Mở đầu
Trong Lời giới thiệu công trình nghiên cứu của mình- “Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến”- bà Sophie Quinn-Judge gọi Hồ Chí Minh là một “huyền thoại kép”(The double myth), với ý nghĩa ông là lãnh tụ duy nhất của phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á nửa đầu thế kỷ XX mang hai nhân cách: vừa là người yêu nước (dân tộc), vừa là người cộng sản (quốc tế). Theo tôi, chính “huyền thoại kép” này đã đem lại cho ông cả vinh quang lẫn cay đắng, với nghĩa là đã phải chịu đựng những hệ lụy không đáng có, liên tục trong những năm dài hoạt động cách mạng của mình.
Đối với phần đông nhân loại tiến bộ là bạn bè của Việt Nam, Hồ Chí Minh là biểu tượng trong sáng, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa “người chiến sĩ yêu nước nồng nàn” với “người chiến sĩ quốc tế trong sáng”- suốt đời chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mình và sự nghiệp giải phóng tất cả các dân tộc bị áp bức. Ông J. Sainteny - người đã “đối mặt với Hồ Chí Minh” trong nhiều năm, từng viết: “Trong đời tôi, có biết bao nhiêu lần người ta đã hỏi tôi: ông là người biết rõ Cụ Hồ, vậy Cụ là một người quốc gia (dân tộc) hay là người cộng sản? Câu trả lời rất đơn giản: “Cụ Hồ vừa là người này, vừa là người kia. Đối với Cụ, chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa cộng sản, mục đích và phương tiện, bổ sung cho nhau, hay nói đúng hơn, hòa quyện vào nhau”.[1]Với một cách diễn đạt khác, cố Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng cũng có lần nói: Hồ Chí Minh là người yêu nước 100% mà cũng lầ người cộng sản 100% !
Nhưng oái oăm thay, trong một thời gian dài, từ những năm 30 cho đến những năm 50 thế kỷ trước và cả ngày nay, Hồ Chí Minh lại lâm vào thế ở giữa hai làn đạn:
Đối với những người đối lập, Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc - người yêu nước. Theo họ, sau khi rời bỏ Đảng Xã hội Pháp, bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế 3, rồi đi Maxkva, Nguyễn đã từ bỏ chủ nghĩa quốc gia-dân tộc của nhóm Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, trở thành người cộng sản - một người cộng sản thuần thục, một phần tử staliniste, một Kominterchik đắc lực, được Staline cử vè để “xích hóa” cả khu vực Đông Nam Á!, v.v..
Theo họ, không có cái gọi là “sự thất sủng” của Hồ Chí Minh thời kỳ 1934-1938, vì hầu hết các lãnh tụ cộng sản đại diện cho đảng mình ở QTCS thời gian đó đều bị thanh trừng và giết hại, duy chỉ có một mình Hồ Chí Minh sống sót, ngôn luận Hồ Chí Minh khi phê phán trôtxkít hồi đó đều giống hệt ngôn luận của Staline,…
Đối với Chính phủ các nước phương Tây như Mỹ, Anh, Pháp và Trung Hoa Tưởng Giới Thạch,…Chính phủ Hồ Chí Minh vỏ là Việt Minh nhưng ruột là cộng sản! Người Pháp không lạ gì lai lịch Hồ Chí Minh - con người mà họ đã tốn bao công sức săn đuổi, tìm diệt mà không thành công. Người Mỹ, theo tình báo của họ, cũng cho Hồ Chí Minh là cộng sản, thân Maxkva, nên không công nhận Chính phủ Hồ Chí Minh sau 1945. Lúc đầu họ còn giữ thái độ trung lập trong cuộc xung đột Việt-Pháp, sau khi Roosevelt chết, Truman đã hoàn toàn ủng hộ Pháp trở lại cai trị Đông Dương.
Lư Hán, Tiêu Văn,…đem gần 20 vạn quân Tưởng vào bắc Việt Nam , tiếng là để giải giáp quân Nhật, nhưng không dấu diếm mục tiêu “diệt Cộng, cầm Hồ”, hòng dựng lên một chính quyền gồm những tay chân trung thành với họ. Một học giả Đài Loan, ông Tưởng Vĩnh Kính, cũng cho Hồ Chí Minh là “nhất cá dân tộc chủ nghĩa ngụy trang giả”, nghĩa là một người cộng sản đội lốt chủ nghĩa dân tộc mà thôi!
Nhưng bi kịch hơn lại là ở chỗ chính QTCS và các học trò của Hồ Chí Minh, từng được ông huấn luyện, sau được Maxkva đào tạo lại, trở thành những người cộng sản “cứng rắn”, đã quay lại phê phán Hồ Chí Minh rất nặng nề: là phần tử hữu khuynh, dân tộc chủ nghĩa,…nhất là sau khi thoát khỏi vụ án Hồng Kông, trở về được Maxkva, Hồ Chí Minh không chỉ bị phê phán về quan điểm mà còn bị nghi vấn nghiêm trọng cả về chính trị.
Có thể chía những hệ lụy mà Hồ Chí Minh phải chịu đựng, chung quanh mối quan hệ dân tộc và giai cấp, thành mấy giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: 1928-1933 (từ Hội nghị hợp nhất đến khi N.A.Q.bị bắt)
1. Sau phản biến của Tưởng Giới Thạch 12-4-1927, mặt trận Quốc - Cộng hợp tác tan vỡ, tín nhiệm của Hồ Chí Minh bị suy giảm, các nhân vật chủ chốt trong phái bộ của M. Borodine đều mất chức, ít năm sau thì bị thanh trừng. Hồ Chí Minh không được giữ lại Maxkva, phải tự tìm đường về Xiêm để tiếp tục hoạt động. Thời gian ở Xiêm, trước và sau Đại hội VI QTCS (1928), Hồ Chí Minh cũng không có liên lạc gì với QTCS.
Trước tình trạng chia rẽ giữa các nhóm cộng sản trong nước, một thành viên cũ của tổ chức “Thanh Niên” đã tìm đường sang Xiêm báo cáo với Hồ Chí Minh. Ý thức được cương vị và trách nhiệm của mình đối với CM Việt Nam , Hồ Chí Minh đã chủ động đứng ra triệu tập Hội nghị Hợp nhất, xóa bỏ được bất đồng, thành lập Đảng CS Việt Nam, thảo Chính cương, Sách lược vắn tắt, ra Lời kêu gọi …Từ nội dung các văn kiện đến cách tiến hành hội nghị của Hồ Chí Minh, đều thể hiện sự quán triệt tinh thần của Lênin và nghị quyết Đại hội V QTCS (1924).
Có thể tóm tắt mấy quan điểm cơ bản của Lênin trong Sơ thảo Luận cương cũng như khi ông phát biểu tại Đại hội II QTCS (1920) về vấn đề dân tộc và thuộc địa, như sau:
- “Mọi phong trào dân tộc (ở thuộc địa) chỉ có thể là dân chủ tư sản thôi, vì quảng đại quần chúng nhân dân ở các nước lạc hậu là nông dân, tức là những người đại diện cho những quan hệ tư bản. Nếu…những đảng vô sản ở trong các nước đó…không ủng hộ phong trào này trên thực tế, mà lại có thể thi hành sách lược và chính sách cộng sản trong những nước lạc hậu đó, thì là không tưởng”.
- “QTCS nên lập khối liên minh tạm thời với phái dân chủ tư sản ở các nước thuộc địa và các nước chậm tiến,…nhưng phải giữ vững tính độc lập của phong trào vô sản, dù cho phong trào này còn ở dưới hình thức phôi thai nhất”.
- “Phải áp dụng như thế nào sách lược và đường lối chính trị cộng sản trong những điều kiện các quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa còn thống trị ở đó, vì thế không thể nói đến phong trào thuần túy vô sản được, do ở đó hầu như không có giai cấp vô sản công nghiệp”…[2]
Những quan điểm này của Lênin đã được Nguyễn Ái Quốc tiếp thu vì nó đúng với thực tiễn của phong trào GPDT ở phương Đông và Việt Nam, nên đã quán triệt nó khi viết Đường Kách Mệnh và soạn thảo Chính cương, Sách lược vắn tắt,… Nhưng tất cả đều bị phủ định và phê phán, vì vào thời điểm này người ta đã xa rời các quan điểm đúng đắn ấy của Lênin.
Vậy bước chuyển sang đường lối “tả” khuynh của Staline và Đại hội VI QTCS (1928) diễn ra trong bối cảnh lịch sử nào?
-Cuộc phản biến của Tưởng Giới Thạch - đại biểu của giai cấp tư sản Trung Quốc- đã phá vỡ mặt trận hợp tác Quốc-Cộng của Tôn Dật Tiên đồng thời cũng làm thất bại sách lược liên minh của Staline và QTCS.
-Cuộc Tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản 1929-1933 đang đến gần, dẫn đến những dự báo lạc quan về triển vọng bùng nổ CM vô sản ở châu Âu, đến sự đánh giá phiến diện về tính chất của giai cấp tư sản và vai trò của các đảng dân chủ xã hội QT2. Khẩu hiệu “giai cấp chống giai cấp” được đề cao, họ nhấn mạnh độc quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản và nôn nóng thực hiện ngay CMVS,…
-Đây cũng là thời điểm Staline đã giành được chiến thắng tuyệt đối trong cuộc đấu tranh giành quyền lực trong nội bộ ĐCS Liên Xô. Tại Hội nghị toàn thể BCH QTCS thời gian đó, Otto Kuusinen - Ủy viên Đoàn CT Quốc tế cộng sản, phụ trách vấn đề thuộc địa- đã kêu gọi các ĐCS “hãy gột rửa mình khỏi chủ nghĩa cơ hội để trở nên tinh khiết”. Ông cũng nhắc nhở các ĐCS ở thuộc địa cần có sự điều chỉnh chính sách, sao cho có tính chất giai cấp mạnh mẽ hơn.
