nhà nghiên cứu tâm lý phụ nữ nhất định phải qua một học trình nghiêm túc. Nói tóm lại, không có gì ngăn cản từ tâm lý của tiếng Việt cũng đa nghĩa như từ psychologie của tiếng Pháp. Có thêm tâm lý học là tốt mà không có thì nhiều lúc cũng chẳng sao. Trong nhiều trường hợp, bỏ học vừa ngắn gọn, nhẹ nhàng ((trong ngành toán, tô pôtô pô học là đồng nghĩa tuyệt đối)) lại vừa an toàn hơn, để thiên hạ muốn hiểu gì thì hiểu vẫn hơn là bắt người ta chỉ hiểu một cách (thử so đạo đức với đạo đức học chẳng hạn).

BÀN VỀ XUẤT XỨ VÀ Ý NGHĨA CỦA TỪ "VỌNG CỔ" - Trần Phước Thuận


TB

Vọng cổ là một tên gọi rất quen thuộc với người Việt Nam, nhất là ở Bạc Liêu, ai cũng biết nó là một bản nhạc phổ thông nhất và tiêu biểu nhất trong cổ nhạc Nam Bộ. Vọng cổ hiện nay còn là đề tài hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu âm nhạc và thực tế đã có nhiều sách vở, nhiều cuộc hội thảo khoa học đề cập đến. Tuy nhiên tên gọi Vọng cổ từ đâu mà có và ý nghĩa đích thực của nó là gì thì đến nay vẫn chưa có lời đáp thỏa đáng. Lý giải vấn đề này có 2 ý kiến tiêu biểu. Một là, ông Cao Kiến Thiết(1) cho rằng: “Theo ba tôi kể thì năm 1919 thầy Thống tức ông Trần Xuân Thơ(2) người miền Bắc, giỏi chữ Nho, ngụ tại An Trạch Đông, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu đã đề nghị ba tôi thay chữ Dạ cổ (tiếng trống đêm) thành Vọng cổ (tiếng trống vọng lại). Lý do là ba tôi lấy điển tích “Tô Huệ chức cẩm hồi văn” làm nội dung của bài ca và bản nhạc. Bởi lòng Tô Huệ khi chức Cẩm hồi văn thì nghe tiếng trống đánh từ xa vọng lại, chứ không phải là tiếng trống đêm, cho nên chữ Dạ cổ thì tối nghĩa còn chữ Vọng cổ thì càng làm rõ điển tích này đã chọn. Và trong cuộc họp đó ba tôi đã đồng ý đổi chữ Dạ cổ hoài lang thành Vọng cổ hoài lang, nghĩa là theo tiếng trống vọng lại mà nhớ chồng. Nhưng lúc đó bản Dạ cổ hoài lang đã được phổ biến rộng rãi ở nhiều nơi, nên phải mất thời gian khá lâu mới thống nhất được tên gọi “Vọng cổ”. Đây là lời phát biểu của ông Cao Kiến Thiết trong cuộc hội thảo khoa học về Cao Văn Lầu tổ chức tại Bạc Liêu năm 1989(3).
Hai là, nhạc sĩ Trần Tấn Hưng(4) nói rằng: “Chính soạn giả Trịnh Thiên Tư(5) trong buổi lễ giỗ tổ cổ nhạc ở Bạc Liêu năm 1935 đã đề nghị với ông Sáu Lầu và mọi người như sau: Bản nhạc gốc 20 câu của ông Sáu vẫn nên gọi là Dạ cổ hoài lang vì đó chính là cái tên gốc, cái tên lịch sử không nên sửa đổi. Hơn nữa nhớ chồng lúc ban đêm là điều thích hợp với người chinh phụ, lại hợp với nội dung bản nhạc của ông Sáu. Chúng ta không thể lấy ý nghĩa và hoàn cảnh của nàng Tô Huệ như thầy Thống đã nói lúc trước để sửa đổi cái tên Dạ cổ hoài lang, vì đây là hai tác phẩm khác nhau, cũng như không thể lấy Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân để sửa Truyện Kiều của Nguyễn Du được. Nhưng trong hoàn cảnh hiện nay bản Dạ cổ hoài lang đã được biến thể sang nhịp 8, vậy cũng nên dùng 2 chữ Vọng cổ để đặt tên cho các bản đã được canh tân này. Nhưng Vọng cổ do tôi đề nghị hôm nay cũng không theo nghĩa “tiếng trống vọng lại” mà lại mang ý nghĩa “trông về truyền thống xưa”, vì các bản nhịp 8 tuy chữ đàn đã khác xa bản gốc, nhưng vẫn từ Dạ cổ hoài lang mà ra, vì vậy “truyền thống xưa” ở đây chính là bản Dạ cổ hoài lang. Ý kiến của ông Trịnh Thiên Tư được ông Sáu cùng mọi người chấp thuận và hoan nghênh nhiệt liệt. Và cũng từ đó đến nay mọi người đều gọi bản nhạc gốc là Dạ cổ hoài lang và gọi chung các bản được canh tân là Vọng cổ”.
Như vậy, từ Vọng cổ được xuất hiện do lời đề nghị của hai ông Trần Xuân Thơ và Trịnh Thiên Tư, nhưng từ Vọng cổ được sử dụng là của ông Tư hay ông Thơ ? Muốn giải quyết vấn đề này ắt hẳn phải xác định cái nghĩa đang được sử dụng của nó, nói cách khác bản Vọng cổ ngày nay - cái tên của nó mang ý nghĩa gì ?
Như trên đã nói từ Vọng cổ (望 鼓) của ông Trần Xuân Thơ, thì có nghĩa là “tiếng trống vọng lại” ? còn từ Vọng cổ (望 古) của ông Trịnh Thiên Tư có nghĩa là “trông về xưa”. Như vậy về phần nghĩa của hai từ này không dính dáng với nhau nhưng phần âm lại đồng âm nên thường hay nhầm lẫn. Muốn xác định từ Vọng cổ mang ý nghĩa nào, tốt nhất là dùng tên gốc của nhạc bằng chữ Hán để chứng minh và dùng phương pháp so sánh để giải quyết vấn đề này?
Hiện nay có một bản rất phổ thông gọi là Tân cổ giao duyên (新 古 交 緣), bản được thành lập do phương pháp gối đầu Vọng cổ của soạn giả Mộng Vân và sau đó được nhiều soạn giả khác thực hiện bằng cách kết hợp giữa tân nhạc và bản Vọng cổ. Chúng tôi tạm mượn cái tên Tân cổ giao duyên này để làm cơ sở để truy tìm ra cái nghĩa đang được sử dụng của từ Vọng cổ. Tạm nêu ra hai trường hợp như sau:
1/ Nếu từ cổ ở đây có nghĩa là cái trống thì Tân cổ giao duyên (新 鼓 交 緣) sẽ được hiểu là “cái trống mới giao duyên”. Nghĩa là không phù hợp với kết cấu và nội dung của bản Tân cổ giao duyên. Nếu cố hiểu là “mới” và “cái trống” giao duyên với nhau lại càng không có ý nghĩa gì cả.
2/ Nếu từ cổ ở đây có nghĩa là xưa thì Tân cổ giao duyên (新 古 交 緣) theo nghĩa đen là “mới” và “cũ” giao duyên, nghĩa bóng muốn nói tân nhạc và cổ nhạc cùng hòa hợp, thật đúng với kết cấu và nội dung bản Tân cổ giao duyên.
Rõ ràng là trường hợp thứ nhất không hợp lý. Và như vậy, cổ ở đây được xác định là xưa thì Vọng cổ phải mang nghĩa “trông về xưa” hay “chiêm ngưỡng truyền thống xưa”, ý nghĩa này là do ông Trịnh Thiên Tư đề xuất.
Tóm lại: Từ Vọng cổ có xuất xứ tại Bạc Liêu và được sử dụng từ tháng 08 năm ất Hợi (1935) do lời đề nghị của soạn giả Trịnh Thiên Tư.
Căn cứ vào lời phát biểu của ông Tư và xét theo thực tế thì Dạ cổ hoài lang và Vọng cổ là hai bản khác nhau, nhưng Vọng cổ do Dạ cổ hoài lang mà có, vì vậy Vọng cổ phải mang ý nghĩa “trông về truyền thống xưa”.

