Thursday, 8 May 2014

Vụ án Nhã Thuyên: đính chính tư liệu & quan điểm học thuật (Inrasara)





Inrasara: Vụ án Nhã Thuyên: đính chính tư liệu & quan điểm học thuật


* Sau khi đọc “Để hiểu rõ hơn thực chất của một luận văn” của Phan Trọng Thưởng trên báo Văn nghệ- Hội Nhà văn Việt Nam, số 16-2014, tôi viết bài này như là cách phản hồi. Thứ nhất, nói lại với Nhã Thuyên về khẳng định chủ quan “bài viết duy nhất được xuất bản chính thống cho đến nay”; thứ hai, như một cách trao đổi mang tính chính thống với Phan Trọng Thưởng. Hi vọng, hai bên mở cuộc đối thoại sòng phẳng, để “có thể nghe ra nhau”.
Tiếc, bài viết không nhận được phản hồi từ BBT báo Văn nghệ, cho nên xin đăng ở đây để rộng đường dư luận.
Inrasara

I. Đính chính: Mở Miệng bị kì thị tới đâu?
Trong bài “Cuộc nổi dậy của rác thải [1], Damau.org (Vanviet.info đăng lại ngày 28-3-2014), Nhã Thuyên viết:
“Ở trong nước, Inrasara, một nhà thơ, nhà phê bình trong Hội nhà văn có tham vọng nhận diện thơ Việt đương đại ở tất cả các khu vực, không kể chính thống/phi chính thống đã từng cố gắng lập lại biên bản(1) về không gian sôi động của thơ ca giai đoạn đó với bài viết Khủng hoảng thơ trẻ Sài Gòn, xuất bản trên Tiền Vệ (2005) và được đưa vào cuốn Song thoại với cái mới (2008), “không bị biên tập một chữ” theo lời tác giả – dường như là bài viết duy nhất được xuất bản chính thống cho đến nay(Inrasara nhấn mạnh).
Phan Trọng Thưởng làm rõ hơn: “Theo tác giả “cho đến thời điểm này (cuối 2010) các báo chí trong nước vẫn từ chối các bài viết về, hay thậm chí việc điểm danh đến Mở miệng cũng không được chấp nhận” (“Để hiểu rõ hơn thực chất của một luận văn”, Vanvn.net, 19-4-2014).
Sự thật, có phải vậy không?(2)

1. Liên quan đến Nhóm Mở Miệng, bài đầu tiên được đăng trên báo chính thức của Hội Nhà văn Việt Nam, báo Thơ số 4, tháng 10-2003, do thành viên chủ chốt của Nhóm Mở Miệng (Lý Đợi) viết, là: “Điểm tâm tính danh – hay thơ Việt những năm đầu thế kỉ XXI”.

2. Tiếp đó, Inrasara giới thiệu tập thơ Xáo chộn chong ngày, NXB Giấy Vụn, 2003. Lời giới thiệu in trong tập thơ, có đoạn:
“Tập thơ Xáo Chộn Chong Ngày – phạm thánh, phạm thượng, phạm chữ, phạm nghĩa, phạm cả các khái niệm lâu nay thế giới văn minh tôn sùng như điều không thể phạm. Nhưng hãy dẹp mấy thứ đó cho nhà luân lí, nhà ngôn ngữ, nhà hoạt động xã hội… phán. May: Bùi Chát đã không phạm con người!”.
Bài “Sáo chộn với Bùi Chát” (giới thiệu tập thơ Xáo chộn chong ngày, NXB Giấy Vụn, 2003) post lênTienve.org, ngày 21-12-2003, được tạp chí Thơ (Hoa Kỳ) số mùa Đông 2003 đăng lại. Có lẽ đây là bài viết về [tập thơ của một thành viên] Nhóm Mở Miệng đầu tiên được đưa ra công chúng. Bài viết ngắn, và dù không xuất hiện trên báo chính thống, nhưng đã gây nên một cuộc trao đổi thú vị trên mạng internet.

3Evan (Hà Nội, 2004) viết về thơ trẻ, nhận định về Mở Miệng như sau:
“Có một nhóm sáng tác trẻ tự xuất bản những tác phẩm của họ dưới dạng photocopy, và coi đó như văn bản chính thức. Họ rảo bước qua những đường phố Sài Gòn, những quán cà phê, quán thịt chó, ngày và đêm, ánh đèn, xe cộ, bụi và tiếng ồn… Họ làm thơ. Rồi cả truyện, tiểu thuyết, tiểu luận, trình diễn, sắp đặt, nghệ thuật ý niệm (conceptual art), nghệ thuật thị giác (visual art)… và, họ tuyên ngôn. Tự xếp mình, đúng hơn là tự xem mình nằm trong các trào lưu tiền phong, chẳng hạn như hậu hiện đại, họ đẩy thơ vào “ngõ cụt”, chiếu bí người đọc bằng ý thức đổi mới ngôn ngữ. Họ sẵn sàng thách thức những người làm thơ khác về tính chuyên nghiệp, tính học thuật trong thơ; nhất là, như họ nói thẳng thắn, với lớp nhà thơ bảo thủ, không chịu rời bỏ những sở trường của mình. Và tất nhiên, họ chấp nhận bị thách thức”.
Bài báo sau đó bị xoá cùng với nhiều sáng tác cách tân khác.

4. “Khủng hoảng thơ trẻ Sài Gòn” hay “Biên bản về nhánh thơ ngoại vi TP Hồ Chí Minh”, là tham luận của Inrasara tại Đại hội Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh, tháng 3-2005; đăng trên Tienve.org, ngày 17-3-2005, (in trong Song thoại với cái mới, NXB Hội Nhà văn, 2008). Tôi viết ở đề dẫn:
Một hiện tượng xã hội hay văn chương bất kì, không thể bị dập tắt bởi khước bác hời hợt hay phủ nhận thô bạo; nó chỉ bị vượt qua, khi các cạnh khía vi tế nhất của nó được phơi mở”.
Đoạn đáng chú ý:
“Họ từ các nơi đổ bừa về Sài Gòn. Có mặt ở Sài Gòn, họ từ chối lối mòn quen thuộc: tụ tập quanh tòa soạn báo chí, nhà xuất bản hay các cơ quan Nhà nước có liên quan đến chữ nghĩa – ổn định và an ninh.
Họ là ai? Là Phan Bá Thọ. Là Lý Đợi, Bùi Chát, Khúc Duy, Nguyễn Quán. Các sinh viên tốt nghiệp, ra trường vô công rỗi nghề trong giai đoạn thơ Việt đang kì ảm đạm, “có mặt bằng nhưng chưa có đỉnh cao”, như chúng ta từng dễ dãi nhận định. Họ tự cho mình [vô] trách nhiệm với nền thơ nước nhà, cấp kì lập ra Nhóm Mở Miệng, trưng bảng nhà xuất bản Giấy Vụn và, tuyên xưng! Thế là hàng loạt tập thơ in photocopy xếp hàng mở m[iệng]ắt chào đời”.
Và đoạn kết:
“Đeo vào bộ mặt cực đoan đến quá khích, Nhóm Mở Miệng cùng với sản phẩm thơ của họ như “làn gió thối thổi vào không khí thơ” phẳng lặng hôm nay. Bản thân nó là khủng hoảng. Nó đột ngột xuất hiện và gây sốc, cố tình lôi kéo sự chú ý của chúng ta về khủng hoảng chung của thơ Việt, một khủng hoảng cần được nhìn nhận như tín hiệu tốt lành”.

