Wednesday, 18 July 2012

Ý nghĩa Quốc hiệu Lạc Việt (Vũ Thế Ngọc)

Ý nghĩa Quốc hiệu Lạc Việt
* G.S. VŨ THẾ NGỌC

(Trích Đặc San Đền Hùng - Xuân Kỷ Tỵ 1989 - San Jose)
 Với các tài liệu Cổ Nhân học, Nhân Chủng học và Khảo Cổ học được phát hiện trong hai thập niên qua, thêm vào những nghiên cứu của các ngành khoa học khác từ Dân Tộc học, Ngôn Ngữ học cho đến các ngành Kim Loại học, Địa Chất học ... ngày nay người ta đã có thể mang thời đại Hùng Vương vào chính sử. Thành ra phạm vi của bài viết này chỉ hết sức khiêm nhượng như là một chú thích nhỏ của một luận văn lịch sử về thời dựng nước đầu tiên của Việt tộc.
Bài viết cũng không có những phát kiến nào mới lạ hơn là bổ xung và tổng kết những đề nghị, luận cứ của các học giả đi trước. Tuy nhiên nó cũng có một hy vọng là để chấm dứt những bài "sưu khảo" chỉ lập lại những ý kiến của Maspero, Lê Dư, Lê Chí Thiệp ... cách đây hơn nửa thế kỷ, hoặc tệ hơn nữa là các bài viết ca tụng mơ hồ cái gọi là "chim lạc".
 Từ Ngữ Hán Việt: Hầm Bẫy Các Học Giả
Một thời báo chí Sài Gòn đã chế diễu một ngài tổng bộ trưởng của Việt Nam Cộng Hòa khi ông ta nhầm Nhật Nhĩ Man (chữ Hán cũ phiên âm để chỉ nước Đức: Germany, German) là nước Nhật (Japan). Nhưng nhiều người không biết là chính "trò chơi" tương tự đã là hầm bẫy biết bao học giả Việt Nam và ngoại quốc trong vấn đề nghiên cứu lịch sử, văn hóa Việt Nam. Bởi vì lý do duy nhất là tất cả tài liệu lịch sử của chúng ta đều viết bằng Hán văn, và một số không nhỏ các danh từ về nhân, vật, địa danh, danh xưng ... chỉ là chữ "ký âm" mà các vị không biết, chỉ chạy theo nghĩa tự Hán Việt.
 "Lạc" Theo Nghĩa Tự Hán Việt
Trở lại với các tài liệu viết về cổ sử Việt Nam, ta thử tìm hiểu khi viết về Lạc Việt, lạc điền, lạc hầu, lạc tướng ... người ta viết chữ "Lạc" như thế nào và với ý nghĩa gì.
Đầu tiên, Hán Thư (khoảng thế kỷ thứ nhất) dùng chữ  Lạc (mã + các), sẽ gọi là "Lạc bộ Mã", để viết chữ Lạc Việt. Thủy Kinh Chú của Lịch Đại Nguyên (đầu thế kỷ 6) là tài liệu cổ nhất có viết nhiều về sử Việt, có dẫn sách Giao Châu Ngoại Vực Ký (sách viết vào thế kỷ thứ tư, đã mất), thì viết là  Lạc (các + chuy), sẽ gọi là "Lạc bộ Chuy".
Đặc biệt chỉ riêng có các sử gia Việt Nam là viết chữ  Lạc (trãi + các), sẽ gọi là "Lạc bộ Trãi", như trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên đời nhà Lê (thế kỷ 15) (1)
"Lạc bộ Mã", sách Tống Bản Quảng Vận đời nhà Tống cho nghĩa là "Ngựa trắng, bờm đen" (2), sách nghiên cứu về Ngữ Nguyên học của Bernhard Karlgren cũng cho nghĩa "Ngựa trắng, bờm đen" (3), Karlgren với L. Wieger còn cho một nghĩa khác là con lạc đà (4).
"Lạc bộ Chuy", sách Quảng Vận chú nghĩa là chim Kỵ Kỳ. Chim Kỵ Kỳ (5) thì theo tự điển Từ Hải chính là chim cú mèo (otus sunia japonicus) (6), sách của Karlgren cũng chú nghĩa là một loại chim (7) cũng như sách của Wieger (8).
Riêng về chữ "Lạc bộ Trãi", chỉ riêng có sử gia Việt là dùng. Chữ này phải đọc là Mạch (âm Quan Thoại là Mỏ) chỉ một dân tộc (rợ) phương Bắc Trung Quốc, hoặc là Hạc (âm Quan Thoại là Hao) nghĩa là một loài chồn, badger, da dùng làm áo. Chúng ta sẽ hiểu tại sao chỉ có sử gia Việt dùng chữ này ở đoạn sau.
Với tất cả những nghĩa đó, ta thấy ngay không có nghĩa nào để chỉ dân tộc Lạc Việt, Lạc điền, Lạc tướng cho xuôi. Vì không thể nào người ta lấy tên chim cú mèo, vốn được coi như loài chim quái gở, (vì thế sau này người ta còn thay chữ "Lạc bộ Chuy" là cú mèo, thành "Lạc bộ Mã" trong các nhân danh, địa danh Trung Quốc). Trong tiếng việt còn có các thành ngữ xấu như: Mắt cú vọ, cú dòm nhà bệnh, cú kêu ra ma, cú đói ăn con v.v.... Nếu nói là vật tổ, thì từ trống đồng đến thần thoại chẳng thấy có nhắc gì đến cú mèo cả.
Về nghĩa "Ngựa trắng bờm đen" thì cũng tương tự, hơn thế nữa, bọn trí thức phong kiến Trung Quốc, với đầu óc hẹp hòi, tự tôn và thực dân đã luôn luôn dùng những chữ bộ khuyển (chó) để chỉ những dân tộc láng giềng (Duẫn, Qua, Dao, Lào, Đồng). Chính vì không thích chữ "chó ngựa" như vậy, các sử gia Việt mới dùng chữ "Lạc bộ Trãi" để thay thế (9). Vì vậy tại sao ta thấy chỉ có sử gia Việt Nam mới dùng chữ "Lạc bộ Trãi", và cố tình "phiên thiết" sai như vậy, để chỉ rõ đây chỉ là chữ ký âm.
 "Lạc" Là Từ Tố Tiếng Việt
Một hai học giả đã thấy được sự bất ổn khi truy nghĩa tự Lạc theo Hán văn. Người đi xa nhất là Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc trong bài "Thử Tìm Nguồn Gốc Ngữ Nghĩa của Từ Tố "Lạc" (10).
Như đã dẫn, sách Thủy Kinh Chú dẫn lại sách Giao Châu Ngoại Vực Ký là sách cổ nhất viết về sử nước ta viết như sau:
"Thời xưa khi Giao Chỉ chưa có quận huyện, thì đất đai có Lạc Điền, ruộng ấy là ruộng (cầy cấy) theo con nước thủy triềụ Dân khai khẩn ruộng ấy mà ăn nên gọi là Lạc Dân. Có Lạc Vương, Lạc Hầu làm chủ các quận huyện. Ở huyện phần đông có Lạc Tướng. Lạc Tướng có ấn bằng đồng, (đeo) giải (vải mầu) xanh. Về sau con vua Thục đem ba vạn lính đánh Lạc Vương Lạc Hầu, thu phục các Lạc Tướng. Con vua Thục nhân đó xưng là An Dương Vương" (11)
Khi thấy tất cả nghĩa Hán Việt của từ Lạc đều không thỏa mãn ý của chữ Lạc trong đoạn văn trên, thì người ta đồng ý ngay là từ "Lạc" phải là từ tố tiếng Việt. Vậy tiếng cổ "Lạc" có nghĩa là gì?
Nguyễn Kim Thản đã rất sáng mà đặt giả thuyết đó là chữ có nghĩa "nước". Tuy nhiên về chứng cớ, ông chỉ tìm được có một từ là "rạc" trong nước rạc (nước ròng), cạn rặc (cạn hết) (12). (Cũng nên biết chữ Rạc (nôm) dùng chữ Hán là "Lạc bộ Thủy" để ký âm). Thành ra phần phê bình của ông thì hợp lý, nhưng ông chưa chứng minh được giả thuyết mà ông vừa "thấy" được. Phần sau đây chúng tôi xin trình bầy để minh chứng rõ ràng "Lạc" đúng là "Nước".
 "Lạc" là "Nước"
Ta hãy nhìn vào bảng tiếng chỉ "nước của các dân tộc được coi là đồng chủng (?) sau đây:
BẢNG 1: Việt (hiện dùng): Nước - Mạ: Đa - Churu: Đạ - Koho: Đa - Nup: Đa - Muong: Đa - Bana: Đák - Sơ Đăng: Đák - Cua: Đaák - Xi Tiêng: Đaác - Mường: Rác - Việt (tiếng địa phương bắc Trung Bộ): Nác
(Nên nhớ vùng "tiếng địa phương bắc Trung Bộ" vẫn được các nhà ngữ học coi là nơi duy nhất còn giữ được nhiều tiếng cổ Việt)
Như vậy ta thấy rõ rệt Nác, hay Đák chính là cổ âm của từ "Nước".
Nay chỉ còn mấu chốt giải thích từ âm tự "Nác" biến thành "Nước". Chúng ta sẽ chứng minh có sự biến đổ từ âm "A" thành "Ươ" như Nguyễn Kim Thản đề nghị (13), ta có thể theo dõi các bảng so sánh sau đây:
BẢNG 2:
a) So sánh tiếng địa phương bắc Trung Bộ (cổ hơn) với tiếng địa phương Bắc Bộ: Nác - Nước, Náng - Nướng
b) Tiếng Mường (được xem là gần với cổ Việt) so với tiếng Việt hiện đại: Rác - Nước, Lái - Lưới
Đặc biệt là tiếng Việt hiện nay ta còn thấy rất nhiều tiếng tương đương đang được dùng lẫn cho nhau:
BẢNG 3:
Bang / Bương (Bương ra)
Chàng / Chường (anh chường)
Đàng / Đường (đường đi)
Đang / Đương (đương cai)
Nàng / Nường (nõn nường)
Nhạt / Nhược (nhường nhược)
Nập / Nượp ( đi nượp nượp)
Rám / Rướm (rướm nắng)
Rán / Rướn (rướn cổ)
Tan / Tương (rách tương)
Đặc biệt hơn nữa là những từ Hán Việt âm "A" cũng thường được "nôm hóa" bằng "Ươ"
BẢNG 4:
Khang / Khương (an khương)
Lạng / Lượng (một lượng)
Lang / Lương (lương đống)
Phang / Phương (phương hướng)
Phan / Phướn (cây phướn)
Phạt / Phược (thọ phược)
Thang / Thương (vua Thương)
Không những các âm "A" biến đổi với âm "Ươ" như trên, mà phụ âm L/N/R còn cũng có thể thay đổi lẫn nhaụ Thí dụ xem bảng 5. Nên nhớ R, Đ, N, L đều là âm Răng Nướu (Dental Alveolar) chỉ khác nhau ở độ cong lưỡi.
BẢNG 5:
Nác - Lạc - Rác
Năm - Lăm (mười) - Rằm (mười)
Nơi - Lơi - Rơi
Nép - Lép - Rẹp
Nung - Lung (lay) - Rung
Nỉ (non) - Lí (nhí) - Rỉ (rê)
Nêu - Lêu (...!) - Rêu
Ắt chúng ta còn biết một số lớn người không phát được âm L (ông Nái Nợn ...) Đặc biệt là tất cả dân Việt vùng biển Bắc Bộ đều phát âm L thành N.
Theo luật Ngữ học thì âm nào càng dễ đọc và được đại đa số người ta phát âm được thì càng cổ hơn. (Đó cũng là trường hợp đại đa số dân Việt Bắc Bộ không phát được âm TR (vì âm đó không có trong Việt Ngữ, là sự ký âm sai của các giáo sĩ ngoại quốc). Như vậy âm "N" chắc chắng phải có trước âm L.
Tuy nhiên cũng cần nên biết về Ngữ Âm học lịch sử từ nguyên học (Etymology) thì người ta chỉ chú trọng đến từ căn (root) còn các phụ âm đầu (prefix), phụ âm cuối (suffix) thì rất biến đổi theo thời gian và không gian. Cũng như chỉ chú ý đến Âm Tố (Phoneme) chứ không chú ý đến các ký hiệu ký âm.
Nhưng còn chữ Lạc nếu chỉ là ký âm thì người Trung Quốc đọc như thế nào ? Điều quan trọng là phải biết họ phát âm ở thời cổ như thế nào?
Thật may mắn, công trình nghiên cứu về cổ âm Hán đã được nhà Trung Hoa học nổi tiếng Karlgren nghiên cứu. Tra từ điển của ông ta thấy cổ âm hán đọc cả ba chữ Lạc (bộ mã, bộ chuy, bộ thủy) đều được đọc là "Lak" (14). (Ngày nay người Bắc kinh đọc là Lo). Khi nghiên cứu các bản văn Phạn ngữ ký âm bằng Hán tự, phát hiện được ở động Đôn Hoàng, chúng tôi đã kiểm chứng lại sự chính xác của Karlgren (15).