T.P.T
CHÚ THÍCH
(1) Con trai lớn của ông Cao Văn Lầu.
(2) Thầy tuồng đoàn hát bộ của ông Ba Xú, một trong những đoàn hát đầu tiên ở Bạc Liêu.
(3) Từ Dạ cổ hoài lang, Nxb. Mũi Cà Mau, 1992, tr.84-85.
(4) Nhạc sĩ Năm Nhỏ (1921-1982), học trò nhỏ nhất của Nhạc Khị, cũng là người thừa kế thờ Tổ Cổ nhạc Bạc Liêu sau khi thầy qua đời.
(5) Tác giả sách Ca nhạc cổ điển - 1962, nhà ở xã Vĩnh Mỹ, huyện Vĩnh Lợi tỉnh Bạc Liêu, ông cũng là bạn đồng môn với nhạc sĩ Cao Văn Lầu.

Wednesday, 6 June 2012

Bà Aung San Suu Kyi có phải là khôi nguyên Nobel Hòa Bình không?


Khôi nguyên là từ thời xưa dùng để chỉ người đỗ đầu một kỳ thi (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:283; Đào Duy Anh, 2005:415-416; Nguyễn Kim Thản, 2005:853; Hoàng Phê, 2006:509). Bà Aung San Suu Kyi là người đoạt giải Nobel Hòa Bình nhưng vì bà không dự kỳ thì nào cả nên bà không phải là khôi nguyên.
Trước đây kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, người được giải thưởng La Mã (lauréat du Prix de Rome) cũng được gọi là khôi nguyên La Mã. Đó là vì giải thưởng La Mã là kết quả của một cuộc thi dành cho sinh viên các ngành nghệ thuật (giải này do vua Louis 14 lập ra ở Pháp năm 1663).
Trong tiếng Anh, người đoạt giải NobelNobel laureate. Tiếng Pháp là lauréat du Nobel. Có lẽ vì vậy mà người ta thấy không có vấn đề gì khi gọi người đoạt giải Nobel là khôi nguyên Nobel.
Đào Duy Anh (1950:929) dịch rất chính xác khôi nguyênpremier lauréat à un concours littéraire. Không ai gọi những người đoạt giải thưởng Hồ Chí Minh là khôi nguyên Hồ Chí Minh vì giải Hồ Chí Minh (cũng như giải Nobel) không phải là một cuộc thi. Người đẹp Võ Thị Mỹ Xuân không thể được gọi là khôi nguyên dù cô có thi và đã đoạt giải nhất, bởi vì cô thi sắc đẹp chứ không dự một kỳ thi có tính cách văn học. Nhưng mà nhiều người ... hay nói chữ, cho nên gọi bà Aung San Suu Kyi là khôi nguyên nghe vẫn sang hơn người đoạt giải.

Sách báo trong nước gần như không dùng từ khôi nguyên cho người được giải Nobel. Khôi nguyên Nobel mới xuất hiện gần đây trên một vài tờ báo (Dân Trí, Sức Khỏe & Đời Sống), có lẽ do biên tập không cẩn thận và/hoặc sao chép trang mạng của người Việt ở hải ngoại. 

Monday, 4 June 2012

Đố ai định nghĩa được... mại dâm.