5. Trần Ngọc Hiếu qua “Cuộc nổi loạn của ngôn từ trong thơ đương đại, ghi nhận qua một số hiện tượng”, tham luận trong Hội thảo Văn học sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy tại khoa Ngữ văn – Đại học Sư phạm Hà Nội, đăng trên Talawas.org, 12-5-2005, cũng đã dành một phần bàn đến Mở Miệng.
“Nhưng chúng tôi muốn lưu ý một điểm: sự suồng sã hóa thơ ca, xem thơ ca chỉ như một hình thức trò chơi giải trí, đấy chính là cách các tác giả trong nhóm Mở Miệng tự biến sáng tác của mình thành một đối trọng với thứ thơ “nghiêm túc”vốn được coi là “chính thống,” nhưng đã trở nên già cỗi, thiếu sức sống, nằm chết trong hàng loạt các tập thơ được in ra hay trên các mặt báo mà chẳng mấy ai tìm đọc. Chẳng phải hình thức thơ đang gây được nhiều khoái thú hơn cả trong dời sống hiện nay- thơ Bút Tre – cũng là một hình thức suồng sã, chưa được coi là thơ, theo quan điểm chính thống đó sao? Đi tìm mối liên hệ giữa dòng folklore hiện đại (chuyện tiếu lâm, các kiểu nhại thơ, nhại bài hát, thơ Bút Tre) với những thể nghiệm của nhóm Mở Miệng, là một đề tài có thể khơi lên nhiều điều đáng suy nghĩ mà phạm vi của tiểu luận này chưa cho phép đào sâu.”

6. “Sẽ không có cuộc cách mạng thơ ở Việt Nam trong tương lai gần”, là tham luận khác của Inrasara tại Hội thảo thơ TP Hồ Chí Minh, 25-8-2006; báo Người Đại biểu Nhân dân, số 184 & 185, 7-2006 và tạp chí Nhà văn, số 3-2008 đăng nguyên văn (in trong Song thoại với cái mới, 2008). Về Nhóm Mở Miệng, tôi viết:
“Có thể nhận định rằng, sau Sáng Tạo những năm 60 của thế kỉ trước, Mở Miệng là nhóm thơ đầu tiên ghi dấu ấn đậm trong dòng chảy của thơ Việt. Chúng ta hi vọng năm khuôn mặt này làm nên cuộc cách tân lớn. Nhưng rồi họ cũng không thể. Tại sao?
Mở Miệng là một nhóm thơ gồm các thi sĩ trẻ sinh hoạt [vỉa hè] chung, cùng quan điểm sáng tác, biết lập ngôn để nói lên quan điểm sáng tác lạ biệt của nhóm mình. Nhưng cái thiếu của họ là: diễn đàn công khai. Dù các sáng tác của Mở Miệng thường xuyên xuất hiện trên báo điện tử cả trong lẫn ngoài nước, nhưng chính diễn đàn công khai mới mang yếu tố quyết định để tạo nên cuộc thay đổi lớn trong văn chương. Mở Miệng không được may mắn như các cuộc cách mạng thơ ở Việt Nam trước đó”.

7. “Thơ hậu đổi mới, và… đang khủng hoảng”, tham luận của Inrasara tại Hội nghị Lí luận – Phê bình lần thứ hai của Hội Nhà văn Việt Nam tại Đồ Sơn, tháng 9-2006. Tham luận được viết lại thành “Nhập lưu hậu hiện đại không quá độ hiện đại hậu kì”, và đọc ở Hội thảo Thơ Việt Nam đương đại, tại Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, TP Hồ Chí Minh, 19-2-2008; sau đó đăng ở Talawas.org, 21-2-2008.

8. Tiểu luận “Thơ văn trẻ Sài Gòn ở đâu?” của Inrasara đăng trên báo Văn nghệ trẻ, số 45, 11-11-2007;Tienve.org đăng lại ngày 27-11-2007 (in trong Song thoại với cái mới, 2008). Tiểu luận nhấn về trào lưu văn chương vỉa hè Sài Gòn, dĩ nhiên không thể không đề cập đến Mở Miệng:
“Không đâu hạ sinh hiện tượng thơ văn lí luận vỉa hè như nhóm Mở Miệng cùng sự kiện Nhà xuất bảnGiấy vụn cho ra đời hàng chục tác phẩm photocopy, đã và đang gây ấn tượng sâu đậm đến cuộc sống văn chương như thế… Tuyệt không đâu cả, ngoại trừ đất Sài Gòn. Bao quát cả từ góc độ này, chúng ta mới nhìn ra toàn cảnh thơ văn trẻ TP Hồ Chí Minh. Và chỉ nhìn từ góc độ này thôi, thơ văn trẻ Sài Gòn mới hiện thể đúng thực như nó là thế: luôn chuyển động, sẵn sàng mang mầm mống đổi mới, cách mạng”.

9. Hai bài nghiên cứu dài hơi: “Hậu hiện đại và Thơ hậu hiện đại Việt” đăng trên Vanchuongviet, 21-12-2007, sau đó in lại trong Song thoại với cái mới, và “Thơ Việt, từ hiện đại đến hậu hiện đại” đăng trên website Khoa Viết văn – Báo chí thuộc Đại học Văn hóa, Hà Nội Vietvan.vn, tháng 3-2009, in lại trongThơ Việt, hành trình chuyển hướng say, NXB Thanh niên, 2014.  Ở đây tôi phân tích cái “hay” của thơ hậu hiện đại Việt, trong đó nhắc nhiều đến tác phẩm của Nhóm Mở Miệng.

10. Cuối cùng, luận án Tiến sĩ “Lý thuyết trò chơi và một số hiện tượng thơ Việt Nam đương đại” được Trần Ngọc Hiếu bảo vệ thành công tại Đại học Sư phạm Hà Nội, ngày 9-10-2012, trong đó anh bàn và trích dẫn nhiều thơ của Nhóm Mở Miệng.

Đó là chưa kể các bài báo lẻ, mươi cuộc trả lời phỏng vấn đề cập đến Nhóm Mở Miệng và NXB Giấy Vụn của Inrasara, như: “Phê bình văn học đứng ngoài ’văn hóa đọc’”, Thanh Xuân thực hiện, Vietvn, 23-7-2007; “Inrasara: Cần phải gọi tên đúng sự thể”, Phong Điệp thực hiện, báo Văn nghệ, 24-5-2008; “Điểm mặt thơ Việt hôm nay”, Hiền Hòa thực hiện, báo Giáo dục và Thời đại, số Xuân 2009; “Con đường đi vào văn chương hậu hiện đại Việt Nam”, Trần Thiện Khanh thực hiện, báo Điện tử Tổ quốc, 25-4-2009. Ở bài cuối này, vài đoạn đề cập trực tiếp đến Nhóm Mở Miệng:
“… nhà văn hậu hiện đại giải trung tâm không phải để chính mình trở thành trung tâm. Họ phải giữ thái độ phi tâm hóa thường trực. Thật vô ích và phi lí, nếu tất cả nhà văn Việt Nam đều viết thơ theo kiểu Mở Miệng… Hậu hiện đại làm cuộc phi tâm hóa chỉ với mục đích tạo cơ hội cho mọi trào lưu văn học cùng đề huề tồn tại và phát triển để làm phong phú nền văn học Việt Nam. Ở đó mỗi cá nhân, mỗi bộ phận ngoại vi đều có tiếng nói, có mảnh đất để thể hiện trọn vẹn mọi khả năng của mình.
… Sáng tạo hậu hiện đại Việt Nam [nhất là thơ ca] bị phân biệt đối xử bởi nhà văn nhà thơ thuộc hệ mĩ học cũ, bị kì thị bởi các cơ quan báo chí trong nước, còn các Đại học thì làm ngơ, từ đó các Nhà xuất bản không mặn mà với bản thảo của nó”.

Cuối cùng, ngay trong tác phẩm mới nhất: Inrasara, Thơ Việt, hành trình chuyển hướng say (NXB Thanh Niên, 2014) cũng đề cập nhiều đến Nhóm Mở Miệng. Đậm nhất là: “Thơ Việt, từ hiện đại đến hậu hiện đại”, “Nhận diện các trào lưu thơ Việt đương đại”. Riêng tiểu luận “Thơ Việt, thế hệ hậu hiện đại mới”, có đoạn:
“Thà làm thơ mới dở còn hơn làm thơ cũ hay” là tuyên ngôn lặp đi lặp lại nhiều lần trong tạp chí Thơ ở Hoa Kì. Ở ngoài nước, Nguyễn Hoàng Nam đòi “quyền làm thơ dở”, thì sáu năm sau trong nước, Nhóm Mở Miệng tuyên bố “chúng tôi không làm thơ”. Lý Đợi ném bỏ quan niệm thơ hay/ dở cũ kĩ ở sau lưng, mà nhấn vào thơ thực/ giả. Thơ rác cũng được, miễn là thực; thơ “dở” cũng xong, miễn là mới. Thế là bao nhiêu thơ “rác”, thơ nghĩa địa, thơ hàng tiêu dùng, thơ “dở” được các nhà thơ hậu hiện đại và Mở Miệng xả vào nền thơ Việt Nam. Năm năm, họ đã để lại cả đống hoang tàn đổ nát – hủy phá, sáng tạo và tái tạo, vàng và thau, rác rưởi trộn lẫn với mỏ quặng… – sau lưng”.