Thành ra chữ Lạc Điền chỉ là Ruộng Nước, chữ Lạc là chữ ký âm chẳng khác nào chữ Dã Thụ là cây Dừa (Dà là chữ ký âm của Dừa), Ba La Mật Thụ là cây B'La Mít (cây mít), Phù là Bìu (trầu) v.v...
Nhưng ruộng nước là ruộng gì? Có gì đặc biệt ở đó? Phải nên biết Hán tộc bắc phương, đất tổ là phía bắc Hoàng Hà chỉ biết trồng lúa mì (ruộng khô). Phương nam mới là nơi trưởng sinh ra phương pháp trồng lúa gạo (ruộng nước).
Muốn trồng được lúa gạo, con người phải đạt được trình độ văn minh cao hơn hết thẩy so với các hoạt động kinh tế nông nghiệp khác, vì họ phải biết tính toán được chu kỳ thiên văn, điều thủy .... bên cạnh các kỹ thuật như làm ra được lưỡi cầy và thuần phục được trâu (15b) (là giống vật duy nhất để cấy được ruộng nước, vốn là một con thú hoang dữ tợn và to lớn) v.v....
Vì vậy dân tộc đầu tiên làm chủ được ruộng nước, ắt phải kiêu hãnh lắm (so với tình trạng thời đó, thì còn hơn là các nước Âu châu trong thời gian "cách mạng kinh tế" của thế kỷ 19 nhiều). Thế mà dân Lạc Việt lại là dân tộc đầu tiên trên thế giới biết đến nó, cuộc khai quật của Wilheim G. Solheim, thuộc đại học Hawaii lại cho thấy sau khi thử phóng xa C-14, mẫu lúa của người Hòa Bình, cho niên đại là khoảng 3500 trước Tây Lịch, sớm hơn ở Ấn Độ và Trung Quốc khoảng 1000 năm, nơi mà người ta vẫn cho là quê hương của loại lúa trồng này (16). Solheim còn tin là nếu tiếp tục tìm kiếm người ta có thể tìm được mẫu lúa, chứng tỏ là người Lạc Việt đã biết trồng lúa hơn bốn ngàn năm trước Tây lịch (17). Cũng nên nhắc ở đây là qua các cuộc đào tìm này người ta đã minh chứng một số chứng liệu cụ thể khác như nền văn hóa Hòa Bình biết đến kim loại sớm nhất thế giới, biết làm đồ gốm sớm nhất thế giới .... (18). Nhà địa chất học Hoa Kỳ Carl Sauer từ năm 1952 cũng đã đặt giả thuyết chính người Hòa Bình biết đến nông nghiệp sớm hơn hết, giả thuyết này cho đến năm 1966 thì được các giáo sư của các đại học Otago (Tân Tây Lan), Hawaii (Hoa Kỳ) chứng minh bằng các mẫu đậu với niên đại cho bởi phóng xạ C-14 là 10 ngàn năm trước Tây lịch (19). Cuối cùng Solheim đặt giả thuyết nền văn hóa Hòa Bình, ở Bắc Việt Nam có thể đã là gốc mẹ của nền văn hóa Lưỡng Thiều Trung Quốc (nơi phát tích ra văn hóa Trung Quốc) (20).
Trở lại với từ tố "Lạc", như vậy chúng ta đã đi qua được các chặng đường:
1.Minh chứng "Lạc" là Nước, cổ âm của tiếng Việt và cổ Hán cũng trùng hợp như vậy (21).
 2.Dân Lạc Việt bản địa là chủ nhân đầu tiên trên thế giới biết về nghề làm "ruộng nước" (lúa gạo) và rất hãnh diện khi nhận mình là "Lạc dân" (không thể hiểu là "người nước" (22) như Nguyễn Kim Thản viết, mà nên hiểu là "người có ruộng nước", "người làm chủ ruộng lúa", "người biết làm nghề nông", giống như là "Engineer, Actor, Artist, Administrator ... Mặc dù không ai phủ nhận là nền văn hóa của chúng ta cho đến hiện nay vẫn đặt cơ sở trên nền kinh tế thuộc về "nước" (nói theo kiểu Hydraulic Society), yếu tố "sông nước" không thể tách rời khỏi văn hóa Việt: Long Quân ... theo cha xuống biển ... người trong một nước .... như tác giả đã viết). Vậy thì để trả lời câu hỏi là Hùng Vương hay Lạc Vương của các cụ đặt ra từ trước 1945, ta trả lời thế nào?
 KẾT LUẬN:
Lạc Vương là Hùng Vương.
Không có vấn đề viết nhầm.
Kết luận ta có thể thoải mái mà hiểu rằng từ Lạc trong Lạc Việt, Lạc Điền, Lạc Tướng ... dù viết theo "Lạc bộ Chuy", "Lạc bộ Mã" hay "Lạc bộ Trãi", đều chỉ là chữ ký âm, và ngày nay với chữ quốc ngữ, vô tình vấn đề đã được giải quyết: chúng ta chỉ còn một chữ Lạc.
Để tìm hiểu Lạc có nghĩa là gì hy vọng bài này đã giải quyết được câu hỏi đó. Nhưng trở lại câu hỏi, vậy thì là Hùng Vương hay Lạc Vương? Chúng tôi đề nghị lời giải đáp như sau:
Trước hết về thư tịch, sách cổ hơn hết là Giao Châu Ngoại Vực Ký (thế kỷ thứ 4) do sách Thủy Kinh Chú (thế kỷ thứ 6) dẫn lại (xem phần trên) thì đều viết là Lạc (Lạc Vương, Lạc Điền, Lạc Tướng ... ) Trái lại sách Nam Việt Chí (thế kỷ thứ 5) do sách Sơ Học Ký (thế kỷ thứ 7) dẫn lại thì đều viết là Hùng (Hùng Vương, Hùng Điền ....)
Riêng sách sử chúng ta viết về sau, nhưng đặc biệt là tất cả đều viết là Lạc (xem phần trên), trừ danh từ duy nhất là Hùng Vương, thì viết chữ  Hùng (xem các sách Lĩnh Nam Chích Quái, Việt Điện U Linh, Việt Sử Lược, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, v.v....)
Sử gia Ngô Sĩ Liên còn cho biết: (trước là) Lạc Tướng sau lầm ra Hùng Tướng (Lạc Tướng hậu ngọa vi Hùng Tướng) (23)
Trước đệ nhị thế chiến H. Maspero đọc Hán Thư cho thấy trước thế kỷ thứ 5 sách Trung Quốc chỉ dùng từ ngữ Lạc Vương và từ ngữ Hùng Vương chỉ thấy xuất hiện từ sau Nam Việt Chí (thế kỷ thứ 5) nên chủ trương chỉ có Lạc Vương, sở dĩ có từ Hùng Vương vì viết nhầm chữ Lạc (các + chuy) thành chữ Hùng (quang + chuy). Đó có lẽ cũng là lý của Ngô Sĩ Liên (24).
Lê Dư và hầu hết các học giả Việt Nam sau này, đều chủ trương Hùng Vương bởi các lẽ:
1. Lạc Vương là chữ do người Trung Quốc dùng để ghi tên Vua nước Lạc, chữ Hùng Vương mới là tên hiệu của tổ nước Việt.
2. Chữ Lạc trong từ Lạc Việt viết với bộ trãi, và bộ mã thì không thể lầm với chữ Hùng được.
3. Tất cả trong dã sử, truyền thuyết Việt ... qua đến các di tích lịch sử đều viết hoặc mang danh hiệu Hùng Vương (xem các truyện Nhất Dạ Trạch, Đổng Thiên Vương, Lý Ông Trọng ... các địa danh Đền Hùng, Núi Hùng ....)
Cuộc tranh luận cho đến nay chưa xong ... cho đến hôm nay.
Chúng tôi mới được một giáo sư đồng nghiệp giới thiệu cho biết cuốn sách mang tên là Thuyết Văn Thông Huấn Định Thanh của Chu Tuấn Thanh thì cho thấy chữ Lạc bộ Chuy có thể được thay thế bằng chữ  Hùng (quang + chuy): chứng cớ tên Lạc Đào nhân vật trong sách Hán Thư, phần cổ kim nhân biểu (Lạc Đào là bạn vua Thuấn) đã được Thi Hiệu (mưu sĩ của tể tướng đời Tần là Thương Ưởng), tác giả Thi Tử Thập Nhị Thiên đổi tên là Hùng Đào.
Tóm lại, chúng tôi đã trình bày ý nghĩa của từ Lạc chỉ có nghĩa là Nước. Vì nhu cầu ghi chú, sử sách cả ta lẫn Trung Quốc bắt buộc phải dùng Hán tự để ghi chép. Riêng người Việt chúng ta thích dùng chữ Lạc bộ Trãi vì ghét nghĩa đen của hai chữ Lạc kia: (Ngựa trắng bờm đen, cú vọ). Việc này chỉ xẩy ra khi ta tiếp xúc với Hán tộc và biết dùng Hán tự.
Tuy nhiên theo nghĩa đen thì cả chữ Lạc đều chẳng tốt đẹp gì. Còn chữ Hùng thì thật là tốt đẹp hơn (đực, trống, mạnh) như trong các từ anh hùng, hùng tráng, hùng hồn, hùng dũng .... Vậy thì khi biết được Hán tự, có thể chẳng cần biết đến chữ nọ thay được chữ kia, dân Lạc Việt cũng đã tự động tôn xưng vị lãnh đạo là Hùng Vương rồi. Thế mà tiền lệ Hùng Đạo đã có từ ba trăm năm trước tây lịch, thì đương nhiên dân Lạc Việt phải gọi vị quốc tổ mình là Hùng Vương thì càng đúng. Cho nên mãi đến sau này mọi truyện thần thoại hay địa danh dân đều kính trọng mà gọi là Hùng Vương, hội đền Hùng v.v.... Tóm lại, Hùng là chữ khác của chữ Lạc, là danh từ Lạc dân tôn xưng Vua của mình, không thể có chuyện viết lầm như H. Maspero hay Ngô Sĩ Liên đã viết.
Riêng về các từ khác, Lạc điền, Lạc tướng, Lạc hầu .... thì hoặc vì tôn trọng vị lãnh tụ nên ông Lạc hầu chẳng dám nhận người ta gọi mình là Hùng hầu, hoặc vì Hùng điền thì đi quá xa nghĩa nguyên thủy là ruộng nước ... nên dân Việt vẫn tiếp tục dùng Lạc điền, Lạc hầu .... Cho nên đến tận ngày nay chúng ta vẫn chỉ dùng chữ Hùng Vương, còn tất cả đều là Lạc hết: Lạc hầu, Lạc tướng, ruộng lạc ....
Riêng về quyển sách Nam Việt Chí của Thẩm Hoài Viễn, thì ngày nay không còn, đâu đó chỉ là những đoạn được chép lại trong Sơ Học Ký (thế kỷ thứ 7), trong Thái Bình Hoàn Vũ Ký của Nhạc Sử đời Tống (thế kỷ thứ 10) mà có lẽ đoản văn được nhiều người dẫn đi dẫn lại "Giao Chỉ có ruộng, người ta gọi ruộng ấy là Hùng Điền, dân ấy là Hùng Dân, quân trưởng là Hùng Vương, hữu ty là Hùng Hầu, đất đai chia cho các Hùng Tướng". Xem thì thật giống đoạn dẫn ở Thủy Kinh Chú (đã dẫn ở phần trên). Có điểm khác là Nam Việt Chí thì toàn dùng chữ Hùng.
Điều này cũng dễ giải thích, hoặc là ông không còn biết từ tố "Lạc" là Nước, và theo lối thay chữ của Thi Hiệu, ông dùng Hùng thay cho chữ Lạc có nghĩa đen không tốt đẹp gì vì lý do thanh nhã, lịch sự (chắc ông phải có cảm tình gì lắm mới để tâm huyết mà viết quyển Nam Việt Chí kia). Sử cũng nói rằng ông đã từng sống ở Giao Chỉ thì ắt ông cũng biết về lý do người Lạc Việt gọi ông tổ họ là Hùng Vương. Trái lại tác giả Thủy Kinh Chú và Giao Châu Ngoại Vực Ký là quan lại của Trung Quốc, một quốc gia phong kiến đang đô hộ dân Việt, ắt họ dùng "Lạc bộ Mã" với nghĩa đen là "Ngựa trắng bờm đen" thì cũng đúng là "sách lược khai hóa man di" lắm vậy.
VŨ TH NGC
Bát Bất Đường, San Jose Mùa Xuân

