Saturday, 7 July 2018

Chuyện người Tàu Chợ Lớn, Saigon xưa nghe kể lại

(https://kontumquetoi.com/2015/10/21/chuyen-nguoi-tau-tai-cho-lon-ngay-xua/)

                  Đất ChoLon xưa là Saigon – Saigon xưa gọi là Bến Nghé !
                 Chữ Ba Tàu, Các Chú hoặc Chệc. tờ Gia Định Báo giải thích:
                          “…An-nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v… Từ Ba-Tàu có cách giải thích như sau: Ba có nghĩa là ba vùng đất mà chúa Nguyễn cho phép người Hoa làm ăn và sinh sống: vùng Cù Lao Phố (Đồng Nai), Sài Gòn-Chợ Lớn, Hà Tiên, từ Tàu bắt nguồn từ phương tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam, nhưng dần từ Ba Tàu lại mang nghĩa miệt thị, gây ảnh hưởng xấu…”.
…Kêu Các-chú là bởi người Minh-hương mà ra; mẹ An-Nam cha Khách nên nhìn người Tàu là anh em, bằng không thì cũng là người đồng châu với cha mình, nên mới kêu là Các-chú nghĩa là anh em với cha mình. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy…”.
“…Còn kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tàu hay giữ phép, cũng như An-Nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác thì kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An-Nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc …”
Cách giải thích thuật ngữ nói trên của Gia Định Báo từ thế kỷ thứ 19 được coi là tạm ổn vì đây là một trong những tài liệu xưa có xuất xứ từ miền Nam. Theo Lê Ngọc Trụ trong Tầm nguyên Tự điển Việt Nam, chệc hay chệt là tiếng Tiều gọi chữ thúc, nghĩa là “em trai của cha”. Người bình dân gọi Chệc để chỉ chung người Hoa. Người Quảng Đông cho là gọi như thế có ý miệt thị, người Triều Châu trái lại, chấp nhận vì họ được tôn là chú. Ở miền Nam, “các chú” Quảng làm ăn buôn bán khá hơn “các chú chệc” người Tiều lam lũ trong nghề làm rẫy, tằn tiện nên không biết có phải vì vậy mới có câu:
Quảng Đông ăn cá bỏ đầu
Tiều Châu lượm lấy đem về kho tiêu!
old_cholon
Người Tiều lại chê dân Quảng không biết ăn cá. Họ nói món cháo cá Tiều khi ăn có vị ngọt đặc biệt nhờ chỉ rửa sạch bên ngoài, giữ lại nguyên si vảy, đầu và cả ruột! Dân Tiều ở miền Nam “chuyên trị” những món cá chim hấp, bò viên, tôm viên, ruột heo nấu cải chua… và nhất là món hủ tíu Tiều Châu. Người ta còn dùng các từ như Khựa, Xẩm, Chú Ba… để chỉ người Tàu, cũng với hàm ý miệt thị, coi thường. Tuy nhiên, có sự phân biệt rõ ràng trong cách gọi: phụ nữ Tàu được gọi là thím xẩm còn nam giới thì lại là chú ba.(1955-1963) đã có một quyết định khá táo bạo, buộc tất cả Hoa kiều phải nhập quốc tịch Việt Nam, nếu không sẽ bị trục xuất. Thương nghiệp tại miền Nam sau thời Pháp thuộc phần lớn nằm trong quyền kiểm soát của Hoa kiều. Vì vậy, chính phủ cố tạo sức mạnh cho doanh nhân Việt bằng cách hạn chế quyền lợi của người Hoa. Đạo luật 53 cấm ngoại kiều (nhắm vào Hoa kiều) tham gia 11 nghề liên quan đến thóc gạo, điền địa, buôn bán thịt cá, than đá, dầu lửa, thu mua sắt vụn… được ban hành vào tháng 9/1956. Đạo luật này đã làm xáo trộn kinh tế trong nước nhưng đã có tác động mạnh đến nền công thương nghiệp của người Việt vào thời kỳ đó. Đa số người Hoa đã nhập tịch Việt, tính đến năm 1961, trong số 1 triệu Hoa kiều ở miền Nam chỉ còn khoảng 2.000 người giữ lại Hoa tịch.
Người Tàu kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện… và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường. Cũng vì thế, ở Sài Gòn có câu mỉa mai: “Sống phá rối thị trường, chết chật đường chật xá” để ám chỉ người Tàu khi còn sống lũng đoạn nền kinh tế và đến lúc chết lại tổ chức những đám ma một cách rình rang. Cũng như người Tàu ở Hồng Kông và Macao, người Tàu ở miền Nam đa số nói tiếng Quảng Đông (Cantonese) chứ không nói tiếng Quan Thoại(Mandarin) mà ngày nay gọi là tiếng Phổ Thông. Cũng vì thế, ngôn ngữ Sài Gòn xưa vay mượn từ tiếng Quảng Đông được khoảng 71 triệu người Hoa trên khắp thế giới xử dụng.
Người Sài Gòn thường ví những người “ăn nói không đâu vào đâu” là “nói hoảng, nói tiều” thực ra là “nói tiếng Quảng Đông, nói tiếng Triều Châu”. Điều này cho thấy tiếng Quảng Đông xuất hiện rất nhiều trong ngôn ngữ miền Nam trước năm 1975, kế đến mới là tiếng Triều Châu. Trên thực tế, người Tàu có đến 5 nhóm Hoa kiều, được gọi là Ngũ Bang tại miền Nam: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Khách Gia (người Hẹ). Trong lĩnh vực ăn uống của Sài Gòn xưa, ảnh hưởng của người Tàu gốc Quảng Đông rất đậm nét. Người ta thường nói về 4 cái thú: “Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật Bản, đi xe Huê Kỳ”. Bên Tàu lại ví von: “Thực tại Quảng Châu, Y tại Hàng Châu, Thú tại Tô Châu, Tử tại Liễu Châu” (Cơm ngon ăn tại Quảng Châu, Áo đẹp may vải Hàng Châu, Vợ xinh cưới ở Tô Châu, Hòm chết chôn không bao giờ mục ở Liễu Châu ). Quảng Châu chính là thủ phủ của tỉnh Quảng Đông.
Kết hợp ý nghĩa của hai câu nói Việt-Trung ở trên ta có thể kết luận: ăn uống theo người Tàu gốc Quảng Đông là hết xảy hay số dzách (số một), những từ ngữ đã quá phổ biến trong xã hội miền Nam. Về sau, vào thời chiến tranh Việt Nam, “số dzách” được cải biên theo kiểu Mỹ thành “nâm-bờ oăn” (number one)! Hành trình của ngôn ngữ xem ra rất thú vị. Nói cho công bằng, bên cạnh số đông các tửu lầu, cao lâu của người Tàu gốc Quảng Đông, ở Sài Gòn Chợ lớn cũng có lai rai một số tiệm Tàu khác như tiệm Hủ tíu Triều Châu ở đối diện Chợ Lớn Mới, Cơm Gà Hải Nam ở Chợ An Đông…Nổi tiếng tại Sài Gòn xưa có các nhà hàng Đồng Khánh, Arc-en-ciel (sau này đổi tên là Thiên Hồng), Soái Kình Lâm, Bát Đạt, Á Đông, Đại La Thiên, Triều Châu… Tại đây còn phục vụ loại “ăn chơi” theo cung cách nhất dạ đế vương. Quả thật người viết bài này chưa bao giờ được “làm vua một đêm” nên đoán trong những bữa tiệc như thế phải có mỹ nữ hầu tửu, thực đơn chắc chắn phải có nhiều món huyền thoại danh bất hư truyền về cái chất bổ dương khích dục đi đôi với các thứ rượu quí như whisky, cognac và Mao Đài tửu
Chợ lớn1
Cơm chiên Dương Châu cũng là món ăn du nhập từ Quảng Đông. Nhiều người rất khoái cơm chiên nhưng ít người biết từ khởi thủy đây chỉ là món tổng hợp các thức ăn dư thừa được chế biến lại. Này nhé, cơm vốn là “cơm nguội” nấu dư từ hôm trước, các phụ gia khác như jambon, trứng tráng, đậu Hòa lan, hành lá…còn dư được xắt lát rồi trộn với cơm mà chiên lên!
Cũng thuộc loại thức ăn dư thừa có món tài páo (bánh bao). Bạn không tin ư? Nhân bánh bao là thịt vụn được xào lên, trộn với lạp xưởng và trứng (sau này được thay bằng trứng cút kể từ khi dịch cút lan truyền khắp Sài Gòn, nhà nhà nuôi cút, người người ăn trứng cút). Vỏ bánh bao được làm bằng bột mì, sau khi hấp chín bột nở phình ra trông thật hấp dẫn. Có người bảo cơm chiên Dương Châu và bánh bao thể hiện tính tằn tiện và tiết kiệm của người Tàu, không bỏ phí thức ăn thừa! Nói cho vui vậy thôi chứ từ cơm chiên, bánh bao đến các loại sơn hào hải vị như bào ngư, vi cá, yến sào… đều đòi hỏi cách chế biến, đó là nghệ thuật nấu ăn. Các tiệm “cà phê hủ tiếu” của Tàu lan rộng ra nhiều nơi chứ không riêng gì trong Chợ Lớn. Khắp Sài Gòn, Gia Định rồi xuống đến Lục Tỉnh đi đâu cũng thấy những xe mì, xe hủ tiếu, chỉ nhìn cách trang trí cũng có thể biết được chủ nhân là người Tàu. Họ có kiểu cách riêng biệt với những chiếc xe bằng gỗ, thiết kế một cách cầu kỳ. Phần trên xe là những tấm kính tráng thủy có vẽ hình các nhân vật như Quan Công, Lưu Bị, Trương Phi, Triệu Tử Long… trong truyện Tam Quốc.
Ăn điểm tâm thì có mì, hủ tíu, bánh bao, há cảo, xíu mại…Khách thường gọi một ly xây chừng, đó là một ly cà phê đen nhỏ hay tài phế (cà phê đen lớn). Cà phê ngày xưa còn có tên “cá phé vớ (dzớ)”, pha bằng chiếc vợt vải nên còn được gọi là “cà phê vợt” tựa như chiếc vớ (bít tất). Cà phê đựng trong “dzớ” phải được đun nóng trong siêu nên còn có tên là “cà phê kho”, có điều “kho” nước đầu thì có mùi cà phê nhưng những nước sau có vị như… thuốc bắc. Sang hơn thì gọi phé nại (cà phê sữa) hoặc bạt sửu (nhiều sữa nhưng ít cà phê) với sữa đặc có đường hiệu Ông Thọ hoặc Con Chim . Có người lại dùng bánh tiêu hoặc dầu-cha-quẩy nhúng vào cà phê để ăn thay cho các món điểm tâm đắt tiền.