Nghĩa là, dù chịu không ít kì thị, cấm cản, bên cạnh “Khủng hoảng thơ trẻ Sài Gòn” “xuất bản trên Tiền Vệ (2005) và được đưa vào cuốn Song thoại với cái mới (2008)… dường như là bài viết duy nhất được xuất bản chính thống cho đến nay” (Nhã Thuyên), còn có những tiểu luận, bài trả lời phỏng vấn, bài báo của vài tác giả liên quan đến Mở Miệng đăng ở báo [và được in thành sách] chính thống xuất hiện khá đậm và kéo dài(3).

II. Quan điểm về luận văn Đỗ Thị Thoan và thực hiện thơ của Nhóm Mở Miệng.
Ở bài “Để hiểu rõ hơn thực chất của một luận văn”, Vanvn.net, 19-4-2014, ở phần kết luận, Phan Trọng Thưởng viết:
“[Luận văn]… không có giá trị khoa học và thực tiễn; sai lầm trong việc chọn đối tượng nghiên cứu; tài liệu không chính thống, không có độ tin cậy; cổ súy và biện hộ cho những hiện tượng văn chương tục tĩu, thấp kém; miệt thị văn học và văn hóa chính thống của dân tộc; tạo hậu thuẫn về mặt lý luận và tiếp tay cho những phần tử chống đối, nổi loạn ở trong và ngoài nước…”.
Để tránh bị coi là “tạo hậu thuẫn về mặt lý luận và tiếp tay cho những phần tử chống đối, nổi loạn ở trong và ngoài nước”, tôi xin miễn đề cập đến khía cạnh liên quan đến [cái gọi là] chính trị [thô thiển], mà chỉ nhấn vào ba điểm học thuật: sai lầm trong chọn đối tượng nghiên cứutài liệu không chính thống, và cổ súy cho văn chương tục tĩu, thấp kém.

1. “sai lầm trong việc chọn đối tượng nghiên cứu”.
Việc chọn đề tài nghiên cứu nào đó thì không có gì gọi là sai lầm cả. Tôi từng cho Nhóm Mở Miệng bị “các Đại học thì làm ngơ”. Nay lần đầu tiên, Đại học đã “quan tâm đúng mức”, là tin mừng, sao lại gọi là sai lầm? Đỗ Thị Thoan viết:
“chỉnh thể văn học và văn hóa trong bất kỳ không gian và thời gian nào cũng luôn luôn bao gồm dòng chính và dòng ngầm, trong đó dòng chính được coi là Trung tâm; dòng ngầm được coi là ngoại vi, là bên lề”.
Và chị là người đầu tiên dũng cảm chọn một luồng trong “dòng ngầm” ấy làm đối tượng nghiên cứu khoa học.
Cũng như Trần Ngọc Hiếu qua “Cuộc nổi loạn của ngôn từ trong thơ đương đại, ghi nhận qua một số hiện tượng” (bài đã dẫn), khi dẫn thơ của Nhóm Mở Miệng ra phân tích, không phải anh hoàn toàn đồng tình với nó, qua đó [gọi là] cổ súy cho nó, mà là mổ xẻ và đặt ra nhiều câu hỏi buộc các thành viên kia nhìn lại mình.
Thao tác này tương tự như công việc trước đó tôi từng định danh là “phê bình lập biên bản”, và đã triển khai từ năm 2005. Ngoài “Biên bản Bàn tròn Văn chương” và “Biên bản lập chậm”, tôi đã “lập biên bản” hàng trăm tác phẩm [và tác giả] thơ Việt đương đại thuộc “dòng truyền thống”, “dòng tiếp hiện”, và dĩ nhiên không chừa – “dòng khai phá”. Cả thơ dân tộc thiểu số/dân tộc đa số, nữ hay nam, trong nước/hải ngoại, địa phương/trung tâm văn hóa lớn… cũng được lập biên bản, không chút phân biệt đối xử. Riêng về “dòng khai phá”, tôi viết:
“Lập biên bản nghĩa là phơi mở sự việc như nó là thế mà không áp đặt một lối nhìn nào bất kì. Dù đó là lối nhìn nhân danh truyền thống hay một chân lí đinh đóng hoặc cái đẹp vĩnh cửu. Cũng không từ lập trường văn học trung tâm, từ chủ thuyết văn chương thời thượng nào. Tôi đã cố giữ nguyên hiện trường như thế với Nhóm Mở Miệng, với tân hình thức Việt và các tác giả ý hướng cách tân đơn lẻ khác. Diễn đạt bằng ngôn từ giản đơn có thể các quan điểm sáng tác, đối chứng với chính sáng tác phẩm của họ đặt trong tiến trình phát triển thơ Việt trong thời đại toàn cầu hóa. Chưa hẳn đồng tình với các quan điểm ấy, nhưng tôi cố gắng nhìn nhận nó như là thế(4).

2. “tài liệu không chính thống, không có độ tin cậy”.
Khía cạnh này, phần (I) đã thể hiện rõ rồi. Tôi chỉ xin nhấn rằng, trong thời đại toàn cầu hóa, nhà phê bình văn học còn có thể giữ tâm thế phân biệt trung tâm với ngoại vi, nguồn tài liệu giấy với tài liệu mạng không? Hoặc giả nhà phê bình còn có thể xem các sáng tác, phê bình, nghiên cứu đăng trên báo Văn nghệ, tạp chí Nhà văn hay mạng Hội Nhà văn Việt Nam Vanvn.net, vân vân… thì giá trị và đáng tin hơn Hợp Lưu, ViệtDamau.org, Tienve.org hay Vanchuongviet.org… không? Hơn nữa, nghiên cứu một hiện tượng văn chương phi chính thống mà không sử dụng tài liệu phi chính thống thì dùng tài liệu gì? Bởi có thể nói, chỉ có các tài liệu phi chính thống như Đỗ Thị Thoan đã dẫn phục vụ cho luận văn mới có độ tin cậy cao, chứ không phải ngược lại.
Tự do xuất bản bị hạn chế, người nghệ sĩ/ nhà phê bình ngoại vi tìm không gian khác để thể hiện mình. Ở đó, mạng internet là phương tiện lí tưởng. Nhóm Mở Miệng, bị kì thị, đã mở nhà xuất bản của mình: Giấy Vụn. Và, cho dẫu không kì thị, nhiều nghệ sĩ sáng tạo cũng đã chọn lựa sự tự do. Vũ Thành Sơn với 40km/h (NXB Giấy Vụn, 2007); Đoàn Minh Châu với m-n & z (Minh Châu xuất bản, 2008); Nguyễn Thị Thúy Quỳnh qua Thựcthểmònruỗngtôi (NXB Tùy Tiện, 2009); rồi Trúc-Ty cùng Trước khi thành giấy vụn (NXB Giấy Vụn, 2010) hay Tuệ Nguyên với Mi & Ngôn lời (NXB Tùy Tiện, 2011)… đều là tên tuổi đáng đọc. Sáng tác của họ độc đáo, đầy khai phá và nhất là “lành mạnh”, có thể chui lọt qua cửa nhà xuất bản chính thống nào bất kì mà không phiền đến dao kéo kiểm duyệt. Thế nhưng, họ đã chọn vỉa hè. Là thái độ văn chương của họ.

