Thursday, 30 May 2019

Báo cáo của Tổng Bí thư Trường Chinh tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) về mục đích, ý nghĩa, phương châm, phương pháp và kế hoạch thực hiện chính sách cải cách ruộng đất

Hôm nay, ngày 30 tháng 5 năm 2013
Văn kiện Đảng  Văn kiện hội nghị
 In trang
Báo cáo của Tổng Bí thư Trường Chinh tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) về mục đích, ý nghĩa, phương châm, phương pháp và kế hoạch thực hiện chính sách cải cách ruộng đất
15:18 | 16/02/2006
Các đồng chí,
Hội nghị Trung ương lần này họp sau khi tác phẩm mới của đồng chí Xtalin Những vấn đề kinh tế của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô xuất bản; sau khi Đại hội thứ XIX của Đảng Cộng sản Liên Xô đã quyết định những phương châm và nhiệm vụ mới để đẩy mạnh công cuộc hoà bình kiến thiết, đưa Liên Xô dần dần tiến từ chủ nghĩa xã hội lên chủ nghĩa cộng sản.
Hội nghị Trung ương lần này họp sau khi nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã hoàn thành cải cách ruộng đất thắng lợi, đã bắt đầu kế hoạch 5 nǎm kiến thiết đại quy mô, và chuẩn bị tổng tuyển cử bầu Quốc hội và quy định Hiến pháp.
Chúng ta có những ánh sáng mới soi đường và những nguồn hy vọng mới làm cho chúng ta tin tưởng thêm ở sự nghiệp lãnh đạo kháng chiến kiến quốc đến toàn thắng của Đảng ta.
Trong diễn vǎn khai mạc, Hồ Chủ tịch đã vạch nhiệm vụ trước mắt của Đảng, và nêu tóm tắt các vấn đề mà Hội nghị Trung ương lần này phải thảo luận và quyết định.
Trong các vấn đề đó, có hai vấn đề lớn nhất, quan hệ đến tiền đồ kháng chiến và cách mạng của ta:
- Phóng tay phát động quần chúng, triệt để thi hành chính sách ruộng đất hiện tại và chuẩn bị cải cách ruộng đất.
- Phương hướng chiến lược mới và vấn đề tǎng cường chỉ đạo chiến tranh.
Trong báo cáo này, tôi phát triển những chỉ thị mới của Hồ Chủ tịch và trình Hội nghị kế hoạch công tác nǎm nay.
I. Con đường của chúng ta được soi sáng thêm
Đại hội thứ XIX của Đảng Cộng sản Liên Xô là một việc quan trọng nhất trong lịch sử từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đến nay.
Xuất bản trước Đại hội, tác phẩm mới của đồng chí Xtalin Những vấn đề kinh tế của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, đã hướng dẫn công tác của Đại hội và thấm nhuần vào mỗi vǎn kiện của Đại hội. Tác phẩm đó cùng với vǎn kiện của Đại hội là những ngọn đèn pha rất sáng chiếu rọi con đường cách mạng của chúng ta.
Tác phẩm của đồng chí Xtalin đã phát triển thêm chủ nghĩa Mác - Lênin, nó bao gồm nhiều vấn đề rất quan trọng về mặt lý luận và thực hành. Trong báo cáo này, tôi chỉ nêu một vài điểm chính và liên hệ với cuộc kháng chiến và cách mạng của ta ngày nay.
Lần đầu tiên trong vǎn học mácxít, đồng chí Xtalin phát minh quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại và của chủ nghĩa xã hội, định rõ những điều kiện cốt yếu để tiến dần từ chủ nghĩa xã hội đến chủ nghĩa cộng sản.
Những nét chính của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại là:
"Kiếm lợi nhuận tư bản nhiều nhất bằng cách bóc lột, làm suy sụp và cùng khốn phần lớn nhân dân một nước, bằng cách nô dịch và bóc lột tàn nhẫn nhân dân các nước khác, đặc biệt là nhân dân các nước chậm tiến, sau hết bằng cách gây ra chiến tranh và quân sự hoá kinh tế quốc dân để kiếm cho thật nhiều lợi".
Trái lại, những nét chính của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội là:
"Thoả mãn đến tột bực những nhu cầu về vật chất và tinh thần ngày càng tǎng của toàn thể xã hội, bằng cách luôn luôn tǎng gia và cải tiến sản xuất xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kỹ thuật tiên tiến".
Đồng chí Xtalin đã chỉ rõ chỗ khác nhau một trời một vực giữa chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa. Một bên chủ nghĩa tư bản thì lấy lợi nhuận ích kỷ của một nhóm tư bản làm mục đích, coi giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc, nhất là dân tộc chậm tiến, như nô lệ chỉ cốt cho tư bản bóc lột; quân sự hoá kinh tế, chạy thi về binh bị, gây ra chiến tranh, xô đẩy nhân dân các nước chém giết lẫn nhau để cho tư bản có thêm cơ hội vơ vét cho đầy túi tham.
Thực dân Pháp và can thiệp Mỹ xâm lược nước ta cốt nhằm mục đích bóc lột dân ta, kiếm thặng dư lợi tức thuộc địa. Chúng đánh ta cốt để bóc lột tài nguyên nước ta, bắt dân ta mua hàng hoá của chúng, nai lưng ra làm cho chúng để chúng kiếm thêm lợi; cốt tiêu thụ quân nhu, vũ khí của bọn tư bản độc quyền sản xuất cho chiến tranh, làm cho chúng có dịp vơ vét những số lợi nhuận kếch xù.
Bọn bù nhìn Việt gian giúp Pháp - Mỹ bắn giết đồng bào, không ngoài mục đích dựa vào bọn đế quốc để duy trì những quyền lợi bất chính của chúng.
Đế quốc Pháp - Mỹ và bù nhìn Bảo Đại, Nguyễn Vǎn Tâm nói độc lập thống nhất, dân chủ, tự do, chẳng qua là dùng những danh từ hay ho tốt đẹp để che lấp những hành động phản nước, hại dân của chúng.
Ta kháng chiến là cốt đánh bại bọn ǎn cướp Pháp - Mỹ và bè lũ Việt gian chó sǎn của Pháp - Mỹ, giành độc lập thống nhất thật sự cho dân tộc, tự do dân chủ thật sự cho nhân dân và góp phần bảo vệ hoà bình thế giới. Đồng thời, ta xây dựng một nước dân chủ nhân dân, do con đường dân chủ nhân dân tiến tới chủ nghĩa xã hội, thực hiện một chế độ xã hội theo đúng quy luật kinh tế "thoả mãn đến tột bực những nhu cầu vật chất và tinh thần ngày một tǎng" của nhân dân ta.
Đúng như tinh thần chỉ thị của đồng chí Xtalin trong bài Diễn vǎn bế mạc Đại hội thứ XIX của Đảng Cộng sản Liên Xô, chỉ có những người cộng sản chúng ta mới nêu cao được ngọn cờ dân tộc và dân chủ, mới tập hợp được số đông nhân dân, lãnh đạo nhân dân đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành tự do và độc lập.
Tác phẩm của đồng chí Xtalin và báo cáo của đồng chí Malencốp còn soi sáng cho ta về tình hình thế giới hiện nay, vạch cho ta thấy rõ sự suy tàn của chế độ tư bản, sự củng cố và phát triển không ngừng của chủ nghĩa xã hội, và mục đích, nhiệm vụ của phong trào bảo vệ hoà bình thế giới.
Đồng chí Xtalin chỉ cho ta thấy sự tan rã của thị trường thế giới duy nhất và tính chất không thể tránh được của chiến tranh giữa các nước tư bản.
Ngày nay, thế giới chia làm hai phe: phe hoà bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa đối lập với phe đế quốc phản dân chủ và gây chiến. Kết quả về mặt kinh tế của sự thành lập hai phe ấy là thị trường thế giới duy nhất đã tan rã. Ngày nay có hai thị trường khác nhau, song song với nhau, đối lập nhau: thị trường các nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân, và thị trường các nước đế quốc, phụ thuộc và thuộc địa.
Chính đế quốc Mỹ, Anh, Pháp thi hành chính sách phong toả Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân, đã vô tình xúc tiến việc thành lập và củng cố thị trường các nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân: Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân hợp tác với nhau một cách chặt chẽ, bình đẳng và thành thật giúp đỡ nhau cùng tiến.
Sự phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân nhanh đến nỗi không bao lâu nữa các nước ấy chẳng những không cần mua hàng của thị trường các nước tư bản mà còn cần bán hàng cho thị trường đó. Kết quả sẽ làm cho thị trường tư bản đã co hẹp, lại co hẹp thêm, kinh tế các nước tư bản đã khủng hoảng lại khủng hoảng trầm trọng thêm.
Tình trạng ấy làm cho chủ nghĩa tư bản đã suy yếu càng thêm suy yếu, khủng hoảng nội bộ của các nước đế quốc mỗi ngày một tǎng, các nước đế quốc càng phải cố sống cố chết bám lấy thuộc địa, mâu thuẫn giữa các đế quốc ngày một sâu sắc và chiến tranh giữa các nước đế quốc sẽ không tránh khỏi.