Người bình dân còn có lối uống cà phê trên đĩa. Mỗi tách cà phê thường được để trên một chiếc đĩa nhỏ, khách “sành điệu” đổ cà phê ra đĩa, đốt điếu thuốc Melia chờ cà phê nguội rồi cầm đĩa lên… húp. Nhà văn Bình-nguyên Lộc trong Hồn Ma Cũ mô tả cách uống cà phê của người xưa: “…Người cha đứa bé rót cà phê ra dĩa cho mau nguội, rồi nâng dĩa lên mà uống”. Đây là cách uống của một số người Sài Gòn vào những thập niên 50-60, đa số họ là những người lớn tuổi, “hoài cổ” nên vẫn duy trì cách uống đặc trưng của Sài Gòn xưa. Vào một quán nước bình dân trong Chợ Lớn ta có thể gọi một ly suỵt xủi và người phục vụ đem ra một ly đá chanh mát lạnh. Có người gọi nước đá chanh là “bất hiếu tử” vì dám cả gan “đánh cha” nhưng nói lái lại là… đá chanh! Tại các tiệm “cà phê hủ tiếu” luôn luôn có bình trà để khách có thể nhâm nhi nhậm xà (uống trà) trước khi gọi phổ ky đến để thảy xu (tính tiền). (Nhậm xà còn có nghĩa là tiền hối lộ, tiền trà nước). Người sành điệu còn “xổ” một tràng “broken Cantonese”: “Hầm bà làng kỵ tố?” (Hết thảy bao nhiêu tiền?).
Những từ ngữ vay mượn của người Tàu dùng lâu hóa quen nên có nhiều người không ngờ mình đã xử dụng ngôn ngữ ngoại lai. Chẳng hạn như ta thường lì xì cho con cháu vào dịp Tết hoặc lì xì cho thầy chú (cảnh sát) để tránh phiền nhiễu, cũng là một hình thức hối lộ. Lạp xưởng là một món ăn có nguồn gốc từ bên Tàu, tiếng Quảng Châu là lạp trường: ngày lễ Tất niên và ruột heo khô. Cũng vì thế vào dịp giáp Tết các cửa hàng nổi tiếng như Đồng Khánh, Đông Hưng Viên trưng bày la liệt các loại lạp xưởng, nào là lạp xưởng mai quế lộ, lạp xưởng khô, lạp xưởng tươi…
Chế biến lạp xưởng là nghề của các Chú Ba trong Chợ Lớn. Lạp xưởng được làm từ thịt heo nạc và mỡ, xay nhuyễn, trộn với rượu, đường rồi nhồi vào ruột heo khô để chín bằng cách lên men tự nhiên. Lạp xưởng màu hồng hoặc nâu sậm vì chắc hẳn có thêm chút bột màu. Lạp xưởng ở Sóc Trăng thuộc miền Lục tỉnh cũng rất nổi tiếng cùng với món bánh pía, một món đặc biệt của người Tiều gốc từ Triều Châu. Đôi khi bánh pía còn được gọi là bánh lột da, thực chất có nguồn gốc từ bánh trung thu theo kiểu Tô Châu nhưng khác với loại bánh trung thu mà ta thường thấy. Đây là loại bánh có nhiều lớp mỏng và nhân bánh có trộn thịt mỡ.
Bánh pía do một số người Minh Hương di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 17 mang theo. Trước đây, việc làm bánh pía hoàn toàn mang tính thủ công và phục vụ cho nhu cầu của từng gia đình. Bánh pía ngày trước cũng khá đơn giản, vỏ ngoài làm bằng bột mì có nhiều lớp da mỏng bao lấy phần nhân, lớp da ngoài dày thường để in chữ, nhân làm bằng đậu xanh và mỡ heo chứ không có lòng đỏ trứng muối và các loại thành phần khác như ngày nay. Do thị hiếu của người tiêu dùng mà các lò bánh mới thêm các thành phần hương liệu khác như sầu riêng, khoai môn, lòng đỏ trứng muối… Tại Sóc Trăng hiện có gần 50 lò chuyên sản xuất bánh pía. Tuy nhiên, số lò bánh và cửa hàng buôn bán tập trung đông nhất tại thị tứ Vũng Thơm (xã Phú Tâm, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng) nơi được xem là khởi thủy của làng nghề bánh pía.
Vịt quay Bắc Kinh và vịt quay Tứ Xuyên là những món “đặc sản” nổi tiếng của Tàu. Đặc trưng của món vịt quay là da vịt mỏng, giòn, màu vàng sậm. Tại miền Nam, vịt quay và thịt heo quay cũng được người Quảng Đông đưa vào danh sách ẩm thực. Bí quyết gia truyền của các món này là ướpngũ vị hương rồi quay sao cho da giòn tan trong khi phần thịt vừa mềm lại vừa thơm. Vịt quay hoặc heo quay theo đúng kiểu Tàu là phải ăn với bánh bao chay (không nhân) nhưng người Việt cũng chế thêm món bánh hỏi thịt quay ăn với các loại rau, chấm nước mắm cho hợp với khẩu vị. Ngày xưa, trong Chợ Lớn, nổi tiếng về heo quay, vịt quay có khu vực đường Tôn Thọ Tường, ở Sài Gòn thì khu Chợ Cũ có vài tiệm heo quay của người Tàu.
saigon xưa
Hết “ăn” giờ lại sang đến “chơi” trong ngôn ngữ vay mượn của người Tàu. Chuyện cờ bạc trong ngôn từ của người Sài Gòn xưa đã xuất hiện không ít những từ ngữ từ tiếng Tàu. Tài Xỉu (phiên âm từ tiếng Tàu có nghĩa là Đại – Tiểu) là trò chơi dân gian có từ rất lâu. Chỉ cần 1 cái đĩa, 1 cái bát và 3 hạt xí ngầu cũng có thể lập sòng tài xỉu nên còn có tên là sóc đĩa. Hột xí ngầu có sáu mặt, mỗi mặt có từ một đến sáu chấm, tương đương từ một đến sáu điểm. Khi ráp sòng, người ta để cả ba hột lên chiếc đĩa sứ, chụp bát lên trên rồi lắc. Tổng số điểm của ba hột từ mười trở xuống gọi là xỉu, trên con số mười là tài. Sau khi chủ sòng lắc đĩa, người chơi đoán hoặc tài hoặc xỉu mà đặt cược. Chuyện thắng thua trong tài xỉu tùy thuộc vào tay nghề của người xóc đĩa, còn được gọi là hồ lỳ. Xác suất chủ sòng là từ 60 đến 70% thắng nhưng vì lỡ mang kiếp đỏ đen nên con bạc vẫn bị thu hút vào sòng xóc đĩa.
Các loại bài và hình thức chơi bài cũng có xuất xứ từ tiếng Tàu. Binh xập xám (13 cây) có những thuật ngữ như mậu binh (không cần binh cũng thắng), cù lủ (full house) là 3 con bài cùng số và một cặp đôi, ví dụ như 3 con chín + 2 con K (lớn nhất là cù lủ ách (ace), nhỏ nhất dĩ nhiên là cù lủ hai), thùng (flush) là 5 con cùng nước (suit) mà không theo trật tự liền nhau, ngược lại là sảnh (straight) là 5 con theo trật tự liền nhau nhưng không cùng nước. Kho từ vựng trong xập xám còn có xám chi (3 con cùng loại – three of a kind), thú (two) hay thú phé (two separate pairs) là 2 cặp và 1 con bất kì nào khác. “Thứ nhất tứ quý (4 con bài cùng số) thứ nhì đồng hoa (cùng một nước như cơ, rô, chuồn, bích)” là một trong số cả rừng từ ngữ của dân binh xập xám.
Nghề nghiệp được xếp thấp nhất của người Tàu là nghề lạc xoong hay nói theo tiếng Việt là mua ve chai, người miền Bắc gọi là đồng nát. Chú Hỏa (1845-1901), người Phúc Kiến, xuất thân từ nghề này nhưng về sau lại là một trong 4 người giàu nhất Sài Gòn xưa: “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa”. Bốn triệu phú ngày xưa gồm các ông Huyện Sỹ (Lê Phát Đạt), Tổng đốc Phương (Đỗ Hữu Phương), Bá hộ Xường (Lý Tường Quan) và Chú Hỏa (Hui Bon Hoa hay Hứa Bổn Hòa). (Xem Triệu phú Sài Gòn xưa)
Một số người Tàu hành nghề bán chạp phô với các mặt hàng thuộc loại tả pín lù nhưng sẵn sàng đáp ứng được mọi nhu cầu hàng ngày của người lao động trong xóm. Tiệm chạp phô chỉ có mục đích lượm bạc cắc từ cây kim, sợi chỉ đến cục xà bong Cô Ba, quả trứng, thẻ đường. Người Tàu kiên trì trong công việc bán tạp hóa, ông chủ ung dung đếm tiền mỗi tối và ẩn dưới tiệm chạp phô là cả một gia tài được tích lũy. Người ta chỉ phát hiện điều này khi có phong trào vượt biên. Tính rẻ “3 cây một người” thế mà cả gia đình chủ tiệm chạp phô vẫn thừa sức vượt biển để tìm đến bến bờ tự do.
Cao cấp hơn là những xì thẩu, những người thành công trong kinh doanh mà ngày nay ta gọi là „đại gia“. Điển hình cho giai cấp xì thẩu là Trần Thành, bang trưởng Triều Châu, với hãng bột ngọt Vị Hương Tố rồi các mặt hàng mì gói Hai Con Tôm, nước tương, tàu vị yểu đã chinh phục thị trường miền Nam từ thập niên 60 để trở thành “ông vua không ngai trong vương quốc Chợ Lớn”. Xì thẩu Lý Long Thân làm chủ 11 ngành sản xuất và dịch vụ, 23 hãng xưởng lớn: hãng dệt Vinatexco, Vimytex, hãng nhuộm Vinatefinco, hãng cán sắt Vicasa, hãng dầu ăn Nakyco, hãng bánh ngọt Lubico, Ngân Hàng Nam Việt, Ngân Hàng Trung Nam, khách sạn Arc en Ciel, hãng tàu Rạng Đông…
Ba-CangCau-di-bo-dau-tien-o-Sai-Gon_2
cầu Ba Cẳng Chợ Lớn xưa
Xì thẩu Lâm Huê Hồ được nhiều người gọi là “chủ nợ của các ông chủ”. Ông là người giữ nhiều tiền mặt nhất miền Nam, số tiền ông có tay bằng vốn của nhiều ngân hàng tư nhân cỡ nhỏ như Nam Đô, Trung Việt gộp lại. Lâm Huê Hồ còn nổi tiếng là vua phế liệu, chuyên thầu quân cụ và võ khí phế thải rồi bán lại cho những doanh nhân trong ngành luyện cán sắt hay bán lại cho Nhật Bản. Người Sài Gòn thường nói: “Trần Thành, Lý Long Thân chỉ có Tiếng nhưng Lâm Huê Hồ lại có Miếng”.
Xì thẩu Vương Đạo Nghĩa, chủ hãng kem Hynos, là một người có óc làm ăn cấp tiến. Ông là người có rất nhiều sáng kiến để quảng cáo sản phẩm trên các cửa hàng ăn uống, chợ búa, hệ thống truyền thanh và truyền hình. Ông cũng là người đầu tiên biết vận dụng phim võ hiệp và tình báo kiểu Hồng Kông vào quảng cáo. Người dân miền Nam không thể quên hình ảnh tài tử Vương Vũ giải thoát các xe hàng do đoàn bảo tiêu hộ tống thoát khỏi quân cướp: mở thùng ra chỉ toàn kem đánh răng Hynos! Có rất nhiều xì thẩu được Sài Gòn xưa phong tặng danh hiệu Vua. Trương Vĩ Nhiên, “vua ciné”, là chủ hãng phim Viễn Đông và gần 20 rạp ciné tại Sài Gòn – Chợ Lớn: Eden, Đại Nam, Opéra, Oscar, Lệ Thanh, Hoàng Cung, Đại Quang, Palace, Thủ Đô…; Lý Hoa, “vua xăng dầu”, là đại diện độc quyền các hãng Esso, Caltex, Shell phân phối nhiên liệu cho thị trường nội địa; Đào Mậu, “vua ngân hàng”, Tổng giám đốc Trung Hoa Ngân Hàng (một trong hai ngân hàng châu Á lớn nhất tại Sài Gòn cùng với Thượng Hải Ngân Hàng).

