Sunday, 7 April 2013

NHÂN SỬA MỘT CHỮ SAI - Phan Văn Các

5.Nhân sửa một chữ sai (TBHNH 2002)
Cập nhật lúc 23h20, ngày 03/04/2007

NHÂN SỬA MỘT CHỮ SAI

PHAN VĂN CÁC

PGS. Viện Nghiên cứu Hán Nôm

      Chữ ấy ở trong cuốn sách “Đình Việt Nam” Community Halls của hai tác giả Hà Văn Tấn – Nguyễn Văn Kự1.

      Phải nói ngay rằng đó là một cuốn sách đã được thực hiện rất công phu. Trong Lời nói đầu, các tác giả đã viết: “Trong quá trình biên soạn cuốn sách Đình Việt Nam, chúng tôi đã được thừa hưởng những công trình nghiên cứu về đình trước đây của các học giả trong và ngoài nước, những tư liệu lưu trữ của các cơ quan khoa học và sự giúp đỡ quý báu của Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia, Cục Bảo tồn bảo tàng (Bộ Văn hoá Thông tin), Viện Khảo cổ học, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, Sở Văn hoá Thông tin, Bảo tàng, Ban Quản lý di tích các tỉnh, các thành phố, các cấp chính quyền, nhân dân các địa phương đoàn đã đến nghiên cứu và của các bạn đồng nghiệp”.

      Sách đã được dịch sang tiếng Anh bởi Giáo sư Keith Weller Taylor, nhà Việt Nam học có tiếng, Chủ nhiệm khoa châu Á, trường Đại học Cornell Hoa Kỳ, và xuất bản bởi NXB Thành phố Hồ Chí Minh, gồm 436 trang, in trên giấy cực tốt với 520 ảnh màu chụp rất đẹp.

      Sau một bài khảo cứu (68 trang) công phu về nguồn gốc, kiến trúc đình qua thời gian và không gian, điêu khắc đình làng, về thần và tín ngưỡng ở đình, lễ hội ở đình, các tác giả đã tập trung giới thiệu một số ngôi đình tiêu biểu (62 ngôi) trong cả nước từ bắc đến nam.

      Có thể nói các tác giả đã đạt được mong muốn của mình và cuốn sách rõ ràng là “có ý nghĩa không những đối với việc nhận thức văn hoá truyền thống Việt Nam” mà còn giúp vào “nhận thức về một xã hội đang trong quá trình biến chuyển hiện nay”.

      Sở dĩ phải nói dài dòng về cuốn sách như vậy là để thấy đúng công lao và thành tựu của các tác giả. Và một chữ sai mà chúng tôi phát hiện dưới đây chỉ là một hạt sạn nhỏ trong một công trình lớn.

      Nhưng chính vì đánh giá cao cả công trình, nên chúng tôi càng thấy cần thiết phải sửa chữ sai cá biệt ấy. Là tác phẩm của một nhà khoa học đầy uy tín, cuốn sách có thể sẽ được nhiều người tham khảo, viện dẫn. Thậm chí, biết đâu chính những người có trách nhiệm gìn giữ tôn tạo và thuyết minh di tích lại vì quá tin vào sách mà sửa lại chữ vốn đúng của di tích thì thật là tai hại.

      Ở các trang 148 và 150, khi miêu tả và giới thiệu đình Yên Sở, các tác giả viết: “Gian chính trong đình có bức hoành phi đề “Vạn cổ thiên thành”, nhưng không dịch nghĩa “Vạn cổ thiên thành” là gì.

      May thay, ở trang 152, ảnh số 64 Chính điện đình Yên Sở có chụp rõ bức hoành phi ấy. Thì ra đó là bốn chữ Vạn cổ can thành. Và chữ can với nét ngang ngắn trên đầu, đã bị đọc nhầm thành chữ thiên(với nét phẩy trên đầu). Có lẽ một phần “lỗi” tại chữ vạn ở đầu đã gợi cho người ta liên tưởng nhầm đến chữ thiên là “ngàn” ở sau. Nhưng lý do chính là ở bản thân can thành là một từ ghép tiếng Hán cổ, không được du nhập vào tiếng Việt.

      “Can thành” trong tiếng Hán cổ là một từ ghép đẳng lập gồm 2 từ tố danh từ: “can” vốn nghĩa là cái mộc, cái khiên, là từ đồng nghĩa của “thuẫn” , khí cụ phòng ngự. (Sách Phương ngôn方 言 của Dương Hùng cho biết: , 自關 而 東 或 謂 之 干, 關 西 謂 之 盾.Thuẫn, tự Quan nhi đông hoặc vị chi can, Quan tây vị chi thuẫn. Cái thuẫn, từ Hàm Cốc quan về phía đông có vùng gọi là can, phía tây Hàm Cốc quan gọi là thuẫn); thành là kiến trúc xây quanh đô ấp để bảo vệ nó, và khi cần phân biệt tỉ mỉ thì thành là thành bên trong, phân biệt với quách là thành bên ngoài. Can thành vốn là tên hai công cụ phòng ngự, tự vệ, ghép thành danh từ ghép song âm đẳng lập can thành với ý nghĩa là sự chở che, phòng vệ. Kinh Thi. Chu Nam. Thố tư .周南.兔罝 có câu: 赳 赳 武 夫, 公侯 干 城  Củ củ võ phu, Công hầu can thành. / Dáng vẻ oai hùng, các võ sĩ là tấm thuẫn là bức thành cho các công hầu (che chở nhân dân, gìn giữ cõi bờ). Còn có một từ Can thành 干 城  khác, là một địa danh ở nước Vệ thời Xuân Thu, tức thôn Can Thành phía bắc huyện Bộc Dương, tỉnh Hà Bắc ngày nay, thì không liên can đến trường hợp đang xét.

      Vậy là đã rõ: Vạn cổ can thành có nghĩa là “sự phòng vệ chở che muôn đời”, bức hoành phi ở đình Yên Sở. Đó chính là lời ca ngợi vị thần Phạm Tu hay Lý Phúc Man, người làng Cổ Sở, một tướng của Lý Nam Đế (541-548), được thờ tại đình này.