Vì vậy, báo cáo của Nguyễn Ái Quốc về kết quả của Hội nghị hợp nhất đã không được thừa nhận. Trong một thư gửi Nguyễn Ái Quốc, Ban Viễn Đông QTCS có viết: “Chúng tôi có thể quả quyết rằng, trong thực tế, đồng chí đã xa rời những nguyên tắc đó” (tức những nguyên tắc mà Đại hội VI QTCS (1928) đã thông qua, được nêu trong Chỉ thị mà Nguyễn Ái Quốc không nhận được-hoặc không được gửi cho).[3]
Trần Phú, Ngô Đức Trì là những học viên lớp đầu của Trường Phương Đông trong khoảng thời gian từ 1927 đến 1930, đã được đào luyện rất kỹ theo tinh thần “giai cấp chống giai cấp” của Đại hội VI, trở thành những người cộng sản ‘cứng rắn”, được cử về để “uốn nắn” lại những “sai lầm” của Nguyễn Ái Quốc !
Người phê phán gay gắt nhất Nguyễn Ái Quốc là Trần Phú. Tại Hội nghị TƯ tháng 10-1930, ông phê phán những sai lầm về chính trị và tổ chức của Hội nghị hợp nhất là “chỉ lo đến việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp đấu tranh, ấy là một sự rất nguy hiểm”, về “chia địa chủ làm đại, trung và tiểu địa chủ”, về “nóí phải lợi dụng bọn tư bản mà chưa rõ mặt phản cách mạng”, cùng một số sai lầm khác, sau đó ra nghị quyết ‘thủ tiêu Chính cương, Sách lược và Điều lệ cũ của Đảng”[4]. Sau Hội nghị TƯ 10-1930, trong thư gửi QTCS ngày 17-4-1931, ông còn phê phán nội dung Hội nghị hợp nhất “mang nặng dấu ấn các tổ chức CM cũ, các vấn đề cơ bản đều mâu thuẫn với đường lối QTCS (do thiếu một chính sách giai cấp),…mang dấu ấn nhất định của thời kỳ Quốc -Cộng hợp tác 1925-1927”[5].
Trần Phú được cử làm Tổng bí thư, Nguyễn Ái Quốc sau đó bị mất vai trò lãnh tụ tối cao, chỉ còn là cái “thùng thư” trung chuyển giữa Ban TƯ trong nước với QTCS và ngược lại. Nhiều bài báo Nguyễn Ái Quốc gửi về Maxkva thời gian này đã không được đăng trên Inprecor, như chính Nguyễn Ái Quốc thắc mắc trong thư gửi QTCS ngày 2-1-1931.
2. Sau khủng bố trắng 1930-1931, BCH TƯ trong nước hầu hết bị bắt và hy sinh, Nguyễn Ái Quốc và nhiều cán bộ của Chi nhánh Ban Viễn Đông ở Thượng Hải cũng bị bắt, nhân vật nổi lên lúc này là Hà Huy Tập. Tuy chưa về nước, nhưng trong những tài liệu viết gửi QTCS, để tỏ rõ sự kiên định mácxít của mình, ông đã không bỏ lỡ cơ hội nào có thể để phê phán những quan điểm “sai lầm” của Nguyễn Ái Quốc về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, về sắp xếp lực lượng cách mạng và về sách lược liên minh, hợp tác trong CM, v.v..
Ông từng viết: Đường Cách mệnh là cuốn sách cực kỳ sơ đẳng, đã định nghĩa CM Việt Nam là một cuộc CM chống đế quốc “nhưng họ chưa bao giờ nói rõ rằng giai cấp nào phải là người lãnh đạo cuộc CM này (g/c tư sản hay g/c vô sản?)… Người ta cho rằng trước hết cần phải tiến hành CM dân tộc, trước khi làm CM thế giới, nhưng hoàn toàn quên rằng CMGPDT là một bộ phận không tách rời của CM thế giới,…Họ vẫn có một lý luận chính thức, theo đó cần phải liên kết tất cả mọi giai cấp trong thời kỳ tranh đấu chống chủ nghĩa đế quốc. Không hơn không kém, lý luận đó có nghĩa là sự hợp tác giai cấp,…không xác định động lực của CM Đông Dương và không hiểu đúng độc quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản…”[6]. Ông mỉa mai: đó là thứ lý luận “ngu ngốc”, “không thể nhịn cười được”.
Ngay cả khi được tin Nguyễn Ái Quốc đã lâm bệnh, qua đời ở Hồng Kông, trong bài viết như để truy điệu, Hà Huy Tập cũng không quên nhắc đến những “sai lầm” của Nguyễn Ái Quốc: “Công lao mà ông đã đóng góp cho Đảng chúng ta thật là lớn. Song các đồng chí chúng ta trong lúc này không được quên những tàn dư dân tộc chủ nghĩa của Nguyễn Ái Quốc, các chỉ thị sai lầm của ông về những vấn đề cơ bản của phong trào CM…Ông đã không đưa ra bàn luận trước về những sách lược mà QTCS đòi hỏi phải áp dụng để loại bỏ những phần tử cơ hội trong Đảng. Ngoài ra, ông còn khuyến dụ một sách lược cải lương và hợp tác sai lầm: trung lập hóa tư sản và phú nông, liên minh với trung và tiểu địa chủ”.[7]
Đương nhiên, đây là sự phê phán một chiều, do một mình Hà Huy Tập tiến hành, trong khi Nguyễn Ái Quốc vẫn còn đang bị tù ở Hồng Kông.
Giai đoạn 3: 1934-1938 ( sau khi Nguyễn Ái Quốc đã trở về Maxkva)
Có thể nói đây là giai đoạn khó khăn nhất của Nguyễn Ái Quốc, là những năm tháng ông phải chịu đựng những thử thách nặng nề, phải vượt qua những nghi kỵ đau đớn, không phải trước kẻ thù mà trước những người đồng chí của mình. Trong thư ngày 29-6-1935 của bà V. Vasilieva gửi Ban bí thư Ban Viễn Đông, có nêu một nghi vấn: “Khó xác định được tại sao đồng chí ấy lại dễ dàng ra khỏi nhà tù và thoát khỏi tay cảnh sát Pháp và tóm lại tại sao đồng chí ấy lại nhận được một bản án nhẹ nhàng như vậy?”[8]
Thời gian này, Hà Huy Tập đã trở về Trung Quốc, đứng đầu Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng. Ngày 31-3-1935, trong thư gửi QTCS, ngoài nội dung chính là báo cáo kết quả của Đại hội Ma Cao, trong 10 điểm nói thêm, có 2 điểm báo cáo về Nguyễn Ái Quốc, ở điểm thứ mười, ông đã viết: “Ở Xiêm và Đông Dương, các tổ chức cộng sản đã tiến hành một cuộc đấu tranh công khai chống lại những tàn dư của tư tưởng dân tộc cách mạng pha trộn với chủ nghĩa cải lương của đảng Thanh niên và của đ/c Nguyễn Ái Quốc, những tàn dư ấy rất mạnh và tạo thành một chướng ngại nghiêm trọng cho sự phát triển chủ nghĩa cộng sản…Chúng tôi đề nghị đ/c Lin viết một quyển sách để tự phê bình những khuyết điểm đã qua”.[9] Ngoài ra, báo cáo còn nói thêm một vài điểm được “nghe kể lại” nữa, rất nguy hại về chính trị cho Nguyễn Ái Quốc.
Những thông tin của Hà Huy Tập, cùng với những nghi vấn đang đặt ra cho Nguyễn xung quanh vụ án Hồng Kông, đã dẫn đến quyết định của Ban Viễn Đông QTCS về tương lai của Nguyễn Ái Quốc:
- Không chấp nhận Nguyễn Ái Quốc là đại biểu chính thức của ĐCS ĐD tham dự ĐH VII QTCS sẽ diễn ra vào tháng 7-1935;
- Không chấp nhận Nguyễn Ái Quốc là đại diện thường trú của ĐCSĐD bên cạnh QTCS, đề nghị cử một ứng viên khác;
-Thông báo về thân phận của Nguyễn Ái Quốc trong 2 năm tới: Sẽ cử đi học, phải nỗ lực học cho tốt, rồi mới có kế hoạch sử dụng sau.[10]
Thời gian này, Nguyễn chỉ được tập trung vào việc học, không được viết báo, không được đi thực tế địa phương, xí nghiệp, công trường,…như các học viên khác. Sau khi tôt nghiệp, Nguyễn trở về nhận công tác ở Viện nghiên cứu các vấn đê dân tộc và thuộc địa, do Pavel Mif làm giám đốc. V.Vasilieva đã có những cố gắng để giải thoát cho Nguyễn. Bà lập một dự án đào tạo mới cho các học viên ĐD, “đề cử đ/c Lin tổ chức và điều hành trường này, lý do đ/c đã hoàn tất việc học tập và nghiên cứu của mình tại Maxkva”. Nhưng dưới bản đề nghị có bút phê của ai đó: “Mọi đề nghị đều bị hủy bỏ, chỉ giải quyết sau khi vấn đề đã được làm sáng tỏ”. Vấn đề gì, không ai biết, nên Nguyễn lại phải ghi tên vào học tiếp một lớp nghiên cứu sinh ngành lịch sử Đảng. Chẳng có thú vị gì phải ngồi học khi tình hình thế giới đang chuyển biến mạnh mẽ, nên kết quả học tập của Nguyễn đa số chỉ đạt trung bình!