Tuesday, 17 July 2012

Sáng lạng là sao?

Là viết sai chính tả. Từ điển chỉ có xán lạn, âm Hán Việt của燦爛, nghĩa là rực rỡ. Với một số người Việt hiện nay cả xánlạn đều vô nghĩa. Vì vậy họ nghĩ phải viết là sáng mới hợp với cái nghĩa rực rỡ. Nhưng lạng là gì thì chẳng ai giải thích được.

Monday, 16 July 2012

A. de Rhodes, trả lời các ông Phạm Quang Tuấn và Phong Uyên (Bùi Kha - Talawas)


19.5.2006
Bùi Kha
Sau khi viết bài “Alexandre de Rhode, chữ Quốc ngữ và quan điểm chính trị”, tôi định ngưng bàn về vấn đề này cho đến cuối tháng 8 năm nay vì có một số việc cần phải làm. Nhưng thấy có hai bài viết sai lầm về quan điểm chính trị của A. de Rhodes, nên tôi muốn trả lời ngắn để làm sáng rõ vấn đề.


Trước hết, tôi muốn nhân cơ hội này, để một lần nữa, biện chính với tất cả những ai, nhất là linh mục Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên, các giáo sư Chương Thâu, Nguyễn Đình Đầu và Đinh Xuân Lâm về cụm từ “la conquête de tout l’Orient”, mà quí vị dịch và chú thích là “Nước Cha trị đến”, là một việc làm hết sức tùy tiện, đoạt từ cưỡng ý. Cụm từ “Nước Cha trị đến” tiếng Anh viết là “thy kingdom come” được tìm thấy trong cuốn Lord’s Prayer (Kinh Lạy Cha). Đây là một bài được in trong Kinh Nhật Khoá của các nhà thờ, hầu như con chiên nào cũng biết. Đoạn tôi trích sau đây ở trong cuốn Worship II (nhà xuất bản G.I.A publication, Inc. Edition 1975. Sách không có số trang nhưng đánh số thứ tự theo bài), bài thứ 334:


Our Father, who art in heaven (Lạy Cha chúng con ở trên trời) hallowed be thy name (chúng con nguyện danh Cha cả sáng); thy kingdom come (nước Cha trị đến); thy will be done on earth as it is in heaven(vâng ý Cha dưới đất cũng như trên trời).


Give us this day our daily bread (Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày) and forgive us our trespasses (và tha nợ chúng con) as we forgive those who trespass against us (như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con); and lead us not into temptation (xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ) but deliver us from evil (nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ). Amen.


Tôi hy vọng từ nay không ai còn nhầm lẫn hay cố ý nhầm lẫn để dịch theo ý riêng của mình, nhằm thoả mãn một tình cảm nào đó.




AÔng Phạm Quang Tuấn


1. Ông chỉ trích việc tôi dẫn định nghĩa trong từ điển để minh chứng cho cách dịch chữ “soldat” và cụm từ “la conquête de tout l’Orient” như sau:


“Lý lẽ này rất nực cười. Muốn hiểu mọi nghĩa đen nghĩa bóng của một chữ thì phải xem người đời dùng chữ đó ra sao, chứ từ điển (nhất là từ điển yếu lược như những từ điển Pháp Việt, Anh Việt hiện có) làm sao mà kê khai được tất cả những lối viết văn vẻ, bóng bảy của mọi giới, mọi nghề? Chỉ có những người không rành tiếng Anh hay tiếng Pháp mới phải viện dẫn hai từ điển đó...”


Trong bài, tôi đã dẫn chứng đến SÁU luận điểm; từ bối cảnh chính trị, tôn giáo, hành động, phát ngôn và tư cách của linh mục de Rhodes, để quyết định hiểu chữ “soldats” theo nghĩa nào. Việc ông Tuấn chỉ trích dẫn một trong sáu luận điểm để đối luận với tôi là ông Tuấn thiếu đàng hoàng.


Thực ra, còn hai chứng cớ nữa để hiểu chữ “soldats” mà Lm. de Rhodes dùng có nghĩa là binh lính vì trong thời gian trú ngụ tại Việt nam, de Rhodes đã vẽ một bản đồ có tính chiến lược về quê hương ta. Trong cuốn Phép giảng Tám ngày, Lm. de Rhodes còn hung bạo đòi chém ông Thích Ca, người sáng lập đạo Phật. Hành động không đưa ra tòa, không có án tử hình mà đòi chém kẻ khác, thì việc xin binh lính chỉ là một hành động hết sức bình thường, tại sao ông Tuấn còn bênh vực một cách thiếu sử liệu và vô lý?


2. Ông trích:


“Bùi Kha viết "Danh từ ‘La France’ (nước Pháp) chứ không phải danh từ ‘Eglise francaise’ (Giáo hội Pháp) là chủ từ của mệnh đề đó, nên chữ ‘soldat’ phải được hiểu là ‘lính chiến’ chứ không thể hiểu ẩn dụ là ‘lính thừa sai’ được.", nhưng lại bỏ đoạn kế tiếp của tôi [1] rồi đặt câu hỏi “Xin hỏi tại sao nước Pháp (la France) lại không thể có thừa sai, hay những linh mục có thể gửi đi làm thừa sai? Như vậy nói "Pháp có nhiều tàu chiến" là sai, phải nói là "hải quân Pháp có nhiều tàu chiến" mới là đúng sao?”


Một lần nữa trong đoạn tiếp theo tôi cũng nhắc lại cụm từ “chính phủ Pháp” [2] , nhưng ông Tuấn vẫn lờ đi.


Hai lần ông Tuấn cố tình bỏ quên 3 chữ “chính phủ Pháp” của tôi, mà chỉ sử dụng hai từ “Nước Pháp, La France” để lạc dẫn dư luận.