Thursday, 5 July 2018

Phướng pháp làm mờ điểm sáng làm sáng điểm mờ (Quan Văn Đàn - Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM)

(http://tuanbaovannghetphcm.vn/phuong-phap-lam-mo-diem-sang-lam-sang-diem-mo-so-499/)

Giáo sư Phan Huy Lê với đệ tử và cộng sự vừa xuất bản công trình Mấy vấn đề sử học Việt Nam cần làm sáng tỏ, do Tạp chí Xưa & Nay và Nhà Hồng Đức ấn hành, H.2018. Đây là tập hợp các bài viết của Giáo sư và cộng sự đã đăng trên Xưa & Nay nhằm phản bác lại ý kiến trao đổi của các tác giả trên Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh. Có vẻ khách quan, trong Bảng I. Thống kê bài viết trên Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh gồm 34 bài mục của 19 tác giả (theo bút danh). Bảng II. Thống kê bài viết trên tạp chí Xưa & Nay và tạp chí Nghiên cứu lịch sử, gồm 12 bài mục của 11 tác giả.

Đây là dấu hiệu chứng tỏ nạn học phiệt không còn ngự trị tuyệt đối trên diễn đàn sử học. Bởi một bên là Giáo sư Sử học – Nhà giáo nhân dân Phan Huy Lê, một trong bộ tứ “Lâm – Lê – Tấn – Vượng” đã ngự trị trên Diễn đàn sử học từ đầu thập kỷ 60 thế kỷ trước cho đến gần đây và có thể là cả hiện nay, tuy không còn vẹn nguyên và các cộng sự là các Giáo sư – Tiến sĩ, Phó Chủ tịch, Phó Tổng thư ký, Phó Hiệu trưởng… Còn bên kia là các nhà văn Vũ Hạnh, Chu Giang; nhà báo Đặng Minh Phương, còn lại đều là các bạn đọc rất quan tâm đến Sử học nước nhà, phần lớn làm việc ở các ngành nghề khác. Bởi thế… “các vị (các tác giả trên VN TP.HCM) không có cùng một nền tảng kiến thức, lại khác xa nhau về phương pháp tiếp cận, nên làm sao có thể cùng nhau đi đến ngọn nguồn của vấn đề” (Xưa & Nay, sđd, trg.190), cũng là dễ hiểu.
Đây là một ngộ nhận rất lớn của GS. Phan Huy Lê và các cộng sự mà chúng tôi sẽ trao đổi dưới đây.
Thông thường trong sự biện luận, các yếu điểm của đối phương được khai thác để tạo ra hiệu ứng đôminô, tựa như lấy đoản binh để thắng trường trận. Song, với nhà học thuật chân chính và cầu thị, thì bỏ qua những bắt bẻ vụn vặt, xem cái đại ý của người trao đổi có điều gì cần làm sáng tỏ, để nhân với một hay một số người mà làm sáng tỏ cho đông đảo bạn đọc. Tìm đến cái đại ý đại cục, bỏ qua cái tiểu tiết tiểu khí là một sự rất khó trong học giới từ xưa tới nay. Chúng tôi theo gương đó mà có lời thỉnh đáp với GS. Phan Huy Lê, qua đó với các vị học giả có nền tảng kiến thức cao sâu, chỉ vì một khao khát đến nền sử học khoa học và dân tộc ngày một tinh túy hơn lên. Nếu có phải dẫn đến các tiểu tiết là để làm rõ cái đại cục.
Chúng tôi xem quan niệm của GS. Hà Văn Tấn có tầm quan trọng hàng đầu cho nghiên cứu lịch sử: “Muốn viết sử, phải biết phương pháp Sử học, và trước hết, phải là người trung thực, chứ không phải là tên cơ hội” (Lịch sử, sự thật & sử học. 1999. Trg.15. Dẫn theo Nguyễn Thị Đông Thái, Tạp chí Hồn Việt số 33 (tháng 3-2010, trg.16).
Trung thực là khát vọng chung của nhân loại từ xưa tới nay. Nó dễ nói mà khó làm nên luôn luôn là vấn đề thời sự của học thuật. Trung thực như thế nào thể hiện ở việc làm cụ thể.
GS. Phan Huy Lê có quan điểm rất không đúng khi ông nói: “Phải vượt qua rào cản ý thức hệ để có cái nhìn khách quan trung thực”.
Tư tưởng này ông đưa ra vào tối ngày 22-10-2011 và được thuật lại trên báo Tuổi trẻ ngày 23-10-2011.
Nhưng vượt qua rào cản ý thức hệ nào, vượt qua rồi thì đứng ở đâu để nhìn lại lịch sử? Chúng tôi và nhiều bạn viết khác đã nêu ra vấn đề này nhưng GS. Lê không đáp lại, cho đến hôm nay, trong công trình đã dẫn trên.
Đây là vấn đề tiên quyết cho sử học nói riêng và khoa học – xã hội nói chung. Lẩn tránh nó tức là đã có một chỗ để lẩn tránh; cái chỗ đó không nói ra nhưng ai cũng hiểu được, qua đối chiếu với thực hành, thực tiễn.