Vào thời kỳ này, trong ĐCS LXô diễn ra một cuộc thanh trừng lớn. L. Trotsky, G. Zinoviev, N.I.Boukharine đã bị đánh bại và xử trí từ 1928-29, nay đến lượt nhiều bạn bè, đ/c quen biết của Nguyễn bị vào cuộc: Pavel Mif-Giám đốc Viện nghiên cứu các vđ dân tộc và thuộc địa bị bắt năm 1937. Rất nhiều thành viên QTCS đã giúp thực hiện đường lối cứng rắn những năm 1928-29 cũng bị trừng trị: Rylsky, Gailis, Vasiliev, cả Piatnhítxky (tức Orgwald, một tên tuổi lớn), rồi Dombal, Voline,…đều bị lôi cuốn vào cuộc thanh trừng.
Vậy tại sao Nguyễn Ái Quốc lại có thể tồn tại được trong tình hình ấy? Nhờ đâu? Được ai bảo vệ? Hiển nhiên là Nguyễn Ái Quốc không tránh được có ý kiến khác với đường lối của Staline. Sự im lặng, phục tùng không đủ sức để cứu ông, nếu ông là người Ba Lan, Đức, Thổ nhĩ kỳ, người vùng Baltique - những nước láng giềng có chung biên giới với Liên Xô. Họ đều bị loại, trong khi đại diện các đảng CS Anh, Pháp, Mỹ - những nước ở xa, được đối xử khoan dung hơn. Trường hợp Nguyễn Ái Quốc có thể giải thích như thế nào?
- Có thể vì chỉ là cán bộ cấp thấp, không quan trọng, là người bản xứ ở một nước xa xôi, không có vị trí chiến lược trong chính sách đối ngoại của LXô?
- Có thể vì Nguyễn Ái Quốc biết giữ minh, biết hành xử thận trọng, không bao giờ tỏ ra là một nhà lý luận (không thích tranh cãi như M.N. Roy của Ấn Độ, ông này đã bị khai trừ ngay sau ĐH VI QTCS).
- Có thể vì Nguyễn Ái Quốc đã nghiêm chỉnh chấp hành đầy đủ mọi quy định của QTCS trong thời gian kiểm tra, thử thách, được V.Vasilieva và André Marty,…bênh vực, che chở, được D.Manuilsky - một người có thế lực, thân cận với Staline - thông cảm, ủng hộ, v.v..?
Năm 1938, Pavel Mif bị xử tử, giữa năm đó, Viện nghiên cứu các vđ dân tộc và thuộc địa bị đóng cửa. Có lẽ đây là thời điểm chín muồi để ngày 6-6-1938, Nguyễn Ái Quốc quyết định viết thư cho D.Manuilsky, giãi bày tâm trạng và nguyện vọng được “giúp đỡ thay đổi tình cảnh đau buồn” của mình: “Hãy phân tôi đi đâu đó…Hãy giao cho tôi làm một việc gì mà theo đồng chí là có ích…đừng để tôi phải sống quá lâu trong tình trạng không hoạt động, giống như là sống ở bên lề, bên ngoài của Đảng”.[11]
Ngày 29-9-1938, nguyện vọng của Nguyễn Ái Quốc được chấp thuận. Do đâu? Hiển nhiên là trước nguy cơ chủ nghia phát xít, các lực lượng dân chủ cần liên minh lại với nhau, ở Pháp đã hình thành Mặt trận Nhân dân, ở Trung Quốc, mặt trận hợp tác Quốc-Cộng lần thứ 2 đã được tái lập. Thực tế đó buộc người ta phải trở lại với quan điểm của Lênin về mặt trận thống nhất. Trước khi Nguyễn lên đường đi Trung Quốc, V.Vasilieva đã thuyết phục D.Manuilsky gặp để nghe ông phát biểu.
Đến đây, kết thúc thời kỳ gần 10 năm Nguyễn Ái Quốc bị đánh giá sai, nghi kỵ, vô hiệu hóa, để về nước trực tiêp lãnh đạo CM Việt Nam đi tới thắng lợi năm 1945.
Giai đoạn 4: 1945-1950 (thời kỳ CM Việt Nam bị cô lập với phong trào CSQT)
-Bối cảnh chính trị thế giới và Việt Nam giai đoạn này:
Năm 1943, QTCS tuyên bố tự giải tán, để cho các ĐCS được quyền tự chủ công việc của mình theo đặc điểm mỗi nước (một phần là sách lược, do LX đã gia nhập Đồng Minh, phần khác, do hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, khó có điều kiện chỉ đạo). Đến khi chiến tranh kết thúc, tháng 7-1947, Staline cho lập ra Cục thông tin Quốc tế CS (Kominform) để nắm dần lại.
Việt Nam giành được độc lập từ trong tay Nhật, nhưng chỉ vài ngày sau lễ tuyên ngôn độc lập, gần 20 vạn quân Tưởng và các tổ chức tay chân ồ ạt kéo vào miền Bắc; hàng vạn quân Anh-Ấn, núp sau là quân viễn chinh Pháp, kéo vào miền Nam; tàn quân Pháp tháo chạy sang Vân Nam trước đây, được tái vũ trang, cũng đang rục rịch trở lại miền Băc .
Vào thời điểm đó,Việt Nam như hòn đảo tự do giữa vòng vây của thế giới tư bản, với sức ép của một lực lượng quân đội nước ngoài khổng lồ ở ngay cạnh sườn (kể cả quân đội Nhật chưa giải giáp, con số lên đến non nửa triệu quân), trong khi lực lượng vũ trang của chúng ta còn quá nhỏ bé, trang bị rất thô sơ, chưa được huấn luyện về chiến đấu, có thể bị đè bẹp bất cứ lúc nào.
Về chính trị, Tiêu Văn vào Việt Nam còn để hỏi tội Hồ Chí Minh: đã nhận lời hợp tác với họ để hỗ trợ “Hoa quân nhập Việt” sao lại dám lập chính phủ độc quyền cộng sản? Sau nhiều lần hạch sách, trách cứ, có lần họ đã giữ Hồ Chí Minh lại tại bản doanh như một kiểu giữ con tin để gây áp lực. Các tổ chức Việt Quốc,Việt Cách dựa thế quan thày, ra sức gây rối hòng giành chính quyền về tay họ. Ngày 8-11-1945, Nguyễn Hải Thần gửi tối hậu thư yêu cầu Hồ Chí Minh từ chức, xóa bỏ ngay chế độ độc tài, lập chính phủ mới không có sự kiểm soát của ĐCS! Tối hậu thư này, được sự chuẩn bị và chuẩn y của Lư Hán và Tiêu Văn, đe dọa: nếu Hồ Chí Minh không chấp nhận tối hậu thư, họ sẽ không chịu trách nhiệm về một cuộc xung đột vũ trang giữa hai bên!
Một cuộc đảo chính quân sự có thể xảy ra dưới sự đạo diễn và hỗ trợ của quân đội Tưởng, đó là việc trong tầm tay của họ. Trước khả năng ấy, cần phải hy sinh, nhượng bộ một cái gì đó để thoát hiểm.[12] Có thể tham khảo ý kiến của ai? ĐCS TQ ở tít tận Diên An và Mãn Châu. ĐCS Pháp, từ sau CM tháng Tám, chưa có liên hệ gì với Việt Nam. Trước nguy cơ mất còn, tự mình phải quyết đoán. Hồ Chí Minh đã thuyết phục Trường Chinh, rồi với tinh thần dũng cảm, sẵn sàng chịu trách nhiệm trước lịch sử, ông đã đưa ra một quyết định phi thường:
1. Tuyên bố ĐCS ĐD tự giải tán ngày 11-11- 1945 (thực chất là Đảng rút vào hoạt động bí mật, báo Cờ Giải phóng được thay bằng tờ Sự Thật, lập ra tổ chức mới: Hội những người nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, song vai trò lãnh đạo CM của Đảng vẫn được giữ nguyên).
2. Chấp nhận cải tổ Chính phủ (lùi ngày Tổng tuyển cử, tạo điều kiện cho các đảng đối lập tham gia, rồi thuyết phục Quốc hội mới chấp nhận cho họ thêm 70 ghế đại biểu không qua bầu cử), lập Chính phủ Liên hiệp gồm 10 bộ (Việt Minh 2, Dân Chủ 2, Việt Quốc 2, Việt Cách 2, Không đảng phái 2).
Sự nhượng bộ này là một cách tháo ngòi nổ của một cuộc đảo chinh quân sự (mà phe Tưởng đang chuẩn bị tiến hành), nhằm bảo vệ thành quả CM mà vai trò lãnh đạo của Đảng vẫn tồn tại trong thực tế. Tuy vậy, giải pháp này đã gây ra phản ứng trong một bộ phận cán bộ của Đảng (dù không bộc lộ công khai). Họ cho rằng quyết định này làm tổn hại đến uy tín của Đảng và đòi Đảng phải được khôi phục lại ngay[13] .