      Âu cũng là một trong những vấn đề muôn thuở của văn bản học chữ Hán: vì hình chữ giống nhau nên một khi không nắm vững ngữ nghĩa thì đọc chữ nọ, xọ chữ kia, điều mà người Hán đã từng đúc kết trong thành ngữ “lỗ ngư hợi thỉ” 魯 魚 亥 豕  hay như các cụ ta nói chữ “tác” vạc chữ “tộ”, chữ “ngộ” đánh chữ “quá” (/;/). Để khắc phục tình trạng đó, phương pháp cơ bản nhất đương nhiên là phải nắm vững ngữ nghĩa của từ và cấu trúc cú pháp Hán ngữ, song cũng có một cách làm thực dụng là liệt kê những cặp chữ có hình tương tự để ghi nhớ và tra cứu khi cần thiết. Dưới đây là một bản liệt kê những chữ thường dễ nhầm lẫn như vậy (130 cặp chữ).


ÁI
tên người (Lao Ái thời Chiến Quốc)
ĐỘC (độc ác)
BA
chữ của người Hoa Đông Nam Á. BA BA (người Hoa nam tính đẻ ra ở địa phương đó) (đảo Pa li ở In đô nê xi a)
ĐÁP (trả lời)
BẢN
benzen
BÁT (đần, vụng)
BẶC
(địa danh ở An Huy, huyện Bặc)
HÀO (lông tơ; mảy may)
BÂN
nho nhã 彬 彬 有 禮  (nho nhã lễ phép)
sam (cây sam)
sâm (địa danh, huyện Sâm ở Hồ Nam)
BỆ
trong 薜 荔  bệ lệ, tên cây.
TIẾT (họ Tiết)
BIỆN
họ Biện
CA, KHẢ (dịch âm)
BỘ
bến tàu, thành phố có bến tàu
PHỤ (núi đất; giàu có)
BỘ
簿
(hoặc BẠ) sổ, vở
BẠC (mỏng)
CẮNG
dai dẳng 古 及 今 Suốt từ xưa đến nay (cv. )
HỖ (qua lại, lẫn nhau)
CÂU
tên cây, trong 枸 橘 câu quất, 枸 杞 cẩu kỉ
CÂU trong 拘 留 câu lưu (tạm giam, giam giữ)
CẤU
giương cung; cái tròng. 入 我 彀 中 nhập cấu trung/ rơi vào tròng của ta ngã
CỐC (thóc; hạt cốc)
XÁC (vỏ cứng)
CỐT
trong汩 汩  [nước chảy] ào ào, cuồn cuộn
MỊCH (汨 羅  Mịch La, tên sông, nơi Khuất Nguyên tự trầm)
thân cây đậu
KI (cái ki, cái giành)
CỪ
tên sông, Cừ thuỷ ở Hà Nam (TQ)
KHỨU (bờ rôm; một nguyên tố á kim)
CỨU
cứu, một phép chữa bệnh của Đông y, trong 針 灸 châm cứu.
Chá (chả; trong 膾 炙  khoái chá)
CHẮP
chớp [mắt]
BIẾM (giáng chức; hạ thấp; chê)
CHỦ
một loài hươu (nói trong sách cổ), đuôi có thể làm phất trần.
TRẦN (bụi)
CHUY
chim cụt đuôi (nói trong sách cổ)
GIAI (đẹp, tốt)
CHI
be, nậm [rượu] thời cổ.
ÁCH (tai ách)
luyện kim
TRỊ (trị, chữa)
DẶC
mũi tên có buộc dây
QUA (cái dáo)
DỊCH
bờ 彊 埸  bờ cõi
trường (bãi; chỗ)
DỊ
(trong 肄 業  học chưa tốt nghiệp)
TỨ (buông thả; bừa bãi)
DIỂU
xa xôi, 杳 無 音 信  bặt vô âm tín
TRA (kiểm tra, tìm)
DU
trong tu du/chốc lát
TẨU (ông già)
DUYỆN
địa danh, châu Duyện (tỉnh Sơn Đông)
CỔN (áo cổn của vua)
dũ tù, chết trong tù
SẤU (gầy)
DỮU
cái be, cái nậm [rượu] thời cổ
LỖ (nước chát, nước đặc)
DỮU
địa danh, 大 庾 嶺 Đại Dữu Lĩnh; họ Dữu
SẤU (gầy)
ĐANG
tủ, ngăn tủ, 檔 案 đang án/hồ sơ, tài liệu lưu trữ
ĐÁNG (ngăn trở; che cản)
ĐÊ, ĐỂ
căn bản; tên riêng một dân tộc cổ đại ở Trung Quốc
THỊ (họ)
ĐỊCH
chim trĩ dài đuôi; tên người 墨 翟  Mặc Địch, triết gia Tiên Tần
(họ Cù)
ĐIÊU
ngậm, tha, cắp bằng mồm
ĐAO (lầu bầu); THAO (được nhờ)
ĐẠP
rườm, lặp
DIỂU (xa xôi)
ĐÀ
sải tay
ĐỘ (mức độ)
ĐỒ
một loài rau đắng 荼 毒 生 靈 đồ độc sinh linh/ tàn hại sinh linh
TRÀ (chè)
GIÀ
cái khèn (nhạc cụ dân tộc thiểu số)
GIA (cà)
GIAN
một loài cỏ 草 菅 人 命 thảo gian nhân mạng/coi mạng người như cỏ rác
QUẢN (ống; quản lý)
HANH
hanh thông, thuận lợi, trót lọt
HƯỞNG (hưởng thụ)
HỒ
cái cung; đường cong
(mồ côi; cô đơn)
HẠP
sao chẳng, tại sao không
CÁI (đậy, che, đắp, trùm)
HẦU
tước hầu 王 侯  vương hầu
HẬU (mùa, thời tiết; chờ, đợi)
HOÀI
tên sông, Hoài hà
CHUẨN (cho phép)
HOÀN
họ Hoàn 盤 桓  bàn hoàn/quẩn quanh
HẰNG (vĩnh hằng, không đổi)
HOANG
trong 病 入 膏 肓 bệnh nhập cao hoang/bệnh tình nguy kịch, vô phương cứu chữa
MANH (mù)
HUỲNH
địa danh. 滎 經  Huỳnh Kinh, ở Tứ Xuyên 滎 陽  Huỳnh Dương ở Hà Nam (TQ)
VINH (vinh, vẻ vang)
KHÁNG
cái giường lò
KHANH (cái hố, cái rãnh)
KHOA
cái hang ổ, 窠 臼  khoa cữu/cách thức có sẵn, khuôn sáo
SÀO (cái tổ chim)
KHỔN
đường đi trong cung vua
HỒ (cái bình, cái ấm)
KHIÊU
ván trượt tuyết; guốc trượt bùn
KHIỀU (khều, bẩy)
KHOÁN
khoán; hợp đồng; vé
QUYỂN (quyển sách; cuốn)
thần Đất
CHI (tôn kính)
KIỀM
con dấu. 鈐 記  kiềm kí/con dấu cơ quan đoàn thể thời xưa, thường có hình chữ nhật, không trịnh trọng bằng ấnquan phòng
LINH (chuông nhỏ)
KỈ
mình; ngôi 6 trong 10 can
(đã)
TỊ (giờ tị, ngôi 6 trong 12)
hi vọng; tên gọi khác của tỉnh Hà Bắc (TQ)
DỰC (cánh)
KẾ
trong 大 薊  đại kế/một loại cây làm thuốc; 薊 馬  kế mã/con bọ lông (một loài côn trùng)