So-499--Anh-minh-hoa---Phuong-phap-lam-mo-diem-sang-lam-sang-diem-mo---Anh-1
Theo chúng tôi, nhân loại cho đến hôm nay vẫn bị chi phối bởi các hệ tư tưởng khác nhau, dù có ý thức hay không. Ngay trong đời sống thường nhật nó hiện ra rất rõ ràng, đa dạng. Chỉ là có chú ý hay bỏ qua. Ta thường thấy nhiều đồng bào rất tự đắc khi bế con mèo, hôn hít con chó, vỗ về âu yếm như bé cưng. Và rất khinh bỉ những đồng bào đang lam lũ kiếm sống một cách cơ cực trên các bãi rác, hè phố… Họ lại rất “thông minh ý thức hệ” khi xua mèo xua chó ra phóng uế ngoài đường phố, ngõ phố, ở đâu cũng được, miễn đừng ở trong nhà họ. Yêu chó nuôi chó một cách chó như thế, có phải là tư tưởng chung của một giai tầng nào đó, có là biểu hiện của một ý thức hệ hay do một ý thức hệ nào đó chi phối hay không? Các đại gia tỉ phú bài bạc cá độ hàng ngàn tỉ đồng, biệt thự biệt phủ như lãnh chúa… có là biểu hiện của một ý thức hệ nào đó hay không? Nhà làm sử đứng ở đâu giữa các thái cực đó. Lịm chết theo người ở thế giới bên kia để “khách quan trung thực” hay đứng giữa cuộc đời hôm nay để nhìn lại lịch sử? Chúng tôi đã nói, lịch sử là cái đã qua, nghiên cứu lịch sử là nghiên cứu về cái quá khứ. Nhưng con người làm sử, nghiên cứu lịch sử lại thuộc về hiện tại, đang là… Cái đang là hay thuộc về cái đang là quyết định sự nghiên cứu chứ không phải vượt qua rào cản ý thức hệ quyết định. Chừng nào nhân loại vượt thoát sự tha hóa một cách triệt để, tứ hải giai huynh đệ, không còn các vấn đề Trung Đông, Biển Đông, Hai miền Triều Tiên, các đợt giải cứu lợn, gà, thanh long, dưa hấu… thì mới hết rào cản ý thức hệ, vì không còn ý thức hệ nào để phải vượt qua; khi Nhà nước của các quốc gia tự tiêu vong trở thành Nhà nước tự quản và loài người chỉ còn quan hệ duy nhất giữa các dân tộc trong tình hữu nghị mà nền tảng là chủ nghĩa nhân bản, nhân văn, nhân đạo. Chưa đến hay không đến được đoạn đó thì GS. Lê chỉ có thể thoát khỏi vỏ dưa lại gặp vỏ dừa mà thôi. Nôm na như thế, nhưng lẩn tránh nó thì không còn khoa học lịch sử, chỉ có thể là các dạng khác nhau của khoa học không khoa học mà thôi. Bảy năm qua (tháng 10-2011 đến nay), GS. Lê lẩn tránh sự chỉ nghị của bạn đọc về vấn đề cốt lõi này nhưng thực hành thì vẫn không thay đổi mà chúng tôi sẽ nói.
Về phương pháp tiếp cận toàn diện, toàn bộ lịch sử Việt Nam (Sđd. Trg.190) được xem là phương pháp luận tối ưu duy nhất để nhìn nhận và đánh giá lịch sử Việt Nam là chuyện rất mông lung, như đem tấm voan che phủ lên thực tế lịch sử. Chúng tôi đã nhiều lần nói đến. Nay Quí vị vẫn khẳng định lại thì chúng tôi xin nhắc lại.
Nhìn toàn diện là yêu cầu sơ đẳng của nghiên cứu khoa học, đâu phải thành tựu. Phát kiến mới. Không cần phải biện luận gì nhiều. Chỉ một chuyện ngụ ngôn Thầy bói xem voi đủ biết trí tuệ dân gian Việt Nam đã phê phán cái nhìn không toàn diện từ xưa lắm rồi.
Cái quan trọng nhất là trên cái toàn diện đó, nhìn ra cái gì là chính, là bản chất, nếu trưng toàn bộ cái toàn diện ra thì là chụp ảnh lịch sử, đâu phải nghiên cứu lịch sử.
Cái nhìn toàn bộ chỉ có giới hạn. Ở cấp vi mô, như với con voi, hay cơ thể con người cụ thể đối với cuộc hội chẩn, thì có thể thực hiện được, tuy rằng cũng chỉ là tương đối, vì mỗi con người là một thế giới, nhân thân tiểu thiên địa, cho đến nay khoa học vẫn chưa khám phá hết.
Ở cấp vĩ mô của lịch sử, cái nhìn toàn bộ chỉ là một uyển ngữ, một lời nói quen miệng, một câu khẩu đầu (Phạm Thượng Chi). Lịch sử của một cộng đồng dù nhỏ, trong một khoảng thời gian xác định cũng đã khó nắm bắt hết, nói gì đến lịch sử của một dân tộc có đến hàng chục, nay là trăm triệu người, qua rất nhiều biến cố theo thời gian hàng ngàn năm, trên một địa dư hàng vạn, tới cả triệu kilômét vuông đất liền và vùng biển, làm sao một hay một nhóm người có thể thấu thị xuyên tầng được toàn bộ? Các sử gia đâu phải là các vị Bồ Tát có thiên nhãn thông! Đem một câu khẩu đầu, một lời văn nói ra làm phương pháp tiếp cận Sử học thì đó là khoa học gì? Mong Giáo sư và các Giáo sư – Tiến sĩ chỉ giáo cho. Nhìn toàn diện – là một yêu cầu – và nhìn toàn bộ – là một tham vọng – không sai nhưng chưa đủ và chưa phản ánh cái bản chất của phương pháp luận lịch sử. Bởi cái thuật ngữ sáo ngữ này dùng vào đâu cũng được. Khảo sát dân số, kế hoạch hóa gia đình, tình trạng dân cư và chất lượng đời sống cũng phải có cái nhìn “toàn diện toàn bộ”, đâu phải chỉ Sử học mới có. Một trưởng thôn hiện đại (tú tài hay cử nhân) đều nói được câu này, đâu cứ phải các Giáo sư – Tiến sĩ khoa học lịch sử. Đó là cái chỗ mơ hồ không mơ hồ của phương pháp sử học Phan Huy Lê. Bởi trong khoa học – xã hội và nhân văn hiện đại, theo khảo sát của chúng tôi, thì nhãn quan (cái nhìn, cách nhìn, góc nhìn, chỗ đứng để nhìn…) mới là quyết định. Vượt qua rào cản này ắt thuộc về rào cản kia, “chân không đến đất cật không đến giời” thì làm sao thấy được “toàn diện toàn bộ”!
Phải quan sát cái nhìn thực tế để phân định. Xin nêu ba đối tượng để khảo sát cái “toàn diện toàn bộ” của GS. Phan Huy Lê và các cộng sự.
1/ Nhìn nhận Gia Long và Vương triều Nguyễn.
2/ Nhìn nhận lại một số nhân vật lịch sử như Trương Vĩnh Ký, Phan Châu Trinh, Phạm Quỳnh…
3/ Một số sử liệu theo cách khai thác “toàn diện toàn bộ” của GS. Phan Huy Lê và các cộng sự.
- Về Gia Long và Vương triều Nguyễn đã được nói đến rất nhiều. Chúng tôi tiếp tục khẳng định là GS. Phan Huy Lê đã cắt xén về Gia Long và Vương triều Nguyễn, dương cái phụ ẩn cái chính, làm sáng chỗ mờ, làm mờ chỗ sáng, tự mâu thuẫn với mình. Về Gia Long, chúng tôi đã nói rõ trong bài Sự phủ định của lịch sử – VN TP.HCM, số báo 497 ngày 10-5-2018. Sao lại chỉ thấy có một tì vết, một điểm mờ là sự cầu viện quân Xiêm? Tội cắt đất để cầu viện quân Pháp qua Hiệp ước ủy quyền cho Bá Đa Lộc ký với người Pháp và tội cầu viện quân Xiêm là hai tội lỗi cụ thể, rất nặng nề trên phương diện quốc gia. Nhưng Gia Long mới chính là thủ phạm về tinh thần và tư tưởng đưa đất nước vào con đường bế quan tỏa cảng, bảo thủ lạc hậu, càng ngày càng suy yếu đến chỗ mất nước, chỉ sau 60 năm khi giành lại vương quyền, 1802 – 1862. Đây mới là yếu điểm của Vương triều Nguyễn. Nhưng GS. Lê không nói đến, không đưa ra. Không phải vì không nhìn thấy. Gia Long đã có cơ hội vàng trước người Nhật nửa thế kỷ. Người Nhật mở cửa đón nhận (1854), Gia Long đóng cửa sau khi lên ngôi (1802). Người Nhật lớn mạnh. Con cháu Gia Long lụn bại hết chỗ nói khi Bảo Đại tự nhận: Tôi mới là con điếm đích thực (Bảo Đại hay là những ngày cuối cùng của Vương quốc An Nam. Daniel Grandclément). Lẩn tránh chỗ tử huyệt này làm sao cắt nghĩa, đánh giá đúng được Vương triều Nguyễn.
GS Phan Huy Lê và cộng sự giành quá nhiều tâm huyết cho công lao thống nhất quốc gia, xây dựng bộ máy quản lý đất nước, để lại di sản văn hóa đồ sộ của Gia Long và Vương triều Nguyễn. Vâng, tất cả đều có như thế, đúng như thế. Nhưng Vương triều Nguyễn có trực tiếp để lại cái “gói thơm thảo” đó cho các thế hệ “thần dân” hay không? Lẩn tránh chỗ này, lịch sử Việt Nam hiện đại là vô nghĩa, nếu không nói là xuyên tạc, giả dối. Bởi từ chỗ tì vết, điểm mờ của Gia Long đến Tuyên ngôn Độc lập ở Thủ đô Hà Nội, giữa thanh thiên bạch nhật, trước toàn thể quốc dân và thế giới, cả dân tộc đã phải trả giá không kể xiết, núi xương sông máu gần trọn trăm năm (1858 – 1945). Kinh tế xã hội cũng do đó mà bị chậm lại rất nhiều. Thế mà cứ khăng khăng tôn vinh công ơn của Gia Long và Vương triều Nguyễn thì có phải là một thứ sử học bất công và vô đạo hay không?
- Một số nhân vật lịch sử văn hóa như Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh… đúng rằng họ là những người có tài, thậm chí rất tài, có đóng góp ít nhiều cho sự phát triển chữ quốc ngữ, nhưng nếu nhìn toàn diện thì họ đem cái tài để phục vụ cho ngoại bang là chính. Để đồng hóa dân An Nam (Trương Vĩnh Ký), để người nước Nam quên cả Tổ quốc của mình, chấp nhận nền đô hộ của Pháp như một ân huệ của Chúa hay một Thiên Hựu… (Phạm Quỳnh). Cái tài của họ có làm đẹp cho dân cho nước hay làm trở ngại cho công cuộc rửa nỗi nhục mất nước… Lẩn tránh những tử huyệt đó mà toàn diện toàn bộ, thì sẽ hướng đạo tinh thần cho quốc dân đi về đâu?
Lòng yêu nước, hành động xả thân vì nước của Cụ Phan Châu Trinh là vĩ đại, phải kính trọng và noi gương theo Cụ. Nhưng đường lối, chủ trương cứu nước của Cụ không đúng và đã thất bại. Chủ trương “tam dân” của Cụ (khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh) mới chỉ là một giả định lịch sử, một lời hô hào của Cụ. Thực tế nó đã không thành hiện thực được. Phải giành lại độc lập tự do mới có thể khai dân trí, chấn dân khí theo tinh thần dân tộc được. Nếu không chỉ là thứ dân trí nô lệ, tay sai, cao lắm là cố tránh những việc làm có hại cho dân cho nước. Làm sao có được dân trí và dụng dân trí vào sự nghiệp ích nước lợi dân nếu dân tộc còn nằm trong vòng nô lệ. Lịch sử đã hai năm rõ mười như thế mà cứ lặp lại kịch bản Nguyên Ngọc, dẫn lại một học giả Pháp, Daniel Hémery rằng Phan Châu Trinh mới là khuôn mặt chói sáng vĩ đại nhất, lãng quên con người và sự nghiệp vĩ đại của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh mà cả thế giới đã tôn vinh là Anh hùng dân tộc – Danh nhân văn hóa… Thế là toàn diện toàn bộ ư, thưa GS-TS. Nguyễn Văn Khánh?
Cuối cùng xin dẫn ra sự tự mâu thuẫn hay là tính chất “Double mission” (Theo tạp chí Hồn Việt, số 125, bài “Chung quanh vấn đề Phạm Quỳnh”) của GS. Phan Huy Lê.
Ông nói phải vượt thoát rào cản ý thức hệ… nhưng trong thực tế ông không dám rời ý thức hệ nửa bước:
- Ông có Đề án trình lên lãnh đạo Đảng về biên soạn bộ Quốc sử do ông làm Tổng chủ biên. Từ Đề án đến thực tiễn biên soạn là quá nhanh. Các ông đang dồn sức làm cho kỳ được bộ Quốc sử. Nếu các ông tự lo kinh phí biên soạn và xuất bản bộ Quốc sử là một chuyện khác. Còn vẫn phải có câu kinh phí cho Dự án là… thì đâu phải vượt qua rào cản ý thức hệ. Và bạn đọc, và quốc dân, và những người đóng thuế cho Ngân sách quốc gia có quan tâm đến phương pháp sử học “toàn diện toàn bộ Phan Huy Lê” cũng là điều chính đáng, phải không? Vậy thì xin ông nói với các cộng sự, đừng đưa ra cái “nền tảng kiến thức” để hù dọa bạn đọc. Kiến thức của quí vị đã hơn hay bằng với Phạm Quỳnh, Trương Vĩnh Ký chưa? Kiến thức và vận dụng kiến thức đâu phải là đồng nhất!
- Ông xin được Báo cáo thành tựu nghiên cứu sử học ở Hội trường Ban Tuyên giáo dưới sự chủ trì của Trưởng Ban Tuyên giáo mà vẫn nói sử học đến nay vẫn theo phương pháp sử học thời quân chủ, đó là lịch sử của các triều đại… còn lịch sử của nhân dân thì rất mờ nhạt… Chỗ này đúng là rối như công múa trong lồng. Không ra cướp diễn đàn cũng không ra mượn gậy ông. Mà sao lại mị dân đến như thế. Hãy đến các nghĩa trang Điện Biên Phủ, Trường Sơn, Bến Dược, Côn Đảo… xem lịch sử của nhân dân mờ nhạt như thế nào? Ông có biết đá cho kiến trúc cố đô Huế, lăng mộ, bia, tượng… là phải đem từ Núi Nhồi (An Hoạch, Đông Sơn – thuộc thành phố Thanh Hóa bây giờ) vào tận Huế hay không? Xương máu của dân ở đâu khi ông cứ một chiều ca ngợi di sản văn hóa đồ sộ mà nhà Nguyễn để lại. Tấm ván chạy ngạch suốt chiều dài cung điện Thái Hòa là một tấm ván lim liền mạch, nó được xẻ ra từ một cây lim phải là cổ thụ siêu trường siêu trọng (theo nhà Huế học Phan Thuận An). Nó ở rừng sâu núi thẳm lam sơn chướng khí nào của đất Thanh – Nghệ (xưa nổi tiếng là nhiều gỗ lim), ông đã thấy lịch sử của nhân dân ở đó chưa? Thế là Giáo sư bộc lộ rằng suốt hàng chục năm nghiên cứu và giảng dạy sử học Giáo sư đã cúc cung cho sử học Triều đại mà nhạt nhẽo với lịch sử của nhân dân. Đến bây giờ mới nhận ra cũng là rất quí, muộn còn hơn không, nhưng chẳng thấy Giáo sư trong dàn sử học thời quá khứ, chỉ thấy Giáo sư tuyên ngôn ở thời Hiện tại, Giáo sư có từ trên trời rơi xuống hay không?
Về tiểu tiết, xin nêu một số:
Giáo sư khai thác thư tay của GS. Trần Huy Liệu (xem trang 164, sách đã dẫn).
Nếu “GS. Trần Huy Liệu có nguyên tắc làm việc là những thư riêng do GS tự viết thì trước khi gửi, Thư ký chép lại một bản để lưu giữ trong hồ sơ” (Mấy tư liệu mới về Lê Văn Tám, Nguyễn Huy, sđd, trg.163). Vậy cần phải đối chiếu bản Thư ký chép lại với bản chính đã gửi đi (tới Ban Khoa giáo TW). Do bản của Thư ký chép lại không có thủ bút của GS. Trần Huy Liệu xác nhận nên cần có bản đã gửi đi để đối chiếu. Nếu không có sự đối chiếu nên xếp vào mục tồn nghi, không thể xem là một bản sao có giá trị. Trong trường hợp này phải chấp nhận tình ngay mà lý chưa ngay. Tư liệu dù rất quan trọng vẫn không có giá trị chính thức. Có thể sử dụng trong nghiên cứu như là một sử liệu còn tồn nghi, chưa thể khai thác như một sử liệu chính thức được. Bài viết của GS về sự tích Lê Văn Tám mới là sự nôn nóng khoe sử liệu, chưa qua hạch sử liệu trên tầm mức của lương tri sử học để tiếp nhận lịch sử.
Nếu đã cho Lê Văn Tám là anh hùng vô danh, là truyền thuyết có cốt lõi sự thật (sau này các ông Lý Hoài Châu và nhiều vị khác ở TP. Hồ Chí Minh đã tìm hiểu, xác nhận là có thực. Xem các số về chủ đề này trên Văn Nghệ TP. Hồ Chí Minh năm 2017 và trước đó), thì không nên khai thác, nhấn mạnh rằng chuyện này là do GS. Trần Huy Liệu, Bộ trưởng phụ trách công tác tuyên truyền lúc đó, bịa ra, sáng tác ra, đặt ra. Thực ra, tên Lê Văn Tám lại xuất phát từ vở kịch của Phan Vũ. Cách khai thác của GS. Phan Huy Lê là hướng người đọc theo chiều tuyên truyền của Cộng sản, của Cách mạng đều là bịa đặt.
- Nguyễn Ái Quốc năm 1922 đánh giá Gia Long như thế và Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh năm 1947 đánh giá Gia Long hoàn toàn khác. Chúng ta chọn bề nào. Ông Tống Văn Lợi (xem trang 159-160, sđd trên) chọn năm 1922, một đoạn trong truyện ngắn “Lời than vãn của bà Trưng Trắc”, hết lời ca ngợi vua Gia Long. Chúng tôi chọn thời điểm 1947, là phù hợp, khoa học, đúng đắn hơn. Tại sao? Nếu lấy thời điểm 1922 thì tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc là bất biến, chỉ dừng lại ở đó. Chúng tôi cho rằng nhận thức, tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh từ 1922 đến 1947 là một sự phát triển liên tục. Đỉnh cao là Tuyên ngôn Độc lập năm 1945. Nếu so sánh với Bản yêu sách 8 điểm gửi tới Hội nghị Versailles năm 1919 thì thấy rõ, qua thực tiễn cách mạng, nhận thức, tư tưởng của Người ngày càng sâu sắc hơn. Nhận thức, đánh giá Gia Long năm 1922 đến nhận thức, đánh giá Gia Long năm 1947, sau khi đã viết Tuyên ngôn Độc lập (1945), Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến (1946) là một sự phát triển rất logic, rất biện chứng. Biện luận của Tống Thạc sĩ rõ ràng là một ngụy biện.
- Về Tuyên bố của Trần Văn Hữu ở Hội nghị San Francisco năm 1951 cần phải vận dụng qui luật phủ định biện chứng mới giải quyết được. Theo đó, không phủ định sạch trơn mà giữ lại những yếu tố tích cực. Lịch sử ghi nhận việc làm của Trần Văn Hữu trong bối cảnh đó và xem là tình tiết giảm khinh cho tội làm tay sai, bù nhìn cho thực dân Pháp. Trần Văn Hữu phải được đối xử như Nguyễn Cao Kỳ hay Phạm Duy sau này. Song không phải lấy tình tiết đó mà khôi phục lại cả thể chế quốc gia Việt Nam. Công, tội phải phân minh cụ thể.
- Về giá trị pháp lý quốc tế của các Hiệp định nhà Nguyễn đã ký với phương Tây của GS-TS. Nguyễn Văn Kim, Phó Tổng thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, chứng tỏ các vị rất sính các Hiệp định và rất kinh viện. Họ ký Hiệp định như thế, nhưng trên thực tế họ có tôn trọng không và công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc được hưởng lợi như thế nào từ các Hiệp định đó? Và có thể phủ nhận tuyên bố xóa bỏ mọi quan hệ với thực dân Pháp được nói đến trong Tuyên ngôn Độc lập (1945) của Chủ tịch Hồ Chí Minh hay không? Cũng cần tham khảo, trong Tuyên cáo độc lập của Bảo Đại có mục xóa bỏ mọi Hiệp ước đã ký với Pháp. Cần phải xem Hiệp định và thực tiễn. Nếu phía Pháp và Quốc gia Việt Nam thực hiện nghiêm túc Hiệp định Giơnevơ 1954 thì lịch sử đã như thế nào? Cãi lý trên văn bản giấy tờ với quân cướp nước bằng vũ khí hiện đại thì quả là một nền tảng kiến thức cao siêu lắm lắm!
Những điều chúng tôi trình bày trên chứng tỏ quan điểm lịch sử, nhãn quan lịch sử, chỗ đứng để nhìn nhận lịch sử là quyết định chứ không phải cái nhìn toàn diện, toàn bộ quyết định. Rất rõ trong trường hợp Gia Long. Chỉ thấy có một tì vết, một điểm mờ cầu viện quân Xiêm mà không thấy tham vọng vương quyền, tâm lý thỏa mãn khi giành được vương quyền liền đóng cửa quốc gia, củng cố quyền lực thống trị và hưởng thụ cung cấm đền đài lăng tẩm… Cái hãm địa của kinh đô Huế đã kìm hãm lịch sử dân tộc. Vương triều Nguyễn đã không chịu thừa kế Chiếu dời đô (Lý Thái Tổ), Hịch tướng sĩ (Trần Hưng Đạo), Cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi)… Họ nhất nhất noi theo Thiên Triều và kết cục ở vị Hoàng đế của săn bắn, sòng bạc, hộp đêm và gái nhảy: Chính tôi (Bảo Đại) mới là con điếm đích thực!
Đó là con đường lịch sử của Vương triều Nguyễn, rất dễ dàng nhận ra, thưa Phan sử gia đáng kính.