Nhưng đến năm 1949, thì sự phản ứng này đã bộc lộ công khai, thành một sự kiện làm ảnh hưởng đến quan hệ của Đảng CS ĐD, nhất là của Hồ Chí Minh, với ĐCS Liên Xô và Staline. Đó là sự kiện Trần Ngọc Danh - nguyên Trưởng phái đoàn đại diện Chính phủ ta ở Paris, tự ý bỏ nhiệm vụ, đào ngũ sang Praha, từ đó viết 2 bức thư gửi BCH TƯ ĐCS Liên Xô, với nội dung:
+Phê phán đường lối chính trị cơ hội của ĐCS ĐD: đã công khai giải tán Đảng ngày 11-11-1945, việc này được thực hiện với sự can thiệp tích cực của Hồ Chí Minh. Đường lối mà Hồ Chí Minh áp dụng hiện nay chính là sự tiếp tục đường lối mà ông ta đã khởi xướng từ năm 1930 (tức Chính cương, Sách lược vắn tắt) và đường lối ông ấy đưa ra tại Hội nghị TƯ 8 tháng 5-1941, là đường lối theo chủ nghĩa dân tộc tư sản.
+Từ đó, Trần Ngọc Danh quy kết những người cộng sản Việt Nam hiện nay đang đi ngược lại chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã trở thành người chống Đảng, thù nghịch với Liên Xô, đã từ bỏ chủ nghĩa quốc tế vô sản và học thuyết đấu tranh giai cấp của Mác,…Cuối thư, Trần Ngọc Danh cam kết trung thành với ngọn cờ của Lénine và Staline, mãi mãi là người cộng sản chân chính…[14]
Sự kiện Trần Ngọc Danh xảy ra tháng 10-1949, gần kề với chuyến đi của Hồ Chí Minh tới Bắc Kinh và Maxkva đầu năm 1950, nhằm phá vòng vây, tìm kiếm sự công nhận về ngoại giao và sự viện trợ quân sự cho cuộc kháng chiến của Việt Nam, sự kiện đó đã gây cho Hồ Chí Minh không ít phiền toái!
-Bối cảnh chuyến đi của Hồ Chí Minh đầu năm 1950:
Như đã nói ở trên, cuộc kháng chiến của Việt Nam diễn ra trong tình thế gần như bị cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài: ít được thế giới biết đến, không nhận được sự chi viện nhỏ nào, dù chỉ về chính trị-tinh thần. Ngay Đảng cộng sản Pháp lúc đó cũng chưa mặn mà gì với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, vì họ vẫn coi trọng đấu tranh giai cấp, còn đấu tranh giải phóng dân tộc vẫn bị coi là thuộc phạm trù cách mạng tư sản ![15]
Hồ Chí Minh đã làm gì để phá thế bị bao vây đó?
Đầu năm 1946, Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thư và công hàm chính thức tới Liên Hiệp Quốc và những người đứng đầu Chính phủ 4 nước lớn là Mỹ, Anh, Liên Xô và Trung Hoa Tưởng Giới Thạch, đề nghị 2 điều: can thiệp để giúp chấm dứt cuộc đổ máu đang diễn ra ở Nam Việt Nam và đưa vấn đề Việt Nam ra Liên Hiệp Quốc. Nhưng không nhận được hồi âm nào. Sau này được biết: Liên Xô nhận công hàm, nhưng có bút phê của Thứ trưởng Kozyrev khi đó: “Không trả lời”.
Sau khi ký Hiệp định sơ bộ 6-3-1946, Hồ Chí Minh quyết định cử 2 phái đoàn thân thiện của Chính phủ ta đi thăm Pháp và Trung Hoa. Phái đoàn đi Paris do Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn, phái đoàn đi Trùng Khánh lúc đầu giao cho Cố vấn Vĩnh Thụy, nhưng ông ta không nhận, nên Nghiêm Kế Tổ, người của VNQDĐ, lúc đó là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, được làm trưởng đoàn. Đến Trùng Khánh, đoàn xin được yết kiến Tưởng, nhưng Tưởng không nhận tiếp phái đoàn một Chính phủ cộng sản, chỉ nhận tiếp riêng một mình cựu hoàng Bảo Đại!
Tiếp theo, Chính phủ ta cho lập 2 Văn phòng thông tin của nước VNDCCH, một ở Paris, một ở Bangkok, để tuyên truyền quốc tế cho cuộc kháng chiến của ta, nhưng hoạt động cũng không mấy hiệu quả. Năm 1947, Hồ Chí Minh cử Phạm Ngọc Thạch, với tư cách đại diện Văn phòng Chủ tịch Hồ Chí Minh, vượt sông Mê công, sang Pháp gặp M.Thorez và J.Duclos, rồi sang Thụy Sĩ gặp Đại sứ Liên Xô Koulajenkov, đến Ấn Độ vừa tuyên bố độc lập, gặp J.Nerhu,…để thông báo về cuộc kháng chiến anh dũng của Việt Nam, đề nghị giúp đỡ về vật chất và tinh thần,…Nhưng đều không đạt kết quả gì.
Trong khi đó, giữa năm 1948, Liên Xô lại ra tuyên bố chính thức công nhận Chính phủ Jakarta và lập quan hệ ngoại giao ở cấp lãnh sự! Chính vào đêm 28-5-1948, sau lể thụ phong hàm Đại tướng cho Võ Nguyên Giáp, về đến nơi nghỉ, Hồ Chí Minh mở radio nghe bản tin đêm, thì sửng sốt nhận được tin này.[16]
Thu-Đông 1947, ta đánh thắng chiến dịch 2 gọng kìm của Pháp, nhưng xuýt nữa, họ bắt được cơ quan đầu não của ta. Nếu Pháp liên minh được với Tưởng, dưới đánh lên, trên đánh xuống, cuộc kháng chiến của quân dân ta có nguy cơ bị thất bại. Điều đó cho thấy phải tranh thủ cầu hòa với Chính phủ Tưởng Giới Thạch, nhằm trung lập hóa vai trò của họ. Cuối 1948 (hay đầu 1949), một phái đoàn được cử sang Trung Quốc, đến Nam Kinh, Thượng Hải, tất nhiên với “lễ vật” hậu hĩnh. Đến nay, chuyến đi vẫn chưa được giải mã, nên chưa thể nói cụ thể, chỉ biết rằng trong chuyến đi đó, có mang theo một cuốn “Tiểu sử Hồ Chủ tịch” để dịch và xuất bản ở Thượng Hải[17].
Tại sao cần thiết phải công bố Tiểu sử Hồ Chí Minh vào thời gian này, lại chỉ công bố ở nước ngoài, nhằm mục tiêu gi? Các thế lực chống đối Hồ Chí Minh chỉ nghĩ ra được một điều xuyên tạc tầm thường: Hồ Chí Minh chẳng phải người có đạo đức khiêm tốn gì, tự mình viết TS để ca ngợi mình(?) v.v..Nếu chỉ cần có thế thì Hồ Chí Minh đã có thừa. Sự tôn kính, lòng cảm phục và tin tưởng của nhân dân Việt Nam đối với Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh được hình thành từ cuộc đời bôn ba cách mạng, vào tù ra khám của Người; sau thắng lợi của CM tháng Tám lại được bổ sung thêm bằng những “sáng tác dân gian”, làm cho tên tuổi Hồ Chí Minh đã sớm trở thành huyền thoại, có viết thêm nữa cũng không sánh được !
Cuốn sách này ra mắt chủ yếu nhằm thực hiện sách lược chính trị đối ngoại. Như đã nói ở trên, vào thời gian này, Hồ Chí Minh đang đứng trước hai làn đạn: các Chính phủ phương Tây (Anh, Mỹ, Pháp, Tưởng,…) coi ông là Cộng sản nên chống lại, còn Quốc tế cộng sản lại cho ông là đã xa rời học thuyết đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản, rơi vào hữu khuynh, dân tộc chủ nghĩa, có vẻ muốn “ve vãn” phưong Tây nên cũng không công nhận! Trước mắt, để tránh hiểm họa, muốn cầu thân với Tưởng, phải làm giảm nghi ngờ của họ. Cuốn “Hồ Chí Minh truyện” do Trương Niệm Thức dịch, xuất bản ở Thượng Hải tháng 6-1949 (chưa giải phóng) là nhằm mục tiêu đó.
Vì vậy, cuốn truyện của Trương Niệm Thức chủ ý muốn làm cho người đọc thấy Hồ Chí Minh vốn có nhiều mối quan hệ thân tình với Trung Quốc. Mở đầu, cuốn sách đưa ra bài viết của tướng Hoàng Cường - người đã từng du học ở Pháp, có quen biết Nguyễn Ái Quốc, thời kháng Nhật là Tham mưu trưởng Lộ quân thứ 19, sau ngày Nhật đầu hàng, ông vào bắc Việt Nam giải giáp quân Nhật- đã bài viết ca ngợi Hồ Chí Minh: là nhà CM giản dị và nhân hậu, biết nhiều ngoại ngữ, đã có nhiều năm sống ở Trung Quốc, rất thạo tiếng Quảng Đông và cả tiếng phổ thông, đã từng dịch cuốn “Tam Dân chủ nghĩa” của Tôn Dật Tiên ra tiếng Việt,..Tác giả muốn chứng minh rằng VNTNCM đồng chí Hội được tổ chức theo chính cương, đường lối và phương pháp đấu tranh của Tôn Dật Tiên: Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc. Có người hỏi: ông Nguyễn theo CNCS hay theo CN TDTiên, ông trả lời rất khéo: Khổng tử, Jésus, Mác, TDTiên, các vị đó đều có mục tiêu giống nhau là mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại…Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của họ. Tôi vẫn là tôi ngày trước: một người yêu nước (nhất cá ái quốc giả), v.v..(Những nội dung này không có trong bản in ở Pháp - thay vào đó là bài của Léo Poldès có nội dung cần cho người đọc ở phương Tây, điều này không có trong “Những mẩu chuyện…” lần đầu tiên được xuất bản 1955 ở Hà Nội cũng như các lần tái bản sau).