3. “cổ súy và biện hộ cho những hiện tượng văn chương tục tĩu, thấp kém”.
Thực hiện thơ [sáng tác, mở nhà xuất bản để in tác phẩm của mình và bạn văn đồng chí hướng, “tuyên ngôn”, trình diễn và sinh hoạt…] của Nhóm Mở Miệng không thuần là “hiện tượng văn chương tục tĩu, thấp kém”, mà ở đó – chỉ tính riêng sáng tác – chúng chứa đựng không ít giá trị, dù đứng ở bất kì góc độ nào: thẩm mĩ văn chương hay tác động xã hội. Vả lại, trong rất nhiều trường hợp, “tục tĩu” không phải luôn luôn đi kèm với “thấp kém”, nếu người viết muốn ghép hai khái niệm này với nhau. Sáng tác của Mở Miệng, văn chương vỉa hè hay phi chính thống có khi rất tục [tĩu] nhưng chúng không hề thấp kém, trong khi đó có nhiều trường hợp (đa số) văn chương chính thống tuy không tục [tĩu] nhưng lại vô cùng thấp kém.
Tôi đã từng đề cập đến những “Khóc Văn Cao”, “Xáo chộn chong ngày” (của Bùi Chát), “Một nhà thơ bị đánh chết”, “Những môn thể thao thế mạnh của Việt Nam” (Lý Đợi), “Liên tưởng”, “Biển kể về nhiều chuyện khác” (Lê Vĩnh Tài), “Tôi là cột điện”, “Cắt” (Lê Anh Hoài), hay “hemingway & bướm – nguyễn & xe tăng” (Phan Bá Thọ)… như là những tác phẩm mang tính đánh động và gây phản tỉnh đầy sáng tạo. Các tìm tòi và thử nghiệm [có vẻ thấp kém] ấy không giá trị hơn bạt ngàn sản phẩm [ra vẻ cao cả, sang trọng] chẳng có gì đáng nói ngoài lặp lại và nhai lại xuất hiện nhan nhản trên sách báo chính thống sao?
Phê bình lập biên bản [hay nghiên cứu, ghi nhận một hiện tượng văn chương nào đó] là “đi vào trong” hệ mĩ học của sáng tác đó, để nhận diện nó như là thế. Chỉ có thế thôi, ta mới có thể giữ được thái độ công bằng với mọi hệ mĩ học, mọi trào lưu sáng tác, và với mọi tác giả, tác phẩm, qua đó thúc đẩy văn học phát triển lành mạnh.

Sài Gòn, 22-4-2014
_________
Chú thích
(1) Chính xác là: “lập biên bản”.
(2) Xem thêm : Inrasara, “Vài nhận định về Nhóm Mở Miệng và Nhà xuất bản Giấy Vụn”, Tienve.org, 5-2011.
(3) Dĩ nhiên đây là một thông tin chưa đầy đủ. Và tôi cũng không liệt kê các bài báo phê phán Mở Miệng mang tính quy kết chính trị.
(4) “Inrasara: Thiếu tư tưởng nên ăn theo sáng tácMT thực hiện, báo Lao động, số 185, 11-8-2007.

Wednesday, 7 May 2014

Binh lính đồn trú Điện Biên Phủ giải quyết sinh lý bằng cách nào?


Theo Lịch sử đảng bộ tỉnh Lai Châu (1945-2009), trong vòng một tháng sau khi tái chiếm Điện Biên Phủ lính Pháp đã gây ra 158 vụ hãm hiếp phụ nữ. Cùng với sự hình thành tập đoàn cứ điểm, bộ chỉ huy Pháp phải nghĩ đến chuyện giải quyết nhu cầu sinh lý của hơn một vạn quân trú đóng lâu dài.


Trang Web của VietnamCulture Travel viết không đúng:
The French even went to the extent of flying in an entire brothel of French women to keep the soldiers happy!


Không có gái mại dâm người Pháp trong nhà thổ lưu động ở Điện Biên Phủ. Chỉ có gái Việt và gái Bắc Phi (André Galabru, 2006:42 ; Alain Ruscio, 2006:345-346), tổng cộng 18 người. Toán thứ nhất (gái Việt, do một má mì từ Sài Gòn ra, tên Chính, tên khác là Marie Casse-croûte tuyển mộ và phụ trách) theo máy bay từ Hà Nội lên vào giữa tháng 1-1954, được giao cho sĩ quan quân y lê dương quản lý. Toán thứ hai đến Điện Biên Phủ ngày 27-2.

Từ đầu tháng 2, vì sợ Việt Minh pháo kích, một số lính lê dương xung phong đào hầm cho gái (được miễn công tác tu bổ công sự chiến đấu). Hầm được xây dựng khá kiên cố, có đường đi lối lại, trang bị đầy đủ.

Một công văn được gửi ra, quy định ngày giờ mở cửa nhà thổ và thứ tự  luân phiên các đơn vị, riêng các đơn vị ở xa sẽ có gái đến phục vụ tại chỗ. Ai cũng vui, chỉ có các linh mục tuyên úy phản đối chút đỉnh, đòi điều chỉnh thời gian biểu vui chơi sao cho không trùng với giờ đọc kinh hoặc làm lễ rửa tội.


Khi chiến sự nổ ra ác liệt, không ai còn hồn vía để vui chơi nữa. Các gái điếm vẫn thuộc quyền quản lý của quân y, ngưng làm công việc ủng hộ sinh lý để trở thành các hộ lý chăm sóc thương binh (Alain Ruscio, 2006:345-346).

Jacques Dalloz, tác giả quyển La Guerre d'Indochine (Points Seuil) cho rằng Việt Minh giết sạch số gái điếm bị bắt ở Điện Biên Phủ (http://www.liberation.fr/courrier/2004/05/07/les-prostituees-de-dien-bien-phu_478690). Chuyện này hơi khó tin. Có lẽ là các gái điếm người Việt chỉ phải đi cải tạo (http://www.nytimes.com/2004/04/01/opinion/01iht-edpringle_ed3_.html)

Trong một thời gian dài Geneviève de Galard được xem là người phụ nữ duy nhất (seule femme) có mặt ở Điện Biên Phủ đến phút chót. Gần đây để tôn trọng sự thật lịch sử và để tỏ lòng kính trọng những người phụ nữ vô danh lạc loài giữa bom đạn, người ta nói lại rằng Geneviève de Galard  là người phụ nữ Pháp duy nhất (seule Française) (Alain Ruscio, 1985:335-347), với hàm ý rằng Điện Biên Phủ còn những người phụ nữ khác, không phải người Pháp. Nhưng vẫn còn nhiều người không biết những người phụ nữ ấy đến Điện Biên Phủ làm gì.

Tuesday, 6 May 2014

Geneviève de Gallard là ai?



Geneviève de Gallard là một trong số 35 nữ y tá làm nhiệm vụ trên các máy bay tản thương của quân đội Pháp (convoyeuse de l’Air - CVA). Cô gia nhập lực lượng này năm 1953. Tháng 1/1954 cô được phái ra Hà Nội. Theo kế hoạch mỗi ngày có hai nữ CVA được chỉ định theo máy bay lên Điện Biên Phủ đón thương binh. Trong phiên công tác đêm 26 rạng ngày 27 tháng 3 năm 1954, máy bay của Geneviève không đón được thương binh. Cô tình nguyện trở lại vào đêm sau. Máy bay đến Điện Biên Phủ lúc 4 giờ sáng và kẹt luôn ở đó vì bị cao xạ Việt Minh bắn hỏng. Cô được phân công về đội điều trị trung tâm, phụ trách chăm sóc thương binh nặng sau khi họ ra khỏi phòng hồi sức. Cuối tháng 4-1954, chỉ ít ngày trước khi Điện Biên Phủ thất thủ, Geneviève de Gallard, mệnh danh là nữ thiên thần của Điện Biên Phủ (l’Ange  de Dien Bien Phu), được thưởng Bắc đẩu bội tinh và huân chương quân công (croix de guerre).

Trong một thời gian dài sách báo Pháp xem cô là người nữ tù binh duy nhất ở Điện Biên Phủ khi tập đoàn cứ điểm này thất thủ. Sách báo của ta hiện nay cũng không nói khác.