(họ Tô)
KIỂM
mi mắt
KIỂM (má, mặt)
LẠC
rõ ràng, nổi bật
LAO (chuồng súc vật; vật hi sinh; nhà tù; vững chắc)
LẬT
trong Lật Túc (một dân tộc thiểu số ở Vân Nam, Tứ Xuyên, TQ)
TÚC (trong Lật Túc, như trên)
LI
gặp phải [khó khăn, bất hạnh]
LA (cái lưới)
LIÊU
thưa thớt 寥 寥 無 幾 liêu liêu vô kỷ/lác đác không có mấy. 寂 寥 tịch liêu/vắng vẻ trống trải
LIÊU (họ Liêu)
LINH
mát. 泠 泠 linh linh/mát rượi; róc rách
LÃNH (lạnh)
LỖI
bắp cày, cái cày
LAI (đến, chữ giản thể của lai )
LUY
ốm yếu, gầy yếu
DOANH (thắng, được)
DOANH (họ Doanh, 嬴 政  Doanh Chính, họ tên Tần Thuỷ Hoàng)
LẠT
ngang ngược
THÍCH (cái gai; đâm)
LIỄN
xe người kéo; xe vua
BỐI (bọn; vai lứa, thế hệ)
MẠI
gắng sức
LỆ (khen, khích lệ)
MÃO
sao Mão (trong nhị thập bát tú)
NGANG (cất cao, hiên ngang)
MỊCH
vải che, che, đậy; số mũ (luỹ thừa)
MẠC (màn)
MIÊN
che lấp, không nhìn thấy
CÁI (xin, ăn mày)
MIỄN
(hoặc mẫn) cố gắng. 黽 勉  mẫn miễn/gắng sức, nỗ lực
QUY (rùa)
NHIỄM
họ Nhiễm. 冉 冉 nhiễm nhiễm/mềm rũ xuống; từ từ
TÁI (lại, một lần nữa)
NHUẾ
cái mộng (đồ gỗ) 方 枘 圓 鑿 phương nhuế viên tạc/mộng vuông lỗ tròn, vênh vẹo, không ăn khớp.
BÍNH (cái cán; quyền bính)
NHỤY
nhụy hoa
TÂM (bấc đèn; ngòi pháo; lưỡi rắn)
NOÃN
thẹn đỏ mặt
(tha tội)
HÁCH (họ Hách)
NGU
(hoặc NGUNG) góc 街 頭 巷 隅  nhai đầu hạng ngu/đầu đường góc phố
NGẪU (chẵn; tình cờ)
OÁT
quay, xoay. 斡 旋 oát toàn/hoà giải
CÁN (cái cán; thân; làm)
PHIẾN
mảnh, tấm; phim
BÀN (thanh củi, củi chẻ)
PHÙNG
gặp
BÀNG (họ bàng)
PHU
mu bàn chân
ĐIỆT (ngã)
QUYNH
then cửa, chốt cửa; đóng cửa
CỤC (cuộc, cục bộ, cục diện)
QUÝNH
[khác] xa
HỒI (về)
QUỲ
đường đi
ĐẠT (đến; đạt được)
SAN
lã chã. 潸 然 淚 下  san nhiên lệ hạ/lệ rơi lã chã
TIỀM (lặn, ngầm)
SỨC
sửa soạn; ra lệnh (quan sức cho dân)
SỨC (trang sức; đóng vai diễn)
SƯỞNG
thoáng; mở ra; để ngỏ. sưởng khai/rộng mở.
TỆ (rách nát, xấu)
SƯU
giấu
SẤU (gầy)
(tên riêng)
THÁC
khai thác; in rập
GIÁ (một loài cây dâu)
THÁC
cái mõ cầm canh
TÍCH (tách, phân tích)
SÁCH (bóc; dỡ; tháo rời)
THẢI
cho vay; vay; khoản vay
HOÁ (hàng hoá)
THẤP
sửa nhà
NHUNG (mềm; nhung hươu)
THẢNG
của, tiền trong kho
NỖ (gắng sức)
NOA (con; thê noa)
THẾ
xây [tường]
THÊ (pha trà)
THỊ
đậu xị [làm xì dầu]
CỔ (cái trống)
THỊ
hầu hạ
ĐÃI (đợi; đối đãi)
THỊ
cậy, dựa
TRÌ (giữ; nắm)
THIỆM
nuôi dưỡng; đầy đủ
CHIÊM (xem, chiêm ngưỡng)
THIÊM
(trong 豨 薟 hi thiêm/cây thuốc Đông y, để nấu cao)
THIÊM (ký tên; cái thăm, cái thẻ)
THƯ
trong 雎 鳩  thư cưu/một loài chim nước
HUY (ngước mắt nhìn), TUY (địa danh; tên sông)
THƯ
nhọt độc
ĐẢN (bệnh hoàng đản)
THỨ
thứ lỗi; trung thứ
NỘ (giận)
TỈ
sợ hãi. 畏 葸 不 前  uý tỉ bất tiền/sợ sệt không dám tiến.
TỂ (thằng nhóc; động vật còn bé)
TỈ
dời; di chuyển
ĐỒ (học trò)
TỈ
cái chiếu tre. sàng tỉ/giường chiếu
ĐỆ (thứ)
TIÊU
cây trúc nhỏ
DU ( 麥  du mạch, một loại lúa mạch nhỏ hạt)
TIỂN
họ Tiển
TẨY (rửa, giặt)
TÍCH
trong 淅 瀝  tích lịch/tí tách, rả rích (từ tượng thanh)
CHIẾT (trong địa danh Chiết Giang)
TOẢN
sưu tập tư liệu. 編 纂 biên soạn, 纂 修 toản tu
THOÁN (thoán đoạt, cướp ngôi)
TOẠI
thoả 遂 願 toại nguyện; 半 身 不 遂 bán thân bất toại
TRỤC (đuổi)
TRẠO
mái chèo
ĐIẾU (rơi; mất)
TRẮC
lên cao
THIỆP (lội; dính vào)
TRỤ
mũ trụ. 甲 胄  giáp trụ
VỊ (dạ dày)
TRỦNG
ngôi mộ
TRÁC (giũa; đẽo gọt)
TRỮ
con thoi
TRỮ (bày tỏ, giãi bày, trong 抒 情  trữ tình)
TÚC
thóc
LẬT (hạt dẻ)
TUNG
núi cao; địa danh 嵩 名  Tung sơn (núi ở Hà Nam TQ)
KHAO (rau khao tư)
TỤY
mờ ám 鬼 鬼 祟 祟  quỷ quỷ tụy tụy/gian tà ám muội
SÙNG (cao; sùng kính)
ỨC
nén xuống. 壓 抑  áp ức/kìm nén
NGƯỠNG (ngẩng, ngước lên)
ƯNG
ngực. 義 憤 填 膺  nghĩa phẫn điền ưng/lòng đầy căm phẫn
NHẠN (hàng giả, đồ rởm)
VU
cái vu (nhạc khí cổ, giống cái sênh)
竿
CAN (cây sào)
XA
họ Xa
(ta, tôi)
địa danh; họ Xá
KHỐ (kho)
TUẤT
tuất (ngôi thứ 11 trong 12 chi)
MẬU (ngôi thứ 5 trong 10 can)
THÚ (canh giữ; lính thú)
đừng, không được
MẪU (mẹ)
coi khinh, khinh nhờn. 欺 侮  khi vũ/bắt nạt, làm nhục
HỐI (hối hận)
YỂN
ngã ngửa.偃 旗 息 鼓Yển kì tức cổ/cuốn cờ im trống (thôi công kích, phê phán)
ÁT (nhổ lên, kéo lên 揠 苗 助 長  át miêu tự trưởng/kéo mạ lên cho mau lớn; nóng vội, đốt cháy giai đoạn.
BÀNG
to cồng kềnh
SỦNG (cưng chiều, sủng ái)
LỤC
địa danh, Lục Trực (ở Giang Tô, TQ)
GIÁC (góc; sừng)