Tuy nhiên, tình hình quốc tế đã chuyển biến quá nhanh. Cuối năm 1949, CM Trung Quốc thành công, nước CHND Trung Hoa ra đời, làm nghiêng hẳn cán cân lực lượng về phe xã hội chủ nghĩa. Tháng 10 năm đó, nước CHDC Đức thành lập. Cuộc chiến tranh lạnh đã lên đỉnh cao ở Châu Âu. Ở Châu Á, thắng lợi của cách mạng Trung Quốc khiến Mỹ lo ngại: một số nước ở ĐNÁ có khả năng ngả theo con đường cộng sản hóa, nếu Pháp thất bại ở Đông Dương. Mỹ thấy đã đến lúc phải nhảy vào can thiệp,…
Tình hình đó khiến Hồ Chí Minh thấy tự mình phải xuất tướng phá vòng vây, trước tiên là đàm phán với Trung Quốc, sau đó qua trung gian của Trung Quốc để tới Liên Xô. Chuyến đi có 2 thuận lợi: một là quân đội nhân dân Việt Nam vừa lập một chiến công đầy tinh thần quốc tế: phối hợp với giải phóng quân Trung quốc trong chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn, giải phóng Long Châu, Khâm Châu, Phòng Thành,…một vùng biên giới sát với Cao Bằng. Chiến công này được Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai,…hết sức ca ngợi, coi đó là một biểu hiện cao cả của chủ nghĩa quốc tế vô sản; hai là chuyến đi lại trùng khớp với cuộc hội đàm Trung - Xô để ký kết Hiệp định hợp tác tương trợ giữa 2 nước vừa bắt đầu tại Maxkva.
Cuộc đàm phán Trung -Việt diễn ra thuận lợi, những yêu cầu Hồ Chí Minh nêu ra với Trung Quốc đều nhanh chóng được đáp ứng, vì nó gắn liền với lợi ích thiết thân của Trung Quốc. Sau đó, nhờ sự thuyết phục của Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đang có mặt tại Maxkva với Staline, Hồ Chí Minh đã được mời sang thăm Liên Xô.
Nhưng Hồ Chí Minh đã được Staline đón tiếp như thế nào?
- Hồ Chí Minh đến Maxkva, TƯ Đảng cộng sản Liên Xô mở tiệc chiêu đãi, có mặt đủ cả, riêng Staline tránh mặt, không tiếp. Một, có thể là do bị ràng buộc bởi Hiệp định bất tương xâm đã ký với De Gaulle năm 1944 (có giá trị 20 năm), ông không muốn làm mất lòng Pháp, vì Pháp có vị trí chiến lược quan trọng trong chính sấch đối ngoại của Liên Xô ở châu Âu hơn là Việt Nam. Hai, Staline vốn có thành kiến sẵn với Hồ Chí Minh là hữu khuynh, dân tộc chủ nghĩa, qua những thông tin mà KGB thu lượm được về cuộc tiếp xúc của người Mỹ với Nguyễn Đức Quỳ (Trưởng Văn phòng đại diện của chính phủ ta tại Bangkok) trong năm 1948-49, nhất là qua 2 bức thư tố cáo của Trần Ngọc Danh. Staline rất đa nghi, e rằng đây có thể là một nhân vật “Tito thứ hai”ở châu Á!
- Với sự kiên trì thuyết phục của Mao và Chu rằng Hồ là nhà ái quốc nhiệt thành đồng thời là người cộng sản, người chiến sĩ quốc tế chân chính, cuối cùng Staline cũng nhận tiếp Hồ Chí Minh, ngay tại phòng làm việc của mình, với sự có mặt đông đủ các nhà lãnh đạo chủ chốt của Liên Xô, phía Trung Quốc có Đại sứ Vương Gia Tường, phía Việt Nam có Trần Đăng Ninh.
Staline mở đầu: Chúng ta là những người bạn, người anh em thân thiết, gặp đồng chi hơi muộn một chút, xin thứ lỗi! Hồ Chí Minh báo cáo tóm tắt tình hình cơ bản về ĐCSĐD, về cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam và đề nghị Liên Xô giúp đỡ,…
Staline phát biểu chậm rãi nhưng rành rọt, đại ý:
*Tại sao các đồng chí tự ý giải tán Đảng? Đ/c tưởng lừa được chủ nghĩa đế quốc à, chính là đ/c lừa chúng tôi, vì ở xa, không biết thực hư thế nào ( có ý trách là không xin ý kiến).
*Chính phủ các đ/c là cái chính quyền gì, sao mà lắm nhân sĩ, trí thức, địa chủ, quan lại thế?( ý nói không phải chính quyền công nông).
*Tại sao đến nay các đ/c không tiến hành CCRĐ? Để đánh thắng đế quốc Pháp, sự chi viện của quốc tế là cần thiết, nhưng phải phát động quần chúng, động viên quần chúng, đem lại lợi ích thiết thân cho họ, đó mới là điểm mấu chốt làm nên thắng lợi. Staline tỏ ý không hài lòng lắm, hỏi: trong 2 cái ghế dân tộc và giai cấp, đ/c ngồi trên cái ghế nào? (có ý phê bình lập trường g/c còn mơ hồ ).
*Về vấn đề viện trợ cho cuộc kháng chiến của Việt Nam , Staline nói: CM Trung Quốc nay đã thành công, Trung Quốc đã trở thành trung tâm của CM châu Á, từ nay chi viện cho Việt Nam sẽ do Trung Quốc đảm nhiệm, vì sát với Việt Nam . Liên Xô có nhiệm vụ giúp Trung Quốc xây dựng kinh tế, những vũ khí chúng tôi giúp Trung Quốc, nay kết thúc chiến tranh, cái gì không dùng nữa, hợp với Việt Nam, thì có thể chuyển cho Việt Nam (như một sự phân công quốc tế); đồng thời Staline cũng nhắc nhở Việt Nam phải ra sức học tập kinh nghiệm của Trung Quốc!.[18]
Tóm lại, Liên Xô không muốn dính vào vấn đề Việt Nam ở thời điểm này. Cuộc đón tiếp được coi là hờ hững[19]. Nhưng thắng lợi lớn nhất của chuyến đi phá vỡ vòng vây đã đạt được, đó là sự công nhận chính thức về ngoại giao đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: Trung Quốc ngày 18-1, Liên Xô ngày 30-1-1950, sau đó là các nước DCND còn lại, cả Nam Tư. Đảng cộng sản Việt Nam đã tái hòa nhập với phong trào cộng sản quốc tế. Cần thừa nhận rằng thành công này có sự đóng góp quan trọng của Đảng cộng sản Trung Quốc, bởi nếu không phá được vòng vây này, chưa rõ CM Việt Nam sẽ lâm vào hoàn cảnh khó khăn như thế nảo?
Kết luận
Trình bày lại những điều này để hiểu được những hệ lụy phức tạp mà chúng ta phải gánh chịu về sau. Rất khó có thể giữ được hoàn toàn độc lập, tự chủ trong hoàn cảnh ấy. Sự viện trợ về quân sự đi liền với áp đặt về chính trị. Hồ Chí Minh chỉ có thể trì hoãn chứ không thể từ chối. Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế là một song đề phức tạp của phong trào cộng sản thế giới, không phải lúc nào nó cũng thống nhất được với nhau, giữa nói và làm, nhất là ở những Đảng lớn. Chính người cộng sản - ái quốc Hồ Chí Minh, trong vai trò “huyền thoại kép” này, đã giúp ông đạt được những thành tựu diệu kỳ cho đất nước, nhưng nó cũng gây cho cá nhân ông bao hệ lụy cay đắng phải gánh chịu cho đến ngày nay. Sở dĩ ông vượt qua được và thành công chính là nhờ khả năng vận động uyển chuyển giữa hai cực đó, nghĩa là biết điều chỉnh và thỏa hiệp nhất định với thực tế cay nghiệt của hoàn cảnh để tồn tại và phát triển, vì lợi ích của dân tộc và lợi ich của cách mạng. Có lẽ vì vậy mà ông được thừa nhận rộng rãi ở phương Tây “là một chính trị gia và một nhà ngoại giao tài giỏi, một người đã để lại cho đất nước mình một khuôn mẫu về xây dựng liên minh và thỏa hiệp mà mọi quốc gia đương thời đều đánh giá cao”[20]. Đó là một di sản tinh thần quý báu Hồ Chí Minh để lại mà chúng ta phải thấm nhuần và phát huy thật tốt ở bối cảnh chính trị thế giới đang biến chuyển cực kỳ phức tạp và lắt léo hiện nay./.
[1] J. Sainteny: Face à Ho Chi Minh , Seghers, Paris, 1970, tr.33
[2] V.I.Lênin: Toàn tập, Tiến bộ, M., 1978, tâp 41, các trang: 292, 204, 293
[3] Dẫn theo: Tài liệu tham khảo lịch sử cận đại Việt Nam, BNC Văn-Sử-Địa xb, 1956, tập 6, tr.187
[4] Văn kiện Đảng TT, CTQG xb 1998, t. 2, tr. 110-112
[5] Tài liệu lưu trữ tại Phông QTCS, nay là Trung tâm bảo tồn và nghiên cứu các tài liệu lịch sử hiện đại Nga,viết tắt là R.C. ký hiệu 495.154.462.