Hà Nội, tháng Năm lịch sử,
Năm Mậu Tuất – 2018


Quan Văn Đàn
Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số 499

Wednesday, 4 July 2018

Nhân vật Chợ Lớn: Bá hộ Xường, Quách Đàm và Tạ Mã Điền (Nguyễn Đức Hiệp - Hiệp's Blog)

Nhân vật Chợ Lớn: Bá hộ Xường, Quách Đàm và Tạ Mã Điền




Lịch sử thành phố Chợ Lớn gắn liền với thương mại mà ở thế kỷ 20 xuất hiện các nhân vật đặc biệt. Các doanh nhân này đã để lại dấu ấn ít nhiều trong ký ức người dân Saigon-Chợ Lớn không những về phương diện kinh tế mà còn văn hóa xã hội. Một số các tư liệu mới cho phép ta biết thêm về các nhân vật này trong đó có ông Lý Tường Quan (Bá hộ Xường) và gia đình, ông Quách Xiêm Chi (Quách Đàm) và ông Tạ Mã Điền.
Bá hộ Xường và gia đình
Gia tộc họ Lý bắt đầu từ ông Lý Sáng Công (1781-1855), tên tự là Lý Sáng Ế (hay Ái), người Hoa từ Quảng Đông đến miền Nam lập nghiệp và lấy vợ Việt là bà Trần Thị Thơ mất năm 1855. Lý Sáng Công sống ở Chợ Lớn (tức Saigon lúc bấy giờ được gọi) đầu thế kỷ 19. Ông được người con thứ ba của ông là Lý Tường Quan (1842-1896) an táng ở khu mộ nay là khu một tổ gia đình họ Lý ở khu đất phường 12, Quận 5 ở góc đường Nguyễn Chí Thanh và Ngô Quyền phía sau cây xăng 147 Nguyễn Chí Thanh ngày nay. Ông Lý Tường Quan do có tài và thành công trong thương trường được bầu là bang trưởng bang Triều Châu ở Chợ Lớn và người dân thường gọi ông là Bá hộ Xường.
Chủ đất lúc đó là Lý Thanh Huy (1864-1915), con của ông bá hộ Xường Lý Tường Quan. Khu mộ đất này cũng được gọi nôm na là “khu nhà thờ Xóm Bột”. Ông Lý Văn Mạnh (1884-1937), con của ông Lý Thanh Huy thừa hưởng chủ quyền đất. Sau này khi ông Mạnh mất, người em là Lý Thị Lài (1910-1989, cháu nội bá hộ Xường Lý Tường Quan) là người trông coi khu nhà thờ Xóm Bột sau khi bà về đây ở vào khoảng năm 1948. Khi ông bà Lý thị Lài mất, con ông bà là Trần Lý Trí hiện nay được gia đình họ Lý giao giữ gìn khu mộ này. Trưởng tộc họ Lý ngày nay là ông Lý Toàn Anh (cháu nội Lý Tường Quan) là cán bộ hưu trí vẫn còn sống cư ngụ tại 260 Nguyễn Chí Thanh.
Bá hộ Xường khi còn sinh thời cư ngụ ở trung tâm Chợ Lớn cạnh rạch Chợ Lớn, nay là 292 đường Hãi Thượng Lãn Ông. Nhà của ông cũng không xa ngôi nhà đồ sộ của một người Minh Hương khác là ông Đỗ Hữu Phương (nay là đường Châu Văn Liêm) gần đó và nhà và trụ sở công ty của ông Quách Đàm (114 quai Gaudot). Căn nhà cổ này (nay là Từ đường họ Lý) đã được xếp hạng là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp thành phố vào năm 2009. Gia đình ông bá hộ Xường có nhiều nhà cửa ở Saigon-Chợ Lớn.
Ông mất năm 1896, được an táng ở Phú Thọ Hòa, Tân Phú, khu mộ này nay vẫn còn. Ông là người thông minh lanh lợi, được viên sĩ quan hải quân trẻ người Pháp Albert Gaudot dùng làm thông dịch viên sau khi Gaudot được giao trách nhiệm quản lý thành phố Chợ Lơn năm 1863. Gaudot cũng là sĩ quan tham gia trận đánh đồn Kỳ Hòa năm 1861. Khi Gaudot mất vì bệnh ở Côn Đảo, bến dọc rạch Chợ Lớn được đắt tên là quai de Gaudot (sau này lấp thành đường khổng Tử và nay là đường Hãi Thượng Lãn Ông)
Tất cả các cơ ngơi của ông Lý Tường Quan để lại cho các con ông. Một trong những người con của ông là Lý Thành Huy. Ông Huy tiếp tục con đường kinh doanh của người cha. Theo nghị định đăng trên Bulletin official de lIndochine française năm 1894 (1) cho phép ông Lý Thành Huy (1864-1915) xây lại nhà ở số 3, làng Nhơn hòa, xã Tân Hòa, trên đường lộ 3 (route colonial no. 3, quai de Mytho, nay là đại lộ Võ Văn Kiệt) và xây một cầu qua hố ở bên phải đường, để vô nhà dễ dàng. Nghị định cũng cho phép ông xây lấp hố trên đường số 4 trước nhà ông trên đường Boresse.
Theo nghị định ngày 4 tháng 1 1897 của Phó soái Nam Kỳ (lieutenant-gouverneur), ông Nguyễn Kim Thinh thay thế Lý Thanh Huy, vì ông Huy từ chức chức vụ thông ngôn của mình (2). Một nghị định sau đó ngày 16 tháng 12 1897 cho phép ông Lý Thanh Huy xây lại các nhà trên lô đất ở giữa cột mốc 96 và 97 trên đường lộ 3 ở quai de Mytho (3). Điều này chứng tỏ sau khi từ chức ông Huy tham gia vào các hoạt động thương mại xây địa ốc nhiều hơn vì trước đó ông đã có làm ăn trong thương mại như xây nhà 64 rue de Cai-mai (Nguyễn Trãi ngày nay) và các nhà của ông ở quai de Mytho theo giấy phép ngày 24/12/1895 của chính quyền (4).
Theo văn bia trên mộ của ông có ghi một số thông tin về ông Lý Tường Quan như sau (5)
“Ông Nguyên gốc người tỉnh Quảng Đông, huyện Phiên Ngung thuộc đời thứ 26 phái Cửu Viễn đường họ Lý, tên là Lý Tường Quan, hiệu là Phước Trai, sanh tại thôn Nhơn Hòa (Gia Định) vào năm 1842, lúc mới sanh có “hồng hoa bao để” (đẻ bọc điều) nên đặt tên là Tường Quang.
Thuở nhỏ, làu thông sách vở, trọn đạo hiếu để. Khi lớn lên giữa lòng trong sạch, ra sức làm việc, trên thuận dưới hòa, chăm lo đọc sách, lại phàm việc bắn cung cởi ngựa, viết chữ bói toán, cầm kỳ thi họa đều lảo thông. Thoạt đầu là Bang trưởng bang Triều Châu, khi Pháp đến cử ông làm bang trưởng 7 bang Hoa kiều, kiêm thông dịch cho người Pháp – việc thành lập 25 Hộ trưởng trong đô thành đều do công sức của ông. Sau đó ông về trí sĩ, lo việc buôn bán. Người Pháp nhiều lần mời mọc ông tham gia chính quyền nhưng ông đều từ chối. Tiếp đó, ông nghỉ việc buôn bán, bỏ ra 20 năm đầu tư vào việc xây chợ, bắc cầu, xuôi ngược khắp nơi, vang tiếng một thời.
Đến năm 1896 ngày 21 tháng 10, đang truyện trò cười nói như thường, bỗng nhiên kháng bệnh, rồi mất …”
Theo ông Võ Văn Sổ, ông bá hộ Xường không những giỏi trong thương trường, ông còn là một người có học biết nhiều. Ông bá hộ Xường (Lý Tường Quan) còn để lại ít nhất 3 tựa sách in ở Quảng Đông mà ông là tác giả (Phiên Thành Phước Trai tiên sinh): Ấu học thi diễn nghĩa, Thiên tự văn diễn nghĩa. Tam tự kinh diễn nghĩa. Nội dung thiên về giáo dục, viết bằng chữ Hán và dịch ra Nôm theo thể văn thơ.
Quách Đàm
Trong số các thương gia tiêu biểu giàu có và nổi tiếng đầu thế kỷ 20 ở Saigon và Chợ Lớn, ngoài ông Bá hộ Xường là các ông Tạ Mã Điền, Quách Đàm. Tạ Mã Điền gốc người Phúc Kiến từ Java, thuộc địa Hòa Lan) trong khi Quách Đàm là người gốc Triều Châu từ Trung Quốc, cả hai đến Chợ Lớn lập nghiệp, buôn bán và thành công vượt bực làm chủ các nhà máy xay lúa, địa ốc, các cơ sở làm ăn trong Chợ Lớn trong thập niên 1920. Họ định cư và coi Việt Nam là quê hương thứ hai của họ.
Như nhiều thương gia ở Chợ Lớn, Quách Đàm có liên hệ với các thương gia ở Singapore trong đó có ông Tan Eng Kok (Trần An Quốc). Trong một thông báo đăng trên báo “The Singapore Free Press and Mercantile Advertiser” ngày 24 April 1923, trang 5 (8), luật sư. A. De Melo, của công ty “Société Thong Hup Nguyen Seng”, và các ông Trần Chiêu Vinh và Quách Đàm (viết theo tiếng Anh là Kwek Tam hay Kwek Siew Tee) đã tuyên bố rút lại các giấy tờ ủy nhiệm quyền đại diện của công ty ở số 80 Boat Quay, Singapore cho ông Trần An Quốc (Tan Eng Kwok cư ngụ tại số 80 Boat Quay) và ở 192 New Bridge Road, Singapore từ các năm 1920, 1921. Công ty Thong Hup (Thông Hiệp) chính là công ty của ông Quách Đàm.
Ngoài tên Kwek Tam (Quách Đàm) hay Kwek Siew Tee (Quách Xiêm Chi) phiên âm ra tiếng Anh, Quách Đàm có thể còn có các tên khác phiên âm qua tiếng Anh. Điều này thường thấy ở người Hoa giàu có, mang các quốc tịch khác nhau như một bài viết trên báo “The Singapore Free Press and Mercantile Advertiser” (4/8/1899) (9) cho biết là tờ báo “Le Mekong” ở Saigon đã có bài than phiền là nhà chức trách Pháp đã quá dễ dàng cho những thương gia giàu ở Chợ Lớn, Nam Kỳ được có quốc tịch Pháp. Và chính những người này cũng đã có quốc tịch khác như Anh, Hòa Lan với các tên khác. Khi ở Nam Kỳ thì họ dùng quốc tịch và tên Anh để dễ làm ăn và có đặc quyền mà lãnh sự Anh có qui chế cho các kiều dân của họ, và ngược lại khi ở các thuộc địa Anh thì họ dùng tên trên giấy tờ quốc tịch Pháp.
Ngoài câu nói “Nhất Sĩ, nhì Phương, Tam Xường, tứ Định” để chỉ các nhân vật giàu có ở Saigon-Chợ Lớn, còn có câu nói riêng về các người Hoa giàu có ở Saigon-Chợ Lớn là “Nhất Hỏa, nhì Đàm, tam Xường, tứ Ích“, cho thấy Quách Đàm là nhân vật Hoa kiều thứ hai sau chú Hỏa về cơ sở thương mại và sức mạnh kinh tế. Trụ sở của nhà buôn Quách Đàm nằm ở bến Quai de Gaudot cạnh rạch Chợ Lớn (sau này khi rạch lấp, Quai de Gaudot trở thành đại lộ Boulevard Gaudot, sau thời Pháp là đường Khổng Tử và nay là Hãi Thượng Lãn Ông). Tòa nhà này hiện nay vẫn còn.
Theo Vương Hồng Sễn (6) thì về sau Quách Đàm rất giàu có, và khi mất,
“Khi Quách Đàm chết, đám ma lớn không đám nào bằng. Bàn đưa không thể đếm. Đủ thứ nhạc Tây, Tàu, Ta, Miên… Khách đi dường có việc, miễn nối gót theo đám ma vài bước là có người lễ phép đến dâng một ly nước dừa hay la ve (bia) và riêng tặng một quạt giấy có kèm một tấm giấy “ngẫu” (năm đồng bạc) đền ơn có lòng đưa đón! Quách Đàm được chôn ở gần chùa Giác Lâm giáp ranh Chợ Lớn và Gia Định” (6)
Cũng theo Vương Hồng Sễn thì tương truyền Quách Đàm rất mê tín, tin phong thủy được thầy bói Tàu nói là nơi trụ sở bến Gaudot là nơi “đầu một con rồng” mà khúc đuôi nằm ở biển cả. Vì thế Quách Đàm không bao giờ đổi trụ sở dù là nhà mướn, đi nơi khác sau khi rất giàu có thành công trên đường làm ăn. Nên khi xảy ra sự việc lấp kinh thành đường thì ông tin rằng cơ sản làm ăn lụn bại vào lúc thời khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 là do việc lấp kinh Chợ Lớn này (6). Tuy vậy, Vương Hồng Sễn đã sai lầm về dữ kiện này vì thật ra Quách Đàm đã mất từ năm 1927.
Hai nguồn thông tin mới mà chúng tôi cập nhât thêm về con người và thân thế Quách Đàm đó là hai bài báo đăng ở nhật báo Le Journal phát hành ở Paris và tờ báo Écho Annmite ở Saigon đăng lại bài trên báo L’Impartial nói về đám tang của Quách Đàm.
Trong bài báo tựa đề “Le Bouddha de la richesse“, đăng ở tờ nhật báo “Le Journal” xuất bản ở Paris ngày 18 tháng 7 1927 có đăng bài của phóng viên Georges Manue về cuộc đời và đám tang của Quách Đàm cho biết nhiều chi tiết về con người Quách Đàm (11). Mắc dầu ông bị liệt giường bất động từ nhiều năm trước khi mất, nhưng đầu óc vẫn minh mẫn và ông vẫn tiếp tục điều khiển công việc làm ăn từ giường nằm. Bài báo này cũng cho biết, Quách Đàm từ một người bước xuống Chợ Lớn từ trong hầm tàu đi ra trên tàu khởi hành ở Hồng Kông, trên tay hoàn toàn không có gì mà chỉ không bao lầu ông đã trở thành đại phú đến hai lần.
“…
Lúc thuở ban đầu, ông làm bồi, cu li, bán súp hủ tiếu, tiểu thương kiếm lời từ xu đến chủ tiệm sang trọng, một nhà doanh nghiệp khôn khéo và biết bao nghề khác đã mang lại cho ông một tài sản khổng lồ mà chỉ trong vòng vài giờ ông đã mất hết trong trò chơi thương mại mà trước đó đã phục vụ ông rất tốt.
Hôm qua giàu, sáng nay nghèo giống như ngày ông từ Hong Kong ở trần từ hầm tàu bước xuống Chợ Lớn, ông không một mảy may tuyệt vọng, hay nao núng.
Nghèo tiền, nhưng giàu kinh nghiệm. Cũng chịu cực,cũng trau chuốt, cũng mềm dẽo từ một tinh thần dày dặn như trước kia, chỉ trong vòng 20 năm ông đã làm lại sự nghiệp và vượt quá đến nổi đã làm ngạc nhiên nhiều người Âu khi ông có cả chục triệu tiền piastres nhân lên 12 hay 13 lần để chuyển thành tiền franc