Hội Khai Trí Tiến Đức (1931:332) định nghĩa  mại dâmbán cái dâmcái dâmsự say mê về sắc dục (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:148). Đào Duy Anh (2005:481) mô tả nghĩa của mại dâmcon gái đem thân-thể cho con trai chơi nhởn cho họ thỏa-mãn nhục-dục để kiếm tiền (se prostituer). Với Thanh Nghị (1967:875), đó là bán dâm, nghề đĩ điếmđĩgái chơi bời, gái rước khách đàn ông để lấy tiền” (Thanh Nghị, 1967:496); điếm cũng là đĩ (Thanh Nghị, 1967: 500). Với Lê Văn Đức (1970b:879), mại dâm, bán dâm và làm đĩ là một và đĩ là điếm, đàn bà làm nghề bán dâm cho khách làng chơi (Lê Văn Đức, 1970a:445). Nguyễn Kim Thản (2005:1014) định nghĩa mại dâmbán thân, làm đĩ. Đĩngười đàn bà làm nghề mại dâmđĩ điếmphụ nữ làm nghề mại dâm, nói chung (Nguyễn Kim Thản, 2005:555). Như vậy, các nhà làm từ điển tiếng Việt chỉ công nhận một hình thức hoạt động tính dục. Đó là quan hệ tính dục giữa nam và nữ (không kể các hoạt động giữa hai người đồng giới). Chỉ loại quan hệ tính dục nam nữ có thể mua bán được và người bán chỉ có thể là phụ nữ, tức là đàn ông không bán dâm.

Điều 3 của Pháp lệnh số 10/2003/PL-UBTVQH11 về phòng chống mại dâm do Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội thông qua ngày 17 tháng 2 năm 2003 giải thích từ ngữ như sau:
1. Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác.
2. Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu.
3. Mại dâm là hành vi mua dâm, bán dâm.


Pháp lệnh số 10/2003 gộp cả hai khái niệm muabán vào từ mại, vốn chỉ có nghĩa là bán.


Tiền thì khó có thể hiểu nhầm, nhưng lợi ích vật chất khác là gì thì bao la, bát ngát vô chừng. Chị bác sĩ ngủ với thủ trưởng ở trung tâm y tế đường bộ 2 có được lợi ích vật chất gì không? Nếu có, chị có thuộc diện chi phối của pháp lệnh không? Nữ hoàng nội y Ngọc Trinh Không đi làm, tôi vẫn sống dư dả vì có bạn trai lo thì để thoát khỏi phạm vi chi phối của pháp lệnh chỉ có một cách là không giao cấu với bạn ấy. Pháp lệnh không phân biệt giữa người nhận tiền hoặc lợi ích vật chất khác của bạn tình một đêm (như người mẫu Hồng Hà) hay tiền hoặc lợi ích vật chất khác của bạn tình thường xuyên.

Pháp lệnh số 10/2003 không giải thích thế nào là giao cấu. Nhưng theo từ điển tiếng Việt của Nguyễn Kim Thản (2005:671) thì giao cấugiao nhau giữa bộ phận sinh dục ngoài của giống đực và của giống cái (ở động vật). Định nghĩa này về căn bản không khác gì các định nghĩa đã lưu hành từ trước đến nay:
-Nói giống đực giống cái đi lại với nhau (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:216)
-Âm và dương giao hợp nhau = Trai gái làm tính giao với nhau (relations sexuelles) (Đào Duy Anh, 2005:298)
-Nói giống đực giống cái lấy nhau (Thanh Nghị, 1967:589)
Nhưng như vậy thì các hành vi tính dục phi giao cấu (cà phê ôm, bia ôm, hát ôm, thịt chó ôm, cà phê nhộng, cà phê chuồng, múa thoát y, sô hàng qua mạng...) giữa nam và nữ không chịu sự chi phối của pháp lệnh này. Giữa nam và nam, giữa nữ và nữ, đương nhiên cũng không, kể cả khi  cơ quan sinh dục của hai bên cùng cọ xát vào nhau. Và dù ai bán, ai mua đi nữa, nếu một bên dùng cơ quan sinh dục, bên kia dùng tay, miệng, hậu môn hay bất cứ bộ phận nào khác trên thân thể mà không phải cơ quan sinh dục thì đó nhất định không thể là giao cấu.

Sunday, 3 June 2012

Vật tổ và tô-tem (Năng Lượng Mới số 93 , 10-2-2012, An Chi)