3. Ông Phạm Quang Tuấn trích việc tôi viện dẫn sự kiện linh mục Alexandre de Rhodes vào triều đình vận động làm bằng chứng (cho hành động của A. de Rhodes), rồi đặt câu hỏi:


“Vào triều đình đâu có nghĩa là chỉ có thể để xin lính chiến. Tại sao Bùi Kha không nghĩ là de Rhodes xin bảo trợ tiền bạc cho thừa sai, và giúp ông quảng bá lời kêu gọi truyền giáo của ông đi khắp các giáo phận của Pháp? Trước đó thì triều đình Bồ Đào Nha đã bảo trợ rất nhiều cho công việc truyền giáo, vậy de Rhodes xin triều đình Pháp bảo trợ thì có gì là không hợp lý? Ngoài ra, ước muốn chính của de Rhodes là có giám mục đi Việt Nam, vì chỉ giám mục mới có quyền phong chức linh mục cho người bản xứ, để cho việc truyền đạo được nhanh chóng. Vì vậy de Rhodes cần vào triều đình (xin xem giải thích thêm ở sau)”.


Việc ông Tuấn đặt câu hỏi “tại sao, không nghĩ... xin triều đình bảo trợ tiền bạc… xin quảng bá lời kêu gọi...”, chỉ là các giả thiết và cách suy diễn của ông Tuấn mà thôi, chứ không có tư liệu làm bằng.


4. Ông Phạm Quang Tuấn viết:


“Bùi Kha viết " Linh mục de Rhodes cũng đã bộc lộ thêm: ‘Tôi chưa công bố thánh chiến… và đem đi cắm những nơi cùng kiệt cõi đất’." Thật lạ lùng khi Bùi Kha dùng đoạn này để chứng tỏ soldat là lính chiến (nghĩa đen)! Câu này cho thấy là de Rhodes lúc nào cũng nghĩ tới các nhà truyền đạo, chứ đâu có nghĩ tới lính đánh trận.”


Xin hỏi ông Tuấn là đạo Công giáo có đến tám cuộc Thánh chiến, họ có dùng binh lính, có các giáo sĩ và tín đồ có vũ trang để tàn sát trên cả trăm triệu mạng người vô tội không? Chẳng lẽ chỉ có cuộc “Thánh chiến” của Lm. Rhodes (“Tôi chưa công bố cuộc thánh chiến chống lại...”) là thuần túy “đạo đức” vì họ là các “nhà truyền đạo”? Nếu được như vậy, hẳn giáo hoàng Phao Lồ II đã không cần phải thiết bàn thờ (ngày 12.3.2000) để xin nhân loại tha thứ bảy núi tội mà giáo hội đã phạm trong suốt hai ngàn năm truyền giáo.


5. Ông Tuấn viết “Ông Bùi Kha có hiểu "con cái thánh Inhaxu" và Phanchicô Xavie là những ai không nhỉ?”


Thưa ông Phạm Quang Tuấn, tôi biết rất ít về hai vị “thánh” này, nên chỉ xin trình bày vài nét như sau:


a. Thánh Inhaxu (thánh Ignatius, người sáng lập dòng Tên):


“Từ lúc Ignatius chết năm 1556, các con của ông (các giáo sĩ Dòng Tên) đã chiến đấu chống lại các người ngoại giáo ở Ấn độ, Trung hoa, Nhật, Tân thế giới, và đặc biệt là miền Nam nước Pháp và Tây Đức.” [3]“Những tu sĩ dòng Tên là những trí thức hợm hĩnh kiêu ngạo (intellectual arrogant), chủ trương cứu cánh biện minh cho tất cả các phương tiện (The end justifies all the means). Họ chủ trương tìm mọi cách làm lợi cho giáo hoàng La mã” (We know best what benefits the pontiff).


b. “Thánh” Phanchicô Xavie (Francis Xavier) là môn đệ khét tiếng của Inhaxu (nói ở trên). Kinh “Nhật Khoá” của Giáo phận Sài gòn, được Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình duyệt y, ngày 19.3.1971, có đoạn cầu ông “thánh” Phan-ci-cô Xa-vi như sau:


“Ông Thánh Phan xi cô là môn đệ rất xứng đáng của ông Thánh I-nha-xi-ô (Ignatius)
  • là quan thầy các nước Đông phương; 
  • là kẻ nghịch đạo dị đoan; 
  • phá tan đạo bụt thần ma quỉ; 
  • là lính rao tiếng Đức Chúa Thánh Thần cho những dân mọi rợ.” 
Theo đoạn kinh này thì hơn 90% dân Việt Nam không theo Công giáo đều là những tên mọi rợ, cần phải tiêu diệt tất cả.


Trong “Toàn niên kinh nguyện” của địa phận Bùi Chu và Hà nội [4] , chúng ta cũng thấy những câu tương tự:


“Cúi xin Chúa từ nay về sau đừng để những người ngoại đạo khinh dễ công ơn cứu chuộc. Xin Chúa vì lòng nhân từ Chúa mà dong thứ cho những kẻ ấy xưa nay đã lạc đàng thờ lạy bụt thần”. (trang 18-19).


Qua trang 143-145 cũng có các câu tương tự:


“Xin Chúa hãy làm vua các kẻ còn ở nơi tăm tối thờ lạy bụt thần hay là theo đạo Mahomét mà rũ thương chúng nó nhận biết sự sáng thật cùng phục quyền Chúa tôi.”


Tín đồ đạo Phật (bụt) thì không sao. Còn với người Hồi giáo, rất may là họ không đọc được tiếng Việt. Nếu không, hẳn sẽ có chuyện đổ máu xảy ra, tội nghiệp cho con dân Việt nam vô tội.


Ðã trải qua hơn ba thế kỷ, từ thời Lm. Đắc Lộ, mà các chức sắc giáo hội Công giáo Việt Nam còn có thái độ khinh mạn, đòi “phá tan” những tín ngưỡng khác như vậy. Có thể coi đó là lý do thứ 8 nữa để chứng minh nghĩa ngữ của chữ soldats mà linh mục dòng Tên A. de Rhodes sử dụng trong cuốn Hành trình và truyền giáo của ông.


6. Ông Phạm Quang Tuấn tiếp:


“Bùi Kha viết "Giáo sĩ Ðắc Lộ (hoặc bất cứ một giáo sĩ nào) không thể trông cậy vào Giáo hội Pháp (hoặc bất cứ một giáo hội nào) nên ông đã vào triều đình Pháp để xin lính chiến là do bối cảnh chính trị tôn giáo trong thời kỳ đó như thế. Nhưng trong thời gian trị vì, vua Louis XIV bận rộn với những cuộc chiến tại Âu châu và phí tổn xây cất cung điện Versailles quá lớn, nên việc vận động của giáo sĩ Ðắc Lộ, có lẽ vì thế, mà không thành." Không hiểu Bùi Kha đã lấy tài liệu ở đâu về cái "bối cảnh chính trị tôn giáo" kỳ cục của ông để suy diễn lung tung như vậy. Trong thời kỳ de Rhodes đến Pháp tìm thừa sai, Louis làm sao mà "bận rộn với những cuộc chiến tại Âu châu và phí tổn xây cất cung điện Versailles"! Lúc ấy, Louis XIV hãy còn là "vua kiểng", quyền hành nằm hết trong tay quan nhiếp chính Mazarin cho tới khi ông này chết vào năm 1661. Versailles chỉ bắt đầu xây năm 1661. De Rhodes trở về Âu châu năm 1649, thăm Pháp trong thập niên sau đó, và chết ở Ba Tư năm 1660.”


Về đoạn phê bình này, thì ông Tuấn có đúng một phần nhỏ, nhất là thời gian xây cất cung điện Versailles. Nhưng về tình hình chính trị và tôn giáo thời bấy giờ, tôi có thể tóm lược như sau.


Giáo hội La Mã muốn biến nước Pháp thành một nước ngoan đạo và cuồng tín như Tây Ban Nha. Khi Vua Henri IV bị ám sát chết vào năm 1610, vua Louis XIII (1610--1643) lên nối ngôi. Giáo hội bố trí cho Hồng y Richelieu nắm giữ chức vụ tương đương như thủ tướng bây giờ.


Theo lệnh của Giáo hội, Hồng y Richelieu cố gắng biến nước Pháp thành một nước theo đạo Công giáo hùng mạnh nhất Âu Châu để khống chế các nước khác theo đạo Tin Lành và biến ông vua nước Pháp thành một tên bạo chúa theo khuôn mẫu như các bạo chúa Ferdinand V (1452-1516), Isabella I (1451-1504), Philip II (1527-1598) của Tây Ban Nha và Mary I (1553-1558) với tục danh là "Mụ Mary Khát Máu" (Bloody Mary) của nước Anh. Sự kiện này được sách Living World History viết như sau:


"Với dáng người mảnh khảnh, nước da xanh xao do một căn bệnh bất khả trị gây nên, nhưng Hồng y Richelieu lại có một ý chí sắt đá. Ông đã thành công hai mục tiêu là (1) tăng cường quyền lực của nhà vua và (2) làm cho nước Pháp trở nên hùng mạnh nhất ở Âu Châu. Để hoàn thành mục tiêu thứ nhất, ông bãi bỏ quyền chính trị của tín đồ Tin Lành Huguenots và quyền lực của giới quý tộc. Ông ra lệnh tấn công vào thành phố quan trọng, La Rochelle, của người Tin Lành Huguenots để cưỡng bách Tin Lành phải từ bỏ đặc quyền duy trì quân lính trú đóng ở trong các thị trấn của họ. Ông ban hành sắc lệnh tiêu hủy tất cả các lâu đài nào của giới quý tộc không cần thiết cho việc phòng thủ quốc gia. Giới quý tộc tại các địa phương phải nhường quyền hành cho các bồi thần tay sai thân tín của nhà vua có nhiệm vụ canh chừng và theo dõi mọi hoạt động của những người bị coi như là kẻ thù của vua. Hồng Y Richelieu cũng hoàn thành được mục tiêu thứ hai bằng cách làm suy yếu quyền lực của triều đình Hapsburgs. Ông đẩy nước Pháp vào cuộc Chiến 30 Năm và sau cùng nước Pháp trở thành một quốc gia hùng mạnh nhất Âu Châu."[5]