Thông báo Hán Nôm học 2002, tr.46-62

Cổ súy cho tự xử là làm gì?


Cổ chữ Hán có nghĩa là cái trống.
Xúy (âm khác là xuy) chữ Hán  là thổi.
Lê Văn Đức (1970a:212) giảng cổ xúyđánh trống thổi sáo.
Cổ xúy đồng nghĩa với cổ vũ, cổ võ (Gustave Hue, 1937:102 ; Lê Văn Đức, 1970a:212).

Cổ súy không có nghĩa gì cả. Vì vậy không thể hiểu cổ súy cho “tự xử” nghĩa là gì. Nhưng báo Pháp Luật Thành Phố Hồ Chí Minh nhất định không chịu sửa cái tít vô nghĩa đó.


Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý, 1999:449) có mục từ cổ súy nghĩa là hô hào và động viên, xếp ngay sau cổ vũ và ngay trước cổ xưa, tức là đó vốn là vị trí của cổ xúy, nhưng ai đó đã sửa xúy thành súy. Cổ súy, nếu có một mục từ như vậy, phải nằm ngay sau cổ sơ và ngay trước cổ sử ở trang 448.

Saturday, 6 April 2013

Tiếp tục tìm hiểu về xuất xứ và ý nghĩa địa danh Cổ Loa (Trần Trí Dõi)


Tiếp tục tìm hiểu về xuất xứ và ý nghĩa địa danh Cổ Loa
(Qua cách giải thích địa danh này của Giáo sư Đào Duy Anh)