Thật thế, đế quốc Mỹ lấn dần quyền lợi các nước trong phe chúng, đầu tư vào thị trường thuộc địa của các nước Anh, Pháp, v.v., làm cho Anh - Mỹ, Pháp - Mỹ, v.v. càng thêm xung đột quyền lợi.
Đồng chí Xtalin đoán trước rằng: các nước Anh, Pháp cũng như các nước ý, Tây Đức, Nhật sớm muộn sẽ cựa dậy để vứt bỏ xiềng xích của đế quốc Mỹ, thoát ra ngoài vòng nô lệ của Mỹ và đi vào con đường độc lập.
Nếu chiến tranh thế giới nổ ra thì không nhất định nổ ra giữa đế quốc và Liên Xô mà có thể nổ ra giữa các đế quốc với nhau. Vì kinh nghiệm chiến tranh thứ hai đã chỉ rõ, đánh Liên Xô là một việc vô cùng nguy hiểm cho một nước tư bản. Đánh nhau với Liên Xô thì vấn đề sống chết của chế độ tư bản nhất định sẽ đặt ra, có thể chiến tranh giữa các nước tư bản với nhau thì chỉ đặt ra vấn đề nước tư bản này hay nước tư bản kia làm bá chủ mà thôi. Hơn nữa, các nước đế quốc, trước hết là Mỹ, thừa biết Liên Xô không bao giờ tự mình gây chiến với bất cứ nước nào hết. Chúng nói nhiều về "mưu mô gây chiến" của Liên Xô cốt để lừa bịp dư luận, bắt nhân dân nước chúng nộp thuế để cung cấp cho ngân sách chiến tranh của chúng; để gây ra phong trào chạy thi binh bị, khiến cho bọn tư bản buôn súng kiếm được nhiều lời; sau nữa để lừa bịp lẫn nhau, như Mỹ lừa các nước thuộc khối Bắc Đại Tây Dương, đặng lũng đoạn kinh tế các nước đó và biến các nước đó thành thị trường và cǎn cứ quân sự của Mỹ.
Song bất cứ chiến tranh giữa các đế quốc với nhau hay giữa các đế quốc với các nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân cũng đều làm cho nhân dân thế giới đau khổ. Chiến tranh giữa các nước đế quốc cũng dễ chuyển thành chiến tranh giữa các nước đế quốc với các nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân. Cho nên ta phải phản đối chiến tranh đế quốc, chiến tranh cướp giật, chiến tranh xâm lược, kiên quyết bảo vệ hoà bình thế giới.
Đồng chí Xtalin nói:
"Chắc chắn hơn hết là phong trào bảo vệ hoà bình hiện nay, một phong trào có tính chất gìn giữ hoà bình, nếu thắng sẽ ngǎn ngừa được một cuộc chiến tranh nhất định, tạm thời trì hoãn cuộc chiến tranh đó, tạm thời gìn giữ hoà bình nhất định nào đó, làm cho một chính phủ hiếu chiến phải từ chức, một chính phủ tán thành tạm thời bảo vệ hoà bình lên thay. Cố nhiên, đó là một việc tốt. Rất tốt nữa là khác. Nhưng chưa đủ để trừ bỏ những cuộc chiến tranh, nói chung không thể tránh được giữa các nước tư bản. Việc đó chưa đủ, vì mặc dầu tất cả những thắng lợi ấy của phong trào hoà bình, chủ nghĩa đế quốc vẫn còn đó, vẫn sống. Bởi vậy, tính chất không thể tránh được của chiến tranh vẫn y nguyên".
"Muốn xoá bỏ tính chất không thể tránh được của chiến tranh, phải xoá bỏ chủ nghĩa đế quốc".
Thật là rõ ràng, sâu sắc. Mục đích, yêu cầu, tính chất, nhiệm vụ của phong trào hoà bình thế giới hiện nay đã được quy định rành mạch.
Đồng chí Xtalin đã sửa chữa những tư tưởng cô độc, hẹp hòi muốn biến phong trào hoà bình hiện nay thành phong trào có tính chất đảng phái; chỉnh đốn những tư tưởng lẫn lộn phong trào hoà bình với phong trào xã hội chủ nghĩa; cho là lực lượng hoà bình dân chủ thế giới đã đủ mạnh rồi, chiến tranh nhất định không thể xảy ra được nữa, rồi mất cảnh giác và đi đến thủ tiêu cách mạng đánh đổ chủ nghĩa đế quốc.
Có người nói: chiến tranh giữa các nước tư bản đã không thể tránh được thì cứ để mặc cho nó nổ ra, đấu tranh bảo vệ hoà bình làm gì vô ích; chiến tranh nổ ra đế quốc sẽ mất thì cứ để cho nó nổ ra có hơn không, tư tưởng thủ tiêu đấu tranh bảo vệ hoà bình và tư tưởng mong chiến tranh, ỷ lại vào may rủi của chiến tranh thế giới để tiêu diệt đế quốc là những tư tưởng sai lầm, nguy hiểm.
Tích cực bảo vệ hoà bình, dù là bảo vệ tạm thời, để cho lực lượng của Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân, lực lượng cách mạng của nhân dân các nước đế quốc và thuộc địa ngày thêm phát triển trong khi lực lượng đế quốc ngày một suy yếu, nội bộ đế quốc ngày một lủng củng. Đó là một điều rất có lợi cho cách mạng. Ta nên nhớ rằng: bản thân chiến tranh đế quốc không làm cho đế quốc tự tiêu diệt. ở nước đế quốc thắng trận cũng như ở nước đế quốc bại trận, chỉ có nhân dân" nổi dậy làm cách mạng đánh đổ bọn đế quốc thống trị trong nước, hoặc quân đội nước xã hội chủ nghĩa vì đánh bọn đế quốc xâm lược mà đuổi chúng đến tận tổ để tiêu diệt chúng và giúp nhân dân nước chúng nổi dậy giành chính quyền, thì chủ nghĩa đế quốc một nước mới bị tiêu diệt mà thôi.
Không phải có chiến tranh đế quốc nhân dân một nước mới làm được cách mạng. Trong lịch sử có nhiều cuộc cách mạng đã nổ ra trong lúc không có chiến tranh.
Bổn phận nhân dân các nước trên thế giới hiện nay là ra sức gìn giữ hoà bình. Nhưng phải cảnh giác và tích cực chuẩn bị. Nếu bọn đế quốc liều lĩnh gây ra chiến tranh thế giới thứ ba thì nhân dân các nước đế quốc, phụ thuộc và thuộc địa phải nổi dậy làm cách mạng đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, tiêu diệt nguồn gốc của chiến tranh.
Hội nghị hoà bình châu á và Thái Bình Dương cũng như nhân dịp Đại hội hoà bình thế giới lần thứ ba họp ở Viên vừa rồi đã kiên quyết đòi bọn đế quốc phải đình chỉ chiến tranh xâm lược Triều Tiên, Việt - Lào - Miên và Mã Lai. Nhân dân Việt Nam ta phải kháng chiến mạnh hơn để góp phần cốt yếu vào việc thực hiện nghị quyết hoà bình của các dân tộc.
Đế quốc càng suy yếu càng cố bám lấy nước ta, kháng chiến của ta nhất định phải trường kỳ, gian khổ.
Ta kháng chiến nhằm tiêu diệt bọn đế quốc xâm lược, thủ tiêu thế lực phong kiến phản động trong nước, giải phóng dân tộc, tạo điều kiện phát triển dân chủ nhân dân và mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Phong trào giải phóng dân tộc, phong trào dân chủ nhân dân và phong trào bảo vệ hoà bình thế giới kết hợp trong cuộc kháng chiến của ta một cách mật thiết.
Cũng như nhân dân các nước, nhân dân nước ta, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch, đang tiến trên con đường hoà bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa mà đồng chí Xtalin soi sáng.
Mặc dầu gian khổ, tiền đồ tốt đẹp nằm chắc trong tay chúng ta.
II. Tình hình đế quốc Pháp - Mỹ ở Việt Nam và mưu mô của chúng đối với ta
Đồng chí Malencốp đã vạch rõ đế quốc Mỹ là tên lính sen đầm đàn áp các dân tộc đang chiến đấu giành độc lập, tự do, là thủ phạm của chiến tranh, phá hoại hoà bình thế giới. Đế quốc Pháp càng nhờ Mỹ giúp về tiếp tục chiến tranh xâm lược Việt - Miên - Lào, càng bị Mỹ lấn dần quyền lợi ở Pháp, ở thuộc địa châu Phi cũng như ở Việt - Lào - Miên.
Mỹ có cả một kế hoạch lấn dần Pháp ở Việt - Lào - Miên để tiến tới thay thế Pháp về cả ba mặt chính trị, kinh tế và quân sự.