  Bạn đọc : Xin ông cho biết vật tổ là gì và có khác với totem không. Trên Kiến Thức Ngày Nay Xuân Nhâm Thìn (2012), trong bài “Năm rồng nhắc chuyện Con Rồng Cháu Tiên” (tr. 30-32 & 110), tác giả Nguyễn Công Thuần đã viết tại cước chú số 4: “Vật tổ của Trung Quốc là Rồng, Hoa Kỳ là Chim Ưng, Anh là Sư Tử, Ấn Độ là Voi, Pháp là Gà Trống, còn Việt Nam là phức thể «Con Rồng cháu Tiên».” Xin cho biết có đúng như thế không.
                                                   (Tô Thạnh & Đặng Thị Tuyết Ánh, 6/1 Cách mạng Tháng Tám, Q.1, TPHCM)
        An Chi : Vật tổ là một khái niệm mà ta dịch từ tiếng Pháp hoặc tiếng Anh totem, có khi cũng phiên âm thành tô tem, có khi để nguyên (totem); còn Tàu thì phiên âm sang tiếng Hán thành đồ đằng 圖騰(âm Bắc Kinh là túténg). Xin chú ý rằng vật tổ ở đây là một danh ngữ đặt theo cú pháp tiếng Việt, trong đó vật là danh từ trung tâm và tổ là thành phần bổ nghĩa; còn trong tiếng Hán thì vật tổ 物祖 có nghĩa là tổ của muôn loài, trong đó vật là định ngữ và tổ mới là trung tâm (bị định ngữ).
Totem là một thuật ngữ mà tiếng Anh đã mượn từ một ngôn ngữ của người bản địa Châu Mỹ. Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia  do Nguyễn Kim Thản, Hồ Hải Thuỵ, Nguyễn Đức Dương biên soạn (Nxb Văn hoá Sài Gòn, 2005) giảng totem là “động vật, cây cỏ , đồ vật hoặc hiện tượng tự nhiên mà tộc người nguyên thuỷ coi là biểu tượng thiêng liêng của bộ tộc mình và tin rằng những thứ đó có mối liên hệ siêu tự nhiên, và có sự gần gũi máu thịt”. Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1967) cũng giảng tô tem là: “Động vật hay thực vât người nguyên thuỷ sùng bái, coi là tổ tiên của thị tộc: Tô tem của người Việt nguyên thuỷ là con cá sấu.” Trang mạng http://vi.oldict.com đã dùng từ tô-tem một cách chính xác khi khẳng định rằng “Tô-tem của người Việt nguyên thuỷ là con cá sấu.” Còn tác giả Nguyễn Công Thuần thì đã nhầm lẫn nên mới đánh đồng biểu tượng (thông thường) với totem, tức vật tổ. Những thứ mà ông Thuần đưa ra, từ Chim Ưng (Hoa Kỳ), Sư Tử (Anh), Voi (Ấn Độ), Gà Trống (Pháp) cho đến cái phức thể “Con Rồng cháu Tiên” đều không phải là vật tổ.
        Con gà trống, chẳng hạn, chỉ là biểu tượng quốc gia (symbole national) của nước Pháp chứ không phải vật tổ của người Pháp, nhưng cũng không chính thức như trường hợp Chim Ưng đối với Hoa Kỳ. Vả lại, người ta cũng không nói “con gà trống” mà phải nói đầy đủ là “con gà trống Gô-loa” (coq gaulois). Dĩ nhiên là trong một ngữ cảnh xác định thì người ta có thể tỉnh lược “Gô-loa”, chẳng hạn trong câu mà Allain Jules chửi Nicolas Sarkozy trên blog của mình: “Ôi, như thường lệ, hai chân vẫn đứng trên bãi phân của mình, con gà trống gáy như một tên tay sai của Washington.   ” (“Syrie – Bachar 1 Sarkozy 0 : Paris a-t-il un satellite à Damas ?”, allainjules.com, 29-12-2011).
Việc lấy con gà trống Gô-loa làm biểu tượng có bao hàm một sự chơi chữ ý nhị ở trong đó. Biểu tượng này cũng chỉ ra đời từ thời Trung đại rồi mới trở nên đắc dụng từ thời Phục Hưng, đặc biệt là vào thời Cách mạng Pháp 1789. Còn vật tổ thì …có tuổi thọ cao hơn nhiều. Tổ tiên của người Pháp là người Gô-loa (Gaulois). Người Gô-loa, tiếng La Tinh gọi là Gallus. Danh từ riêng  Gallus trong tiếng La Tinh lại có một từ đồng âm tuyệt đối là danh từ chung gallus, có nghĩa là gà trống. Thế là cái vỏ ngữ âm galluscủa tiếng La Tinh vừa biểu hiện khái niệm “người Gô-loa” lại vừa biểu hiện khái niệm “gà trống”. Vậy cứ theo ngôn ngữ này, người ta có thể chơi chữ bằng hình thức calembour (song quan) mà hiểu rằng: Người Gô-loa (Gallus) = con gà trống (gallus).
Đó là lý do tại sao người Pháp lại lấy con gà trống Gô-loa làm biểu tượng của dân tộc mình. Nếu ta biết rằng tiếng Pháp hiện đại là do tiếng La Tinh thông tục (latin populaire) mà ra thì ta cũng sẽ không lấy làm lạ tại sao người Pháp lại căn cứ vào tiếng La Tinh để chọn biểu tượng cho quốc gia, dân tộc của mình như thế.
Đến như cái con chim ưng mà lại bảo là vật tổ của dân Hoa Kỳ thì chẳng oan cho cả con dã cầm đó lẫn cái quốc gia này hay sao? Vật tổ là một khái niệm về xã hội và tâm linh từ thời đại thị tộc mà nếu tính từ ngày tuyên bố độc lập là 4-7-1776 thì Hợp Chúng Quốc Châu Mỹ cũng chỉ mới “hưởng dương” được 236 năm. Moi ở đâu ra vật tổ? Còn ngày nay thì nó là một melting-pot – mà ta có thể dịch đùa là “món hổ lốn” – với đủ các màu da và các nền văn hoá. Thế thì nó có lắm vật tổ chăng? Nói cho khách quan, nghĩa là cho hoàn toàn đúng với sự thật lịch sử, thì “vật tổ” của nó chỉ là bọn thực dân Tây Âu sang đó ăn cướp vàng bạc, của cải và dĩ nhiên là cả đất đai của người da đỏ để lập quốc.
        Còn “Con Rồng cháu Tiên” mà lại là vật tổ của Việt Nam ư? Thật là loạn ngôn mất rồi! Nếu quả thật có cái gì đó dính dáng đến khái niệm “vật tổ” trong cái thành ngữ bốn tiếng này thì đó chỉ là Rồng và Tiên mà thôi. Còn con Rồng cháu Tiên thì chính là chúng ta ngày nay đấy! Ông Nguyễn Công Thuần muốn biến tất cả chúng ta thành vật tổ thì chẳng phải là xấc xược lắm ru?

Friday, 1 June 2012

Vì sao báo chí không thích bị gọi là lá cải?


Không một tờ lá cải nào thích bị gọi là lá cải. Lá cải là kết quả dịch sao phỏng từ feuille de chou của tiếng Pháp, dùng để chỉ thứ báo chí nhảm nhí. Cải là thứ rau dễ trồng lấy lá, để làm thức ăn cho bình dân. Báo chí nhảm nhí, rẻ tiền bị xem là không đáng một cái lá cải.

KHẢO CỨU VỀ DANH XƯNG “CẦN HÚC” - Huỳnh Công Bá

4.Khảo cứu về danh xưng “CẦN HÚC” (TBHNH 2002)
Cập nhật lúc 23h23, ngày 03/04/2007

HUỲNH CÔNG BÁ

Trường Đại học Sư phạm Huế

      Sau khi được vua Lê cho vào trấn thủ Thuận Hóa và sau đó được giao kiêm quản cả Quảng Nam, năm 1602 chúa Tiên Nguyễn Hoàng thực hiện chuyến kinh lý đầu tiên thăm thú Quảng Nam, và kết quả của chuyến đi này là 2 năm sau, năm 1604, Chúa Tiên cho tách huyện Điện Bàn thời Lê trực thuộc dinh Thuận Hoá, nhập vào dinh Quảng Nam, thăng Điện Bàn lên làm phủ cùng với phủ Thăng Hoa và đặt dinh trấn của dinh Quảng Nam tại đây. Đó là sự kiện lịch sử mang ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp phát triển của đất Quảng, vì từ đây hai nửa Bắc Nam của Quảng Nam được hợp nhất thành một chỉnh thể địa hành chính tồn tại cho đến ngày nay.