• Trần Trí Dõi

1. Dẫn nhập

Trong hai bài viết trước đây, chúng tôi đã sơ bộ trình bày những vấn đề khác nhau liên quan đến việc tìm hiểu xuất xứ (hay nguồn gốc) và ý nghĩa ban đầu của địa danh Cổ Loa nhằm bổ sung cho cách giải thích về tên gọi này của giáo sư Đào Duy Anh [Đào Duy Anh, 1997]. Ở bài viết thứ nhất(1), chúng tôi đã tìm hiểu cách lập luận theo đó ông cho biết Cổ là cách Hán Việt hoá từ nôm "kẻ" trong tiếng Việt (với ý nghĩa là “làng”) mà thành. Đồng thời cũng nhờ cách giải thích nói trên của ông mà chúng ta nhận biết Cổ Loa, Khả Lũ (địa danh Hán Việt khác của Cổ Loa) xuất hiện trong thư tịch Hán Việt, sớm nhất, cũng chỉ từ thế kỉ XIII trở về sau.
Ở bài viết thứ hai(2), sau khi phân tích mối liên hệ ngữ âm giữa tên nôm và tên Hán Việt của 52 làng ở miền Bắc, chúng tôi cũng đã bước đầu chứng minh rằng khó có khả năng một thành tố chung của địa danh[FNT3a] nôm (thành tố chung kẻ trong phức hợp địa danh kẻ Loa) lại chuyển thành một yếu tố tên riêng Hán Việt (trong phức hợp địa danh làng Cổ Loa). Lí do khiến chúng tôi suy nghĩ như thế là vì cách chuyển đổi ấy là khác biệt với chuyển đổi của 52 tên nôm và tên Hán Việt theo kiểu Cổ Loa. Do đó, nếu có hiện tượng như giáo sư Đào Duy Anh nêu ra thì đó chỉ là duy nhất ở trường hợp địa danh Cổ Loa mà thôi. Nói một cách khác, cách giải thích của ông có vẻ chưa thật hợp lí khi phân tích tính hệ thống trong chuyển đổi địa danh tên làng từ nôm sang Hán Việt. Bởi vì khi cho rằng trong địa danh Hán Việt Cổ Loa, yếu tố Cổ là dạng chuyển đổi của kẻ, một yếu tố thuộc thành tố chung của phức hợp địa danh thì tính nhất quán do tư liệu có được (như chuyển đổi của 52 tên nôm sang tên Hán Việt đã phân tích) sẽ bị phá vỡ.
Cũng ở bài viết thứ hai, vì tình trạng nói trên, chúng tôi nghĩ rằng có thể có cách giải thích khác. Theo đó rất có thể Cổ Loa là địa danh Hán Việt liên quan về ngữ âm với một địa danh Hán Việt khác là Khả Lũ. Đồng thời cả hai địa danh Hán Việt này lại có mối liên hệ ngữ âm với địa danh nôm là chạ Chủ. Vậy là, ở đây hình như để tìm hiểu xuất xứ củaCổ Loa, theo chúng tôi, chúng ta sẽ phải tìm hiểu trong mối quan hệ/liên hệ giữa Chủ–Khả Lũ–Cổ Loa. Lí do là, nếu không làm như vậy, sẽ rất khó giải thích để mọi người đồng ý cho rằng người Việt khi đã có tên nôm (chạ) Chủ (với nghĩa là “làng Chủ”) vốn hoàn toàn “thuần Việt” lại bỏ nó đi để dùng một tên khác là (kẻ) Loa nửa thuần Việt, nửa Hán. Bởi vì, theo như cách giải thích của giáo sư Đào Duy Anh, Loa là một yếu tố Hán có nguồn gốc từ địa danh Loa Thành do người Hán sử dụng trong thư tịch của Trung Quốc [Đào Duy Anh: 1997, trang 31-32].
Trong bài viết thứ ba này chúng tôi dự định sẽ đặt nhiệm vụ cho mình là xác định mối liên hệ ngữ âm có thể có trong lịch sử giữa ba thành tố tên riêng Chủ–Khả Lũ–Cổ Loatrong phức hợp địa danh (làng/chạ/kẻ) Chủ–Khả Lũ–Cổ Loa. Chúng tôi ngờ rằng chính mối liên hệ này sẽ là chìa khoá giải thích căn nguyên để có được hình thức ngữ âm Hán Việt Cổ Loa như hiện nay. Và nếu điều này là phù hợp, cũng sẽ nhờ đó, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa ban đầu thực sự của địa danh nổi tiếng này.