[6] Văn kiện Đảng TT, t.4, tr. 367
[7] Bài đăng trên Tạp chí Bônsêvích (Cahier du Bolchévisme) số 8, tháng 12-1934. Dẫn lại theo Daniel Hemery : Ho Chi Minh , De l’Indochine au Viet Nam , p. 73
[8] Tư liệu lưu tại R.C., ký hiệu 495.201. hồ sơ 1, các tr. 154-155-155a. Toàn văn bức thư đã được dịch va in trong sách Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông 1931-1933, CTQG, 2004, tr.239
[9] Văn kiện Đảng TT, t. 5, tr. 204
[10] V. Vasilieva: Thư gửi các đồng chi Đông Dương, R.C. ký hiệu 495.154.585, tr.11
[11] Hồ Chí Minh TT, T.3, tr. 90
[12] Stein Tonnesson, trong cuốn Vietnam 1946: How the war began (Việt Nam 1946: Chiến tranh đã khởi đầu như thế nào), NXB ĐH, California, Berkeley, 2010, đã đề cập đến khả năng đảo chính này, nhưng theo ông, Quốc dân đảng Trung Hoa không thực hiện mà ép bọn tay chân phải tham gia CP liên hiệp. Nếu họ cũng hành động như người Mỹ với CP thiên tả ở Seoul, như người Anh với CP ở Jakarta,…thì CP Hồ Chí Minh rất ít cơ hội tồn tại. Thay vì cảm ơn, Việt Nam lại chê trách họ (!). Đây là một ngộ nhận của nhà sử học. Điều cần nói là Hà nội năm 1946 khác xa với Seoul và Jakarta cùng thời điểm ấy.Trung Hoa QDĐ cũng không có thế mạnh như Anh, Mỹ. Sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và ý chi ngoan cường đấu tranh để bảo vệ nền Độc lập của nhân dân Việt Nam như thế nào, những người Trg Hoa QDĐ có mặt ở Hà Nội đã nhận thấy, họ rất muốn làm mà không dám làm vì đang phải lo đối phó với thất bại trong cuộc nội chiến. Đáng tiếc, đó lại là điều mà ô.. S.Tonnesson chưa nhận thấy.
[13] Có thể số thắc mắc không it, nên đến Hội nghị cán bộ TƯ lần 5 (từ 8 đến 16-8-1948, thay mặt Ban Thường vụ TƯ, Lê Đức Thọ đã phải giải thích về sự kiện này. Xem Văn kiện Đảng TT, t.9, tr. 316-317.
[14] Xem thêm: Christopher E. Goscha “Tai bay vạ gió trong ngoại giao? Những nỗi chuân chuyên của Việt Nam trên đường hội nhập phong trào Quốc tế cộng sản 1945- 1950”.Đông Hiến dịch. Talawas 13-02-2007.
[15] M. Thorez, TBT ĐCS Pháp, năm 1946 đang làm Phó Thủ tướng trong CP liên minh với Đảng Xã hội, đã nói với Đô đốc D’Argenlieu rằng: “Đô đốc ạ….tất nhiên tôi momg rằng mọi sự giải quyết êm thấm với Việt Minh, nhưng tóm lại-với một giọng chắc nịch- màu cờ của chúng ta trên hết! Vậy nếu phải đánh thì cứ đánh, đánh cho mạnh!(Nguyên văn: “Amiral,…je souhaite naturellement que tout se règle aux mieux avec le Vietminh, mais enfin- d’un ton convaincu- nos couleurs avant tout! Et donc s’il faut cogner, cognez et cognez dur’. ( Chronique d’Indochine 1945-1947 của A. Thierry D’Argenlieu, nxb Albin Michel, p. 168).
[16] Trong “Nhật ký của một bộ trương”, ông Lê Văn Hiến đã ghi lại cảm xúc vô cùng cay đắng, khó hiểu của mình vào giờ phút đó: Tại sao Staline có thể công nhận một CP tư sản mà CP Hồ Chí Minh do ĐCS lãnh đạo lại không được ông đoái hoài?
[17] Cũng thời gian này, 1 cuốn TS tương tự cũng đươc xuất bản bằng tiếng Việt ở Paris, đề tên tác giả là Nghị sĩ Trần Ngọc Danh, do Chi hội Liên Việt tại Pháp xuất bản năm 1949.
[18] Theo Trương Quảng Hoa: “Ghi chép bí mật về quyết sách giúp Việt Nam chống Pháp”, đăng trên T/c Viêm hoàng xuân thu, số 10 năm 1995.
[19] Trong cuộc tiếp, nhân trên bàn có cuốn họa báo “Liên Xô trên công trường”, có ảnh Staline, Hồ Chí Minh bèn xin Staline một chữ ký để làm kỷ niệm. Staline ký tặng rồi sau đó sai KGB bí mật lấy lại. Điều này làm cho Hồ Chí Minh rất bức xúc: “Làm sao lại có thể có chuyện đó giữa những đ/c cộng sản với nhau”?.
[20] Sophie Quinn-Judge: “Ho Chi Minh- The Missing Years”. University of California Press Berkeley Los Angeles, p.
256-257.
21-4-11
|
Sunday, 18 May 2014
“HUYỀN THOẠI KÉP” HỒ CHÍ MINH : VINH QUANG VÀ NHỮNG HỆ LỤY (Ngô Trần Đức)
Saturday, 17 May 2014
Mấy quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa và thực tế hiện nay (Phan Hồng Giang - Hồn Việt Quốc Học)
Mấy quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa và thực tế hiện nay | |
PHAN HỒNG GIANG | |
Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và xây dựng con người là một chủ đề rộng lớn. Trong bài viết nhỏ này, tác giả chỉ điểm lại (có đối chiếu với thực tế hiện nay) ý kiến của Người về một số vấn đề liên quan đến các lĩnh vực: vai trò của văn hóa, văn hóa chính trị, cốt cách văn hóa, đời sống văn hóa và xây dựng con người.
|
1. Về vai trò của văn hóa
Đã có hàng trăm định nghĩa về văn hóa. Dù không có điều kiện và thời gian để đi sâu tìm hiểu các định nghĩa “hàn lâm” đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã tự tìm ra một định nghĩa về văn hóa rất gần với cách hiểu văn hóa mà hàng chục năm sau, năm 1982, tại Mexico, UNESCO mới nêu lên.
Trong mục Đọc sách ở phần cuối tập Nhật ký trong tù (1942-1943), Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra những ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó, mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Chính văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng như vậy mới có thể đóng góp được vai trò “là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa làmục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”.
Vị trí rất cao của văn hóa trong đời sống xã hội, vai trò tối quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra một cách rành rẽ ngay từ những ngày đầu của chính quyền nhân dân non trẻ.
Ngay đầu tháng 9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định thành lập Ủy ban Văn hóa lâm thời Bắc Bộ. Ngày 7/9/1945, khi tiếp các đại biểu của ủy ban đó, Hồ Chủ tịch đã nói: “Tôi mong rằng các ngài trong giới văn hóa nhận thấy rõ nhiệm vụ của các ngài trong lúc này là củng cố nền độc lập của Việt Nam, sửa soạn gây dựng cho đất nước một nền văn hóa mới…Bổn phận của các ngài là lãnh đạo tư tưởng của quốc dân, đấu tranh cho nền độc lập và kiến thiết một nền văn hóa mới” (Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, tập 3, tr.13). Thật quả là một kỳ vọng to lớn mà Người đã trông đợi ở các nhà văn hóa!
Hơn một năm sau, khi tiếng súng kháng chiến đã nổ ở Nam Bộ, ở Hải Phòng, tình hình đất nước hết sức nguy cấp, ngày 24/11/1946, Hồ Chủ tịch vẫn dành thì giờ tới đọc diễn văn khai mạc Hội nghị Văn hóa toàn quốc với lời lẽ đã đi vào lịch sử như một hàng chữ vàng: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”.
Sau này, Hồ Chủ tịch còn nhiều lần nhắc lại vai trò, vị trí của văn hóa trong sự nghiệp chung. Đáng tiếc là nơi này, nơi khác, lúc này, lúc khác một số cán bộ, cấp ủy còn chưa đặt đúng văn hóa vào vị trí của nó, thậm chí còn coi nó như một lĩnh vực “ăn theo” kinh tế, một “cái đuôi” của sự phát triển. Để đáp ứng được những yêu cầu, kỳ vọng của Người đối với văn hóa, chúng ta còn phải nỗ lực tìm ra những chính sách, những giải pháp hiệu quả sao cho vai trò to lớn của văn hóa được khẳng định trong hiện thực.
Lao động là niềm vui của Người.
2. Về một khía cạnh quan trọng trong văn hóa chính trị
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ rằng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước ta bốn lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa gắn bó mật thiết với nhau, cần được coi trọng như nhau.
Ở đây cần đặc biệt lưu ý tới kiến giải của Người về sự tác động qua lại giữa các lĩnh vực đó và văn hóa không đứng ngoài, đứng trên mà phải hiện diện ở mọi lĩnh vực của đời sống.
Từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra luận điểm “Văn hóa nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”.