      Song trong Đại Nam thực lục tiền biên, bộ sử biên niên của triều Nguyễn biên soạn về thời kỳ các chúa Nguyễn đã chép: cùng với sự kiện này, Chúa Tiên cho xây dựng dinh trấn Quảng Nam tại xã Cần Húc thuộc huyện Duy Xuyên (1). Nhưng địa danh “Cần Húc” ở đâu trên thực địa? Phải chăng là ở huyện Duy Xuyên hiện nay? Tại huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam xưa nay không hề có một làng xã nào mang tên Cần Húc cả. Đây cũng chính là câu hỏi đặt ra cho các sử gia trong và ngoài nước hơn một thế kỷ nay. Sách Đại Nam nhất thống chí triều Duy Tân viết: “Thời quốc sơ dựng dinh trấn Quảng Nam tại xã Cần Húc”, nhưng không cho biết Cần Húc ở đâu (2), vì các tác giả của nó không tìm được Cần Húc ở đâu trên thực địa. Sách Tiên nguyên loát yếu phổ, bản phổ hệ của dòng họ Nguyễn dưới thời các chúa, do Phụ chính đại thần Tôn Thất Hân biên soạn, ra đời vào năm 1920 cũng viết: “Người ta không biết đích xác về tên làng này và cũng không rõ thuộc tổng nào” (3). Mặc dù trước đó, hồi nửa sau thế kỷ XIX, trong sách Đại Nam nhất thống chí triều Tự Đức có nói: “Cần Húc nay là xã Văn Đông, huyện Diên Phước (nay là huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam – HCB), tiếp giáp xã Thanh Chiêm (nay là xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam – HCB)” (4). Nhưng tại đây, xưa nay không hề có một xã Cần Húc nào cả. Chính sách Ô châu cận lục, ra đời vào năm năm 1553, ngay trước ngày Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá, không thấy chép tên xã Cần Húc trong số 66 xã của huyện Điện Bàn lúc bấy giờ; mà như chúng tôi đã có lần chứng minh, huyện Điện Bàn thời Lê vào đến tận sông Hương An, tức gồm cả đất huyện Duy Xuyên và Quế Sơn hiện nay, trong đó có địa bàn của “xã Cần Húc” (5). Đến sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn biên soạn vào nửa sau thế kỷ XVIII cũng không thấy chép tên xã Cần Húc trong danh mục tổng xã của phủ Điện Bàn và phủ Thăng Hoa. Cả hai văn bản, viết vào hai thời điểm khác nhau đều không thấy chép tên xã Cần Húc. Vậy đây không thể là một sự trùng hợp ngẫu nhiên.

      Ở sách Phủ biên tạp lục, hai lần Lê Quý Đôn khi nói đến nơi đặt dinh trấn Quảng Nam đều có nhắc đến địa danh này, một là khi nói về lộ trình trên đất Quảng Nam và hai là khi nói về số quan thuộc các trấn dinh ở Thuận - Quảng, nhưng tại hai nơi chữ viết lại khác nhau và do đó ở các bản dịch đọc âm khác nhau. Ở đoạn thứ nhất văn bản viết 勤 旭 và Đào Duy Anh phiên âm là “Cần Húc” (6), còn Phạm Đình Khiêm phiên âm là “Cần Hốc” (7). Ở đoạn thứ hai văn bản lại viết 勘 殽 và Đào Duy Anh phiên âm là “Cần Hào” (6), trong khi Lê Xuân Giáo phiên âm là “Khám Hào” (8). Rõ ràng, trong sự ký âm Hán tự địa danh này có điều gì đó thiếu thống nhất, phải chăng là do người viết nắm không thật chắc về nó, hay nghe không rõ âm mà người địa phương đã gọi? Tình hình đó tiếp tục tồn tại cho đến năm 1958, khi ông Phạm Đình Khiêm quyết định tiến hành một cuộc nghiên cứu thực địa kỹ lưỡng tại hai huyện Điện Bàn và Duy Xuyên để tìm kiếm xã Cần Húc, nhưng kết quả ông cũng không tìm được một địa phương nào ở đây mang địa danh “Cần Húc” (7). Đến những năm 70, các ông Phan Khoang (9), Phan Du (10) và Vũ Lang (11), khi biên khảo các tác phẩm sử học và địa chí có liên quan đến Quảng Nam, cũng chỉ y theo thư tịch cổ cho dinh trấn Quảng Nam đầu tiên được lập tại xã Cần Húc thuộc huyện Duy Xuyên, và không chỉ ra Cần Húc ở đâu tại huyện Duy Xuyên. Năm 1992, Li Tana, một nhà nghiên cứu người nước ngoài, trong một bản đồ trình bày ở luận án Tiến sĩ “Xứ Đàng Trong Lịch sử kinh tế, xã hội Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII” đệ trình tại Đại học Quốc gia Australia, cũng đã chú thích dinh trấn Quảng Nam nằm ở phía nam sông Thu Bồn (12).