2. Thử tái lập dạng thức ngữ âm của âm tiết nôm “Chủ” trong phức hợp địa danh chạ Chủ

Trong tiếng Việt, phức hợp địa danh chạ Chủ có nghĩa là làng Chủ hay kẻ Chủ. Phức hợp ấy gồm hai yếu tố, trong đó chạ, làng, kẻ là thành tố chung chỉ “loại đơn vị cư trú”, còn yếu tố Chủ mới chính là tên riêng, thành tố địa danh đích thực[FNT3b]. Nhờ thành tố tên riêng này mà người ta phân biệt, chẳng hạn, (chạ, làng, kẻ) Chủ với (chạ, làng, kẻ) Mọc hay với (chạ, làng, kẻ) Chấp v.v... Cũng nhờ việc nhận diện nét khác biệt giữa hai yếu tố đó mà chúng ta đã có sự phân tích mối liên hệ ngữ âm giữa một âm tiết nôm Chủ và hai âm tiết Hán Việt Cổ Loa/Khả Lũ. Theo chúng tôi, sự tương ứng có tính nhất loạt như đã từng phân tích ở bài viết thứ hai là chìa khoá trong việc tái lập dạng thức ngữ âm của tên nôm “Chủ”.
2.1. Như đã từng phân tích và rút ra nhận xét ở trên, ở trường hợp chúng ta đang quan tâm, âm tiết nôm Chủ và hai âm tiết Hán Việt Cổ Loa/Khả Lũ có mối liên hệ với nhau. Để làm rõ mối liên hệ ngữ âm đang được quan tâm này, trước hết chúng ta sẽ nhận diện dạng ngữ âm ban đầu có thể có của âm tiết Chủ hiện nay. Do đó cũng có nghĩa là chúng ta thử tái lập dạng thức tiền ngôn ngữ của dạng ngữ âm âm tiết Chủ.
Chúng ta có những tên làng nôm tương ứng với tên Hán Việt giống như trường hợp đang được khảo sát ở đây như sau:
STTĐịa danh nômHán ViệtVị trí địa lí
1(kẻ/làng) ChấpCá LậpQuảng Xương (Thanh Hoá)
2(làng) ChèmTừ LiêmTừ Liêm (Hà Nội)
3(làng) ChỗCao ThọGia Bình (Bắc Ninh)
4(kẻ) ChẩyTri Lễ/Ước LễThanh Oai (Hà Tây)
5(kẻ) ChuôngPhương TrungThanh Oai (Hà Tây)
6(kẻ) Dâu/GiâuCổ ChâuTừ Sơn (Bắc Ninh)
7(kẻ) ChámCổ LãmLương Tài (Bắc Ninh)
8(chạ/kẻ) ChủCổ Loa/Khả LũĐông Anh (Hà Nội)
9(kẻ) ChàiCổ TraiKiến Thuỵ (Hải Phòng)
10(làng/kẻ) GiaiThư TraiPhúc Thọ (Hà Tây)
11(kẻ) DạmCổ LãmVõ Giàng (Bắc Ninh)
12(kẻ) GiaiCổ TraiDuyên Hà (Thái Bình)
13(kẻ) Sốm/XốmCổ LãmHà Đông (Hà Tây)
14(làng/kẻ) SẩuHà LiễuThanh Trì (Hà Nội)
15(làng) TròiKhúc ToạiVõ Giàng (Bắc Ninh)
16(làng/kẻ) ChôiThượng ThuỵĐan Phượng (Hà Tây)
Trong 16 tên làng nói trên, có thể chia ra thành những kiểu tương ứng khác nhau giữa âm tiết nôm với âm tiết Hán Việt. Những kiểu tương ứng ấy phản ánh những biến đổi ngữ âm khá thú vị. Tình hình cụ thể là như sau:
a, Có 5 trường hợp thể hiện sự tương ứng giữa âm đầu âm tiết nôm ch- với âm đầu âm tiết Hán Việt thứ hai là l-. Đó là:
STTĐịa danh nômHán ViệtVị trí địa lí
1(kẻ/làng) ChấpCá LậpQuảng Xương (Thanh Hoá)
2(làng) ChèmTừ LiêmTừ Liêm (Hà Nội)
4(kẻ) ChẩyTri Lễ/Ước LễThanh Oai (Hà Tây)
7(kẻ) ChámCổ LãmLương Tài (Bắc Ninh)
8(chạ/kẻ) ChủCổ Loa/Khả LũĐông Anh (Hà Nội)
Căn cứ vào tương ứng ngữ âm giữa âm đầu ch- với l- và giữa phần vần của âm tiết nôm với âm tiết Hán Việt thứ hai, ngữ âm lịch sử tiếng Việt(4) cho biết rằng có thể dạng thức tiền ngôn ngữ của Chèm là *tlèm/*klèm, của Chấp là *llấp/*klấp và của Chủ là*tlủ/*klủ(5). Đây có lẽ là những tương ứng phản ánh việc chuyển từ ngữ âm thuần Việt sang ngữ âm Hán Việt thông thường nhất, do đó đây là sự chuyển đổi điển hình nhất. Cũng chính nhờ sự chuyển đổi này, người ta có quyền nghĩ rằng những tên làng nói trên là những tên làng thuộc loại “xưa nhất” của cư dân người Việt.
b, Có 5 trường hợp thể hiện sự tương ứng giữa âm đầu âm tiết nôm ch- hoặc tr- với âm đầu âm tiết Hán Việt thứ hai là th-, t- hoặc tr-. Đó là:
STTĐịa danh nômHán ViệtVị trí địa lí
1(làng) ChỗCao ThọGia Bình (Bắc Ninh)
2(kẻ) ChuôngPhương TrungThanh Oai (Hà Tây)
3(kẻ) ChàiCổ TraiKiến Thuỵ (Hải Phòng)
4(làng) TròiKhúc ToạiVõ Giàng (Bắc Ninh)
5(làng/kẻ) ChôiThượng ThuỵĐan Phượng (Hà Tây)
Đối với những trường hợp này, sự khác biệt giữa ch- và tr- ở âm tiết nôm chỉ là sự khác biệt về mặt văn tự. Vì thế căn cứ vào âm đầu th-tr- và t- của âm tiết thứ hai trong địa danh Hán Việt, người ta có thể nghĩ rằng sự khác biệt về văn tự của âm đầu âm tiết nôm chỉ là những dạng văn tự khác nhau của một tổ hợp âm đầu thuần Việt trước đây. Tổ hợp âm đầu thuần Việt ấy nhiều khả năng là một tổ hợp giữa một âm tắc /t-/ hay /k-/ với một âm lỏng /l-/ hay /r-/ kiểu [kl-]/[kr-] hay [tl-] hiện tiếng Mường và một vài phương ngữ Việt vẫn còn lưu giữ. Bởi vì, như đã nói, tương ứng ch/tr hiện nay với kl /kr hay tl trước kia trong ngữ âm lịch sử tiếng Việt là thông thường; đồng thời tương ứng /t-/ hiện nay với [kl-]/[kr-] hay [tl-] trước kia vấn còn lưu giữ trong phương ngôn Việt(6).
Như vậy, các dạng thức tiền ngôn ngữ của âm tiết nôm Chỗ, Chuông, Chài, Tròi, Chôirất có thể được tái lập là *tlỗ, *tluông, *tlài, *tlòi và *tlôi. Sự khác biệt của 5 trường hợp này so với 5 trường hợp đã nói ở trên (trường hợp a) cho chúng ta biết thêm rằng có thể là chúng được chuyển sang Hán Việt không cùng thời điểm với nhau. Theo đó chuyển đổi từ nôm sang Hán Việt ở những trường hợp này muộn hơn, do đó trong tiếng Việt các tổ hợp âm đầu đó đã có sự biến đổi khác với dạng tiền ngôn ngữ nhiều hơn.
c, Còn 6 trường hợp còn lại, sự tương ứng giữa âm đầu âm tiết nôm với âm đầu âm tiết Hán Việt thứ hai phức tạp hợp hơn. Theo đó âm đầu d-/gi- hay s-/x- âm tiết nôm tương ứng với âm đầu ch-/tr- hay l- của âm tiết thứ hai trong địa danh Hán Việt. Tình hình cụ thể như sau:
STTĐịa danh nômHán ViệtVị trí địa lí
1(kẻ) Dâu/GiâuCổ ChâuTừ Sơn (Bắc Ninh)