Hơn hai chục bác sĩ và mấy chục nhân viên quân y Pháp cũng bị đói, thân hình gày guộc, mệt mỏi, phờ phạc. Anh Khánh cho biết có người nữ hộ lý duy nhất, tên là Đờ Gala (Geneviève de Galard), đã được những thương binh Pháp coi là "thiên thần". Tôi nói điều ngay tới một đội điều trị kết hợp với nhân viên y tế của Pháp cứu chữa thương binh, có thể cho phía Pháp xuống lấy thương binh nặng như ta đã làm ở Thất Khê trong chiến dịch Biên Giới. Phải tổ chức ngay việc tẩy uế chiến trường để tránh dịch bệnh, cho chuyển thương binh địch từ dưới hầm lên khỏi mặt đất. Và sớm cho cô hộ lý duy nhất tại đây trở về với gia đình.
(Võ Nguyên Giáp – Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử)

Chiều mùng 07 tháng 05 năm 1954, quân Pháp thua trận ở Điện Biên Phủ. Hơn 10 nghìn tù binh bị ta bắt sống, trong đó duy nhất có một nữ tù binh, đó là Geneviève de Gallard - cô nữ y tá xinh đẹp chừng hơn 30 tuổi, nguyên là tiếp viên hàng không đến từ Pari, với cái tên “nữ hoàng của mặt trận”.

Là một y tá trong quân đội, cô theo máy bay tải thương lên ĐBP, nhưng do máy bay bị phá hỏng nên kẹt lại khi vòng vây đã bị xiết chặt. Cô bị bắt khi cứ điểm thất thủ trong buổi chiều tháng năm đáng nhớ đó. Cô là người phụ nữ duy nhất trong đám tù binh, vì vậy mà được báo chí của Pháp hồi đó ở Hà Nội làm rùm beng lên. Theo lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cô y tá này được trả sớm cùng với các thương binh ở ĐBP trong những ngày từ 13 đến 28-5.
(http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/tin-tuc-su-kien/item/8249502-.html)

Monday, 5 May 2014

Âu Phi hay Âu Phi Á?



Sách vở của ta thường phân loại quân địch trên chiến trường Đông Dương theo chủng tộc thành lính Âu Phi (từ châu Âu hoặc từ châu Phi đến) và lính ngụy (người bản xứ).

TRƯỚC khi vào mùa khô 1953-1954, so sánh lực lượng về quân số, địch đã vượt lên ta khá xa. Tổng quân số của địch là 445.000 người, gồm 146.000 quân Âu Phi (33%) và 299.000 quân ngụy (67%). Tổng quân số của ta là 252.000 người. Như vậy, quân địch đông hơn ta: 193.000 người. Riêng quân ngụy cũng đã đông hơn ta: 47.000 người.
(Võ Nguyên Giáp – Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử)

Theo cách phân loại này, Điện Biên Phủ chỉ có vỏn vẹn ba tiểu đoàn người bản xứ:

Trừ 2 tiểu đoàn bộ binh Thái và 1 tiểu đoàn dù ngụy là người bản xứ, do những sĩ quan Pháp chỉ huy, số còn lại đều là những đơn vị Âu Phi được lựa chọn trong các binh đoàn cơ động, gồm 5 tiểu đoàn bộ binh và dù lê dương, 4 tiểu đoàn Bắc Phi. Tất cả đều là những đơn vị. có truyền thống lâu đời hoặc đã được thử thách nhiều trong chiến đấu và có chỉ huy tốt.
(Võ Nguyên Giáp – Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử)

Thực ra thì trong các đơn vị gọi là Âu Phi lúc nào cũng có người Việt làm nhiệm vụ thông ngôn, dẫn đường và nhiều việc linh tinh khác. Số này không nhiều nên các đơn vị được gọi là Âu Phi trông đúng là Âu Phi. Tuy nhiên, từ năm 1949 trở đi, ngoài số lính Việt đỡ đần chân tay đó ra, trong biên chế của các tiểu đoàn tác chiến (gọi là) Âu Phi đều có 1-2 đại đội người Việt.

Ngày 18 tháng 3 năm 1951, tiểu đoàn nhảy dù lê dương số 1 (1er BEP) số 1 được tái lập tại Hà Nội với đủ 3 đại đội tác chiến, trong đó có 1 đại đội Đông Dương gọi là CIP (compagnie indochinoise parachutiste).

Tiểu đoàn nhảy dù thuộc địa số 6 (6e BPC) của Bigeard khi xuống tàu ở Pháp (tháng 7-1952) chỉ có 352 người, chủ yếu là khung cán bộ, chỉ có một đại đội chỉ huy và một đại đội tác chiến hoàn chỉnh. Khi sang đến Đông Dương nhận 318 lính Việt bổ sung mới hình thành tiểu đoàn có khả năng chiến đấu, trong đó có một đại đội CIP (đại đội 6). Tháng 10-1953 thành lập thêm một đại đội CIP nữa (đại đội 26), tức là trong số bốn đại đội tác chiến của tiểu đoàn này đã có hai đại đội người Đông Dương.

Do việc xin tăng viện từ chính quốc có khó khăn, bộ chỉ huy Pháp ở Đông Dương phải tăng tỷ trọng lính bản xứ trong các đơn vị (gọi là Âu Phi). Tháng 5-1953, tiểu đoàn 2 nhảy dù lê dương có biên chế 980 quân thì số lính bản xứ đã là 481 (về lý thuyết, tiểu đoàn này chỉ được phép có 439 lính bản xứ). Bán lữ đoàn lê dương số 13 (13e DBLE) vào năm 1953 phình ra bằng một lữ đoàn nhờ mộ thêm được lính bản xứ. (Michel Bodin, 2003:11-27).
Tất cả các đơn vị vừa kể trên đều có mặt ở Điện Biên Phủ và được tướng Giáp gọi là các tiểu đoàn Âu Phi.

Tiểu đoàn 1 nhảy dù thuộc địa (thiếu một đại đội), đơn vị cuối cùng được ném xuống Điện Biên Phủ vào cuối tháng 4, đầu tháng 5-1954, có thành phần như sau:
-ban tham mưu và đại đội chỉ huy: 48 người (12 Việt);
-đại đội 2: 3 sĩ quan, 17 hạ sĩ quan (1 Việt) và 102 lính (47 Việt);
-đại đội 3: 4 sĩ quan, 16 hạ sĩ quan (2 Việt) và 101 lính (49 Việt);
-đại đội 4: 3 sĩ quan, 11 hạ sĩ quan  và 64 lính (43 Việt);

Các tiểu đoàn (toàn) Phi như Ma-rốc, An-giê-ri, Xê-nê-ga-le... có lẽ vì đặc điểm văn hóa, ban đầu không lập đại đội người bản xứ nhưng rồi vì quân số hao hụt nên đành nhận các đại đội phụ lực. Quân chính quy người bản xứ chỉ dành cho các đơn vị dữ dằn (lê dương, dù...).

Bộ tham mưu liên quân  (EMIFT) đã dự trù đến cuối năm 1953 lực lượng bộ chiến có 158.566 quân (con số thực tế ngày 1/11/1953 là 182.424, chia làm 100 tiểu đoàn bộ binh, 17 pháo đoàn, 40 chi đoàn kỵ binh, 8 tiểu đoàn công binh và một số đại đội binh chủng khác) trong đó số người bản xứ là 53.870  chính quy và 52-58.000 quân phụ lực. Một phần số này là do quân đội quốc gia Việt Nam chuyển qua cho quân liên hiệp Pháp (Lê Văn Dương, 1972:196).