Chiến tranh xâm lược Việt - Lào - Miên nằm trong kế hoạch của Mỹ chuẩn bị chiến tranh thứ ba, xâm lược Trung Quốc và khống chế Đông Nam á.
Đế quốc Mỹ thèm muốn Việt - Lào - Miên vì hai lẽ:
1. Việt - Lào - Miên giữ một vị trí chiến lược quan trọng ở Đông Nam á. Việt và Lào sát Hoa Nam, có 700 cây số biên giới chung với Trung Quốc. Việt - Lào - Miên là bao lơn của Đông Nam á quay ra Thái Bình Dương, có 4.000 cây số bờ biển và có những cǎn cứ hải quân tốt như Cam Ranh, Đà Nẵng, Sài Gòn, Hải Phòng.
Việt - Lào - Miên là cái cầu nối liền Trung Quốc với các nước Đông Nam á, và Thượng Lào thật là cái bàn xoay, liền biên giới với bốn nước Trung Quốc, Xiêm, Diến Điện và Việt Nam.
2. Việt - Lào - Miên rất giàu nguyên liệu cần thiết cho Mỹ, như: thiếc, than đá, cao su, phốt phát, v.v.. Ngay từ 1951, Mỹ đã sử dụng đến 89% cao su và 52% thiếc của khối Việt - Lào - Miên.
Mỹ đã nhận chi một phần cho ngân sách chiến tranh của Pháp ở Việt - Lào - Miên. Nhưng Mỹ bắt Pháp phải nhận cho các chính phủ bù nhìn Việt - Lào - Miên được ký kết "những hiệp ước thương mại" với các nước khác (nghĩa là với Mỹ) và thừa nhận cho Mỹ có quyền trực tiếp kiểm soát quân đội bù nhìn Việt - Lào - Miên.
Như thế là Mỹ đã nhúng thẳng tay vào chiến tranh xâm lược Việt - Lào - Miên rồi.
Mỹ giục Pháp đề cao bù nhìn Việt - Lào - Miên và xây dựng nguỵ quân để Mỹ dần dần nắm thẳng bù nhìn và nguỵ quân.
Thủ đoạn quỷ quyệt của Mỹ là giúp vũ khí và tiền cho Pháp và bù nhìn để dùng xương máu của người làm chiến tranh thay cho mình. Mưu mô thâm độc của Mỹ là giúp Pháp có kế hoạch có chừng mực, khiến Pháp ngày càng phụ thuộc vào Mỹ, bảo gì nghe nấy.
Mỹ giúp Pháp nhưng vẫn đá ngầm Pháp: cho bọn Đại Việt tổ chức chính đảng chống cộng sản và chống Pháp, giúp vũ khí cho phái Cao đài thân Mỹ lập "chiến khu"; xúi một vài nhóm thân Mỹ ở Cao Miên tổ chức chống Pháp và chống Việt Minh; giành giật, mua chuộc bọn thân Pháp, biến dần tay sai của Pháp thành tay sai của Mỹ.
Pháp nhờ Mỹ giúp, nên phải phục tùng Mỹ, song vẫn mâu thuẫn với Mỹ, như hục hặc về quyền lợi với Mỹ, đàn áp bọn thân Mỹ, v.v.. Nhưng mỗi khi Pháp tỏ vẻ ương ngạnh với Mỹ ở Việt - Lào - Miên, thì Mỹ giật cái dây thòng lọng "viện trợ" ở cổ thực dân Pháp, khiến cho thực dân Pháp lại phải im miệng.
Từ trước đến nay, Đảng Cộng sản Pháp, người chân chính đại biểu quyền lợi của nhân dân Pháp, nhận rõ thanh niên Pháp sang đánh Việt - Lào - Miên là hy sinh cho quyền lợi ích kỷ của đế quốc Mỹ và của bọn phản động Pháp thân Mỹ, nên kiên quyết chủ trương giảng hoà với Chính phủ ta và đòi rút quân đội viễn chinh về Pháp. Phong trào phản đối chiến tranh xâm lược Việt Nam càng ngày càng ǎn sâu lan rộng ở Pháp và ở thuộc địa Bắc Phi của Pháp.
Nhận rõ dã tâm của Mỹ, một số người Pháp trước kia chủ trương tiếp tục chiến tranh ở Việt Nam đến cùng, nay cũng đã bắt đầu đòi đình chỉ chiến tranh Việt Nam. Vì họ nhận rõ:
- Chiến tranh xâm lược Việt Nam càng ngày càng có tính chất đánh thuê cho Mỹ;
- Thắng thì Mỹ hưởng phần lớn nhất nếu không hưởng tất cả; bại thì kẻ thiệt nhất vẫn là Pháp;
- Càng đánh càng phải nhượng quyền lợi ở Pháp và ở thuộc địa Pháp cho Mỹ;
- Đánh thì không xây dựng được quân đội ở nước Pháp theo kế hoạch đã định, thế uy hiếp của Tây Đức đối với Pháp càng tǎng.
Chủ trương của Đảng Cộng sản Pháp hiện nay là lôi kéo bất cứ người Pháp nào muốn bảo vệ độc lập của nước Pháp và hoà bình thế giới, chống võ trang lại Tây Đức và đình chỉ chiến tranh ở Việt Nam, lập thành mặt trận dân tộc thống nhất chống Mỹ và bọn phản động Pháp thân Mỹ.
Tóm lại, chiến tranh xâm lược Việt Nam là chiến tranh của đế quốc Pháp - Mỹ. Kẻ thù của nhân dân Việt Nam hiện nay là thực dân Pháp, can thiệp Mỹ và Việt gian bù nhìn, đại biểu cho đại địa chủ phong kiến phản động và tư sản mại bản.
Phải chống lại tư tưởng coi thường vai trò của đế quốc Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, cho Mỹ là phụ thuộc, không nhận rõ kế hoạch của đế quốc Mỹ từ can thiệp tiến dần đến xâm lược Việt Nam. Song cũng phải chống tư tưởng cho Mỹ là kẻ thù chính trước mắt, còn thực dân Pháp là phụ thuộc, quên rằng hiện nay Pháp đang đem quân trực tiếp đánh ta, ta phải đánh Pháp, và đánh Pháp tức là đồng thời đánh can thiệp Mỹ.
Cũng phải chống tư tưởng đánh giá quá cao lực lượng của Mỹ, sợ Mỹ, cho là ta đánh Pháp còn chưa xong, đánh sao được Mỹ, không nhận thấy nhân dân Việt Nam có cả Mặt trận hoà bình, dân chủ thế giới ủng hộ; còn Mỹ thì tuy bề ngoài mạnh, nhưng có rất nhiều nhược điểm và đang sa lầy ở Triều Tiên.
Đồng thời, phải chống tư tưởng chờ đợi một cuộc điều đình với Pháp. Ta không quên rằng: chỉ có tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch, làm cho địch không thể nào tiếp tục chiến tranh được nữa, lúc đó chúng mới chịu giảng hoà. Chúng ta hoan nghênh tất cả những cuộc vận động của Đảng Cộng sản Pháp và các nhân sĩ tiến bộ Pháp, của nhân dân Pháp và thuộc địa Pháp đòi chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Nhưng vấn đề chủ yếu là ở nơi ta. Ta đánh cho Pháp bại thì mới có hoà bình chân chính trên đất ta. Cuộc vận động hoà bình của nhân dân Pháp cũng như của nhân dân thế giới ủng hộ cuộc kháng chiến của ta nhiều nhưng vẫn là phụ. Sức mạnh của ta vẫn là chính.
ở Việt Nam, Pháp - Mỹ gặp nhiều khó khǎn, phải kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược, nên hiện nay chúng đang xúc tiến việc thi hành chính sách dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, và chiến lược của chúng chủ yếu là củng cố hậu phương, giữ gìn vị trí đã giành được.
Để thi hành chính sách và chiến lược ấy, chủ trương của địch là:
a) Đối với vùng sau lưng địch, thì dùng chính sách "bình định và chiêu an": một mặt ra sức càn quét, khủng bố dã man và cướp bóc, vơ vét nhân lực, vật lực, tài lực của dân ta; một mặt phỉnh phờ, lừa bịp đồng bào ta bằng những "cải cách" giả dối và những luận điệu tuyên truyền xảo trá.
b) Đối với vùng tự do, thì chúng tích cực phá hoại bằng mọi cách: ném bom phá kè đập, đê điều, đường giao thông vận tải, bắt đầu thả sâu bọ phá mùa màng ở nhiều nơi (có thể tiến tới thả vi trùng, giết người, phong toả kinh tế; cấu kết với bọn thổ phỉ, lôi kéo dân tộc thiểu số, lợi dụng tôn giáo; tǎng cường chiến tranh gián điệp, thỉnh thoảng đánh thọc ra vùng tự do để phá phách, v.v..