2(làng/kẻ) GiaiThư TraiPhúc Thọ (Hà Tây)
3(kẻ) DạmCổ LãmVõ Giàng (Bắc Ninh)
4(kẻ) GiaiCổ TraiDuyên Hà (Thái Bình)
5(kẻ) Sốm/XốmCổ LãmHà Đông (Hà Tây)
6(làng/kẻ) SẩuHà LiễuThanh Trì (Hà Nội)
Tuy nhìn bên ngoài, trường hợp này có vẻ khác với hai trường hợp a và b vừa phân tích ở trên nhưng rất có thể chúng chỉ cùng là một kiểu tiền ngôn ngữ trong tiếng Việt trước đây. Bởi vì trong ngữ âm lịch sử tiếng Việt, chúng ta cũng có thể tìm thấy những tương ứng theo đó sự khác biệt một bên là d-/gi- hiện nay với một bên khác là ch-/tr- có thể chuyển đổi cho nhau; cũng vậy, có thể tìm thấy những tương ứng theo đó sự khác biệt một bên là s-/x- hiện nay với một bên khác là ch-/tr- hay l- có thể chuyển đổi được cho nhau(7).
Vì thế, người ta có thể tái lập dạng tiền ngôn ngữ trong tiếng Việt trước đây của các âm tiết tên nôm Dâu/Giâu, Giai, Dạm, Giai, Sốm/Xốm, Sẩu là *tlâu, *tlai, *tlạm, *tlai, *tlốm, *tlẩu. Sự khác biệt ở trường hợp này với hai trường hợp trên, như thế, là phản ánh sự khác nhau về thời gian người ta chuyển địa danh nôm sang địa danh Hán Việt. Do dạng thức ngữ âm của âm tiết nôm và Hán Việt hiện nay, có nhiều khả năng, sự chuyển đổi địa danh này rất muộn về sau, vì trong ngữ âm lịch sử tiếng Việt người ta đã chứng minh được điều đó [Nguyễn Tài Cẩn: 1995; Trần Trí Dõi: 2005].
2.2. Với những gì vừa phân tích ở trên, có cơ sở để chúng ta cho rằng, chính dạng thức âm nôm Chủ trong phức hợp địa danh chạ Chủ hiện nay phản ánh dạng tiền Việt là*klủ hay *tlủ trước kia. Dạng thức tiền Việt này do quy luật chuyển đổi ngữ âm lịch sử tiếng Việt (theo kiểu *kl-/*tl- > tr-/ch-) đã chuyển thành dạng ngữ âm chủ và nó là tên nôm của địa danh. Trong khi đó khi Hán Việt hoá địa danh nôm, âm tiết thứ hai trong địa danh Hán Việt thường phản ánh dạng thức ngữ âm của cả âm tiết nôm (tức là cả dạng ngữ âm tiền Việt) nên tương ứng với *klủ hay *tlủ trước kia sẽ là loa hay lủ Hán Việt; còn âm tiết thứ nhất trong địa danh Hán Việt thường chỉ phản ánh dạng thức ngữ âm của âm đầu nôm (tức là dạng ngữ âm của âm đầu âm tiết tiền Việt) nên tương ứng với *klủhay *tlủ trước kia sẽ là khả hay cổ Hán Việt hiện nay.
Như vậy, nếu nhìn thuần tuý ở mặt ngữ âm lịch sử tiếng Việt, rõ ràng sự hiện diện của tên nôm chạ Chủ tương ứng với tên tên Hán Việt Cổ Loa hay Khả Lũ cho thấy khả năng Cổ Loa hay Khả Lũ hiện nay là hệ quả của cách Hán Việt hoá địa danh *klủ hay*tlủ trước kia. Điều này cũng có nghĩa là cách đặt vấn đề của giáo sư Đào Duy Anh cho rằng cổ là hệ quả của cách Hán Việt hoá kẻ sẽ có hai điều khó giải thích. Một mặt sẽ khó giải thích lí do tại sao người ta bỏ đi tên nôm (chạ) Chủ (với nghĩa là “làng Chủ”) vốn hoàn toàn “thuần Việt” để dùng một tên khác là (kẻ) Loa nửa thuần Việt, nửa Hán. Mặt khác sẽ không loại trừ được khả năng hợp lí về mặt ngữ âm khi nhận thấy Cổ Loa hayKhả Lũ hiện nay là hệ quả của cách Hán Việt hoá địa danh *klủ hay *tlủ trước kia.
___________
(1) Bài viết tham dự Hội thảo khoa học “Ngôn ngữ văn hoá Hà Nội” (Hà Nội ngày 27 tháng 03 năm 2005 tại Trường Cao đẳng nghệ thuật Hà Nội, do Hội Ngôn ngữ học Hà Nội và khoa Ngôn ngữ học đồng tổ chức), sẽ được in trong Kỉ yếu của Hội thảo năm 2005.
(2) Bài viết tham dự Hội thảo khoa học kỉ niệm GS Nguyễn Tài Cẩn 80 tuổi dự định tổ chức tại t.p Hồ Chí Minh tháng 12 năm 2005 do Hội Ngôn ngữ học t.p Hồ Chí Minh và khoa Ngữ Văn Đại học Sư phạm t.p Hồ Chí Minh đồng tổ chức.
(3) Sự xuất hiện đồng thời ba “thành tố chung” kẻ, chạ, làng cho một phức hợp địa danh nôm (kẻ) Chủ (chạ) Chủ và (làng) Chủ là một vấn đề rất phức tạp và lí thú. Do đó trong bài viết này chúng tôi chưa có điều kiện để giải thích được. Chúng tôi dự định sẽ trở lại vấn đề này khi đã thu thập được đầy đủ tư liệu.
(4) Những quy luật biến đổi của ngữ âm lịch sử tiếng Việt và thời gian lịch sử của hiện tượng ấy xin xem chi tiết ở tài liệu tham khảo số [4] và số [10]. Chúng tôi chỉ xin nói thêm đôi điều ở đây. Các âm tiết nôm Chấp, Chèm, Chủ cũng có thể viết bằng chữ quốc ngữ là Trấp, Trèm, Trủ. Hiện nay, quy luật ngữ âm lịch sử tiếng Việt theo đó âm đầu cổ*kl/tl/khl > tr/ch còn thấy rất rõ khi so sánh giữa tiếng Mường, tiếng Việt thế kỉ XVII (Từ điển Việt–Bồ–La của A. de Rhodes năm 1651), phương ngữ Việt ở bắc Trung Bộ và tiếng Việt hiện nay. Ví dụ, tiếng Mường: klu, tlầu, klời/tlời–tiếng Việt thế kỉ XVII: klu/tru, tlầu/trầu, klời/tlời/trời/lời–thổ ngữ Việt ở Quảng Bình: klu, klâu, tlời–tiếng Việt hiện nay:trâu/châu, trầu/chầu, trời/chời.
(5) Trong dạng thức tái lập này, để tránh sự phức tạp chưa cần thiết, chúng ta tạm thời coi dạng thức thanh điệu hiện nay là dạng thức cổ xua. Trong thực tế tình hình thanh điệu không đơn giản như vậy.
(6) Người ta có thể dẫn ra những tương ứng sau đây của tiếng Viết để chứng minh cho hiện tượng này. Ví dụ, Việt: (con) trâu, Việt ở Ninh Bình: (con) tâu, Mường: (con) klu; Việt: (cây) tre, Việt ở Ninh Bình: (cây) te, Mường (cây) kle; Việt: trắng, Việt ở Ninh Bình: tắng, Mường: klắng/tlắng v.v...
(7) Trong tiếng Việt hiện nay hiện vẫn lưu giữ cách nói kiểu (con) trai, (ăn) trầu, trời,... với kiểu (con) giai, (ăn) dầu, giời,...; và (gà) trống, (làm) trái, (cái) trẹo,... với (gà)sống, (làm) sái, (cái) sẹo v.v... có lẽ là sự phản ánh chuyển đổi ngữ âm nói trên.