      Tại cuộc Hội thảo khoa học “Vai trò lịch sử của Dinh trấn Quảng Nam” tổ chức vừa qua (8/2002) tại thị xã Tam Kỳ (Quảng Nam), vì không tìm được địa điểm Cần Húc nên có người đã cho rằng Cần Húc và Thanh Chiêm chỉ “là một” mà thôi (13), hoặc “có lẽ sau khi dựng dinh trấn chúa thấy danh xưng Cần Húc không hợp nghĩa nên đã cải danh là Thanh Chiêm cho hợp với hoài bão của chúa” (14). Lại có ý kiến dựa trên chú dẫn của thư tịch cổ và chỉ dẫn lộ trình của Lê Quý Đôn tìm kiếm Cần Húc tại huyện Duy Xuyên và kết luận rằng “xã Cần Húc xưa chính là một phần của xã Mỹ Xuyên về sau, nay là địa phận của các thôn Tiệm Rượu, Xuyên Đông, Mỹ Hạt của thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên” (15). Cũng có người cho xã Cần Húc “có thể là địa bàn của làng Long Xuyên (xã Long Phước) thuộc thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên” (16). Lại có người dựa vào Đại Nam nhất thống chí đời Tự Đức, kết hợp với khảo sát thực địa, cho rằng “làng Cần Húc, với tên mới là làng Văn Đông”, “có thể là một địa danh gọi theo tiếng Champa”, vì “nằm về phía Đông so với dinh trấn Thanh Chiêm, nên người Việt gọi xã này là xã Vạn Đông và về sau được biến đổi thành Văn Đông” (17).

      Ngay từ năm 1994, trong bài viết “Điện Bàn phủ dưới thời Tiên Chúa Nguyễn Hoàng” đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 274, dựa trên kết quả nghiên cứu từ sách Việt Nam khai quốc chí truyện của Nguyễn Khoa Chiêm, chúng tôi đã khẳng định Cần Húc chỉ là “hành điện” của Nguyễn Hoàng, chứ chưa phải là dinh trấn Quảng Nam, nó là nhà làm tạm để Chúa Tiên nghỉ lại trong chuyến kinh lý Quảng Nam vào năm 1602 mà thôi. Còn dinh trấn Quảng Nam đầu tiên được Nguyễn Hoàng cho lập là vào năm 1604 và đó chính là dinh trấn Thanh Chiêm mà Đại Nam nhất thống chí có nhắc đến (4), và được ông Phạm Đình Khiêm khảo cứu, chỉ ra những dấu vết còn lại, nay thuộc xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (7).

      Trên cơ sở kết quả phân tích tư liệu thư tịch, khi đi khảo sát điền dã tại vùng hạ lưu Thu Bồn vào năm 1995, chúng tôi đặt giả thiết công tác rằng có khả năng “Cần Húc” là hai mã chữ Hán được dùng để ký âm một địa danh Nôm nào đó trên đường tuần du của Nguyễn Hoàng vào Quảng Nam và theo lộ trình đường thuỷ từ cửa Đại lên Câu Lâu. Dựa trên đặc điểm địa văn hoá của xứ Quảng và cả mảnh đất Trung Trung Bộ là xứ sở của “văn hoá cồn-bàu”, chúng tôi dự đoán có thể chữ “Cần” ở đây chính là ký âm không chuẩn về từ “Cồn” (danh từ dùng để chỉ một bãi cát hay một gò đất cao hơn so với xung quanh). Từ đó, trên đường thực địa, chúng tôi đã hỏi dân địa phương ở đây có “cồn ốc” (từ Cần Hốc) hay “cồn hàu” (từ Cần Hào) gì không? Và được trả lời là không có, nhưng họ cho biết ở đây có một cồn hến rộng, trải dài từ Phú Triêm lên đến Thanh Chiêm tiếp giáp với Văn Đông và trên đó có cả địa danh Bến Hến, có khả năng là nơi dừng thuyền của Tiên Chúa Nguyễn Hoàng khi đi kinh lý Quảng Nam năm 1602.

      Dựa vào những kết quả khảo cứu thư tịch và thực địa trên đây, tại cuộc Hội thảo khoa học ở Tam Kỳ, chúng tôi đã khẳng định rằng dinh trấn Quảng Nam không thành lập vào năm 1602 mà là năm 1604. Cần Húc không phải là dinh trấn đầu tiên của Quảng Nam, mà chỉ là hành điện được Nguyễn Hoàng cho dựng tạm để nghỉ lại khi đi kinh lý Quảng Nam vào năm 1602. Còn dinh trấn đầu tiên của Quảng Nam đã được xây dựng tại xã Thanh Chiêm vào năm 1604, nay thuộc xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Sở dĩ thư tịch cổ (như Đại Nam thực lục tiền biên, Phủ biên tạp lục, Đại Nam nhất thống chí...) đều chép Cần Húc thuộc huyện Duy Xuyên là vì vào năm 1604 cùng với việc sáp nhập huyện Điện Bàn vào Quảng Nam và nâng cấp huyện Điện Bàn lên làm phủ thì Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đã có việc cắt bớt đất của huyện Điện Bàn thời Lê đem sáp nhập vào phủ Thăng Hoa, và do đó Cần Húc vốn là đất của huyện Điện Bàn bây giờ hệ thuộc vào huyện Duy Xuyên phủ Thăng Hoa, và đến thời Gia Long, Cần Húc lại trở về với huyện Diên Khánh, phủ Điện Bàn, nay là huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Hành điện “Cần Húc” do Nguyễn Hoàng cho xây dựng vào năm 1602 có khả năng nằm trên Cồn Hến, là một cồn cát rộng ở giữa sông Chợ Củi, một nhánh phía bắc của Thu Bồn.

      Những vì chưa chỉ ra được địa điểm cụ thể nơi đặt “hành điện Cần Húc” của chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào năm 1602, nên ngay sau Hội thảo, chúng tôi đã trở lại khảo sát vùng Phú Triêm, Thanh Chiêm và Văn Đông. Tại đây, chúng tôi đã phát hiện thêm các địa danh Cồn “Dinh” và Cồn Xưởng nằm ở bờ nam sông Chợ Củi, trong đó địa danh “Cồn Dinh” được đặc biệt tìm hiểu kỹ lưỡng. Nhưng theo người dân ở đây, không hề nghe có một cái dinh nào ở phía nam sông Chợ Củi cả, mà chỉ có lăng Ông (cá ông) ở Văn Đông mà thôi.