Để tích cực thi hành chính sách dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh và chiến lược củng cố hậu phương, giữ gìn vị trí đã giành được, tháng 6-1952 thực dân Pháp đưa tên Nguyễn Vǎn Tâm, một tên tay sai đại gian đại ác lên thay Trần Vǎn Hữu; đồng thời cải tổ chính phủ bù nhìn, cho những tên Việt gian đắc lực hơn vào bộ máy nguỵ quyền để xúc tiến việc thực hiện chính sách khủng bố và lừa bịp mà chúng gọi là chính sách "bình định và chiêu an".
Trong vùng sau lưng địch, để thi hành chính sách "bình định và chiêu an", bọn bù nhìn đã lập ra những "đoàn quân thứ hành chính lưu động" đi theo quân đội càn quét của địch, để phỉnh phờ, dụ dỗ nhân dân, lọc tỉa cán bộ, bộ đội, du kích ra khỏi nhân dân; cài gián điệp, chỉ điểm; lập nguỵ quyền và tuyên truyền "viện trợ Mỹ".
Bù nhìn Tâm dùng mọi thủ đoạn vơ vét, bóc lột nhân dân trong vùng tạm bị chiếm (tǎng thuế cũ, đặt thuế mới, mở xổ số, phát hành giấy bạc Bảo Đại, v.v.) để lập ngân sách nuôi nguỵ quân.
Để che giấu nguỵ trang những thủ đoạn áp bức, bóc lột nặng nề của giặc và tranh thủ nhân dân với ta, bọn Tâm đưa ra một vài cải cách lừa bịp.
Chúng tuyên bố sẽ thi hành "chương trình cải cách ruộng đất", bán ruộng của địa chủ cho nông dân, cho dân nghèo vay vốn mua ruộng, định địa tô nhiều nhất là 1/3 hoa lợi, v.v.. Song đó chỉ là những chiêu bài giả hiệu. Sự thật, chúng vẫn ra sức cướp phá, vơ vét thóc lúa của nông dân vùng tạm bị chiếm, và tịch thu ruộng đất của những người kháng chiến chia cho bọn Việt gian phản nước mà chúng cho là "có công với quốc gia".
Chúng phỉnh phờ công nhân bằng một bộ luật lao động lừa bịp, ra những điều gian dối, như cấm cưỡng bách lao động, định lương tối thiểu ..., để che đậy những điều phản động, thí dụ cấm công nhân bãi công, biểu tình, cấm hoạt động chính trị, v.v..
Chúng đề ra một chương trình cải tổ hành chính nhằm thay đổi một số tay sai bất lực, thải hồi một số viên chức để lùa họ vào nguỵ quân và thi hành chính sách gọi là "trừng thanh lại trị", đưa ra xử án một vài tên tay sai đã bóc lột, áp bức nhân dân quá tàn nhẫn và bị nhân dân kịch liệt phản đối, để phỉnh dân. Đội lốt "dân chủ" để lừa bịp dư luận, chúng sắp tổ chức "tuyển cử", lập ra những hội đồng bù nhìn các cấp và quốc hội bù nhìn, tập hợp những phần tử địa chủ phong kiến phản động, tư sản mại bản, trí thức cơ hội và cường hào mật thám.
Chúng còn lập ra các tổ chức như "Thanh niên quốc gia", "Phụ nữ quốc gia", "Hội phụ lão", "Hội thiếu nhi", các tổ chức tôn giáo, v.v. nhằm thu hút quần chúng để tuyên truyền chủ nghĩa quốc gia giả hiệu, tuyên truyền chống kháng chiến, tổ chức gián điệp, phá hoại cơ sở của ta.
Đối với vùng tự do, địch phá hoại như thế nào?
Chúng cấu kết với thổ phỉ ở biên giới Việt - Hoa, tiếp tế vũ khí, lương thực cho bọn này để quấy rối hậu phương ta và cản trở liên lạc của ta với Trung Quốc. Chúng dụ dỗ, lôi kéo một số thổ ty, lang đạo, và mua chuộc bọn cầm đầu phản động trong dân tộc thiểu số ở Liên khu 4, Liên khu 5 để thực hiện âm mưu chia rẽ dân tộc.
Chúng ráo riết thực hiện âm mưu lợi dụng tôn giáo, dùng bọn phản động đội lốt thầy tu, tuyên truyền chia rẽ giáo dân với Chính phủ, vận động giáo dân không đóng thuế nông nghiệp, không đi dân công, v.v.. Việc bọn phản động công giáo phổ biến thư Đulây trong giáo dân đã gây ảnh hưởng rất xấu. ở một vài vùng công giáo thuộc Liên khu 4, mấy tháng trước đây, bọn chúng hoạt động táo bạo, khiêu khích ra mặt; xúi giáo dân cướp thóc thuế, rào làng canh gác, tổ chức biểu tình phản đối chính quyền, đánh cán bộ (công giáo ở Hưng Yên, Xã Đoài thuộc Nghệ An, tháng 3, tháng 4 và Phật giáo ở Hoằng Lộc, Hoằng Thịnh, Hoằng Đức thuộc Thanh Hóa, tháng 8, 9 nǎm ngoái).
Gần đây, đế quốc Pháp - Mỹ ra sức tǎng cường hoạt động chiến tranh gián điệp. Chúng lợi dụng đường dây mậu dịch, lợi dụng những gia đình công chức, cán bộ, bộ đội trong vùng tạm bị chiếm, lợi dụng những cán bộ, bộ đội đào ngũ hoặc bị bắt mà đầu hàng chúng, huấn luyện do thám rồi thả ra, cho chúng thâm nhập bộ máy kháng chiến của ta.
Những vụ ném bom, bắn phá kho tàng, công xưởng của ta và những vụ chính trị do học sinh bộc lộ ở trường lục quân chỉnh huấn vừa rồi, chứng tỏ hoạt động của gián điệp địch đã lọt vào một số đơn vị và cơ quan của ta.
Cùng với những hoạt động phá hoại về chính trị, địch tǎng cường việc phá hoại ta về mặt kinh tế, hòng làm cạn nguồn nhân lực, vật lực của ta, làm giảm sức chiến đấu của dân ta.
Mấy tháng nay, địch tập trung máy bay, ném bom có trọng điểm để phá hoại đường giao thông quan trọng, những đê đập, công trình thuỷ lợi của ta.
Trong vùng du kích, chúng phá đê (Bắc Ninh), làm cho mùa màng ngập lụt, đóng cống (Thái Bình); bắt nhân dân nhổ ngô, lúa, ở dọc đường giao thông và các bãi sông; cho xe quần nát lúa, bắn giết trâu bò, nông dân. Mặt khác, chúng tung tiền ra đong thóc gạo tích trữ để nuôi nguỵ quân và xuất khẩu, làm cho giá gạo trong các thành phố tạm bị chiếm cao vọt, đời sống của nhân dân, nhất là nhân dân lao động ở đó đã khổ lại khổ thêm.
Gần đây, cǎn cứ vào báo cáo của các khu, địch đã dùng đến thủ đoạn vô cùng thâm độc là thả sâu phá hoại mùa màng của ta ở nhiều nơi: Phú Thọ, Bắc Giang, Thái Nguyên, Kiến An, Nam Định, Thanh Hoá, Liên khu 5 và Nam Bộ.
Ngoài ra, chúng còn phong toả kinh tế ta, bao vây các cửa khẩu, không cho ta bán lâm sản, thổ sản vào vùng sau lưng địch. Song chúng giữ độc quyền cho bọn gián điệp và phòng nhì mang hàng xa xỉ bán ra vùng tự do, nhằm lấn thị trường của ta, đồng thời tổ chức lấy tin và gây mối gián điệp ở hậu phương ta.
Tóm lại, chính sách của địch cực kỳ thâm độc. Ta phải hiểu rõ mưu địch để phá những mưu đó một cách có hiệu quả.
Có đồng chí cho bọn bù nhìn chỉ là một nhúm cá nhân không có tính chất giai cấp, không đại biểu cho tầng lớp nào hết. Các đồng chí ấy không nhận thấy bọn Bảo Đại, Nguyễn Vǎn Tâm, Nguyễn Đệ, v.v. là đại biểu của đại địa chủ phong kiến phản động và tư sản mại bản, hiện làm chó sǎn cho đế quốc Pháp - Mỹ.
Một số đồng chí khác coi thường chính sách lừa phỉnh, mua chuộc của địch và nguỵ, cho là đồng bào ta ai mà không biết dã tâm của chúng, rồi lơ là hoặc thủ tiêu việc tuyên truyền chống lại những chính sách đó, không kịp thời vạch mặt nạ của chúng, không kiên nhẫn tranh thủ nhân dân, vận động nhân dân vùng sau lưng địch đấu tranh chống lại chúng.
Muốn phá chính sách của địch dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh thì không thể không đánh đổ bọn bù nhìn.
Đối với Lào - Miên, gần đây Pháp và Mỹ cũng ra sức củng cố chính quyền bù nhìn và xây dựng nguỵ quân. Chúng dùng nguỵ quân Lào - Miên hòng phá kháng chiến của nhân dân Lào - Miên. Chúng luôn luôn chia rẽ các dân tộc Lào - Miên và chia rẽ nhân dân Lào - Miên với nhân dân Việt Nam.