Chúng tôi xin điểm lại một ứng xử của Người thể hiện rõ nét văn hóa đã lồng ghép, đã thấm sâu như thế nào vào hoạt động chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
“Cả cuộc đời vì nước, vì dân…” - câu hát quen thuộc đã nói lên mục tiêu chính trị của Người là vì độc lập, tự do của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân. Và để đạt được mục tiêu ấy phải lấy dân làm gốc, người cán bộ phải thực sự là đầy tớ của nhân dân, không thể là một thứ “quan cách mạng” như Người đã nhiều lần nhắc nhở.
Trên thực tế, không ít cán bộ của chúng ta chỉ mới nói mà chưa làm được như mình nói, còn để dân sợ, dân ghét, dân không tin. Nguyên nhân là từ trong nhận thức, tình cảm đến biểu hiện công việc hàng ngày của họ chưa thực sự kính trọng dân, chưa thực coi dân là gốc.
Một việc tưởng như là nhỏ, như là chuyện hình thức - việc cán bộ tiếp dân thế nào trong thực tiễn hàng ngày, tiếc thay còn gây bao phiền toái, bực bội cho người dân! (Đấy là còn chưa nói đến thái độ không hiếm gặp “bịt tai, làm ngơ” coi như “không nghe, không thấy, không biết” trước bao điều thắc mắc, thỉnh cầu của người dân !...).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương sáng trong công việc này. Ngay sau ngày đọc bản Tuyên ngôn Độc lập(2/9/1945), Người đã cho thông báo Về việc tiếp chuyện các đoàn thể. Ở cương vị cao nhất đất nước, bận trăm công ngàn việc, giữa thời điểm nước sôi lửa bỏng, vô cùng phức tạp ở trong nước và thế giới khi nhà nước non trẻ mới ra đời được tính bằng giờ, Người đã nghĩ ngay đến việc tiếp dân. Người thông báo rành rẽ:
1. Gửi thư nói trước để tôi sắp thì giờ, rồi trả lời cho bà con, như vậy thì khỏi phải chờ đợi mất công.
2. Mỗi đoàn đại biểu, xin chớ quá 10 vị.
3. Mỗi lần tiếp chuyện, xin chớ quá 1 tiếng đồng hồ”.
(Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, tập 3, tr.11)
Từ thái độ ân cần, chu đáo, lời nói bình dị, khiêm nhường, việc tiếp dân đối với Người đã là một hành xử văn hóa mang đậm tư tưởng chính trị chủ đạo (“lấy dân làm gốc”), hay cũng có thể nói là một động thái chính trị thấm nhuần sâu sắc tinh thần văn hóa - yêu dân, tôn trọng từng người dân, nghe và thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của mỗi người dân để có thể làm được một việc tối thiểulà trả lời kịp thời những câu hỏi chính đáng của họ.
3. Cốt cách văn hóa trong con người Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chúng ta đều biết Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất thân trong một gia đình Nho học uyên thâm của một vùng đất học truyền thống - vùng xứ Nghệ. Những tinh hoa trong tư tưởng, tình cảm của các hiền triết đời xưa - từ Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử, Trang Tử… đến Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm… đã thấm sâu vào tâm hồn, trí tuệ của chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành qua sự truyền thụ của người cha, cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, của người thầy khả kính Vương Thúc Quý và từ những cuốn sách vỡ lòng như Sơ học vấn tân, Ấu học ngữ ngôn, Minh tâm bảo giám đến những tác phẩm đã trở thành “khuôn vàng thước ngọc” của Nho giáo như Tứ thư, Ngũ kinh.
Sau này, khi bước chân xuống tàu để sang châu Âu, có thể nói Nguyễn Tất Thành đã là một người phụ bếp khác thường - một trí thức Nho giáo với khát vọng tiếp cận với thế giới phương Tây, tìm đường cứu dân, cứu nước.
Nguyễn Tất Thành đã trở thành Nguyễn Ái Quốc rồi là Hồ Chí Minh với bao kiến thức phong phú, sâu sắc thu nhận được từ cuộc dấn thân của Người vào đời sống chính trị - xã hội thế giới, nhưng tựu trung, ở chính cội nguồn của mình, Người vẫn mang đậm cốt cách văn hóa phương Đông, văn hóa dân tộc Việt Nam với sự bổ sung sáng tạo của Người và sự hòa hợp với tinh hoa của văn hóa phương Tây.
Khát vọng cao đẹp, dù không tưởng, của các bậc hiền triết cổ đại phương Đông về một thế giới đại đồng, khi mọi người được sống trong tình thương yêu, trong hạnh phúc, có thể nói đã chiếm một vị trí quan trọng trong suy nghĩ, tình cảm của Người. Từ năm 1921, trên tạp chí Cộng sản, cơ quan của Quốc tế thứ III, Hồ Chí Minh đã viết: “Khổng Tử vĩ đại từng đề xướng chủ nghĩa quốc tế và từng hô hào quyền bình đẳng về của cải. Ngài nói tóm tắt là: Nền hòa bình trên thế giới chỉ nảy nở từ một nền đại đồngthiên hạ… Người ta không sợ thiếu mà chỉ sợ không công bằng…”. Ít năm sau, trong cuốn sách nổi tiếng Đường kách mệnh (1927), Người lại viết: “Làm cho thiên hạ đại đồng, ấy là thế giới cách mạng”.
Cũng giống như trong Nho giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nêu cao vai trò của đạo đức như là yếu tố quan trọng bậc nhất của văn hóa dân tộc, văn hóa từng cá nhân. Người nhắc nhở: “Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo… Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” (Sửa đổi lối làm việc, 1947). Con người có đạo đức trong quan niệm của văn hóa phương Đông mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tâm đắc nhấn mạnh nhiều lần là con người “chí công vô tư”, “cần kiệm liêm chính”, con người “giàu sang không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục” (Lời bế mạc Lễ ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam, 1951). Đó là con người “trung với Tổ quốc, hiếu với nhân dân”, đầy đủ những phẩm chất “trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung”.
Chăm lo xây dựng con người có đủ đức tài là mối quan tâm suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Câu nói nổi tiếng của vị tể tướng nước Tề thời Chiến quốc Quản Di Ngô “Thập niên thụ mộc, bách niên thụ nhân” đã được Người diễn giải nôm na: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”.
Có thể thấy tư tưởng văn hóa của các hiền triết phương Đông xưa được ghi nhận và phát triển trong các phát biểu của Người. Điều đặc biệt đáng lưu ý là tinh hoa văn hóa phương Đông không chỉ dừng lại ở lời nói của Người, mà đã toát ra từ cốt cách con người, từ cuộc đời của chính vị lãnh tụ Hồ Chí Minh, một cốt cách khoan hòa, ung dung, tự tại, luôn luôn làm chủ được bản thân mình, làm chủ được mọi hoàn cảnh. Nhờ thoát khỏi - thoát khỏi một cách “tự nhiên nhi nhiên”, không cần một sự “ráng sức” nào! - mọi sự ràng buộc của danh lợi cá nhân, chỉ suốt đời theo đuổi một “ham muốn tột bậc” là làm sao cho “nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, mà Người đã có được cái phong thái sống ung dung, tự tại đó.
Những kẻ hậu sinh chúng ta đều nhớ lời tâm sự chân thành của Người từ những ngày đầu mới ở cương vị cao nhất đất nước: ngoài “ham muốn tột bậc” nói trên, Người chỉ ao ước cho riêng mình “một căn nhà nhỏ, nơi có non xanh nước biếc, để câu cá trồng rau, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, trẻ em chăn trâu, không dính líu gì tới vòng danh lợi”. Phong thái sống tránh xa “vòng danh lợi” ấy phải chăng Người đã thừa hưởng từ tiếng suối chảy rì rào bên rừng thông, rừng trúc Côn Sơn của Nguyễn Trãi, từ “ngôi nhà nhỏ mây trắng”, “thu ăn măng trúc, đông ăn giá; xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” của Nguyễn Bỉnh Khiêm?...
Ngôi nhà sàn giữa vườn cây, bên ao cá của Người mãi mãi còn là biểu tượng sống động cho cốt cách văn hóa Hồ Chí Minh.
Khi mà không ít quan chức đủ các cấp bị rơi vào tình trạng “phai nhạt lý tưởng”, bị cầm tù bởi “vòng danh lợi”, xa rời dân, vô cảm trước những bức xúc của dân, chỉ lo “vinh thân phì gia”, hễ có dịp là bòn rút, ăn cắp của công… thì bài học về cốt cách văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giữ nguyên tính thời sự nóng hổi.
Người thường có phong thái ung dung tự tại.
4. Về xây dựng đời sống văn hóa
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đã chỉ rõ việc phát động một cách thực chất phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa là một trong những giải pháp quan trọng nhất để thúc đẩy sự nghiệp văn hóa phát triển. Có thể nói chủ trương này đã bắt nguồn từ những suy nghĩ và việc làm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng đời sống văn hóa ngay từ những ngày đầu tiên sau khi Nhà nước dân chủ nhân dân vừa mới ra đời. Thời kỳ đó Người đã dùng khái niệm “Đời sống mới”.
Tháng 1/1946, Người phát động phong trào “Đời sống mới”. Ba tháng sau, Người cho thành lập Ủy ban Trung ương vận động “Đời sống mới”. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa bắt đầu được ít lâu, giữa lúc vận mệnh chính quyền cách mạng tưởng chừng như đang ở thế “ngàn cân treo sợi tóc”, với một tinh thần lạc quan, niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến, Người đã bình tâm viết cuốn sách Đời sống mới (3/1947) để hướng dẫn cụ thể mọi người tích cực tham gia xây dựng “Đời sống mới”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong cuốn sách của mình, đã làm rõ khái niệm “Đời sống mới” trên cơ sở xác định vị trí nền tảng củađạo đức và sự thể hiện của đạo đức đó trong lối sống, nếp sống hàng ngày.