Ông làm ra tiền chỉ vì mê trò chơi thương trường. Ông có nhiều ruộng lúa và nhiều nhà may xay xát. Ông có cả ngàn hec ta cao su, trước khi cao su trở thành mốt làm ăn, và cả đất trồng trà, cà phê và một dội tàu thương mại đi các cảng Singapore, Hồng Kông.
Ông đứng đầu cả trăm tiệm, cơ ngơi thương mại, và điều khiển nhiều chục công việc, xây dựng nhiều khu hoàn toàn mới Nước Pháp đã tặng ôn huy chương Bắc đẩu bội tinh mà ông lấy đó làm hảnh diện.
Trong nhiều ngày thi hài đã dược đặt dưới tán lều để tất cả Chợ Lớn- từ điền chủ và nhà thương mại đi bằng 40 con ngưa đến các cu-li bụng trần – đến cúng viếng. Ngồi hàng dài, mặc đồ tang trắng là các con ngồi bất động, nhận chia buồn và phúng điếu của bá tánh.
Đám tang không những làm ngạc nhiên đối với người Hoa, với họ không hoành tráng nào là đủ, và người Việt, kém xa hoa hơn, mà ngay cả người Âu.
Hai ngàn cờ hiệu bằng lụa, hình chữ nhật dài 3 m và ngang 2m, màu hồng, sám, xanh da trời, vàng và xanh lá cây được trang hoàng bằng những chữ vàng, ca ngợi công đức của người đã mất. Gió làm chúng phồng lên như cánh buồm con tàu có gân vàng, những người mang chúng – dân Chợ Lớn – già có thể được như vây và trẻ ngày mai muốn trở thành Quách Đàm, lưng tròn bám vào các cột tre xanh\. Để người mất không phải bị đói ở thế giới kia, cả trăm cu-li mang trên kiệu những hàng kiến trúc hoa quả đáng phục, các kim tự tháp rau quả, các ma quỷ tạc vào bí rợ hay trái ớt, các con rồng được mô hình trên các trái cây đẹp mắt, và món để dành cao vị nhất là mười con heo to lớn, `mg dài trên đệm bằng giấy, bụng chúng mổ ra, mỏm chúng nướng đỏ tươi sáng\. Những “biểu tượng bề ngoài cho sự giàu có” đi trước xe tang: một xe hơi, lộng lẫy tự nhiên, làm giống y như xe hơi của người đã khuất, xe kéo, xe ngựa buộc vào hai con ngựa kéo nhún nhẩy, và sau cùng một con tàu dài hai thước mang cờ hiệu Pháp-Hoa, một công trình tuyệt vời bằng giấy, bằng giây sắt và lụa mà những người nghèo khó mang rất tự hào trên vai trần của họ
Trước xe tang là thập tử Bắc đẩu bội tinh cao như người bằng giấy cạt tông (carton) do một người cầm trên hai tay.
Xe tang là xe vận tải camion trang trí đầy hoa và quả, ngay trước xe là di ảnh chụp của ông Quách Đàm, trang trọng một cách tự nhiên đầy uy quyền, mĩm cười và trên ngực là các huy chương
Quan tài bình thường nhưng bằng gỗ quý. Đằng sau là 50 xe hơi sang trọng, thuộc tinh hoa của Chợ Lớn, theo sau
Đám tang kéo dài hai tiếng với âm nhạc lạ kỳ.
Dân chúng người Hoa ở đầy vĩa hè, các cửa sổ, trên các cành cây, trên nóc nhà xem đám tang đầy cảm phục nhưng không ngạc nhiên.
Sự đau buồn, không có một dấu hiệu nào ở những người mà cái chết không đáng sợ gì khi mà người đó không còn buộc các con tưởng nhớ họ
Người hướng dẫn viên nói tôi “Anh thấy đó, đây là một bằng chứng mà người Hoa có thể làm được khi mà họ sống dưới một chính phủ vững vàng bảo đảm được an ninh cho họ làm ăn”

Quách Đàm mất ngày 14/5/1927, thọ 65 tuổi. Cáo phó đăng trên tờ Écho Annamite (Tiếng Vọng An Nam) (1) ngày 18/5/1927 (7) như sau
“Avis de décès
Madame Quach-Dam; Monsieur Quach-Khoi ; Monsieur Quach-Tien ; Monsieur Quach-Chi; Monsieur Quach-Hoc ;
Ont la douleur de vous faire part de la perte cruelle qu’ils viennent d’éprouver en la personne de leur époux et Père
Monsieur QUACH-DAM,
Négociant-Industriel, Chevalier de la Légion d’Honneur, Chevalier de l’Etoile Noire, Chevalier de l’Ordre royal du Cambodge,
Décoré par le Gouvernement Chinois de l’Ordre de Chiaho,
décédé le 14 Mai 1927, dans sa 65è année, en son domicile, 114, Boulevard Gaudot, à Cholon.
Les cérémonies rituelles auront lieu les Samedi et Dimanche 21 et 22 Mai courant.
Vous êtes prié de bien vouloi assister au convoi funèbre, qui partira de Cholon, le Dimanche 29 Mai, à 8 heures du matin.