Đế quốc Mỹ lại lập nhiều trường bay lớn trên đất Lào, Miên, Xiêm và tích cực giúp phản động Xiêm, xây dựng quân đội, giúp tàn quân Tưởng ở phía bắc Diến Điện.
Chính sách của Tổng thống mới của Mỹ là tiến tới lập một khối liên minh phản động ở Đông Nam á và Thái Bình Dương, hòng động viên các lực lượng phản động đàn áp phong trào giải phóng của các dân tộc ở đó.
Mỹ đang dự định dùng quân Xiêm và tàn quân Tưởng ở Diến Điện xâm phạm Lào - Miên và Việt Nam.
III. Triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức
và tiến tới cải cách ruộng đất
Ta đánh xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ. Ta là nước nông nghiệp đánh với kẻ thù đế quốc có kỹ nghệ nặng, phương tiện kỹ thuật dồi dào.
Bắt đầu kháng chiến, ta yếu hơn địch, đến nay ta đã mạnh lên, địch đang yếu đi, nhưng ta vẫn chưa giành được ưu thế quân sự.
Pháp yếu đi, Mỹ tiếp sức cho Pháp. Giai đoạn cầm cự kéo dài. Kháng chiến kéo dài.
Ta phảitrường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh.
Trường kỳ kháng chiến thì dân mỏi mệt, vì phải chịu đựng nhiều.
Tự lực cánh sinh là dựa vào sức nhân dân mà đánh giặc, và giành thắng lợi, không nên ỷ lại vào các nước bạn.
Đa số nhân dân là nông dân. Nông dân đóng góp nhiều nhất về người và của cho kháng chiến. Muốn duy trì kháng chiến, phải động viên nhân dân, bồi dưỡng cho nhân dân, chủ yếu là động viên nông dân, bồi dưỡng lực lượng cho nông dân.
Cần có chính sách ruộng đất rõ rệt, đúng đắn. Nếu không sẽ không kéo được nông dân hǎng hái tham gia kháng chiến, sẽ không dựa được vào lực lượng to lớn của nông dân.
Có chính sách đúng chưa đủ. Còn phải thi hành chính sách đó cho đầy đủ, kịp thời. Nếu không, nông dân sẽ do dự trước những hy sinh, không quyết tâm dốc sức người, sức của cho kháng chiến, không quyết tâm chiến đấu, quyết giành thắng lợi cuối cùng.
Nông dân không quyết tâm thì rất nguy hiểm. Không nên tưởng rằng bất cứ tình thế nào nông dân cũng đều đi với ta.
Bởi vậy, ta phải quan tâm đến đời sống của nông dân, thoả mãn yêu cầu chính đáng của nông dân.
Chính sách tóm tắt của ta đối với nông dân trong cuộc cách mạng này là: trước giảm tô giảm tức, sau thực hiện người cày có ruộng.
Đại hội đã đề ra chính sách ruộng đất cụ thể của Đảng trong thời kỳ kháng chiến:
- Giảm tô giảm tức,
- Tạm cấp ruộng đất của Pháp và Việt gian,
- Chia lại công điền cho công bằng,
- Sử dụng ruộng vắng chủ cho hợp lý, v.v..
Nhưng mấy nǎm nay ta thi hành không triệt để, vì:
Cán bộ ta coi thường chính sách ruộng đất, không quan tâm đến đời sống của nông dân, quá nhân nhượng với địa chủ, không đi sát với quyền lợi quần chúng.
Lúc thi hành, ta quá thiên về thuyết phục địa chủ, và làm thay, ban ơn cho nông dân. Ta không dám phóng tay phát động quần chúng nông dân, lãnh đạo nông dân đấu tranh, bắt địa chủ phải triệt để thi hành chính sách của Đảng và Chính phủ. Thành ra có nhiều nơi địa chủ ngoài mặt thì giảm mà trong không giảm, giảm tay này lấy lại tay kia, có nơi còn truy tô hoặc không giảm gì hết, nhất là đại địa chủ và địa chủ nhà chung.
Ruộng đất của Pháp và Việt gian tuy có đem chia cho nông dân, nhưng ngay ở vùng tự do vẫn còn nhiều nơi chưa chia hết hoặc chia không công bằng. Ta lại chủ trương "tạm cấp", làm cho nông dân không yên tâm tǎng gia sản xuất, kém tin tưởng vào chính sách của Đảng và Chính phủ.
Ruộng công nói chung vẫn quân cấp theo chế độ cũ. Địa chủ, phú nông có thừa ruộng, song vẫn được cấp. Nhiều nơi họ lại lợi dụng địa vị trong chính quyền và Đảng ở địa phương mà giành lấy phần tốt, còn nông dân không đất hoặc thiếu đất thì không được là bao.
Nhiều địa chủ chạy vào vùng tạm bị chiếm mà ruộng của họ trong một thời gian khá lâu vẫn để nguyên cho họ hàng hay quản lý của họ phát canh thu tô, hoặc do chính quyền quản thủ thu tô. Mới đây mới chủ trương giao cho nông dân.
Tóm lại, chính sách ruộng đất không được thi hành ráo riết. Thế lực phong kiến vẫn đè lên đầu nông dân lao động. Trong khi đó nông dân phải đóng góp nhiều nhất cho kháng chiến, phải đi lính, đi dân công, đóng thuế nông nghiệp, v.v..
Cho nên vài nǎm nay, mặc dầu Đảng và Chính phủ khuyến khích, nông dân một số tỏ ra uể oải, không hǎng hái tǎng gia sản xuất, không hǎng hái tòng quân.
Còn địa chủ thì đại địa chủ nói chung đã phản quốc ra mặt, hoặc số rất ít trung lập, lờ phờ; trung, tiểu địa chủ phần nhiều trung lập, số rất ít ủng hộ kháng chiến; địa chủ nhà chung hầu hết phản động, lừng chừng.
Kháng chiến kéo dài, càng ngày số địa chủ "dinh tê" càng đông. Kẻ nào không dinh tê thì cũng phản đối chính sách ruộng đất và chính sách thuế nông nghiệp bằng cách này hay cách khác. Địa chủ kháng chiến thường có hai mặt: mặt tán thành kháng chiến và mặt chống chính sách giảm tô giảm tức, thuế nông nghiệp, v.v..
Thân sĩ địa chủ thật yêu nước và tiến bộ thì rất ít.
Chính sách của Bảo Đại, Nguyễn Vǎn Tâm chủ yếu là dựa vào địa chủ, bênh vực địa chủ, thu hút địa chủ, bóc lột, lừa phỉnh, áp bức nông dân.
Quan hệ bóc lột phong kiến và xiềng xích của đế quốc làm cho kinh tế nước ta không phát triển được. Còn quan hệ bóc lột phong kiến thì sức sản xuất ở nông thôn chưa được giải phóng, nông dân không những không hǎng hái sản xuất mà cũng không đủ phương tiện sản xuất, không đủ điều kiện cải tiến kỹ thuật để tǎng nǎng suất một cách mạnh mẽ. Sức mua hàng của nông dân, nghĩa là đa số người tiêu thụ trong nước, không được dồi dào. Công nghiệp và thương nghiệp không đủ điều kiện phát triển.
Trong lời kêu gọi nhân ngày kỷ niệm toàn quốc kháng chiến nǎm vừa qua, Hồ Chủ tịch nói:
"Gần 90 phần trǎm đồng bào là nông dân. Trong hàng ngũ Vệ quốc quân, bộ đội địa phương và dân quân du kích ta trên 90 phần trǎm là nông dân. Đóng thuế, đi dân công, phần lớn cũng là nông dân. Đồng bào nông dân đóng góp nhiều nhất cho kháng chiến, hy sinh nhiều nhất cho Tổ quốc. Thế mà đồng bào nông dân lại là những người nghèo khổ nhất, vì họ thiếu đất ruộng. Giảm tô, giảm tức là một quyền lợi chính đáng của nông dân cũng chưa thực hiện được đến nơi đến chốn. Đó là một tình trạng rất không công bằng".
Bởi vậy, nǎm nay cần phóng tay phát động quần chúng, triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức; chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng ở vùng tự do. Phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, là một bước cần thiết trong việc chuẩn bị cải cách ruộng đất.
Làm như thế chẳng những động viên nông dân hǎng hái hy sinh cho kháng chiến, đẩy mạnh tǎng gia sản xuất, củng cố được chính quyền nông thôn, mà còn lôi kéo được nguỵ binh, vì ngụy binh đa số là nông dân. Họ sẽ dễ ngả theo kháng chiến, quay lại đánh Pháp - Mỹ và lũ bù nhìn để chóng được ruộng đất. Công tác sau lưng địch, công tác nguỵ vận sẽ có kết quả tốt. Làm cho chính sách của địch "dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" bị một đòn nặng và sẽ thất bại đau đớn.