Trong khi đó các đơn vị gọi là ngụy cũng không hoàn toàn là người bản xứ. Cuối năm 1952  (Lê Văn Dương, 1972:226) có 4568 người Pháp (718 sĩ quan) phục vụ trong quân đội quốc gia Việt Nam: 2011 vệ binh cộng hòa (người Pháp) chỉ huy 26.000 vệ binh quốc gia (Việt Nam).  Theo thống kê vào ngày 1/11/1953, trong quân đội quốc gia Việt Nam, (151.020 quân chính quy và 47.025 quân phụ lực người bản xứ) có 3.961 sĩ quan, hạ sĩ quan lục quân Pháp được biệt phái qua làm chỉ huy (Lê Văn Dương, 1972:196).
Tiểu đoàn 5 nhảy dù Việt Nam (5eBPVN) được thành lập ngày 1/9/1953, thực chất chỉ là đổi phiên hiệu của một tiểu đoàn viễn chinh (tiểu đoàn 3 dù thuộc địa - 3e BPC). Tiểu đoàn 3 được giải thể trên giấy tờ trước đó một ngày. Khung cán bộ cùng với hai đại đội CIP số 3 và số 23 được đưa sang cho tiểu đoàn 5 dù Việt Nam. Đây là tiểu đoàn dù ngụy duy nhất có mặt ở Điện Biên Phủ, được tướng Giáp nhắc đến trong đoạn trích hồi ký Điểm Hẹn Lịch Sử đã dẫn ở trên.

Sunday, 4 May 2014

Chiến lược da vàng hóa đã được khởi động như thế nào ?


Theo Michel Bodin (2009):
Do số quân tăng viện từ Pháp sang không đủ đáp ứng yêu cầu của chiến trường, bộ chỉ huy Pháp ở Đông Dương phải nghĩ đến việc tìm kiếm những giải pháp nhiều, nhanh, tốt, rẻ để đối phó với áp lực ngày càng mạnh của Việt Minh và nguy cơ bùng nổ chiến tranh với nước Trung Hoa Đỏ.
.
Năm 1949 các tiểu đoàn biệt kích dù thuộc địa (BCCP) bắt đầu nhận lính chiến đấu người bản xứ, gom vào một đại đội gọi là đại đội Đông Dương (Compagnie Indochinoise Parachutiste), bên cạnh ba đại đội cơ hữu. Ở một số tiểu đoàn biệt kích dù thuộc địa (số 1, số 2, số 3 và số 5) mỗi đại đội chỉ có hai trung đội nên cấp đại đội được lập thêm một trung đội người bản xứ. Người bản xứ chiếm 40% quân số pháo binh, 20 % kỵ binh, 35 % khối cơ quan và tiếp vận. Tỷ lệ người bản xứ tăng nhanh trong bộ binh: 38291 người  (37,6 %) vào tháng 1-1949, 42076 người (tháng 12-1949) với những tiểu đoàn có 60-70% quân số là người bản xứ.

Ngoài các đơn vị chính quy kể trên, bộ chỉ huy Pháp còn huy động 109640 người bản xứ (riêng Nam Kỳ góp 52290 người) tham gia phụ lực quân và vệ binh các loại (Vệ Binh Nam Việt ở Nam kỳ, Việt Binh Đoàn tức Vệ Binh Trung Việt, Bảo Chính Đoàn (Bắc kỳ), Vệ Binh Sơn Cước, Vệ Binh Quốc Gia từ tháng 4-1949).
Người ngoại quốc trong đội quân lê dương từ 11886 người (tháng 1-1949) tăng lên 16952 người (tháng 12) được tổ chức thành 11 tiểu đoàn bộ binh, 1 trung đoàn kỵ binh (1er REC) và các đơn vị binh chủng (công binh, tiếp vận, quân cụ).

Quân Bắc Phi có 24364 người vào tháng 12 (tổng cộng 23 tiểu đoàn, trong đó Ma rốc các loại 12 tiểu đoàn, An-giê-ri 10 tiểu đoàn, Tuy-ni-di 1 tiểu đoàn). Lính Xê-nê-ga-le (Phi Châu da đen / Tây rạch mặt) có 12090 người (9 tiểu đoàn).

Ngay trong năm 1949 lục quân Pháp ở Viễn Đông (FTEO) đã trở thành một lực lượng hết sức đa dạng về mặt chủng tộc. Lính Pháp chính quốc chỉ chiếm 31,1 % tổng quân số ; số hiện diện trong các đơn vị chiến đấu còn ít hơn vì nhiều quân nhân Pháp phục vụ trong các văn phòng hoặc được biệt phái sang các đơn vị bản xứ. Các thành phần chủng tộc còn lại có tỷ lệ như sau: Âu (không kể Pháp) 11,6 %, Bắc Phi 16,7 %, Phi Châu  (da đen) 8,3 %, bản xứ 32,3 %. Việc quản trị nhân sự và yểm trợ hậu cần do đó trở nên phức tạp hơn trước nhiều.

Lính bản xứ rẻ hơn lính từ chính quốc hoặc từ châu Phi đưa qua, lại thông thạo ngôn ngữ và đường đi lối lại, nhưng không đáng tin cậy. Họ không thích phục vụ xa nhà (hễ đưa đi xa thì thường đào ngũ) và hay trở cờ, vác súng chạy sang Việt Minh. Lính bản xứ thường chỉ được giao nhiệm vụ đóng đồn, trấn giữ các tháp canh dọc trục lộ giao thông quan trọng, hoặc đi biệt kích, hoặc đi theo một đơn vị chính quy.

Saturday, 3 May 2014

Các cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam (Nguyễn Thanh Tâm - Tuyên Giáo)


Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã đi qua chặng đường lịch sử 80 năm. Từ sau Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản để thành lập Đảng (3-2-1930) đến nay, Đảng đã tiến hành 10 Đại hội đại biểu toàn quốc, khoảng 141 cuộc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, nhiều cuộc Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương và Hội nghị Bộ Chính trị. Mỗi Đại hội, hội nghị đã đánh dấu những mốc quan trọng trong lịch sử anh hùng, vẻ vang của Đảng bởi những văn kiện, nghị quyết làm nên chủ trương, đường lối cách mạng Việt Nam. Có nhiều văn kiện, nghị quyết của Đảng mang tính cương lĩnh chiến lược, sách lược cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy, nếu xét về tên gọi của mỗi văn kiện và khái niệm "Cương lĩnh chính trị" theo nghĩa là bản trình bày một cách khoa học nhất mục đích, tôn chỉ, phương hướng, nhiệm vụ của một chính đảng cách mạng, cũng như xác định đầy đủ lực lượng, phương thức, phương pháp tiến hành cách mạng để thực hiện mục tiêu trước mắt, và nhằm tới mục đích cuối cùng của cách mạng, thì trong lịch sử 8 thập kỷ ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có 4 Cương lĩnh chính trị quan trọng.
1. Cương lĩnh của Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (2-1930)
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng được đề ra tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước có ý nghĩa như Đại hội để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đại biểu Quốc tế Cộng sản triệu tập và chủ trì, cùng với sự tham dự chính thức của hai đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929); hai đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng (10-1929) và một số đồng chí Việt Nam hoạt động ngoài nước. Hội nghị họp bí mật ở nhiều địa điểm khác nhau trên bán đảo Cửu Long (Hương Cảng), từ ngày 6-1 đến 7-2-1930, đã thảo luận quyết định thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và nhất trí thông qua 7 tài liệu, văn kiện, trong đó có 4 văn bản: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam hợp thành nội dung Cương lĩnh chính trị của Đảng. Tất cả các tài liệu, văn kiện nói trên đều do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo dựa trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối Đại hội VI (1928) của Quốc tế Cộng sản; nghiên cứu các Cương lĩnh chính trị của những tổ chức cộng sản trong nước, tình hình cách mạng thế giới và Đông Dương. Dù là vắn tắt, tóm tắt, song nội dung các tài liệu, văn kiện chủ yếu của Hội nghị được sắp xếp theo một lôgic hợp lý của một Cương lĩnh chính trị của Đảng.
Trong Chánh cương của Đảng đã nêu "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản" (1). Đó là mục đích lâu dài, cuối cùng của Đảng và cách mạng Việt Nam. Mục tiêu trước mắt về xã hội làm cho nhân dân được tự do hội họp, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục cho dân chúng; về chính trị đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, lập chính phủ, quân đội của nhân dân (công, nông, binh); về kinh tế là xóa bỏ các thứ quốc trái, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thu hết sản nghiệp lớn của đế quốc giao chính phủ nhân dân quản lý, thu hết ruộng đất chiếm đoạt của đế quốc làm của công chia cho dân cày nghèo, phát triển công, nông nghiệp và thực hiện lao động 8 giờ. Những mục tiêu đó phù hợp với lợi ích cơ bản của dân tộc, nguyện vọng tha thiết của nhân dân ta.
Sách lược của Đảng nêu rõ Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, thu phục giai cấp, lãnh đạo dân chúng nông dân; liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông; tranh thủ, phân hóa trung tiểu địa chủ và tư sản dân tộc, đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới để hình thành mặt trận thống nhất đánh đuổi đế quốc, đánh đuổi bọn đại địa chủ và phong kiến, thực hiện khẩu hiệu nước Việt Nam độc lập, người cày có ruộng.
Chương trình tóm tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của Đảng nêu chính xác tên Đảng, tôn chỉ của Đảng, hệ thống tổ chức của Đảng từ chi bộ, huyện bộ, thị bộ hay khu bộ; tỉnh bộ, thành bộ hay đặc biệt bộ và Trung ương.
Toàn bộ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng toát lên tư tưởng lớn là cách mạng dân tộc dân chủ Việt Nam tất yếu đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp đó là của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng Mác - Lênin.
2. Cương lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (10-1930)
Tháng 10-1930, sau 8 tháng Đảng ra đời, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương lâm thời có ý nghĩa như một Đại hội cũng tổ chức tại Hương Cảng do điều kiện trong nước bị đế quốc đàn áp khủng bố gắt gao phong trào cách mạng. Hội nghị họp từ ngày 14-10 đến 31-10-1930 thảo luận và thông qua bản Luận cương chánh trị, án nghị quyết của Trung ương toàn thể Đại hội nói về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, Điều lệ Đảng, hợp thành nội dung Cương lĩnh thứ hai của Đảng. Hội nghị thông qua 17 văn bản là Nghị quyết, Điều lệ của các tổ chức đoàn thể cách mạng ở nước ta, công tác vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, binh lính, lập Hội đồng minh phản đế Đông Dương và bản Thông cáo cho các Xứ ủy bổ sung nội dung của Cương lĩnh. Hội nghị Trung ương quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương, bầu đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư, nên Cương lĩnh thứ hai mà bản Luận cương chánh trị là văn kiện quan trọng, mang tên là Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Luận cương chánh trị do đồng chí Trần Phú (1904 - 1931) dự thảo từ mùa hè đến mùa thu 1930, sau khi được Quốc tế Cộng sản và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc phái về nước, cử bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, trên cơ sở nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, đường lối Đại hội VI (1928) Quốc tế Cộng sản về Đảng Cộng sản và cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới; các tài liệu, văn kiện Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng (2-1930) và khảo sát các phong trào công nhân, nông dân một số tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, khu mỏ than Hồng Gai - Cẩm Phả...
Từ phân tích tính chất, đặc điểm của xã hội các nước Đông Dương thuộc địa của đế quốc Pháp; những mâu thuẫn kinh tế, giai cấp tạo nên mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân Đông Dương và đế quốc chủ nghĩa Pháp, Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương có những điểm cơ bản giống với Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là tính chất cách mạng Đông Dương là cách mạng tư sản dân quyền tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; là độc lập hoàn toàn cho các dân tộc, tự do dân chủ cho nhân dân Đông Dương, lập chính phủ, quân đội nhân dân, dựa vào sức mạnh của nhân dân, đoàn kết với giai cấp vô sản quốc tế, các dân tộc bị áp bức trên thế giới và sử dụng phương pháp cách mạng bạo lực theo phương thức tổng bãi công, bạo động võ trang khi có thời cơ; Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, trung thành và hy sinh hết thảy vì lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp và nhân dân lao động...(2).
Tuy vậy, Luận cương chánh trị, Án nghị quyết và Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương có những điểm khác biệt, nhưng không đối lập về tư tưởng chính trị với Chánh cương, Sách lược và Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những điểm khác biệt đó là ở chỗ bỏ tên "Việt Nam Cộng sản Đảng", lấy tên "Đông Dương Cộng sản Đảng"; chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền trong toàn cõi Đông Dương; lực lượng cách mạng chỉ trong công nhân, nông dân, binh lính, chưa thấy hết vai trò của lực lượng yêu nước trong tiểu tư sản, tư sản dân tộc; xác định mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong kiến, giữa độc lập dân tộc và dân chủ nhân dân tuy biện chứng, sâu sắc nhưng chưa định được xu hướng phát triển nhiệm vụ giải phóng dân tộc có tính quyết định hàng đầu; hệ thống tổ chức của Đảng quy định thêm tổng bộ, xứ bộ, quận bộ, liên khu bộ và Đảng đoàn (3).
Có những nguyên nhân của sự tương đồng và nguyên nhân của sự khác biệt giữa Cương lĩnh đầu tiên và Cương lĩnh thứ hai của Đảng. Nguyên nhân chính là do nhận thức và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Quốc tế Cộng sản về lập Đảng Cộng sản, về cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới vào điều kiện nước ta; vai trò của lãnh tụ Đảng, lãnh tụ dân tộc và chính sách phản động đàn áp khủng bố của đế quốc, phong kiến.
3. Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Đông Dương tại Đại hội lần thứ II của Đảng (2-1951)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương họp từ ngày 11 đến 19-2-1951 tại xã Vinh Quang (nay xã Kim Bình), huyện Chiêm Hóa (Tuyên Quang). Đại hội đưa ra những văn kiện quan trọng: Diễn văn khai mạc Đại hội do đồng chí Tôn Đức Thắng đọc; Báo cáo hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội, tức là bản Luận cương cách mạng Việt Nam, do đồng chí Trường Chinh trình bày; Chính cương Đảng Lao động Việt Nam; Điều lệ Đảng Lao động Việt Nam; Tuyên ngôn của Đảng Lao động Việt Nam, là những văn kiện chủ yếu về nội dung Cương lĩnh thứ ba của Đảng. Tại Đại hội có 6 báo cáo tham luận về Mặt trận, chính quyền dân chủ nhân dân, xây dựng quân đội, kinh tế tài chính, xây dựng văn nghệ nhân dân và thi đua ái quốc cùng 4 Nghị quyết Đại hội về Báo cáo chính trị, công tác quân sự, công tác mặt trận và dân vận, về tờ báo Nhân dân là cơ quan Trung ương của Đảng, bổ sung cho nội dung Đại hội.
Báo cáo chính trị đã tổng kết khái quát tình hình thế giới trong nửa đầu thế kỷ XX; thắng lợi cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời lãnh đạo qua các thời kỳ cho đến giai đoạn tổng phản công của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đề ra từ năm 1950, đã chứng tỏ đường lối, chính sách của Đảng ta là đúng; thành tích nhiều, khuyết điểm cũng không ít như khuynh hướng hoặc "tả" hoặc "hữu", chủ quan, quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi và bệnh công thần. Từ đó xác định tình hình mới, nhiệm vụ mới của Đảng, nhiệm vụ chính trước mắt là đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và tổ chức xây dựng Đảng Lao động Việt Nam, để lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện tiến đến chủ nghĩa xã hội" (4).
Luận cương cách mạng Việt Nam là bản Cương lĩnh chính trị mới của Đảng. Phân tích tính chất xã hội Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và phần nửa phong kiến; mâu thuẫn chủ yếu giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược diễn ra quyết liệt dưới hình thức chiến tranh; đối tượng của cách mạng Việt Nam là thực dân Pháp và can thiệp Mỹ cùng bè lũ Việt gian bù nhìn bán nước; xác định nhiệm vụ cơ bản hiện thời của cách mạng là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập thống nhất, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân; gây cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Điều đó có nghĩa cuộc kháng chiến chống Pháp là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, nhiệm vụ phản đế giải phóng dân tộc là trọng tâm, nhiệm vụ chống phong kiến, giành quyền dân chủ tiến hành đồng thời nhưng phải có kế hoạch tiến hành từng bước, nhiệm vụ giải phóng dân tộc bao gồm cả hai nhiệm vụ phản đế và phản phong; cách mạng dân tộc dân chủ do nhân dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng sẽ tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Con đường tiến đến chủ nghĩa xã hội trải qua một thời gian dài gồm 3 giai đoạn, kế tục nhau và quan hệ mật thiết: kháng chiến tiêu diệt đế quốc xâm lược, giải phóng dân tộc, củng cố Nhà nước dân chủ nhân dân; cải cách ruộng đất triệt để, phát triển nông nghiệp, công nghiệp dưới hình thức hợp tác hóa, kỹ nghệ hóa; đẩy mạnh công nghiệp hóa xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Luận cương cách mạng Việt Nam là sự bổ sung, hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của Đảng, soi sáng nhiệm vụ trước mắt và về sau của cách mạng nước ta.
Đại hội lần thứ II quyết định đưa Đảng ra công khai và lấy tên Đảng Lao động Việt Nam. Bổ sung cho Cương lĩnh của Đảng còn có Chính cương, Tuyên ngôn và Điều lệ Đảng xác định mục đích, tôn chỉ, nhiệm vụ lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhân dân ta đến thắng lợi và nhiệm vụ xây dựng Đảng. Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có hệ thống tổ chức chặt chẽ từ cơ sở đến Trung ương và trong quân đội bao gồm các cấp ủy: Chi ủy, Đảng ủy, quận, huyện ủy, thị ủy, tỉnh ủy, thành ủy, xứ ủy, khu ủy, Trung ương. Trong Đảng đã đặt ra chế độ khen thưởng và kỷ luật nghiêm minh để tất cả đảng viên, tổ chức đảng thi hành.
4. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam (6-1991)
Cùng với Báo cáo chính trị, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000; Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng, do Ban Chấp hành Trung ương (Khóa VI) đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII họp tại thủ đô Hà Nội từ ngày 24 đến 27-6-1991 thảo luận và thông qua, là Cương lĩnh thứ tư của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Báo cáo chính trị - nền tảng của Cương lĩnh đã đánh giá 4 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện theo Nghị quyết Đại hội VI (12-1986) của Đảng, với những thành tựu, yếu kém và khó khăn trên các mặt chính trị, kinh tế - xã hội; quyền làm chủ nhân dân, quốc phòng - an ninh và quan hệ quốc tế; đồng thời đúc rút 5 bài học kinh nghiệm chủ yếu; đề ra mục tiêu tổng quát 5 năm (1991 - 1995), 5 mục tiêu cụ thể, 4 phương châm chỉ đạo và một số nhiệm vụ chủ yếu để thực hiện các mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Bản Cương lĩnh đã tổng kết hơn 60 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, từ năm 1930, đúc rút 5 bài học lớn về nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh đặc biệt nêu 6 đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là xã hội "do nhân dân lao động làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới" (5).
Cương lĩnh xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường vừa xây dựng vừa bảo vệ Tổ quốc, nên phải nắm vững 7 phương hướng cơ bản. Đó là: Xây dựng Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; thực hiện công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại; thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phù hợp với sự phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thực hành chính sách đại đoàn kết dân tộc, chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị; kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Xuất phát từ Cương lĩnh đó, chiến lược của Đảng là phải ổn định, phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng Đảng gắn với xây dựng, thực hiện Cương lĩnh, chiến lược công cuộc đổi mới, xây dựng hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đổi mới và tự chỉnh đốn Đảng ở các cấp từ dưới cơ sở đến Trung ương.
5. Cương lĩnh của Đảng qua những thời kỳ cách mạng nước ta trong thế kỷ XX.
Có 3 Cương lĩnh về cách mạng dân tộc dân chủ, và 1 Cương lĩnh về thời kỳ đổi mới, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo thời gian và tiến trình lịch sử, mỗi Cương lĩnh của Đảng chứa đựng những giá trị nội dung và ý nghĩa lớn lao riêng. Các Cương lĩnh năm 1930 đã đưa đến ba cao trào cách mạng trong những năm 30, 40 thế kỷ trước và thắng lợi huy hoàng của Cách mạng Tháng Tám 1945; đồng thời là cơ sở cho Đảng ta đề ra đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh chống thực dân Pháp xâm lược.
Cương lĩnh năm 1952 định hướng cho quyết tâm đi đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tạo tiền đề cho Đại hội III (9-1960) của Đảng đề ra đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược tập trung kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam diễn ra suốt từ sau Hiệp định Giơnevơ (7-1954) đến năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cả nước cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội..
Cương lĩnh năm 1991 là bước phát triển, hoàn chỉnh các Cương lĩnh trước đó của Đảng, mở đầu cho quá trình nhận thức đầy đủ hơn, ngày càng rõ ràng hơn về chủ nghĩa xã hội và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Những điểm chung trong các Cương lĩnh đó của Đảng là tư tưởng nhất quán về cách mạng dân tộc dân chủ Việt Nam tất yếu đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; nhân dân là động lực cách mạng; Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng; Nhà nước, Chính phủ, quân đội của nhân dân; xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Các Cương lĩnh đó đều được xây dựng dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam đang tiến tới Đại hội lần thứ XI. Cùng với việc chuẩn bị các Văn kiện Đại hội, việc bổ sung hoàn chỉnh Cương lĩnh năm 1991 của Đảng đang được tiến hành. Với truyền thống kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được nêu trong các Cương lĩnh của Đảng trước đây; với những tổng kết về lý luận và kinh nghiệm công cuộc đổi mới từ Đại hội VIII, Đại hội IX, Đại hội X và nhiều Hội nghị Trung ương qua các kỳ Đại hội toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tin tưởng rằng Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xãhội thông qua Đại hội Đảng lần thứ XI là Cương lĩnh cách mạng Việt Nam của Đảng trong thế kỷ XXI, đáp ứng nguyện vọng của dân tộc, nhân dân Việt Nam và mong muốn của nhân dân thế giới về xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, xã hội chủ nghĩa giàu mạnh./.
PGS,TS Nguyễn Thanh Tâm
Viện Lịch sử Đảng- Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
______________________________________