(tạm dịch
Cáo phó
Bà Quách Đàm, ông Quách Tiến, ông Quách Chi, ông Quách Hộc;
Đau đớn báo tin về sự mất mát lớn lao của chúng tôi là chồng và cha chúng tôi
Ông QUÁCH ĐÀM,
Thương gia, kỹ nghệ gia, huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh hạng hiệp sĩ, huân chương Sao Đen hạng hiệp sĩ (của nước Phi Châu Dahomey tức Benin ngày nay), huân chương hiệp sĩ Hoàng gia Cam Bốt.
Được thưởng bởi chính phủ Cộng Hòa Trung Hoa huân chương Chia Ho
Đã từ trần ngày 14 tháng 5 1927, thọ 65 tuổi tại tư gia ở số 114 đại lộ Gaudot, Chợ Lớn.
Nghi lễ đám tang sẽ được tổ chức vào ngày thứ bảy và chủ nhật 21 và 22 tháng 5 1927.
Chúng tôi kính cẩn mời quý ông quý bà đến giúp đỡ đưa tiễn đoàn đám tang, rời Chợ Lớn lúc 8 giờ sáng ngày chủ nhật 29 tháng 5.
)
Đám tang Quách Đàm thật là đình đám, khởi hành từ nhà ông đến nghĩa trang Phú Thọ. Tờ Écho Annamite (Tiếng Vọng An Nam) ngày 31/5/1927 (8) đã có bài phóng sự về đám tang Quách Đàm như sau, đăng lại từ báo “l’Impartial” (Trung Lập). Qua bài phóng sự này về đám tang đầy nghi thức Trung Hoa, được hảng phim Indochine Films quay, khen ngợi công dân nhập tích Pháp là ông Quách Đàm, chúng ta cũng biết được tên thật của Quách Đàm là Quốc Triệu Chí (chú thích tác giả: thật ra là Quách Xiêm Chi) và thi hài ông được cải tang mang về Hồng Kông.
Lời nói đầu của báo Tiếng Vọng An Nam, phía trên bài phóng sự trích dẫn từ báo l’Impartial cho thấy quan điển của tờ Tiếng Vọng An Nam là dung bài này để chống lại sự ngụy biện của chính quyền lúc bấy giờ về sự từ chối của chính quyền cho quốc tịch Pháp nhiều người thấm nhuần văn hóa Pháp còn nhiều hơn Quách Đàm và xứng đáng hơn, viện dẫn lý do là họ vẫn còn có văn hóa khác không xứng đáng.
Đám tang Quách Đàm
“Chợ Lớn hôm qua đã làm một lễ tang hoàn tráng cho ông Quách Đàm.
Sau bình minh, đại lộ Gaudot đã đen nghẹt kín người. Nhiều xe hơi đến rất khó khăn di chuyển. Nhiều hàng rào đã được thiết lập liền sau đó bởi một lệnh phục vụ công cộng quan trọng do ông Massei, ủy viên trung ương, điều hành được trợ giúp bởi ông Costa, phó ủy, ông Pétra, thuộc sở kỷ thuật cu/a thành phố Chợ Lớn, v.v…
Những sữa soạn cuối cùng
Trên đại lộ, hai nhà tranh to lớn được dựng lên, một gian để chứa các đồ quan trọng mà khi chôn cất một người Hoa giàu luôn phải có, gian kia bên ngoài giăng các vãi đen và trắng và bên trong là quan tài và rất nhiều băng hiệu vòng hoa (có hơn 1500) đến từ khắp mọi nơi ở Nam Kỳ và một số từ Bắc Kỳ, Cam Bốt và cả Trung Hoa nữa.
Các toán cu-li khuân vác rối rít chung quanh xe tang và đủ loại xe đưa đám. Đằng trước đoàn, chúng tôi để ý một xe mang một ảnh lớn của người đã khuất, bàn thờ tổ tiên và hai xe khác mang đầy loại giấy linh thiêng và các loại biểu tượng khác đủ loại\.
Không lâu sau đó, ở chính giữa một đám đông chật kín, quan tài nặng được mang ra ngoài. Một ban nhạc An Nam khởi xướng âm nhạc, các cồng phát ra tiếng đau buồn. Ban quân nhạc bản sứ dưới sự điều khiển của ông Perulli, đứng thẳng hàng trước xe tang. Thi hài người đã khuất được đặt trong quan tài làm bằng chì, quan tài này được bao chung quanh bởi một quan tài khác rất cao làm bằng gỗ quý, tất cả đều được phủ bởi nhiều vãi. Hai ngọn đèn to lớn ở phía trên cháy chầm chậm. Một toán quân lính, lấy từ Đại đội Chợ Lớn của binh đoàn 1 lính khố đỏ (Tirailleurs Annamite), do trung úy Monnet chỉ huy, đứng vào vị trí để làm vinh dự, vì người đã khuất là hiệp sĩ Bắc Đẩu Bội Tinh.  
Sau đó, trong lúc người quay phim của hảng Indochine Films chăm chú quay, quan tài được mang lên xe tang, hoàn thành hết các thủ tục cuối cùng. Rất nhiều quan khách bắt đầu đi tiến dồn vào.
Rất có phương pháp trật tự, các cờ hiệu đã được đánh số kỹ lưỡng, đi chậm rãi trên đường Lareynière (Lương Nhữ Học ngày nay) và đường rue des Marins (đường Thủy Binh, sau này là Đồng Khánh và nay là Trần Hưng Đạo nối dài), cũng như vô số vòng hoa, bó hoa và ngay cả các thú vật đẹp đẻ làm bằng hoa.
Tất cả thành viên gia đình trong đoàn tang, chịu tang, đàn ông mặc áo dài trắng, đầu phủ một loại mũ khá lạ rất chắc màu nâu đỏ, hay xanh da trời đậm nếu là họ hàng xa. Tất cả những người công bộc giúp việc cũng trong bộ đồ tang, màu xanh lợt và đàn bà thì màu đen.
Bây giờ đến những biểu tượng cuối cùng: hai xe kéo được trang hoàng rất cẩn trọng, một vài xe ngựa làm rất giống như thật, một tàu kéo sà lúp (chaloupe) hơi nước – thể hiện là người đã khuất là chủ tàu và các xe rất thành công. Ở chính giữa rất nhiều những vật như vậy là một cái kiệu nhỏ làm bằng lụa vang và xanh da trời, ngay trước xe tang, và dưới kiệu là một cái gối dựa màu đỏ sậm trên đó có gắn 10 huy chương của người đã khuất, với huy chương chử thâp Bắc đẩu bội tinh ở hàng đầu. Kiệu này được cung kính khiêng cho đến nghĩa trang bởi những người thân nhất của người đã khuất.
Trong lúc đó, nhiều người nói chuyện. Những người lớn tuổi ở Chợ Lớn cho những người trẻ, hay những người khác chưa biết về cuộc đời lao lực tân tâm và những hoạt động phi thường của ông Quách Đàm, từ hơn 40 năm ở Nam Kỳ, bắt đầu từ một tình huống tầm thường khiêm tốn, nhưng nhờ nghị lực chuyên tâm rất hiếm, đã thay đổi vận mệnh. Ban đầu là tiểu thương, sau đó buôn bán gạo, rồi chủ tàu, buổi đầu của chiến tranh thế giới 1914 đã phá sản hoàn toàn sản nghiệp rất lớn của ông. Ông không bì sóng đánh chìm mà trở lại thành công còn hơn trước.
Nhưng lúc nào cũng nghĩ đến thuở hàn vi, và mặc dầu do bịnh liệt từ 10 năm, hạn chế trầm trọng hoạt động của ông, ông đã chịu đựng can đảm cho đến phút cuối cùng, vẫn biết giúp đỡ ủy lạo làm nhẹ bớt sự khốn quần trong xã hội, luôn hổ trợ các bệnh viện, trường học và các hội thợ thuyền, và không bao giờ thờ ơ đến sự đau khổ của người khác cũng như công việc cu/a mình.
Đoàn đám tang
Hiển nhiên chính là để tỏ lòng kính trọng cuối cùng đến tất cả các đặc tính xuất sắc rực rỡ này mà rất nhiều nhân vật Saigon và Chợ Lớn đã hiện diện sáng hôm qua, sau 7 giờ rưỡi chung quanh quan tài.
Chúng tôi nhận thấy những nhân vật, mà ngòi viết không viết hết đầy đủ được, ông Gazano, thị trưởng Chợ Lớn; ông Lefèvre, thị trưởng Saigon; ông Merle, tổng thư ký thị sảnh Chợ Lớn ; ông Thomas, giám đốc Hảng rượu Bình Tây (Distilleries de Binh Tay) ; ông Levillain, des Services du Port; những hội viên cu/a Phòng thương mại người Hoa (Chambre de Commerce chinoise); ông Brandela, của nhà Bank Đông Dương (Banque de l’Indochine) ; bà Lasseigne và Soulet, của Banque Franco-Chinoise ; bác sĩ Massias, bác sĩ trưởng bệnh viện Hôpital Drouhet, và phu nhân; bác sĩ Pradal ; ông André, trưởng phòng tòa thị sảnh Chợ Lớn: ông Kerjean, thư ký tòa án; ông Dété, quản trị viên công ty Société Commerciale ; ông Mathieu ; ông Béziat ; ông Gonon; ông Cavillon và hầu như tất cả thương kỹ nghệ gia ở Saigon và Chợ Lớn; Dr Ferrey, bác sĩ hải quân ; ông Magnien giám đốc đường lộ ; bà hiệu trưởng trường nữ sinh Chợ Lớn (Ecoles de filles de Cholon) ; ông Denome, kỹ sư ; ông Robert, hiệu trưởng trường lycée Franco-Chinois ; đoàn đại biểu báo chi Hoa ngữ ở Nam Kỳ, tất cả các bang trưởng các bang người Hoa và rất nhiều trưởng các khu phố, ông Autret, giám đốc L’U. C. I. A. ; ông Scotto, cu/a công ty Société Commerciale française d’Indochine; đoàn đại biểu nhân viên phòng Thương mại ; ông Caffort ; ông Poulet, của công ty Courtinat ; giám đốc nhà máy cung cấp nước và điện (Usines de la Cie les Eaux et Electricité) : ông Génis, công ty Denis Frères, các đại diện Hải quân, Sở Y tế etc. etc.. và rất nhiều các nhân vật khác mà chúng tôi xin lỗi là không nêu tên hết được vì một cột báo không đủ và cũng rất là khó khăn, hôm qua, đi được nhanh khắp nơi để ghi nhận.
Hành trinh cuối cùng
Nhưng lúc này là 8 giờ.
Ba người con trai của người đã khuất, trong y phục tang trắng, đến đứng sau xe tang, cũng như các con dâu, cháu và những họ hàng, mỗi người được hổ trợ diều đi bởi hai người giúp việc, ở đây không có những người “khóc mướn” chuyên nghiệp.
Một lệnh ngắn được ra: sửa soạn nghim. Kê đó là tiếng lệnh mạnh mẽ: gác súng lên. Những nốt nhạc đầu tiên của bài La marche funèbre của Chopin, được chơi bởi Ban quân nhạc bản xứ, và từ từ, đoàn đám tang bắt đầu di chuyển.
Thời tiết lúc đầu thì bất định, lúc này thì lại sáng hơn chút. Một vài tia sáng mặt trời ấm xuất hiện chỉ trong chốc lát.
Trước xe tang, các cờ hiệu nối nhau như tranh vẽ một dãi lụa nhiều màu sắc dài đến gần 2km, chỉ có màu đỏ, màu của sự vui mừng là không có thôi; vãi lụa bóng sáng khắp nơi, ca tụng những công trạng của Quốc Triệu Chi – tên thật của ông Quách Đàm – với tất cả sự hối tiếc giữa những người Hoa ở Đông Dương về sự ra đi của ông.
Không tránh khỏi có vài lúc đi rồi lại phải dừng, đoàn đám tang đi trong lộ trinh đã định sẵn: đường rue Lareynière (Lương Nhữ Học), rue des Marins (đường Thủy binh, nay là Trần Hưng Đạo nối dài), avenue Jaccaréo (Tản Đà), quai de Mytho (bến Lê Quang Liêm, nay là đại lộ Võ Văn Kiệt), quai de Gaudot (nay là Hãi Thượng Lãng Ông), rue de Canton (Triệu Quang Phục). quai de Mytho — trở lại lần nữa — và rue de Paris (Phùng Hưng)..
Kế đó, từ đại lộ Tổng Đốc Phương (Châu Văn Liêm ngày nay) và đại lộ Thuận Kiều, đám tang đi chậm rãi đến nghĩa trang Phú Thọ.
Tất cả cờ hiệu lóng lánh, lung linh dưới ngọn gió hay dưới sự ve vuốt của mặt trời, tạo nên một quang cảnh rất ấn tượng. Chợ Lớn, ngày thường thì rất ồn ào, nhưng lúc này thật yên lặng, dường như bị rơi vào trạng thái sững sờ. Tất cả mọi người muốn xem, nhưng không có tiếng kêu than, hay xô đẩy chen lấn. Ông Quách Đàm ngay cả lúc mất vẫn luôn tạo một sự kính trọng !.
Một vài ban nhạc An Nam hay Trung Hoa, xen kẻ trong đoàn rước tang. Sáo, cồng, trống và đờn kéo được thay phiên nhau dạo lên. Trên nhiều cáng khiêng, có các con heo rô ti hay phết bóng, con dê, trái cây, bánh, hai con heo bụng mổ, đồ cúng, giấy bùa ngãi linh và những hình tượng khác. Tất cả những thứ này đi rất thứ tự và trong yên lặng dọc theo bến quai de Mytho, rue de Paris (đường Phùng Hưng) giữa sự kính trọng của người dân.
Sau gia đình và những nhân vật như đã kể trên, nhiều đoàn thể quan trọng cũng đi trong đám tang. Đây, trước tiên là học sinh trường tiểu học Nghĩa An, trường Văn hóa thể dục, và nhiều trường nữ, và đại diện cu/a rất nhiều nghiệp đoàn công nhân, mà ông Quách Đàm là người ân nhân bảo trợ: ngiệp đoàn Tiên Quan, nghiệp đoàn Won Quan, nghiệp đoàn Lit-Yut, nghiệp đoàn Đức Hòa, nhóm quan trọng có thế lực là nghiệp đoàn Si-Trac (công nhân rơm sợi) và nghiệp đoàn Si-Koc với ban nhạc của họ. Tất cả mọi người mặt đồ trắng biểu hiệu tang lễ hay đồ màu sám “quốc gia”, với các huy hiệu và hoa gắn ở lỗ nút áo, đứng chung dưới các băng rôn to lớn hay các cờ hiệu, mà đặc biệt trong đó có một cờ hiệu gây sự chú ý với hàng chữ “kính chào lần cuối từ tất cả nghiệp đoàn ở Chợ Lớn”.
Đúng vậy, cái chết không tha ai kể cả những người may mắn có tài. Ở Phú Thọ, lúc rất trễ gần đến hết buổi sáng, dưới bầu trời âm u, sau khi chôn cất còn có quan tài thứ ba đợi lúc bóc xác ông Quách Đàm. Bởi vì trong một năm, sau khi “hết hạn cơn gió lốc”, người Tàu giàu nhất ở Chợ Lớn sẽ lại lên đường đi Hồng Kông, để đến nơi an nghĩ thật sự vĩnh viễn ở đất tổ tiên và cuối cùng, sau một cuộc đời thật trọn vẹn, hưởng sự bình yên tuyệt đỉnh mà đức Phật đã hứa hen và đạt được hạnh phúc trong cõi Niết bàn”
Một chi tiết đáng để ý là theo bài nói về câu chuyện giữa hai ông Celestin Miche và ông Jean Boudot do ông Nguyễn Phan Long viết trên tờ Tiếng Vọng An Nam số ngày 4/6/1927 (9) khi hai ông này dự đám tang Quách Đàm và tranh luận về các nghi thức văn hóa người Hoa có hợp hay không với vị trí công dân Pháp của Quách Đàm. Trong đó Bouchot và Miche được đưa phong bì có tiền sau khi thăm viếng. Bouchot muốn từ chối nhưng Miche nói đó là phong tục của họ thì phải theo như nhập gia tùy tục. Dữ kiện này cũng phù hợp với dữ kiện mà ông Vương Hồng Sễn có viết là mỗi người dự đám tang Quách Đàm đều nhận được tiền.
Con trai trưởng Quách Đàm là Quách Khôi cũng mất sau đó vào năm 1929, đám tang Quách Khôi cũng đình đám và lần này có phi công, ông Poulet tham dự và đặc biệt một phi cơ của công ty “Air-Asie” vừa mới sáng lập, bay trên doàn đám tang và thả bông hoa xuống (14)
Ba năm sau khi ông Quách Đàm mất, báo Tiếng Vọng An Nam số ngày 17/3/1930 có bài phóng sự về buổi khai trương tượng Quách Đàm làm bằng đồng và bồn nước trong sân vào của chợ Bình Tây ngày 14/3/1930 với sự hiện diện của bà Quách Đàm, các con Quách Tiêu, Quách Thi, Quách Fat, ông Eutrope đại diện thống đốc Nam Kỳ, ông Renault thị trưởng thành phố Chợ Lớn, ông Nguyễn Văn Của chủ nhà in và nhiều viên chức, doanh thương các công ty.
Ngày nay ký ức của người Saigon-Chợ Lớn về ông Quách Đàm chủ yếu là gắn liền với chợ Bình Tây và toà nhà trụ sở công ty Thông Hiệp trên đường Hãi Thượng Lãn Ông. Tuy nhiên còn nhiều dữ kiện về sự nghiệp thương mại, tính cách đầu tư và cá tính của ông còn chưa được biết. Báo Écho Annamite đăng ngày 2/5/1927 về nhà máy xay xát lúa của ông ở Mỹ Tho rất ô nhiễm đã làm 2 phần 3 dân chúng phải chịu bụi khói xã ra từ các ống khói vào nhà dân, bàn ghế, đồ gia dụng, quần áo bám đầy bụi, đường xá nhiều nơi phủ bụi dầy đến nổi không thấy được mặt đường nhựa hay cát. Ống khói nhà máy cao đến 32m nên xã bụi hầu như đến toàn thành phố và dự định sẽ làm cao thêm 6m. Và qua nhiều lần trinh báo của dân đến chính quyền về vấn đề ô nhiễm gây hại đến sức khỏe do nhà máy gây ra, nhưng vẫn không được giải quyết cho thấy Quách Đàm có thể khuynh đảo chính quyền địa phương cho ông được có thế hơn trong thương trường như tác giả bài báo đã cho rằng sức khỏe dân chúng bị đã đồng tiền áp đảo.
Ông Quách Đàm còn tham gia ủng hộ ông Candelier vào năm 1924 (12), khi Văn phòng cảng Saigon, muốn cho thuê trong hai mươi năm lợi nhuận thuế cảng, cộng với sự độc quyền chuyên chở gạo và ngô ở cảng Saigon cho tổ hợp thương mại Pháp Homberg-Candelier. Thống đốc Nam kỳ Maurice Cognacq ủng hộ cho thuê độc quyền này nhưng các đại biểu Việt Nam trong Hội đồng Quản hạt (Conseil Colonial) chống lại. Đại biểu Nguyễn Phan Long, sau đó mở ra chiến dịch vận động chống lại sự độc quyền này, trên tờ báo do ông làm chủ bút, “Echo Annamite” (Tiếng vọng An Nam). Những thương gia người Hoa khác ở Chợ Lớn cũng tham gia với ông Nguyễn Phan Long chống lại thành công vụ “affair Candelier” độc quyền. Điều này cho thấy ông Quách Đàm bắt tay chặt với chính quyền và quyền lợi của một một số tư bản Pháp trong công việc làm ăn của mình. Năm 1926, Quách Đàm được thống đốc Nam Kỳ Cognaq, một người bảo thủ ác cảm với những nhà yêu nước Việt Nam, trao huy chương Bắc đẩu bội tinh ở dinh phó sứ (13).
Tạ Mã Điền
Tờ báo Écho Annamite (13/5/1925) (10) có đăng tin về một tai nạn xe mà chủ xe là ông Tạ Mã Điền cư ngụ ở nhà số 270 rue de Caymai (Nguyễn Trãi ngày nay). Lúc này xe hơi đã có nhiều ở Saigon, tin đăng như sau
“Hôm qua, vào buổi xế trưa, một tai nạn kinh hoàng đã xảy ra trước nhà số 49 Quai Testard (bến Testard cạnh rạch Phố Xếp, sau này lất thành đường ngày nay Châu Văn Liêm).
Đứa trẻ tên là Phan Văn Tri, con của ông Phan Văn Ngạn, ngụ tại địa chỉ trên, muốn băng qua đường, vừa lúc xe hơi số C 3886, của một người Hoa tên là Tja Mah Yen làm chủ, cư ngụ ở số 270 rue de Caymai (Nguyễn Trãi ngày nay), người lái xe tên là Trần Văn Minh 29 tuổi, cư ngụ ở nhà chủ xe, ông chủ xe hoảng hốt xuống nhanh như sao băng xem sao.
Đứa trẻ Trí không kịp để chạy vô nhà, xe hơi đã đụng làm Trí té nhào; Xe làm bé bị thương, một bánh xe cán qua người Trí.
Chủ xe kêu xe dừng lại, đứa trẻ bị thương nên chở ngay vào bệnh viện l’Hôpital Indigène de Ooohinchine.
Bác sĩ pháp y chẩn đoán bị lũng ruột và nạn nhân được giải phẩu ngay sau đó.
Một cuộc điều tra được tiến hành để xem ai là người chịu trách nhiêm tai nạn này.