Trong mấy nǎm đầu kháng chiến ta chưa đủ điều kiện cải cách ruộng đất, thì đề ra chính sách giảm tô giảm tức và chỉ tịch thu ruộng đất của Pháp và Việt gian chia cho nông dân là đúng. Nhưng sau khi Trung Quốc đã được giải phóng và đã sắp hoàn thành cải cách ruộng đất, ta không bị bao vây nữa, thế của ta vững hơn và lực lượng ta đã mạnh lên, vùng tự do của ta tương đối ổn định, thì ta phải tiến lên một bước trong chính sách ruộng đất. Việc giảm tô giảm tức dù có làm triệt để đi nữa cũng không thể bồi dưỡng nông dân đúng mức, không thoả mãn được yêu cầu của nông dân, làm cho nông dân quyết tâm hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp kháng chiến. Vậy đã đến lúc vấn đề cải cách ruộng đất phải được đề ra và giải quyết kịp thời, đặng đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi. Không thể bỏ bễ trong khuôn khổ chính sách giảm tô, giảm tức.
Khuynh hướng thoả mãn với chính sách ruộng đất hiện tại, không dám đề ra vấn đề cải cách ruộng đất, biểu lộ tư tưởng:
- Đánh giá quá cao đối tượng hợp tác là những địa chủ kháng chiến;
- Coi thường vai trò của nông dân trong cách mạng và trong kháng chiến;
- Không nắm vững phương châm trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh.
Và như thế là lập trường, quan điểm của ta có chỗ thiếu sót.
Ta không nên áp dụng một cách máy móc chính sách ruộng đất của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong thời kỳ kháng Nhật. Lúc đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc thi hành chính sách chỉ giảm tô, giảm tức, không tịch thu ruộng đất của địa chủ là vì phải hợp tác với Tưởng Giới Thạch để chống Nhật. Tưởng Giới Thạch là đại biểu cho địa chủ phong kiến và tư sản mại bản. Hắn không tán thành chính sách cải cách ruộng đất và hắn lại có chính phủ, có quân đội. Còn ta ngày nay, không có đối tượng hợp tác mạnh như Tưởng Giới Thạch. Cho nên ta có thể tiến lên một bước.
Vả lại, lúc đó Trung Quốc bị lực lượng đế quốc, phong kiến bao vây. Còn nước ta ngày nay đã liền một khối với phe dân chủ và xã hội chủ nghĩa, đã thông với một nước dân chủ nhân dân rộng lớn là Trung Quốc.
Không dám đề ra vấn đề cải cách ruộng đất trong kháng chiến còn tỏ ra không hiểu sách lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Chưa hiểu rõ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có hai đối tượng cần phải đánh đổ là: đế quốc và phong kiến.
Có hai nhiệm vụ là: đánh đổ đế quốc và phong kiến.
Có hai tính chất là: phản đế và phản phong kiến.
Nhiệm vụ trung tâm của cách mạng lúc này là giải phóng dân tộc. Song giải phóng dân tộc tức là vừa phản đế và phản phong kiến, vì phong kiến là chỗ dựa của đế quốc xâm lược.
Chính sách kháng chiến cũng là phản đế và phản phong kiến. Nhưng vì trong kháng chiến, cần phân hoá giai cấp địa chủ, nên phản phong kiến từng bước một. Không thể chỉ phản đế mà không phản phong kiến, hoặc phản đế trước phản phong kiến sau.
Hai nhiệm vụ phản đế và phản phong kiến dính với nhau một cách mật thiết, không tách rời ra được.
Mấu chốt của cách mạng dân tộc của ta là cải cách ruộng đất. Nội dung của cách mạng dân tộc của ta cũng là cải cách ruộng đất, vì đa số dân tộc là nông dân. Nông dân là động lực lớn nhất của cách mạng nước ta.
Cách mạng dân tộc dân chủ là cách mạng nông dân. Chiến tranh giải phóng dân tộc về thực chất cũng là chiến tranh nông dân.
Trong giai đoạn đầu của cách mạng ta cũng như của cách mạng các thuộc địa và nửa thuộc địa khác, mũi nhọn của cách mạng chủ yếu chĩa vào đế quốc, như đồng chí Xtalin đã nói trong bài Bàn về Trung Quốc. Chủ yếu chĩa vào đế quốc chứ không phảichỉ chĩa vào đế quốc, phải chĩa vào phong kiến nữa.
Lãnh đạo nông dân đấu tranh chống phong kiến và đế quốc là đấu tranh giai cấp mà cũng là đấu tranh dân tộc. Đấu tranh giai cấp trong đấu tranh dân tộc và dưới hình thức đấu tranh dân tộc.
Trong Chính cương của Đảng, phần chính sách cụ thể có nói:
"Tuỳ theo điều kiện mỗi nơi mỗi lúc mà thi hành chính sách ruộng đất từng bước một và nhích dần lên... Chuẩn bị tiến tới thực hiện dần dần người cày có ruộng".
Nay đã đến lúc phải chuẩn bị thực hiện người cày có ruộng ở vùng tự do.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng phải tiến, không thể dừng ở một điểm. Dừng lại tức là lui bước. Sách lược của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là tiến từng bước một, nhằm đạt mục đích cách mạng.
Muốn kháng chiến thắng lợi, phải có Mặt trận dân tộc thống nhất. Nhưng mặt trận đó phải là mặt trận chống cả đế quốc và phong kiến, dựa trên cơ sở công nông liên minh.
Mặt trận đó phải thật rộng rãi, bao gồm tất cả những giai cấp cách mạng, những đảng phái dân chủ, những dân tộc đa số, thiểu số và kiều bào ở nước ngoài chống đế quốc xâm lược và bọn phản quốc, nhưng đồng thời cũng phải chống luôn các thế lực phong kiến nữa, vì cǎn bản phong kiến là phản động.
Trước đây mặt trận đó lôi kéo cả địa chủ, phân hoá giai cấp địa chủ. Nhưng thực hiện cải cách ruộng đất thì chẳng những gạt địa chủ ra ngoài mặt trận, mà còn đánh đổ giai cấp địa chủ, cải tạo địa chủ bằng cách buộc họ phải tham gia công tác lao động, tự làm lấy mà sống.
Phân hoá địa chủ là đúng, nhưng phải phân hoá trên cơ sở thoả mãn quyền lợi của nông dân, chứ không thể nhân nhượng với địa chủ một cách vô nguyên tắc làm cho nông dân bất mãn.
Không nghi ngờ gì hết, Đảng ta đã lập được rất nhiều thành tích đáng kể, đường lối của Đảng nói chung là đúng; nhưng về vấn đề ruộng đất, ta phải nhận rằng có chỗ thiếu sót, sai lầm như:
- Tạm cấp ruộng đất của Pháp và Việt gian, không cấp hẳn;
- Chậm ra sắc lệnh thủ tiêu chế độ công điền cũ và sử dụng công điền cho hợp lý );
- Không dám phóng tay phát động quần chúng nông dân để thực hiện triệt để chính sách ruộng đất;
- Chậm đề ra vấn đề cải cách ruộng đất theo mục tiêu của kháng chiến và của cách mạng.
*
*    *
Nǎm nay phát động quần chúng triệt để thi hành giảm tô, thực hiện giảm tức, chuẩn bị sang nǎm cải cách ruộng đất ở vùng tự do, nên Hội nghị Trung ương lần này thảo luận:
- Công tác phát động quần chúng nǎm nay,
- Dự thảo cương lĩnh cải cách ruộng đất sang nǎm.
Bản dự thảo cương lĩnh này sẽ đem thảo luận trong toàn Đảng. Các cấp đảng, các địa phương tham gia ý kiến, gửi về Trung ương. Trung ương sẽ triệu tập hội nghị đại biểu toàn quốc quyết định vấn đề cải cách ruộng đất, thông qua cương lĩnh đó, bổ sung chính sách cụ thể trong chính cương của Đảng và thảo luận vấn đề phát động quần chúng sang nǎm đặng thực hiện cải cách ruộng đất ở vùng tự do.
Chính sách cải cách ruộng đất của ta có thể tóm tắt như sau:
- Triệt để tịch thu không bồi thường ruộng đất của đế quốc và Việt gian;
- Trưng thu ruộng đất công;
- Trưng mua ruộng đất của địa chủ chưa từng hợp tác với địch, để lại cho họ một phần đủ tự làm mà sống. Không đụng đến công thương nghiệp của họ.
Khi phát động quần chúng nông dân, đối với địa chủ nào nông dân yêu cầu tịch thu không bồi thường thì Chính phủ xét và phê chuẩn.
Địa chủ nào phản đối sẽ bị đánh đổ.
Không đụng chạm đến phú nông.
Ruộng tôn giáo (nhà chung, chùa, v.v.) thì tuỳ trường hợp mà xử trí, hoặc trưng mua, trưng thu hay tịch thu.
Nhưng trong trường hợp nào cũng để lại cho nhà chung và chùa một phần để thờ cúng.