3. Một vài nhận xét

Trong hai khả năng giải thích xuất xứ địa danh Cổ Loa (một cách của giáo sư Đào Duy Anh, một cách vừa nêu ra ở trên), sẽ rất khó khăn chỉ ra tính bất hợp lí của cách giải thích do chúng tôi đề xuất. Bởi vì nó hợp lí hơn về mặt biến đổi ngữ lịch sử lịch sử tiếng Việt; nó cũng rất phù hợp với tương ứng giữa âm nôm với âm Hán Việt theo kiểu tên làng hiện nay. Trong khi đó cách giải thích (chạ) Chủ > Cổ Loa/Khả Lũ lại phù hợp với cấu tạo nội tại của địa danh, giúp tránh được phải chấp nhận khả năng rất khó giải thích là khi Hán Việt hoá địa danh người ta lại ghép một thành tố thuộc yếu tố chung là kẻ với một thành tố thuộc yếu tố tên riêng là loa không đồng chất thành tên riêng của địa danh Cổ Loa. Đó là chưa kể, nếu vẫn giữ cách giải thích thứ nhất, làm sao giải thích được việc người Việt lại chấp nhận bỏ đi chạ Chủ hoàn toàn thuần Việt để dùng một kết hợp nửa thuần Việt nửa Hán Việt kẻ Loa với gần như “cùng một nghĩa” để từ kẻ Loa > Cổ Loa?
Tuy nhiên, để cho cách giải thích (chạ) Chủ > Cổ Loa/Khả Lũ hoàn toàn rõ ràng hơn về mặt ngữ âm lịch sử, còn cần phải làm rõ một vài mối tương ứng ngữ âm khác. Đó là mối tương ứng ngữ âm trong phần vần của các âm tiết Chủ–Loa–Lũ. Đó là việc cần làm rõ khả năng Chủ > Cổ Loa hoặc > Khả Lũ một cách đồng thời hay Chủ > Cổ Loa và Chủ > Cổ Loa một cách riêng rẽ. Với lại, chúng ta cũng còn phải làm rõ bản chất của hiện tượng mà giáo sư Đào Duy Anh nêu ra ở trường hợp tương ứng giữa tên nôm những làng có tên Hán Việt mang yếu tố Cổ như Cổ Bôn, Cổ Nhuế, Cổ Định. Do độ dài của một bài viết, những vấn đề nêu trên sẽ được chúng tôi tiếp tục ở những bài viết tiếp sau.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
  1. Đào Duy Anh (1997). Đất nước Việt Nam qua các đời. Nxb Thuận Hoá (Huế), 252 trang.
  2. Hoàng Thị Châu (1964). Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua một vài tên sông. Thông báo khoa học, Đại học Tổng hợp Hà Nội, tập 3, trang 94–106.
  3. Ngô Vi Liễn (1999). Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc Kì. Nxb Văn hoá Thông tin, 1181 trang.
  4. Nguyễn Tài Cẩn (1995). Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (sơ thảo). Nxb Giáo dục, 349 trang.
  5. Nguyễn Tài Cẩn (2001). Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 353 trang.
  6. Nguyễn Tài Cẩn (2001). Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hoá. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 439 trang.
  7. Nguyễn Văn Tân (1998). Từ điển địa danh lịch sử văn hoá Việt Nam. Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1616 trang.
  8. Nguyễn Kiên Trường (1996). Mô hình Kẻ + X trong tên làng xã cổ truyền. Văn hoá dân gian, số 2 (54), trang 102–107.
  9. Trần Trí Dõi (2001). Ngôn ngữ và sự phát triển văn hoá xã hội. Nxb Văn hoá Thông tin, 268 trang.
  10. Trần Trí Dõi (2005). Giáo trình lịch sử tiếng Việt (sơ thảo). Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 268 trang.
  11. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1996). Văn hoá học đại cương và cơ sở văn hoá Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội Hà Nội, 627 trang.
  12. Từ Thu Mai (2004). Nghiên cứu địa danh Quảng Trị. Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 299 trang.
  13. Viện Khảo cổ học (1970). Hùng Vương dựng nước (tập I). Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội, 251 trang.
  14. Vũ Thị Minh Hương; Nguyễn Văn Nguyên & Philippe Papin (1999). Địa danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc-Kì. Nxb Văn hoá Thông tin, 1289 trang.


Theo Trần Trí DõiTiếp tục tìm hiểu về xuất xứ và ý nghĩa địa danh Cổ Loa (Qua cách