(1) Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1998, t2, tr2
(2) (3) Xem Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1998, t2, tr88- 103, 104- 129
(3) Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2001, t2, tr37
(5) Đảng Cộng sản Việt nam: cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, H.1991, tr 8- 9

Friday, 2 May 2014

Cố đại tá Nguyễn Đình Bảo nằm lại Charlie từ ngày nào?



Ngày 7-4-1972 tiểu đoàn 11 nhảy dù được đổ xuống Charlie (còn có các tên gọi Cải Cách / căn cứ C / cao điểm 1020 trong sách vở Việt Nam Cộng Hòa ; sách vở trong nước hiện nay gọi là căn cứ Sạc-Ly / điểm cao 1015).

Các trang mạng của người Việt hải ngoại thống nhất tường thuật về đoạn kết trận Charlie như sau:

Sáng 12-4-1972 trung tá Nguyễn Đình Bảo (tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 11 nhảy dù) trúng đạn pháo kích, chết tại chỗ ; thiếu tá Lê Văn Mễ (tiểu đoàn phó) được cử xử lý thường vụ chức vụ tiểu đoàn trưởng. Ngày 14 tháng 4 Việt Cộng mở đợt tấn công mới, tình hình nguy kịch, thiếu tá Lê Văn Mễ quyết định cho rút quân. Cả tiểu đoàn (còn 167 người) đồng loạt xuống núi lúc 5 giờ chiều để lại Charlie cho phi pháo hủy diệt. Chỉ 37 người về đến phòng tuyến quân bạn.

Sách Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước tập 7 (đại tá, PGS TS Hồ Khang chủ biên, Viện Lịch Sử Quân Sự Việt Nam, nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia, 2007:104-106) cho thấy một diễn biến khác. Theo đó thì loạt pháo đầu tiên mở màn trận đánh ngày 14-4 bắn trúng sở chỉ huy tiểu đoàn 11 nhày dù, làm tiểu đoàn phó bị thương nặng. Đến 5 giờ chiều, bộ đội được lệnh xung phong. Hướng tây bắc đột phá công sự vòng ngoài, phát triển vào bên trong đánh chiếm sở chỉ huy tiểu đoàn, bắn chết tiểu đoàn trưởng.