      Sau nhiều nỗ lực tìm kiếm, cuối cùng, đến chiều ngày 29/8/2002, chúng tôi đã tìm được tên thực của địa danh “Cần Húc”, đó chính là “Cồn Úc” (do sự ký âm bằng chữ Hán không đúng chuẩn mà ra địa danh “Cần Húc”), nó nằm ngay ở phía trên Cồn Hến. Sở dĩ gọi là Cồn Úc vì thời xưa người dân xóm chài nơi đây đã đem cá úc phơi trên cồn. Cá úc là một loại cá nước ngọt, thân giống cá trê hoặc cá tràu, nhưng da có màu đen mốc giống cá chuồn. Tên gọi Cồn Úc ra đời từ đó, chứ không phải là địa danh có nguồn gốc Champa gì cả.

      Cồn Úc lúc đầu có diện tích khoảng 7 mẫu nổi lên ở vùng hạ lưu Thu Bồn, được tổ tiên các tộc họ của một nhóm dân chài nơi đây trưng làm nơi phơi lưới, về sau trở thành một xứ đất của xã Văn Đông, được dùng để trồng khoai và trồng dương. Tuy có lở và bồi, nhưng hiện nay xứ đất Cồn Úc vẫn còn nguyên vẹn cùng với nền đình Văn Đông, nhà ông Thầy Phú họ Lê và các cột mốc của làng tiếp giáp với các xã lân cận. Vậy đúng như sách Đại Nam nhất thống chí đời Tự Đức chép: “Cần Húc nay là xã Văn Đông huyện Diên Phước, tiếp giáp xã Thanh Chiêm” (4). Hiện nay, về đại thể, Cồn úc cách Thanh Chiêm bởi một nhánh sông Thu Bồn là sông Chợ Củi, nhưng do đất lở ở bờ bắc và bồi ở bờ nam nên có một bộ phận đất Thanh Chiêm nằm tiếp giáp ngay với đất Cồn úc ở phía bắc.

      Cư dân Văn Đông vốn lúc đầu làm nghề chài lưới, nhưng về sau chia thành hai bộ phận: một bộ phận sống bằng nông nghiệp và một bộ phận sống bằng nghề buôn cá (không làm chài lưới nữa). Bộ phận buôn bán cá sử dụng ghe bầu, ghe rồi và tập trung ở nơi vạn, là một bãi sông giáp giới giữa các làng Văn Đông, An Nhơn, Xuân Mỹ, Phú Triêm và Thanh Chiêm từ Bến Lội đi ra, gọi là Vạn Đông, được người dân địa phương giải thích có nghĩa là xóm vạn của làng Văn Đông. Vạn Đông trước sau chỉ là một xóm nhỏ, chưa bao giờ được gọi là làng cả. Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi thì giữa Vạn Đông và Văn Đông là hai địa danh hoàn toàn khác nhau, không phải là sự đổi tên từ làng Vạn Đông ra làng Văn Đông. Giữa chúng không đồng nhất với nhau về địa bàn đất đai. Vạn Đông nằm trong địa bàn Văn Đông và chỉ là một xóm nhỏ của Văn Đông. Nhưng giữa Văn Đông và Vạn Đông lại có quan hệ với nhau về tên gọi. Cư dân Văn Đông lúc đầu chỉ là một xóm vạn chài ở chỗ sau này gọi là Vạn Đông và tổ tiên của họ đã chiếm cứ vạt cồn đối diện ở phía nam (tức là Cồn Úc sau này) làm nơi phơi lưới và phơi cá, từ đó ra đời thêm xứ đất Cồn Úc, mà cho đến trước ngày Chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào đây, Cồn Úc vẫn chưa phải là một xã nên trong Ô châu cận lục không thấy chép tên và cả sau này trong Phủ biên tạp lục cũng không thấy có tên của nó với tư cách là một làng xã của Quảng Nam. Sau khi dinh trấn Quảng Nam được thành lập trên chỗ đất về sau gọi là xã Thanh Chiêm thì xóm vạn chài này mới có biệt danh là xóm Vạn Đông, vì nằm ở phía đông của dinh trấn, nhưng trước sau Vạn Đông vẫn không phải là tên làng. Về sau, có một bộ phận dân chài của xóm Vạn Đông lên sinh sống ở trên bộ, họ trồng khoai và làm nông nghiệp tại Cồn Úc, nhưng từ đó về sau Cồn Úc cũng vẫn không phải là tên xã. Tên xã hiện ra đời ở đây, ngay từ đầu, đã là Văn Đông. Và tên làng Văn Đông phải ra đời từ sau thế kỷ XVIII nên trong Phủ biên tạp lục ta không thấy ghi tên làng Văn Đông. Có khả năng là Văn Đông ra đời ở đầu triều Nguyễn, và không muộn hơn năm 1811 vì chúng tôi đã tìm được một văn bản vào năm Gia Long 10 đã thấy có tên xã Văn Đông. Cư trú ở làng Văn Đông gồm 5 tộc họ, trong đó những tộc họ lâu đời cũng chỉ khoảng 13 đời trở xuống, tức gần 3 thế kỷ rưỡi trở lại đây. Tuy không phải là sự đổi tên từ xã Vạn Đông ra xã Văn Đông, nhưng tên gọi Văn Đông vẫn có mang dấu ấn cư dân của địa danh Vạn Đông cũ.

      Chính tại Cồn Úc của làng Văn Đông, mà lúc bấy giờ chưa có tên là làng Văn Đông, chỉ mới là một cồn cát dùng để phơi lưới và phơi cá của một xóm vạn chài, vào năm 1602, chúa Tiên Nguyễn Hoàng cho dừng thuyền ngự tại đây để thăm thú mảnh đất Quảng Nam và cũng do đó tại đây đã ra đời một nhà làm tạm để Chúa nghỉ ngơi, tức “hành điện Cần Húc” (chính xác phải là hành điện Cồn Úc”). Vì là nhà tạm nên về sau người ta không tìm thấy dấu tích của chúng, “cả trong lòng đất (tư liệu khảo cổ học) lẫn trong lòng người (tư liệu folklore)”. Và cũng chính vì vậy mà chỉ sau 300 năm chúng đã “biệt tăm”, khiến các sử gia triều Nguyễn, sử gia thời Pháp thuộc và cả sử gia hiện đại về sau phải đặt dấu hỏi “tồn nghi”, phải tốn hao công sức và giấy mực nhưng vẫn không tìm ra Cồn Úc ở đâu cả.