Vua Louis XIII qua đời vào năm 1643, người lên kế nghiệp là vua Louis XIV (1643-1715), nhưng quyền hành vẫn ở trong tay Giáo hội với Hồng y Mazarin nắm giữ chức vụ thay thế Hồng y Richelieu (qua đời vào ngày 4 tháng 12 năm 1642.) Hồng y Mazarin cũng đi theo con đường của ông hồng y tiền nhiệm (Richelieu) do Giáo hội La Mã vạch ra từ trước, và đã hoàn thành nhiệm vụ biến vua Louis XIV thành một bạo chúa lừng danh của nước Pháp với lời tuyên bố để đời "L' État, c' est moi" (Quốc gia chính là ta). Trong khi đó, nhân dân Pháp thù ghét chế độ này đến tận xương tủy. Đoạn văn sử dưới đây là bằng chứng:


"Hà khắc và luôn luôn hà khắc, Hồng y Richelieu tỏ ra rất ít quan tâm đến đời sống người dân thường của nước Pháp. Chính ông đã cưỡng bách nhân dân Pháp phải gánh chịu thuế khóa nặng nề. Cũng vì thế mà khi ông ta chết vào năm 1642 cũng là lúc nhân dân Pháp hân hoan reo mừng. Một năm sau, vua Louis XIII cũng qua đời, người con trai của nhà vua lên nối ngôi là Louis XIV, lúc đó mới có 4 tuổi. Trước khi chết, Hồng y Richelieu đã huấn luyện được người chuẩn sẽ thay thế mình là Hồng y Mazarin gốc Ý Đại Lợi. Trong thời kỳ tuổi thơ của Vua Louis XIV, Mazarin nắm trọn quyền chính. Các nhà quý tộc có thế lực cố gắng chống lại để giành quyền bị ông hồng y này đàn áp thẳng tay. Vì thế mà nước Pháp rơi vào thảm cảnh nội chiến. Các nhà viết sử gọi cuộc nội chiến này là "The Fronde". Cuối cùng vào năm 1653, các thế lực chống đối đều bị dẹp tan hay quy phục chính quyền của nhà vua (thực ra là của Hồng y Mazarin, có Giáo hội La Mã ở hậu trường). Khi Hồng y Mazarin qua đời vào năm 1661, Vua Louis XIV đã 22 tuổi, và trực tiếp nắm trọn mọi việc triều cương.


Vua Louis XIV là một trong những ông vua quyền thế trong các ông vua của nước Pháp. Ông cầm quyền cho đến năm 1715 và được xem như là một người chuyên chế hoàn hảo. Ông tuyên bố "Quốc gia là ta", một lời nói diễn tả chính xác thái độ của ông đối với nước Pháp." [6]


Vua Louis XIV không những lừng danh về lời tuyên bố “L’État C'est moi", mà còn nổi tiếng về việc xây điện Versailles và chính sách đàn áp các tôn giáo khác với những biện pháp vô cùng dã man, trong đó có việc hủy bỏ Sắc lệnh Nantes vào năm 1685. Sự kiện này được các nhà viết sử ghi lại như sau:


"… Thế rồi Vua Louis XIV phạm một lỗi lầm đã làm suy yếu nước Pháp. Ông ta nhất quyết cho rằng người Tin Lành Huguenots là những người bất trung và là mối nguy hiểm cho đất nước. Năm 1685, nhà vua ra lệnh hủy bỏ Sắc lệnh Nantes, luật này cho phép người Tin Lành được hưởng quyền tự do tôn giáo. Hơn một trăm ngàn dân Pháp theo đạo Tin lành Huguenots đành phải bỏ nước Pháp mà đi còn hơn là phải từ bỏ tín ngưỡng của họ và theo đạo Công giáo La Mã để được ở lại nước Pháp. Mặc dầu tín đồ Tin Lành chỉ chiếm vào khoảng 10 phần trăm dân số nước Pháp, nhưng trong khối tín đồ Tin Lành này, có nhiều người là những nhà lãnh đạo trong các ngành kỹ nghệ, là các thương gia và các nhà thủ công nghệ tuyệt vời. Mất đi những tài năng này là làm cho nước Pháp thiệt hại rất nhiều." [7]


Tôi hơi dài dòng trong đoạn trích dẫn này để ông Tuấn khỏi thắc mắc và lạc dẫn người đọc là tôi lấy tài liệu ở đâu. Có điều không hiểu tại sao ông Tuấn không nói rõ chức tước Mazarin là Hồng y do giáo hội La Mã gài vào bên cạnh ông vua trẻ tuổi mà chỉ gọi là “quan nhiếp chính Mazarin”?


Như thế, nước Pháp thời bấy giờ được điều hành bởi một ông Hồng y (còn vua chỉ mới 14 tuổi). Lm. Đắc Lộ vào triều để gặp hoàng hậu, gặp vua, gặp hồng y xin “plusieurs soldats” để “la conquête de tout l’Orient”, lại càng tốt hơn nữa, vừa che đậy được sắc lệnh của giáo hoàng Alexander VI, chia thế giới cho Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, vừa dễ có kết quả hơn, vì vua còn quá trẻ (14 tuổi) và “phe ta” đã ngự trị trong triều! Nhất cử lưỡng tiện.


Trong bài trước, tôi đã trích sắc lệnh của Giáo hoàng Alexander VI về việc chia thế giới cho Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha nên giáo hội Pháp không thể chen chân vào phương Đông được mà chỉ có nước Pháp mà thôi. Đoạn mô tả về tình hình chính trị tại Pháp lúc bấy giờ như trên làm sáng rõ thêm nhận định của tôi về quan điểm chính trị của Lm. Rhodes. Do đó, câu ông Tuấn phê bình dưới đây nên thế hai chữ Bùi Kha thành Phạm Quang Tuấn mới đúng:


“Quả là người đọc, nếu không hiểu về bối cảnh chính trị tôn giáo ở Pháp thời đó, sẽ lấy làm lạ về việc de Rhodes tìm tới triều đình Pháp và có thể suy diễn lung tung như ông Phạm Quang Tuấn đã làm.”


7. Về lời thề bí mật của dòng Tên đã được phát giác: thậm chí quốc hội Mỹ cũng đã có biên bản về lời thề độc ác này. Nhưng ông Phạm Quang Tuấn lại cho rằng “Thực ra, đó chỉ là một lời thề giả mạo.” Theo tôi, nếu ông Tuấn viết rằng “Lời thề đó do cộng sản bày ra để xuyên tạc dòng Tên” thì có khi cũng thuyết phục được một số người đọc.


8. Ông Phạm Quang Tuấn viết:


“Còn rất nhiều suy diễn hàm hồ khác mà Bùi Kha đã dùng để bảo vệ cách hiểu của ông, nhưng viết ra hết thì quá dài (và hầu như sẽ nhắc lại toàn bài của Bùi Kha) nên xin dừng ở đây. Cũng xin minh xác rằng tôi không phải tín đồ bất cứ phái nào của Thiên chúa giáo và không có lý do gì để thiên vị hay ủng hộ đạo này. Tôi thừa hiểu rằng, dưới con mắt của người thời nay, nhiều suy nghĩ và hành động của de Rhodes và của Giáo hội nói chung không thể chấp nhận được (cũng như việc cấm đạo và giết giáo dân của các vua Nguyễn không thể chấp nhận được). Tuy nhiên, đã viết ra thì phải có chứng cớ vững vàng và lý luận mạch lạc chứ đừng tung hỏa mù làm rối mắt công chúng. Ông Bùi Kha nên hiểu rằng những lý luận yếu kém, hiểu biết sai lạc và sự khăng khăng bảo vệ nhầm lẫn của mình không những chẳng thuyết phục được ai mà còn làm thiệt thòi cho quan điểm của mình, không kể là mất thì giờ người đọc.”


Những phê bình của ông Tuấn về tôi, đúng thì tôi sẽ học hỏi (như tôi đã viết trong bài trước), còn sai thì những phê bình chỉ trích ấy sẽ trở về với nguyên chủ.


Mặc dầu ông Tuấn đã thừa nhận là “... nhiều suy nghĩ và hành động của de Rhodes và của Giáo hội nói chung không thể chấp nhận được”, nhưng ông lại thêm “cũng như việc cấm đạo và giết giáo dân của các vua Nguyễn không thể chấp nhận được”. Tôi cũng thấy việc giết giáo dân vô tội là một tội ác. Còn việc cấm đạo thì chúng ta nên thận trọng lúc phê phán. Mặc dầu ông Tuấn khuyên tôi “... đã viết thì phải có chứng cớ vững vàng...”, nhưng trong bài đối luận với tôi ông chỉ suy diễn tùy tiện chứ không có chứng cớ. Ngay cả tài liệu của quốc hội Mỹ ông cũng cho là “giả mạo”. Và lúc phê phán về việc cấm đạo dưới triều Nguyễn ông cũng thiếu chứng cớ.


Tôi xin dẫn ba ý kiến của ba người có thẩm quyền và địa vị rất cao trong xã hội và cùng có chung một tín ngưỡng là Công giáo về hành động “cấm đạo” của triều Nguyễn.


Giáo sư Lý Chánh Trung, một trí thức công giáo, trong cuốn Tôn giáo và dân tộc viết rằng, “Nếu đặt địa vị của chúng ta vào các ông vua triều Nguyễn thì chúng ta cũng không thể làm khác được”.


Đô đốc Rigault de Genouilly, người chỉ huy cuộc đổ bộ quân Pháp lên Đà Nẵng, 1.9.1858, trong một văn thư đề ngày 29.1.1959, viết:


“Không một nền cai trị nào, dù là phục vụ cho đạo Công giáo, lại có thể dung thứ cho sự xâm phạm thường xuyên và ngu xuẩn vào các vấn đề chính trị, dân sự, và quân sự vốn không được và không phải thuộc quyền hạn của họ (các giáo sĩ, BK). Nếu cũng vì những yếu tố buộc tội đó mà Giám mục Pellerin bị nhà cầm quyền An Nam trục xuất thì báo chí của người truyền đạo lại kêu la om sòm là họ bị “bạo hành”[8] .