Kết quả cuộc điều tra không rõ, nhưng chủa xe là người thế nào ?
Ông Tja Ma Yeng (Tạ Mã Điền) tục danh là Má Chín Dảnh sinh năm 1862 ở Batavia (Java) và mất năm 1940 ở đường Mai Sơn (trên đường này có chùa Mai Sơn tự), Chợ Lớn và được chôn ở nghĩa địa Minh Đức ở Phú Thọ. Ông là người Hoa gốc Phúc Kiến từ đảo Java (thuộc Hòa Lan lúc này) đến Chợ Lớn vào năm 1885 buôn bán và xuất khẩu gạo. Cũng như Quách Đàm, ông có các tàu vận tải chở hàng chạy bằng hơi nước và rất nhiều nhà cửa ở Saigon và Chợ Lớn. Ông là bang trưởng bang Phúc Kiến, hội viên của Hội Đồng thành phố Chợ Lớn.
Ông sở hữu hai nhà máy xay lúa Bang-aik-Guan (Vạn Ích Nguyên) và Ban-Hong-Guan. Trong giai đoạn đầu ông lập công ty buôn bán gạo “Ban Guan” (Vạn Nguyên), gia nhập quốc tịch Pháp năm 1905 và sau đó mua lại một nhà máy xay lúa chạy bằng hơi nước của một công ty Pháp (của ông Andrew Spooner trước kia) sắp sửa phải đóng cửa. Ông đặt lại tên nhà máy là Ban Aik Guan Steam Rice Mill Co. Ltd. Ông xuất khẩu gạo qua công ty của ông là “Hock Guan Hong. Bốn người con trai của ông, theo Tây học, Tạ Thanh Thuyền, Ta Thanh Tông, Tạ Thanh Hảo và Tạ Thanh Tri cũng đều tham gia vào lãnh vực thương mại.
Sau đó Tạ Mã Điền thấy nhà máy Ban Aik Guan Steam Rice Mill vẫn còn nhỏ. Để phát triển thêm, ông mua đất ở dọc bến Bình Đông và xây một nhà máy lớn hơn trang bị với máy xay lúa mới và đặt tên nhà máy mới này là “Ban Hong Guan”. Ông còn có cơ sở mua bán lúa và nhà máy xay lúa nhỏ ở 231 quai de Mytho.
Ông là người thành lập trường tiểu học Min-Zhang (Minh Dương) ở Chợ Lớn và trường trung học Pháp Hoa (Lycée Franco-Chinois), sau này gọi là trường Bác Ái (ngày nay là Cao đẳng Sư Phạm). Ông là bang trưởng bang Phúc Kiến, hội viên của Hội Đồng thành phố Chợ Lớn và “La Maison Retraite” (Asile des vieilards et des infirmes, thành lập ngày 27/11/1902 với F. Drouhet, thị trưởng Chợ Lớn, là chủ tịch). Ngoài ra ông còn là hội viên của “Association Nguyen Van Chi Pour la protection des aveugles asiatiques de cochinchine” (thành lập ngày 12/4/1905) mà trong Hội đồng quản trị của hội này có ông Rodier (Phó soái Nam kỳ) là chủ tịch danh dự, F. Drouhet, thị trưởng Chợ Lớn là chủ tịch và ông Quách Đàm, nghị viên thành phố Chợ Lớn là phó chủ tịch.
Qua sự đóng góp về phát triển kinh tế ở nam Kỳ, năm 1932 ông được chính phủ Pháp ban thưởng huy chương hiệp sĩ Bắc đẩu bội tinh (chevalier de Légion d’honneur).
Tham khảo
  • Bulletin official de l’Indochine française, N1, PART1, A1894
  • Bulletin official de l’Indochine française, N1, PART1, A1897, pp. 78
  • Bulletin official de l’Indochine française, N12, PART1, A1897, pp. 1278
  • Bulletin official de l’Indochine française, N1, A1896
  • Võ Văn Sổ, Tham luận về Hán-Nôm: Một số hiểu biết về Hán-Nôm, Gia Phả Việt Nam, Hội Khoa học Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh, http://giaphatphcm.com/giapha/chitiettintuc.php?id=59
  • Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, Nxb Trẻ, 2002.
  • Echo Annamite, 18/05/1927, A8, N879
  • Echo Annamite, 31/05/1927, A8, N889, Les obsèques de M. Quach Dam
  • Echo Annamite 4/6/1927, A8, N893, Nouvelle pour 1930.
  • Écho Annamite, 13/5/1925.
  • Georges Manue, “Le Bouddha de la richesse”, Le Journal, 18 Juillet 1927.
  • Nguyễn Phan Long, “Élements de conviction”, Écho Annamite, 2 Fevrier 1924.
  • Écho Annamite, 10/3/1926
  • Écho Annamite, 10/9/1929