Vùng thiểu số cũng như vùng cǎn cứ du kích nào có đủ ba điều kiện dưới đây thì cũng có thể thi hành cải cách ruộng đất:
a) Tình hình quân sự và chính trị tương đối vững,
b) Đa số nhân dân yêu cầu,
c) Có đủ cán bộ thi hành.
Song không nên vội, làm sau cũng được.
Chia hẳn những ruộng đất đó cho nông dân không đất hoặc ít đất tuỳ theo nhân khẩu của mỗi gia đình.
Cần chia cho cả chiến sĩ, thương binh, bệnh binh và liệt sĩ nữa.
Mục đích cải cách ruộng đất là đánh đổ phong kiến địa chủ ở vùng tự do, thoả mãn yêu cầu chính đáng về ruộng đất của nông dân, giành ưu thế chính trị hoàn toàn cho nông dân, đoàn kết nông thôn, đoàn kết kháng chiến, phát triển sản xuất.
Phương châm là phóng tay phát động quần chúng đấu tranh với địa chủ, không làm thay và ban ơn cho nông dân. Song làm theo vết dầu loang, có kế hoạch, có lãnh đạo, không làm vội, không theo đuôi phong trào.
Thi hành cải cách ruộng đất thì sẽ mang lại ảnh hưởng tốt cho kháng chiến, đẩy kháng chiến tiến mạnh.
Trung ương và toàn Đảng phải đặc biệt chú trọng vấn đề này.
Chính sách ruộng đất của Đảng phải được quy định rõ ràng, chính xác. Cán bộ phải học tập chính sách, được đánh thông tư tưởng để hǎng hái thi hành.
IV. Phương hướng chiến lược mới
và vấn đề chỉ đạo chiến tranh
Hình thế chiến tranh giữa ta và địch hiện nay đại khái như sau:
Ta và địch đang ở giai đoạn cầm cự. Song ta tích cực cầm cự với địch. Từ Chiến dịch Biên Giới 1950 đến nay, nói chung ta vẫn giữ quyền chủ động trên chiến trường chính là Bắc Bộ.
Đánh ra Hoà Bình, địch toan giành lại quyền đó, nhưng chúng đã thất bại đau đớn. Chiến dịch Tây Bắc vừa rồi càng tỏ ra địch bị động phòng ngự ở Bắc Bộ.
Trên các chiến trường Trung và Nam, cũng như ở đồng bằng Bắc Bộ, địch vẫn chủ động trong các chiến dịch càn quét và quấy rối ta, nhưng ta chủ động trong chiến thuật, vì ta đánh du kích.
Về mặt khác, nói chung, hai nǎm nay địch không những không mở rộng mà còn phải rút hẹp phạm vi chiếm đóng ở Bắc Bộ và phía bắc sông Gianh. ở vùng sau lưng địch tại Bắc Bộ và Nam Bộ, du kích ta phát triển. Nhiều cǎn cứ du kích của ta thành lập sau lưng địch.
Lực lượng của ta phát triển không đều. ở Bắc Bộ, chủ lực ta trưởng thành nhanh chóng, nhưng chủ lực địa phương và dân quân du kích Trung Bộ, Nam Bộ không phát triển được mấy, nên không làm tròn được nhiệm vụ kiềm chế, phân tán lực lượng địch. Vì vậy địch có thể tập trung ở Bắc Bộ đến 2/3 số quân đội ở Đông Dương để đối phó với ta. Trên các chiến trường Trung, Nam, Lào, Miên chúng sơ hở nhiều. Đồng bằng Bắc Bộ là chỗ cứng của địch. Các chiến trường khác là chỗ địch tương đối mềm.
Cǎn cứ vào tình hình trên đây, phương hướng chiến lược của ta là nhằm phía nam mà phát triển, tìm chỗ địch yếu mà đánh, bắt địch phải phân tán lực lượng để ứng phó với ta. Do đó ta tạo dần điều kiện tiến tới giải phóng đồng bằng Bắc Bộ.
Hướng về phía nam mà phát triển không có nghĩa là không đánh ở đồng bằng Bắc Bộ. Trái lại, vẫn tǎng cường tác chiến ở Bắc Bộ, tiếp tục phát triển du kích sau lưng địch ở đồng bằng, tiếp tục mở rộng vùng du kích và cǎn cứ du kích sau lưng địch, tiến tới dần dần rút hẹp vùng tạm bị chiếm. Điều kiện thuận lợi thì có thể tập trung chủ lực giải phóng thị trấn nhỏ. Khi nào có đủ điều kiện sẽ giải phóng toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ.
*
*   *
Về vấn đề chỉ đạo chiến tranh, phương châm chung của cuộc chiến tranh giải phóng của ta làtrường kỳ kháng chiến tự lực cánh sinh. Ta không chủ quan, khinh địch, không nóng vội, không mạo hiểm. Đánh ǎn chắc, tiến ǎn chắc. Chắc thắng thì kiên quyết đánh cho kỳ thắng. Không chắc thắng thì kiên quyết không đánh. Nếu chủ quan, mạo hiểm mà một lần thua nặng, thì sẽ tai hại lớn.
Chiến trường của ta hẹp, người của ta không nhiều, nên nói chung ta chỉ có thắng chứ không được bại, vì bại thì hết vốn. Ta lại phải mở rộng địa bàn hoạt động, mở rộng cǎn cứ địa, phát triển du kích và mở rộng cǎn cứ du kích sau lưng địch; không để cho địch bao vây, bóp nghẹt ta.
Bởi vậy, về chiến lược, chủ lực của ta phải lấy vận động chiến làm chính, nhưng vận động chiến cơ động, linh hoạt. Dùng vận động chiến cơ động, linh hoạt tiêu diệt từng miếng một của địch, không phải đánh ào ạt, tiêu diệt luôn một lượt. Dùng sức mạnh hơn địch tiêu diệt sinh lực địch một cách giòn giã trong từng trận, không đánh tiêu hao, không đánh tan. Song cũng phải có một bộ phận dùng công kiên chiến tiêu diệt địch, nhổ cứ điểm của địch. Nếu không có một bộ phận công kiên thì không giải phóng được đất đai, không mở rộng được cǎn cứ địa. Trong vận động chiến, tìm cơ hội công kiên. Công kiên chiến tạo điều kiện cho vận động chiến. Phòng tuyến địch có thể ví như một chuỗi dây xích. Tìm trong phòng tuyến đó, chỗ nào mắt xích mỏng, tập trung lực lượng đánh thủng mắt đó, làm cho cả phòng tuyến của địch có thể tan vỡ. Trận Đông Khê là một thí dụ cụ thể.
Quân ta được rèn luyện trong công kiên, dần dần trưởng thành trong công kiên, sau mới giải phóng được những thành thị lớn.
Sau lưng địch, ta phải tích cực mở rộng du kích, kiềm chế địch, tiêu hao địch, làm cho địch mỏi mệt, phân tán, không cho chúng tập trung đánh ta ở một nơi. Trong khi ấy, chủ lực ta tập trung đánh địch ở chỗ ta đã chọn để quyết thắng. Ta có thể và cần cho một phần chủ lực luồn vào sau lưng địch, cùng du kích địa phương hoạt động, dựng lại cơ sở, phá nguỵ quyền, phối hợp tác chiến với chủ lực ta ở các chiến trường khác.
Việc phối hợp chặt chẽ giữa chiến trường trước mặt địch và chiến trường sau lưng địch có tác dụng rất lớn. Chiến dịch Thu Đông nǎm 1951 và Chiến dịch Thu Đông vừa rồi đã chỉ rõ.
Du kích sau lưng địch là một hình thức đấu tranh tích cực để phá kế hoạch của địch "dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh".
Cǎn cứ địa cũng như cǎn cứ du kích, phải được luôn luôn củng cố và mở rộng. Củng cố cơ sở quần chúng, củng cố chính quyền, mang lại lợi ích thực tế cho quần chúng. Phát triển và củng cố dân quân, tổ chức canh gác nghiêm mật, phong toả tin tức đối với địch, đề phòng đặc vụ và bảo vệ quyền lợi cho dân.
Dân quân được vũ trang, huấn luyện, nhưng không thoát ly sản xuất. Muốn tổ chức dân quân một cách rộng khắp, phải có điều kiện: nhân dân được hưởng quyền lợi thiết thực, về chính trị được tự do dân chủ, về kinh tế làm ǎn được dễ dàng.
Những cǎn cứ địa lớn của ta phần nhiều ở các vùng dân tộc thiểu số. Cho nên muốn củng cố những cǎn cứ địa đó, chính sách dân tộc của Đảng và Chính phủ càng phải đúng đắn, rõ ràng. Phải dựa vào sự giúp đỡ của quần chúng nhân dân thiểu số mà quét phỉ, trừ gian.