Còn Đô đốc Page, trong văn thư đề ngày 14-12-1859 và 25-12-1859, viết như sau:


“Thật vậy, trong lúc dân chúng hoảng hốt chạy trốn khi quân Pháp kéo đến và tổ chức vũ trang tự vệ, ở nơi đông dân thì 3000 tín đồ Gia Tô đi theo Pháp và xin được đưa vô Sài Gòn là nơi mà Page đã dựng lên một thị trấn. “Tôi ngạc nhiên biết bao khi hôm sau các nhà truyền giáo đến nói với tôi, rằng các con chiên An Nam không tuân theo một quyền lực vô đạo, họ nói như thế. Thế sao! Họ cũng không muốn có cảnh sát để chặn đứng trộm cướp du đãng, cướp bóc thành phố? Và tôi rất hổ thẹn khi thú nhận với Ngài rằng Giáo hội Công giáo tại An Nam đã ngạo nghễ đi rao giảng các nguyên lý đó. ‘Ngoài ra không người Việt Nam theo Công Giáo nào ngần ngại xin gia nhập làm lính dưới cờ Pháp, ông vua Việt Nam không theo đạo, không phải là vua của họ.’ Chắc bây giờ ngài đã hiểu tại sao vua, quan đã coi các nhà truyền giáo là kẻ thù?” [9]


Xem thế, một Đô đốc thực dân Pháp cùng tín ngưỡng cũng không thể chịu nổi những hành động của các giáo sĩ, trách gì các vua quan triều Nguyễn?


Hy vọng qua tám đối luận ở trên, ông Tuấn sẽ thấy thêm sự thực của vấn đề.




B. Ông Phong Uyên


Đúng ra tôi không nên đối luận với ông. Lý do: Thay vì trưng bày những sự kiện lịch sử để làm sáng tỏ một vấn đề học thuật đã bị nhầm lẫn hơn 60 năm qua, ông lại chụp mũ tôi là cộng sản để lạc dẫn độc giả và để chặn họng người mà ông muốn đối thoại. Đây là câu ông chụp mũ tôi: “Tôi có cảm tưởng khi đọc những dòng trên như đang sống lại thời Nhân văn-Giai phẩm...”


Ông còn viết một câu khác ra ngoài học thuật, “Tôi không khỏi ngạc nhiên là thời buổi đổi mới này vẫn còn có người...”


Tôi nghĩ, thời buổi đổi mới không có nghĩa là phải thay đổi các sử liệu để biến đen thành trắng. Mà chúng ta nên tìm hiểu lịch sử, rút tỉa những bài học của quá khứ để tránh tái phạm và định hướng cho tương lai. Không nên có tư tưởng khơi lại đống tro tàn để tạo mối bất hoà giữa những người khác quan điểm, khác tôn giáo, khác giai cấp.


Đúng ra, tôi không nên đối luận với ông như đã nói ở trên. Nhưng để tránh dĩ hư truyền hư, tôi chỉ thảo luận với ông hai điểm nhỏ (còn nhiều điểm khác trong bài của ông cũng mang đầy tính hư cấu và thiếu khách quan như ông Phạm Quang Tuấn mà tôi đã trả lời).


Ông Phong Uyên viết, “Nếu A. de Rhodes có thật muốn vua Louis thứ 14 gửi quân mà vì lí do gì không muốn dùng những chữ troupes, armées thì chỉ cần thêm mạo tự les, des, viết một cách giản dị và đúng mẹo luật cho tới bây giờ là les soldats, des soldats.


Đó là những sơ đẳng của tiếng Pháp mà một người có trình độ trung bình về tiếng này cũng có thể nhận thức được...”


Ông phê bình rất đúng về tôi, “một người thiếu trình độ sơ đẳng và dưới mức trung bình về am tường văn phạm tiếng Pháp.” Quả như vậy. Tiếng Pháp tôi chỉ biết đọc, viết sơ sơ. Tiếng Hán cũng thế. Có thể làm học trò (?) của ông về phương diện văn phạm Pháp văn.


Tuy nhiên, lúc ông đề nghị thêm mạo tự les, des, vào trước chữ soldats như “les soldats, des soldats” cho đúng mẹo luật từ thời Lm. Rhodes tới bây giờ, tôi nghĩ ông đã sai lầm lớn. Lm. Rhodes vào triều đình để xin nhiều binh lính, nhưng không biết số lượng sẽ được bao nhiêu, nên ông dùng chữ plusieurs (indéfini). Les cũng là số nhiều nhưng có thể định lượng (défini). Do đó, chữ les không thể dùng trong trường hợp của linh mục Rhodes.


Kế tiếp, chúng ta nên nhớ rằng Lm. Đắc Lộ xin nhiều plusieurs soldats để “chinh phục toàn cõi phương Đông”, chứ chỉ xin một vài tên lính làm sao mà chinh phục cả lục địa lớn như thế được? Do đó, thêm một lần nữa, chữ “plusieurs” không thể được dịch một vài như Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên và như ông.


Tóm lại, chúng ta cố gắng tiếp cận tất cả những thông tin, những sử liệu có được để đánh giá đúng mức (nếu có thể) về tâm tư, nguyện vọng và hành động của người xưa nhằm nếu chê trách thì không bị hàm oan, mà vinh danh phải cho xứng đáng. Trường hợp Lm. Đắc Lộ, chúng ta nên thông cảm. Ông sống trong một thời kỳ với bao nhiêu điều “bất thiện” xảy ra. Nước Pháp trong hai thế kỷ 16 và 17 (xung quanh thời Lm. Đắc Lộ) bị nội chiến, đối đầu với các giáo phái Tin Lành trong nước, chiến tranh với các quốc gia khác ở Âu châu. Về Giáo hội Công giáo La Mã thì phải đối mặt với các cuộc chiến giữa Tin Lành, Công Giáo, Chính Thống Giáo, Do Thái Giáo. Tám cuộc “Thánh” chiến khởi sự từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 15, kéo dài cả ngàn năm. Rồi tiếp đến là các toà án xử dị giáo (Inquisitions) vô cùng dã man do Giáo Hoàng Gregory IX thành lập năm 1232. Phải mãi đến năm 1820, Hoàng đế Ferdinand thứ VII Tây Ban Nha mới ra lệnh chấm dứt thời kỳ "Inquisition" man rợ trên đất nước ông.


Các thương gia và tư bản muốn tìm thị trường để tiêu thụ hàng hoá và thu về những nguyên liệu thiên nhiên cho các ngành kỹ nghệ đang phát triển. Do đó, nếu chúng ta là giáo sĩ dòng Tên và sống vào thời Lm. Đắc Lộ, có lẽ chúng ta cũng không thể làm khác hơn, là cần phải chinh phục, phải chém giáo chủ các tôn giáo khác, phải thống trị thế giới, thống trị phương Đông để kiếm linh hồn cho Chúa. Và chính đó là thảm cảnh các quốc gia nhỏ bé như Việt Nam phải gánh chịu, mà hệ quả của nó vẫn còn dai dẳng đến ngày nay.


Tìm lại những hành động của người xưa không phải là để khơi lại đống tro tàn, mặc dầu chưa tắt hẳn, hoặc nhằm gây sự bất hòa giữa các cộng đồng tôn giáo một cách không cần thiết, mà để rút tỉa một bài học cho tương lai. Nếu ai có công cần phải được tán thưởng, có tội phải răn đe, chứ không thể vinh danh kẻ đáng lên án như trường hợp linh mục Alexandre de Rhodes được.


8.5.06


© 2006 talawas



[1]“Xin hỏi trong chính phủ Pháp không làm gì có lính thừa sai để cha xin, mà chỉ có lính chiến mà thôi.”
[2]“Ðể việc biện chính được rõ hơn, tôi sẽ trở lại vấn đề này và dẫn thêm sử liệu để cho thấy tại sao cha Ðắc Lộ (Alexandre de Rhodes) không xin Giáo hội Pháp mà xin chính phủ Pháp.”
[3](When Ignatius died in 1556, his sons fought against the heretics in India, China, Japan, the New World, especially in Southern France and Western Germany (Linh Mục Edmond Paris, The Secret History of the Jesuits, 1975, p.24).
[4]Do Cơ sở Dân Chúa P.O.Box 1419, Gretna, LA, Hoa Kỳ, Lm. Việt Châu Chủ quản in lại.
[5]“The cardinal, pale and delicate from incurable disease, had a will of iron. He succeeded in his two aims: to strengthen the power of the king in France and to make France supreme in Europe. To accomplish the first goal, he took steps to destroy the political rights of the Huguenots and the power of the nobles. By attacking their chief town, La Rochelle, he forced the Huguenots to give up their privilege of maintaining fortified towns garrisoned by their own troops. He issued an edict for the destruction of all nobles' castles that were not necessary for national defense. Nobles lost their jurisdiction over local districts to new royal officials called intendants, who kept a watchful eye on the kings enemies. Cardinal Richelieu achieved his his second aim chiefly by weakening the power of the Hapsburgs. He plunged France into the Thirty Years' Wars, from which, it emerged as the strongest nation in Europe." trong Arnold Schrier & T. Walter Wallbank, Living World History (Glenview, Ill: Scott, Foresman and Co, 1974), tr. 358.
[6]"Richelieu, harsh and relentless, showed little concern for the common people of France, who had to bear heavy tax loads, and they rejoiced at his death in 1642. Louis XIII died a year later, and his son became king - Louis XIV - at the age of four. Richelieu had trained Jules Mazarin, an Italian born-cardinal, to be his successor, and during Louis' childhood, Mazarin held the reins of rule in his capable hands. Strong nobles tried to gain control of the government, but after a civil war known as the Fronde, Mazarin in 1653 suppressed the challenge of the nobles to royal power. When Mazarin died in 1661, Louis XIV, then twenty-two years old, personally took over the direction of the government.
Louis XIV was one of the most powerful French kings. Louis XIV ruled France until 1715, and has been called the perfect example of absolute ruler. He is supposed to have declared "L'Etat, c'est moi" (I am the state), a saying that accurately describes his attitude toward France." trong Arnold Schrier & T. Walter Wallbank, Living World History (Glenview, Ill: Scott, Foresman and Co, 1974).
[7]“.... Then Louis made an error that tended to weaken France. He became convinced that the Huguenots were disloyal and a danger to the nation. In 1685, he revoked, or canceled, the Edict of Nantes, which had given the Huguenots religious freedom. Over 100.000 French Protestants chose to leave France rather than give up their faith. Although they totaled only about a tenth of French population, many of them were leaders of industry, tradesmen, and exellent craftmen. The loss of their skills injured France." trong Anatole G. Mazour & John M. Peoples, Men And Nations (New York: Harcourt Brace Jovanovich, 1975), p. 349.
[8](Fut - elle au service de l'intérêt chrétien, ne pouvait tolérer leur intrusion permanente et insolente dans les affaires politiques, civiles et militaires qui ne sont et ne doivent pas être de leur ressorts. Si l'expulsion du Mgr Pellerin avait été prononcée, pour les mêmes chefs d'accusation, par une autorité Vietnamienne, la presse des missionnaires aurait crié partout persécution” (Dépêche de l’Amiral Genouilly du 29-1-1859).
[9]Nguyên văn tiếng Pháp: Après avoir “beaucoup parcouru le pays, beacoup regardé, beaucoup écouté, l'amiral Page finit par reconnaitre le bienfondé des arguments du gouvernement de Huế, lui même ayant été choqué par l'attitude des missionnaires et de leurs chrétiens.
En effet, tandis que la population fuyait avec épouvante à l'approche des troupes francaises et que des milices armées s'organisaient là où il y avait un centre de population, 3.000 catholiques se rallièrent aux Francais et demandèrent à être ramenés à Saigon où Page avait crée une municipalité. “Quelle a été ma surprise? Lorsque le lendemain les missionnaires sont venus me déclarer que les chrétiens annamites ne pouvaient pas obéir à une autorité payenne, c'est leur mot. Quoi! Pas même pour la police municipale? Pour empêcher les voleur, les vagabonds de mettre la ville au pillage? Et je suis confus d'avouer à Votre Excellence que ces principes sont professés hautement par les associations annamites catholiques... “Du reste, pas un Vietnamien catholique n'hésita à demander à s'enriler comme soldat sous le draupeau francais. Le roi payen du Vietnam n'était point leur roi. “Votre Excellence comprendra sans doute maintenant comment le Roi et les mandarins regardent les missionnaires catholiques comme des ennemis? (Dépêche de l'amiral Page, du 14-12 et 25-12-1859. Archives Nationales, Fonds, Marine BB4 777).