      Tuy đã tìm được nguồn tư liệu thực địa và truyền ngôn về địa điểm và tên gọi thực của địa danh “Cồn Húc”, nhưng chúng tôi vẫn chưa thoả mãn và quyết tâm tìm thêm cho được nguồn tư liệu thư tịch. Sau mọt hồi kiếm tìm tại nhiều nơi ở Thanh Chiêm, Phú Triêm, Văn Đông, Cầu Mống, Hội An, Gò Sài... cuối cùng chúng tôi đã tìm được nguồn tư liệu đó. Trong một bản cổ chỉ của tộc Nguyễn và tộc Dương, chúng tôi đã tìm thấy địa danh “xứ Cồn Úc” 土群thuộc xã Văn Đông 文 東. Văn bản đề năm Tự Đức thứ 20. Ở một số văn bản khác thuộc các năm Gia Long, Tự Đức, chữ ‘Cồn Úc” còn được viết là 土群hoặc là 土群. Và chúng đều cho biết hệ thống hành chính lúc bấy giờ là: “Điện Bàn phủ, Diên Khánh huyện (sau là Diên Phước huyện), An Nhơn trung tổng, Văn Đông xã, Cồn Úc xứ”.

      Như vậy là cuộc hành trình truy tìm địa điểm, nguồn gốc và tên thực của địa danh “Cần Húc” suốt một thế kỷ nay đến đây đã kết thúc. Cần Húc chính là sự ký âm lệch chuẩn từ Cồn Úc mà ra và đây chỉ là nơi đặt hành điện của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào năm 1602, đó là một bãi bồi ở hạ lưu Thu Bồn, giữa sông Chợ Củi, thuộc địa phận làng Văn Đông về sau này, vốn là đất cũ của huyện Điện Bàn thời Lê, có một thời hệ thuộc vào sự quản lý của huyện Duy Xuyên, phủ Thăng Hoa từ sau năm 1604, về sau thuộc tổng An Nhơn trung, huyện Diên Khánh, phủ Điện Bàn, rồi tổng An Nhơn trung, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, và nay thuộc xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Cũng từ đây, công tác chú thích địa danh Cần Húc khi dịch thuật các thư tịch cổ về lịch sử và địa chí nước nhà có nói đến địa danh Cần Húc đã có đủ cơ sở khoa học để giải quyết. Trước mắt, trong công tác tái bản các bản dịch Đại Nam thực lục tiền biên, Phủ biên tạp lục Đại Nam nhất thống chí, chúng ta cần sửa chữa và bổ sung lại các chú thích nói trên.

Chú thích:

(1) Quốc Sử quán triều Nguyễn - Đại Nam thực lục (tiền biên) Bản dịch của Viện Sử học, Tập I, Nxb Sử học, Hà Nội, 1962, trang 42.

(2) Quốc Sử quán triều Nguyễn - Đại Nam nhất thống chí . Bản in đời Duy Tân, Nguyễn Tạo dịch. Nha Văn hoá - Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1964, Văn hoá tùng thư, Tập 21, tr. 58.

(3) Tôn Thất Hân – Tiên nguyên loát yếu phổ (Tiền biên). Bản dịch của Ưng Bình và Ưng Tôn. Nhà in Tiếng Dân, Huế, 1935.

(4) Quốc sử quán triều Nguyễn - Đại Nam nhất thống chí. Bản in đời Tự Đức. Bản dịch, Tập II, Nxb KHXH, Hà Nội, 1970, trang 325.

(5) Huỳnh Công Bá - Công cuộc khai khẩn và phát triển làng xã ở Bắc Quảng Nam từ giữa thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVIII. Luận án Tiến sĩ Sử học, Hà Nội, 1996.

(6) Lê Quý Đôn – Phủ biên tạp lục. Trong Lê Quý Đôn toàn tập, Tập I, Nxb KHXH, Hà Nội, 1977, trang 117, 145

(7) Phạm Đình Khiêm - Đi tìm địa điểm và di tích hai thành cổ Quảng Nam và Phú Yên đầu thế kỷ XVII. Việt Nam khảo cổ tập san, số 1, Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960

(8) Lê Quý Đôn – Phủ biên tạp lục. Bản dịch của Lê Xuân Giáo, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hoá xuất bản, Sài Gòn, 1972, trang 274

(9) Phan Khoang – Việt sử: Xứ Đàng Trong (1558-1777). Nxb Khai Trí, Sài Gòn, 1970

(10) Phan Du – Quảng Nam qua các thời đại. Quyển thượng, Cổ học tùng thư xuất bản, Đà Nẵng, 1974

(11) Vũ Lang - Đây Quảng Nam. Thời mới xuất bản, Đà Nẵng, 1973

(12) Li Tana – Xứ Đàng Trong Lịch sử kinh tế, xã hội Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII. Bản dịch của Nguyễn Nghị, Nxb Trẻ, Sài Gòn, 1999, trang 13

(13) Nguyễn Q. Thắng – Lị sở dinh Thanh Chiêm – Quảng Nam

(14) Nguyễn Thiếu Dũng – Thanh Chiêm: Trấn sở dinh Quảng Nam

(15) Ngô Văn Minh – Thương xác về nơi đặt lị sở dinh Quảng Nam 400 năm trước

(16) Lê Duy Anh – Dinh trấn Quảng Nam – Lịch sử và vai trò phát triển xứ Đàng Trong

(17) Nguyễn Phước Tương – Dinh trấn Thanh Chiêm, vị thế ở Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn

Thông báo Hán Nôm học 2002, tr.35-45