Người viết: “Thực hành đời sống mới là cần, kiệm, liêm, chính; nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì sẽ trở thành hủ bại, biến thành sâu mọt của dân; nêu cao và thực hành cần, kiệm, liêm, chính là nhen lửa cho đời sống mới”.
Người chỉ rõ việc xây dựng đời sống mới phải bắt đầu từ việc “sửa đổi những việc rất cần thiết, rất phổ thông trong đời sống của mọi người, tức là sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc”. Năm cách đó chính là cái mà hôm nay chúng ta thường gọi là lối sống.
Người viết thật giản dị về những gì làm nên đời sống mới: “Đời sống mới không phải những gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ. Thí dụ: ta phải bỏ hết tính lười biếng, tham lam. Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Thí dụ: đơm cúng, cưới hỏi quá xa xỉ, ta phải giảm bớt đi”…
Khái niệm thường gặp hiện nay về “làng văn hóa” đã được Người nêu lên với chữ dùng là “làng phong thuần tục mỹ”: “Về phong tục, phải cấm hẳn say sưa, cờ bạc, hút xách, bợm bãi, trộm cắp. Phải tìm cách làm cho không có đánh chửi nhau, kiện cáo nhau, làm cho làng mình thành một làng phong thuần, tục mỹ”. Người dặn dò mọi người dân phải chú ý đến những việc tưởng chừng như rất nhỏ trong đời sống hàng ngày như giữ vệ sinh trong nhà, ngoài ngõ; sao cho đường sá, ao hồ, nước ăn, nước rửa đều thật sạch sẽ; lễ hội, giỗ tết, ma chay, cưới xin, phải thật trang trọng mà giản dị, tiết kiệm…
Để xây dựng được đời sống mới, Người chỉ ra sự cần thiết phải bắt đầu từ mỗi con người, mỗi gia đình. Người viết: “Do nhiều người nhóm lại thành làng. Do nhiều làng nhóm lại thành nước. Nếu người này xấu, người kia cũng xấu thì thành làng xấu, nước hèn. Nếu mọi người đều tốt thì thành làng tốt, nước mạnh. Nếu mọi người đều cố gắng làm đúng đời sống mới thì dân tộc ta nhất định sẽ phú cường”. “Ai cũng làm như thế thì tự nhiên nước Việt Nam ta trở thành một nước mới, một nước văn minh”.
Sự nghiệp xây dựng đời sống mới, đời sống văn hóa có thành công hay không một phần quan trọng là phụ thuộc vào vai trò gương mẫu của các cán bộ. Người viết: “Đời sống mới cũng cần có những người làm gương, những nhà làm gương. Khi trông thấy có hiệu quả tốt tươi thì chắc những nơi khác cũng hăng hái làm theo. Nếu miệng thì tuyên truyền bảo người ta siêng làm, mà tự mình thì ăn trưa, ngủ trễ; bảo người ta tiết kiệm, mà tự mình thì xa xỉ, lung tung, thì tuyên truyền một trăm năm cũng vô ích!”.
Đối chiếu với những mặt sa sút, yếu kém hiện nay trong đời sống văn hóa ở nước ta (mê tín dị đoan, cúng bái tùm lum, cán bộ thiếu gương mẫu, ma chay cưới hỏi linh đình, cờ bạc, số đề, nghiện hút, trộm cắp của công và của riêng, văng tục, chửi bậy, va chạm một chút là gây gổ đánh nhau…), chúng ta càng thấy việc đọc lại, suy ngẫm về những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng đời sống mới là một việc làm cần thiết, cấp bách.
Giờ nghỉ trưa, Người vẫn thường đọc báo.
5. Về vấn đề xây dựng con người
Có thể nói xây dựng con người đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp phát triển đất nước là mối quan tâm hàng đầu trong suốt cuộc đời hoạt động lâu dài của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ bài giảng đầu tiên cho lớp huấn luyện những người được kết nạp vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội (1925), Người đã nhấn mạnh đến nhiệm vụ thường xuyên trau dồi “Tư cách một người cách mệnh”. Trên báo Thanh Niên tháng 9/1926, một lần nữa Người lại đề ra những yêu cầu cụ thể của “một người cách mệnh mẫu mực”. Đó chính là những con người tiên tiến, đi đầu dẫn dắt quần chúng nhân dân cùng phấn đấu thực hiện mục tiêu cao cả giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội.
Sau ngày cách mạng thành công, Người đã phát triển, mở rộng vấn đề nêu trên thành vấn đề xây dựng con người mới như một phạm trù của lĩnh vực văn hóa.
Tháng 2/1951, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, trong Báo cáo chính trị, Người đã lần đầu tiên chỉ ra sự cần thiết phải “xúc tiến công tác văn hóa để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc”.
Để xây dựng được con người mới, một nguyên tắc hết sức quan trọng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh đó là vừa phải tu dưỡng đạo đức thường xuyên, vừa phải kiên quyết chống những biểu hiện thoái hóa đạo đức.
Phải nói rằng Người không chỉ quan tâm đề cao những gương sáng đạo đức, những “người tốt, việc tốt” mà còn vạch ra một cách sắc sảo từ rất sớm những căn bệnh tệ hại của sự suy thoái đạo đức, trước tiên là trong hàng ngũ cán bộ. Chỉ hai tháng sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, trong Thư gửi Ủy ban Nhân dân các cấp, Người đã nhìn thấy rõ các khuyết điểm nghiêm trọng của các cán bộ đảng viên: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo.
Những điều xấu xa đó, hơn một năm sau, trong Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ (3/1947) lại được Người nhận dạng kỹ càng hơn: Người nêu đúng bản chất của các thói xấu đó là “địa phương chủ nghĩa, bè phái, quân phiệt, quan liêu, hách dịch, hoạnh họe với dân, coi thường cấp trên, lấn át cấp dưới, hẹp hòi, ham chuộng hình thức, làm việc lối bàn giấy, vô kỷ luật, ích kỷ, hủ hóa, tranh giành địa vị, chỉ chăm lo ăn ngon mặc đẹp, chiếm của công làm của tư, lợi dụng địa vị để buôn bán phát tài v.v…”.
Những bệnh trầm kha trên còn có dịp được Người nhắc lại trong cuốn Sửa đổi lối làm việc (10/1947), trong rất nhiều phát biểu sau này của Người, khi Người gọi đó là “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, nguy hiểm không kém gì “Việt gian, mật thám"!... Thật là chí lý!
Một trong những bài viết cuối cùng của Người là bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân (công bố vào dịp kỷ niệm 39 năm thành lập Đảng, 3/2/1969). Người chân thành dặn dò: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không còn trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Cho nên trong khi ta kiên trì và đẩy mạnh cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước, làm cho văn minh chiến thắng tàn bạo thì đồng thời phải loại trừ những cái xấu xa do chế độ cũ để lại trong xã hội và trong mỗi con người".
Trong thực tiễn cuộc sống hôm nay, bên cạnh bao điều tốt đẹp, vẫn còn tồn tại nhức nhối những “điều xấu xa” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã “chỉ mặt đặt tên” từ hàng chục năm về trước. Những điều xấu xa ấy không còn chỉ là của “xã hội cũ để lại” mà nó nảy sinh, đâm thêm nhành ngọn chính là từ trong những kẽ hở, những lỗ hổng, những yếu kém của cơ chế quản lý và vận hành xã hội hôm nay.
Từ những bất cập về cơ chế sở hữu, chính sách tài chính, những biểu hiện mất dân chủ, thiếu công khai , minh bạch trong việc thực hiện các quyền cơ bản của người dân… đến tình trạng thủ tục hành chính nhiêu khê, sự thiếu hụt các chế định luật pháp và thực thi luật pháp không nghiêm… tất cả những khiếm khuyết có tính hệ thống đó là môi trường hoàn toàn không thuận lợi cho việc xây dựng con người mới, nếu không nói là mảnh đất màu mỡ cho đủ các thói hư tật xấu phát triển, làm sa ngã không ít cán bộ vốn trước đây là tốt…
Một câu hỏi nhức nhối đặt ra là: Vì sao những lời hay, ý đẹp, mong muốn cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng con người sau mấy chục năm, sau bao cuộc vận động sống và làm theo gương Bác vẫn chưa thành hiện thực, nếu không nói là có lúc, có nơi cái xấu xa còn trầm trọng hơn thêm, ngang nhiên thách thức sự kiên nhẫn của đông đảo những người dân lương thiện đang ngày ngày nhọc nhằn mưu sinh trên ruộng đồng, trong nhà máy?...
Hiệu quả từ cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh” chỉ có thể đạt tới một cách rõ ràng và thực chất nếu chúng ta, song song với việc tuyên truyền, cổ vũ, phải cương quyết đẩy nhanh những thay đổi mạnh mẽ, rộng lớn và sâu sắc để có thể hoàn thiện trên thực tế theo hướng dân chủ hóa, minh bạch hóa cơ chế quản lý xã hội, quản lý kinh tế, văn hóa, coi đó như một điều kiện tiên quyết để xuất hiện ngày càng nhiều hơn những con người tử tế, trung thực, giỏi giang đáp ứng được yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước trong nỗ lực đồng hành cùng nhân loại.
Subscribe to:
Posts (Atom)