Sunday, 15 July 2012

Cam Bốt là bung xung của Tàu Khựa (Phạm Vũ Lửa Hạ)

Mấy bữa nay, dân ta bức xúc vì bọn Cam Bốt chủ trì Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lại là kỳ đà cản mũi, không chịu đưa ra thông cáo chung về tình hình biển Đông. Bình luận của Carl Thayer, chuyên gia về Đông Nam Á, có lẽ phản ánh rõ nhất bản mặt của bọn lừa thầy phản bạn này: “Cambodia is showing itself as China’s stalking horse.” (Campuchia lộ rõ là bung xung của Trung Quốc.)
Dịch nghĩa vậy đã rõ, nhưng từ “bung xung” của ta chưa thể hiện hết ẩn ý của câu tiếng Anh.Theo Từ điển Tiếng Việt Hoàng Phê (2004), “bung xung” là “vật để đỡ tên đạn khi ra trận ngày xưa, thường dùng để ví người chịu đỡ đòn thay cho người khác (hàm ý chê)“.
Thử coi qua định nghĩa của từ “stalking horse” trong tiếng Anh:
1. (Individual Sports & Recreations / Hunting) a horse or an imitation one used by a hunter to hide behind while stalking his quarry
2. Something used to cover one’s true purpose; a decoy; something serving as a means of concealing plans; pretext;
3. (Government, Politics & Diplomacy) a candidate put forward by one group to divide the opposition or mask the candidacy of another person for whom the stalking-horse would then withdraw
Vậy nghĩa 1 (ngựa thật hoặc giả làm bình phong che chắn cho thợ săn trong lúc rình mồi) và nghĩa 2 (chim mồi, vật nghi trang che giấu mục đích thật) khá khớp với ý trong câu trên. Nghĩa 3 thì chỉ ai quen với bầu cử trong những nền dân chủ thật sự mới hiểu; dùng để chỉ ứng cử viên hình thức, được đưa ra để phân tán phiếu của phe đối lập, hoặc để phe đối lập không để ý tới ứng viên thực sự (chỉ lộ diện khi ứng cử viên hình thức rút lui).
Phần mở đầu mục từ “stalking horse” của Wikipedia có mấy ý mà nếu đọc kỹ thì càng hiểu rõ thâm ý của Carl Thayer.
stalking horse is a figure that tests a concept with someone or mounts a challenge against someone on behalf of an anonymous third party. If the idea proves viable or popular, the anonymous figure can then declare its interest and advance the concept with little risk of failure. If the concept fails, the anonymous party will not be tainted by association with the failed concept and can either drop the idea completely or bide its time and wait until a better moment for launching an attack.
Nếu diễn dịch đoạn văn trên và thay thế các danh từ / đại từ bằng các nước liên quan trong vụ này, ta có một viễn cảnh đáng lo.
Cam Bốt là lá bài được dùng để nhân danh nước lạ ẩn danh thăm dò phản ứng đối với ý định tiếm đoạt Biển Đông hoặc bày tỏ thách thức đối với các nước ASEAN có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông. Nếu ý định đó khả thi, nước lạ khi ấy có thể công khai quyền lợi / lợi ích của mình và xúc tiến ý định mà không sợ thất bại. Nếu ý định bất thành, nước lạ sẽ không bị mất mặt và có thể hoàn toàn từ bỏ ý định hoặc nằm chờ cơ hội tốt hơn để tấn công.
Tờ New York Times dẫn lời một nhà ngoại giao giấu tên nói toạc móng heo: “China bought the chair, simple as that.” (Trung Quốc mua cái ghế chủ tịch [của Campuchia], đơn giản thế thôi). Nhà ngoại giao này cũng đề cập tới một bài báo của Tân Hoa Xã ra hôm thứ Năm 12/7/2012, trích dẫn lời Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì cảm ơn thủ tướng Campuchia ủng hộ những “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc. Chẳng biết thằng lõi con Cam Bốt được quan thầy Tàu khựa hứa cho bao nhiêu để chấp nhận vai trò bung xung này. Chắc cũng chỉ vài cắc lẻ thôi, vì cỡ Chí Phèo quốc tế Bắc Hàn mà Tàu cũng chỉ tốn có một tỉ đô mỗi năm để đỡ đầu (theo Foreign Policy).
Mà đâu chỉ bọn Cam Bốt. Ngay ở ta cũng lắm kẻ đáng liệt vào hạng stalking horse như vầy. Nhiều lắm, gom lại không chừng cả trường đua Phú Thọ ở Sài Gòn cũng không đủ chỗ nhốt.

Saturday, 14 July 2012

Nét đẹp văn hóa là gì?


Câu 2 trong đề thi đại học môn văn, khối D năm 2012 "Ngưỡng mộ thần tượng là một nét đẹp văn hóa nhưng mê muội thần tượng lại là một thảm họa” có nhiều chỗ tào lao. Một trong những cái tào lao đó là lạm dụng những từ ngữ kêu boong boong nhưng mơ hồ về nghĩa. Tạm thời hãy để khái niệm văn hóa sang một bên cho một ghi chú khác, chỉ thử hỏi xem nét đẹp văn hóa là gì.
Cấu trúc bề mặt của cụm từ nét đẹp văn hóa có thể tương ứng với một trong các cấu trúc chiều sâu sau đây:
1) nét đẹp của văn hóa (văn hóa gì? văn hóa của ai?).
2) nét đẹp trong văn hóa (văn hóa gì? văn hóa của ai?),
3) nét đẹp có tính văn hóa (không phải là nét đẹp có tính giả tạo hay nét đẹp có tính tự nhiên...).
Google cho gần 3,5 triệu trang với từ khóa nét đẹp văn hóa, nhưng chỉ có khoảng 65 ngàn trang với nét đẹp văn hóa là (tính luôn cả dấu câu giữa hóa). Có vẻ như người Việt quen dùng từ ngữ không cần định nghĩa. Định nghĩa cho nét đẹp văn hóa được Google đưa lên vị trí số 1 lại chính là định nghĩa được nêu ra trong đáp án của đề thi: Là một khía cạnh đáng được tôn trọng, ngợi ca trong đời sống văn hóa, tức là cái cấu trúc chiều sâu số 2 đã nêu trên. Thí sinh nào lỡ triển khai theo hướng số 1 hay hướng số 3 xem như lạc đề mặc dù không sai. Nếu cần chấm phúc khảo, có thể dẫn lại ghi chú này để hỏi giám khảo tại sao chỉ có hướng số 2 được xem là đúng.

Alexandre de Rhodes có “đạo” công trình? (Chân Luận)

Alexandre de Rhodes có “đạo” công trình?

Chân Luận
Trên báo Người Lao Động ngày 7-1-2006 có bài “Đi tìm nguồn gốc chữ quốc ngữ” của GS-TS Phạm Văn Hường (ĐH Bordeaux). Có thể tóm gọn ý chính của bài nghiên cứu này là: Alexandro Rhodes (theo cách của GS-TS Hường) không phải là người sáng tạo ra chữ quốc ngữ; và Alexandro Rhodes đã “đạo” công trình của hai giáo sĩ khác là Antonio Barbosa, Gaspar de Amaral.

Về vấn đề Alexandre de Rhodes (ảnh) không phải là người sáng tạo ra chữ quốc ngữ

Alexandre de Rhodes
Có thể nói rằng: cho đến nay, những công trình nghiên cứu về sự phát triển của chữ quốc ngữ cả trong và ngoài nước (VN) đều không ai coi Alexandro Rhodes là “ông tổ” của chữ quốc ngữ, hay là người sáng tạo ra chữ quốc ngữ. Nhưng vì sao khi nhắc đến chữ quốc ngữ, người ta lại nghĩ ngay đến Alexandre de Rhodes?
Lý do rất đơn giản là vì ba công trình: Từ điển Việt – Bồ - La (Dictionnarium Annamitcum Lusitanum et Latinum), Báo cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay tiếng Đông Kinh (Linguae annamitcae seu Tunkinensis Brevis Declaratio), Phép giảng tám ngày (Cathechismus proiuo qui voluat sulcipere baptisnum in octo dies divisus – Phép giảng tám ngày cho kẻ muốn chịu phép rửa tội mà vào (bèao) đạo thánh đức Chúa blời), được Alexandre de Rhodes cho in ở Rome năm 1651 là những tài liệu về chữ quốc ngữ được phát hiện sớm nhất, và trong một thời gian dài, ngoài ba tài liệu trên, người ta không biết đến tài liệu nào khác.
Nhưng, qua các tư liệu sưu tầm được về sau này, tất cả các nhà nghiên cứu chữ quốc ngữ hồi đầu thế kỷ 20 như: Đào Trinh Nhất (Người có công với chữ quốc ngữ từ 300 năm trước, Cha Alexandre de Rhodes, Phụ nữ Tân Văn, số Xuân 1923), linh mục Thanh Lãng (Những chặng đường chữ quốc ngữ, Đại học Huế, số 1, 1961), linh mục Nguyễn Khắc Xuyên (Giáo sĩ A lịch sơn Đắc Lộ với chữ quốc ngữ, Việt Nam khảo cổ tập san, số 2, 1961), linh mục Đỗ Quang Chính (Lịch sử chữ quốc ngữ (1620 - 1659), Sài Gòn 1972)… cho đến các nhà Việt ngữ học sau này như: Nguyễn Thị Bạch Nhạn (Tìm hiểu sự biến đổi hình thức chữ quốc ngữ từ “Từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes” đến “từ điển Việt-La” của Pigneaux de Béhaine,Tạp chí Ngôn ngữ số 1, 1994), Lý Toàn Thắng (Về vai trò của Alexandre de Rhodes đối với sự chế tác và hoàn chỉnh chữ quốc ngữ, Tạp chí Ngôn ngữ số 1, 1996), Nguyễn Đình Đầu (Dinh trấn Quảng Nam với sự sáng tạo chữ quốc ngữ, Tạp chí Xưa và Nay số 124, 2002)… đều công nhận rằng: Alexandre de Rhodes là người có công lớn đối với việc đưa chữ quốc ngữ lên một mức hoàn chỉnh. Và năm Alexandre de Rhodes xuất bản ba công trình nói trên, năm 1651, được tính như một cột mốc quan trọng trong sự phát triển của chữ quốc ngữ.
Cho nên, nếu có ai đó cho rằng Alexandre de Rhodes là người sáng tạo chữ quốc ngữ, thì quả là đã không công nhận sự nỗ lực của những nhà Việt ngữ học trong suốt thế kỷ 20.
Alexandre de Rhodes có “đạo” công trình của hai giáo sĩ Atonio Barbosa và Gaspar de Amaral hay không?
Có thể khẳng định ngay rằng: không! Cho tới nay, tất cả những nghiên cứu trực tiếp hay gián tiếp về Từ điển Việt-Bồ-La đều luôn làm rõ một điều rằng: từ điển ấy là một sự kế thừa, một sự tổng hợp… những thành tựu của các công trình đi trước, và nỗ lực học hỏi, tìm tòi, quan sát, phân tích… của chính Alexandre de Rhodes.
Giáo sư Nguyễn Thiện Giáp trong công trình “Lược sử Việt Ngữ học” (Nxb Giáo dục, 2004) đã cung cấp cho chúng ta những cứ liệu chính xác về tính minh bạch của vấn đề này qua việc trích dẫn lời tựa của Alexandre de Rhodes trong Từ điển Việt – Bồ - La như sau:
Trong lời tựa cuốn Từ điển Việt-Bồ-La, Alexandre de Rhodes kể lại: “Trong công việc này (tức việc biên soạn cuốn từ điển Việt-Bồ-La - NV), ngoài những điều mà tôi đã học được nhờ chính người bản xứ trong suốt gần hai mươi năm, thời gian tôi lưu lại xứ Đàng Trong và Đàng Ngoài, thì ngay từ đầu, tôi đã học với cha Francisco de Pina, người Bồ Đào Nha, là thầy dạy tiếng, người thứ nhất trong chúng tôi rất am tường tiếng này, và cũng là người thứ nhất bắt đầu giảng thuyết bằng phương ngữ đó mà không dùng thông ngôn…” (Sđd, tr.114). Ở đoạn khác, giáo sư trích dẫn tiếp lời của Alexandre de Rhodes: “Tôi lợi dụng công việc của các giáo sĩ khác cũng thuộc dòng Tên, nhất là Gaspar de Amaral và Antonio Barbosa. Cả hai ông này đều làm mỗi người một cuốn từ điển. Ông Gaspar de Amaral làm cuốn Annamiticum – Lusitanum (từ điển Việt-Bồ - NV), ông Antonio Barbosa làm cuốn Lusitanum – Annamiticum (từ điển Bồ - Việt -NV). Nhưng tiếc rằng cả hai ông đều chết sớm. Tôi lợi dụng công việc của cả hai ông để viết ra cuốn từ điển mới, có chua thêm tiếng Latin, mục đích để giúp người bản xứ học tiếng Latin theo lệnh của các Đức Hồng y” (sđd tr.116).
Như thế, chẳng những Alexandre de Rhodes không “đạo” công trình của hai giáo sĩ Gaspar de Amaral và Antonio Barbosa, mà còn trân trọng nhắc đến hai ông cùng những giáo sĩ khác, cũng như những người bản xứ trong việc giúp Alexandre de Rhodes hoàn thành cuốn từ điển nổi tiếng này.
Học giả Roland Jacques, người Pháp, một người cũng có nhiều chuyên khảo về tiếng Việt và chữ quốc ngữ, đã tìm thấy ở Lisbon tài liệu “Manuductio al linguam Tunckinensen – Dẫn luận về tiếng Bắc Kì” mà ông cho rằng của giáo sĩ Onofre Borges, người đã truyền giáo tại Bắc kì từ năm 1643 đến 1663. Sau khi so sánh công trình “Manuductio al linguam Tunckinensen – Dẫn luận về tiếng Bắc Kì” và “Báo cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay tiếng Đông Kinh - Linguae annamitcae seu Tunkinensis Brevis Declaratio” đã kết luận: “Rhodes và Borges đã làm việc riêng rẽ trên cùng một văn bản cơ sở, vốn là di sản chung của các giáo sĩ Dòng Tên trong giáo đoàn ở Việt Nam, và mỗi người đã điều chỉnh và bổ sung theo cách riêng của mình.”
Và nếu đọc lại các công trình nghiên cứu về chữ quốc ngữ nói chung và về Từ điển Việt-Bồ-Lanói riêng, của các nhà Việt ngữ học trong và ngoài nước, chúng ta đều bắt gặp những đoạn trích dẫn lời tựa của Alexandre de Rhodes nhằm làm sáng tỏ rằng: chữ quốc ngữ được hình thành trong một thời gian dài với công sức của rất nhiều giáo sĩ phương Tây và người bản xứ, đến thời Alexandre de Rhodes thì đạt đến một mức độ hoàn chỉnh nhất định. Điều đó hoàn toàn trái ngược với luận điểm “Alexandre de Rhodes đã “đạo” công trình”.
Chữ “de” trong Alexandre de Rhodes có “kệch cỡm”?
Thiết tưởng cũng cần phải nói đến chữ “de” mà GS-TS Phạm Văn Hường cho là “kệch cỡm”. Trong cuốn “Divers Voyages et Missions” (Hành trình và truyền giáo)[1] xuất bản tại Pháp năm 1653, người ta thấy cái tên Alexandre de Rhodes đường hoàng đứng ở vị trí tác giả. Ở mấy trang đầu của cuốn sách này, có bản “trích đặc quyền” mà Nhà vua, Hoàng hậu nước Pháp thời bấy giờ, cùng với Hội đồng quản trị thành phố Paris cho phép nhà xuất bản Cramoisy được phép in hay cho in cuốn sách nhan đề “Các Hành trình và Truyền giáo của Cha Alexandre de Rhodes tại Trung Quốc, và các Vương quốc khác với việc ông trở lại Âu châu nga qua Ba Tư và Armênia”. Liền ngay sau trích đặc quyền này là phép của cha Francois Annat, Bề trên Giám tỉnh Dòng Tên tại Pháp, “cho phép ông Sébastien Cramoisy, thương gia chủ hiệu sách và chủ ấn quàn thường trực của Vua, Cựu thành viên Hội đồng Quản trị và Thẩm phán Lãnh sự của thành phố Paris in cuốn “Các Hành trình và Truyền giáo của CHA ALEXANDRE DE RHODES tại Trung Quốc, và các Vương quốc khác.v.v.” mà ba trong số các cha Dòng chúng tôi đã đọc và chấp thuận”. Chắc hẳn Nhà Vua, Hoàng hậu, Hội đồng quản trị thành phố Paris, và các cha Dòng Tên tại Pháp thời đó đủ tỉnh táo để nhận ra tính chân thực hay không của cái tên Alexandre de Rhodes.
Có lẽ điều này cũng đủ để trả lại lại tư cách cho chữ “de” của con người Alexandre de Rhodes.
Còn những vấn đề khác trong bài (như phụ âm (chứ không phải phụ ngữ), vấn đề tám ngày), chúng ta có thể tìm đọc trong những công trình nghiên cứu về chữ quốc ngữ rất chi tiết và xác thực của các nhà Việt Ngữ học trong suốt thế kỷ 20 ./.
[1] Bản dịch Việt ngữ của Hồng Nhuệ (Nguyễn Khắc Xuyên), bản Pháp ngữ của Nxb Cramoisy năm 1653. Sách do Uỷ ban Đoàn kết Công giáo Tp.HCM xuất bản năm 1994, có sao chụp nguyên vẹn bản Pháp ngữ năm 1653.

Friday, 13 July 2012

Mê muội cái gì thì tốt?


Câu 2 trong đề thi đại học môn văn, khối D năm 2012 "Ngưỡng mộ thần tượng là một nét đẹp văn hóa nhưng mê muội thần tượng lại là một thảm họa” có nhiều chỗ vớ vẩn. Một trong những chỗ vớ vẩn đó là định hướng cách trả lời quá lộ liễu cho một câu hỏi (gọi là) mở.
Mê muộiMất tỉnh táo, mất sáng suốt đến mức không còn nhận biết đâu là đúng, đâu là sai (Nguyễn Kim Thản, 2005:1044). Các từ điển xưa nay có thể cắt nghĩa mê muội với lời lẽ khác nhưng vẫn chỉ là cái nghĩa ấy:
-dại dột, vô tâm, vô tri, mất trí khôn (Huình Tịnh Của (1896b:28))
-sai lầm mờ tối (Đào Duy Anh, 2005:491)
-cùng nghĩa như mê mẩn.mê mẩnsay mê đắm đuối (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:341)
Bản thân từ mê muội mang sắc thái tiêu cực. Không phải chỉ mê muội thần tượng mới là thảm họa. Bảo rằng học trò đi thi có thể có ý kiến trái ngược, nhưng thật ra chỉ em nào ngu muội lắm mới dám bảo mê muội thần tượng (từ thần tượng hiẻu theo nghĩa nào cũng được và có thể thay thần tượng bằng bất cứ từ nào của tiếng Việt: lý tưởng, tiền tài, danh vọng, bằng cấp... ) là tốt. Em đó mà được chấm đạt, ắt là có sự ám muội ở đâu đây.