Về công tác chính trị trong quân đội, cần đề cao ý thức giai cấp và trình độ giác ngộ chính trị của quân đội. Quân đội phải có mục tiêu chiến đấu rõ rệt: Việt Nam độc lập, người cày có ruộng, tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Cho nên chẳng những phải giáo dục cho quân đội chính sách cụ thể của Đảng và Chính phủ, mà còn phải giáo dục đường lối cách mạng Việt Nam. Cán bộ chỉ huy phải được giáo dục thêm về chủ nghĩa Mác - Lênin.
Quân đội, trước hết là cán bộ chỉ huy, phải toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân lao động, sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp của nhân dân lao động.
Đảng phải phái vào quân đội những cán bộ rất tốt của Đảng để chỉ huy quân đội.
Quân đội phải triệt để chấp hành chính sách của Đảng và Chính phủ, tích cực tham gia việc thi hành chính sách đó.
Nǎm nay, quân đội đóng ở vùng tự do phải tích cực tham gia phát động quần chúng, thi hành chính sách ruộng đất của Đảng và Chính phủ, đứng về phe nông dân, ủng hộ nông dân đấu tranh giành quyền lợi chính đáng.
Quân đội của ta là quân đội cách mạng của nhân dân, nên phải được giác ngộ chính trị và phải có kỷ luật rất nghiêm, kỷ luật tự giác, giữ vững chính sách và kỷ luật là một điều rất quan trọng của quân đội cách mạng.
Đề cao giác ngộ chính trị, giữ vững chính sách và kỷ luật, đó là điều cốt yếu đảm bảo quân dân nhất trí, cán bộ và đội viên nhất trí, đảm bảo công tác làm tan rã quân nguỵ và quân địch.
Một điều cần đặc biệt chú ý là phải gia cường lãnh đạo của Đảng trong quân đội.
Sự lãnh đạo đó cần thực hiện trên cơ sở dân chủ chính trị, dân chủ kinh tế và dân chủ quân sự.
Cần định kỳ hạn họp đại hội đại biểu của quân đội để cho đại biểu các đơn vị có dịp trực tiếp phản ánh tình hình cụ thể bên dưới, để quần chúng giáo dục quần chúng. Công tác chính trị trong quân đội không phải chỉ có một số người làm mà chính là quần chúng đội viên cùng làm.
Về công tác quân sự, tôi đề ra hai vấn đề:
- Huấn luyện quân đội,
- Xây dựng quân đội.
Về việc huấn luyện quân đội, mục đích huấn luyện là nâng cao mức chính trị và kỹ thuật của cán bộ và của toàn quân:
Phương pháp huấn luyện là kết hợp lý luận với thực hành và luân lưu huấn luyện.
Phải lợi dụng thời gian giữa hai chiến dịch mà huấn luyện quân đội, nếu không thì thắng dễ sinh kiêu, bại dễ sinh nản. Sau mỗi chiến dịch, phải có kế hoạch công tác mới, kết hợp chỉnh huấn với dân vận.
Trong việc huấn luyện quân đội, phải đặc biệt chú trọng bồi dưỡng cán bộ thành phần công nông. Không nên thấy họ kém vǎn hoá mà thải họ ra ngoài quân đội. Họ kém vǎn hoá, nhưng lập trường, tư tưởng của họ nói chung là vững. Phải dìu dắt, sǎn sóc, giáo dục họ, cũng như phải cất nhắc họ.
Những đơn vị chủ lực vào sau lưng địch cũng phải thay phiên nhau ra vùng tự do chỉnh huấn. Cũng có thể cứ ở lại sau lưng địch, song tranh thủ thời gian giữa hai chiến dịch hay chiến đấu mà huấn luyện chính trị và kỹ thuật cho cán bộ và đội viên.
Đi đôi với việc thi hành chính sách ruộng đất, ta theo đúng phương hướng chiến lược và phương châm chỉ đạo chiến tranh trên đây thì thắng lợi quân sự sẽ nắm chắc.
Các cán bộ Đảng và quân đội phải quyết tâm khắc phục khó khǎn thực hiện phương hướng chiến lược mới, và thấm nhuần phương châm chỉ đạo chiến tranh nói trên.
Về xây dựng quân đội, việc mở rộng và bổ sung quân đội cần có kế hoạch đầy đủ, mọi mặt.
Bộ Tư lệnh (gồm Bộ Tổng tham mưu ở trong) và Tổng cục cung cấp phải được tǎng cường, để đảm bảo việc chấp hành đúng phương châm chỉ đạo chiến tranh và phương hướng chiến lược mới.
Với số quân ta hiện nay, mỗi nǎm phải bổ sung hàng vạn, lại phải xây dựng những đơn vị mới. Vậy mà vùng tự do của ta dân không đông mấy. Địch lại ra sức xây dựng nguỵ quân. Cho nên tǎng cường nguỵ vận, tranh thủ nguỵ quân, chọn lọc, cải tạo ngụy quân ta bắt được đặng bổ sung cho quân đội ta, đó làmột nhiệm vụ chiến lược.
Nguỵ quân phần nhiều là nông dân. Họ ở trong quần chúng cơ bản của ta mà ra. Ta phải ra sức vận động họ. Chẳng những tranh thủ binh sĩ nguỵ mà cả sĩ quan nguỵ nữa, nhất là hạ sĩ quan.
Bởi vậy phải tǎng cường cơ quan nguỵ vận, địch vận và có kế hoạch thu phục nguỵ quân.
Về việc lập những đơn vị mới, lấy dân quân du kích vào quân chính quy là đúng, nhưng lấy từng phần một, không nên rút hết du kích ở một nơi cho vào quân chính quy, vì như thế thì sẽ mất cơ sở tổ chức của du kích địa phương; không nên tổ chức những đơn vị hoàn toàn mới, mà nên tổ chức một phần mới, một phần cũ. Khi tác chiến, cần bố trí lực lượng cho đúng, đơn vị cũ đánh chỗ khó, đơn vị mới đánh chỗ dễ.
Cần phái cán bộ tốt của chủ lực vào chỉ huy những đơn vị mới.
V. Công tác nǎm nay
Những công tác chính Hồ Chủ tịch và Trung ương đề ra cho nǎm 1952, ta đã thi hành đến đâu và thi hành thế nào? Dưới đây là kiểm điểm tóm tắt việc thi hành những công tác đó:
1. Việc vận động nhân dân tǎng gia sản xuất và tiết kiệm đã có kết quả. Nhân dân hoan nghênh chính sách của Đảng, Chính phủ và Mặt trận. ở nhiều nơi, diện tích cày cấy tǎng thêm, nhân dân chú ý cải tiến cách trồng trọt để tǎng nǎng suất. Vùng du kích và cǎn cứ du kích cấy lại được nhiều ruộng mà mấy nǎm trước phải bỏ hoang.
2. Về chỉnh quân và tác chiến, nǎm vừa qua, ta cũng đạt được những thành tích quan trọng.
Chỉnh huấn chính trị đã nâng cao được trình độ giác ngộ chính trị của cán bộ và chiến sĩ, làm tǎng sức chiến đấu của quân đội ta.
Chỉnh huấn quân sự có tiến bộ, song cũng cho ta thấy rõ trình độ chiến thuật, kỹ thuật và sự hiểu biết về chiến lược của quân đội ta còn kém so với yêu cầu của nhiệm vụ.
Về tác chiến, trên chiến trường Bắc Bộ, ta đã đánh địch những đòn nặng, làm cho địch càng đi sâu vào thế bị động phòng ngự. Đầu nǎm ngoái, quân ta thắng lớn trong Chiến dịch Hoà Bình, thu đông này, quân ta lại thắng lớn trên chiến trường Tây Bắc. Sinh lực địch bị tiêu diệt nặng, vùng tự do của ta mở rộng, du kích ở đồng bằng Bắc Bộ phát triển, chống càn quét có kết quả. Đồng thời, ở biên giới Việt - Hoa, quân ta đã gần dẹp xong thổ phỉ.
3. Về công tác sau lưng địch, trong một nǎm qua, ta đã thu được ít nhiều thành tích. Mặt trận sau lưng địch của ta ngày càng trở nên quan trọng, và có nơi thường xuyên uy hiếp được địch.
4. Công tác chỉnh Đảng bắt đầu từ tháng 5-1952 đã đem lại nhiều kết quả tốt. Qua hai khóa chỉnh huấn cán bộ, Trung ương đã thấy rõ hơn những sai lầm về tư tưởng và chính trị của cán bộ, thấy rõ tình hình thi hành chính sách của Đảng và Chính phủ ở các địa phương.
Sau khi được chỉnh huấn, nói chung trình độ cán bộ ta được nâng cao về tư tưởng, lập trường và kỷ luật. Trung ương cũng sáng thêm nhiều vấn đề thuộc về lý luận và chính sách, hiểu thêm cán bộ, hiểu thêm phương pháp xây dựng và củng cố Đảng, thấy rõ hơn những thiếu sót trong sự lãnh đạo của Trung ương và các cấp.
Ngoài những công tác chính trên đây, tháng 5 nǎm vừa qua, ta đã mở Đại hội toàn quốc các chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu để tổng kết kinh nghiệm thi đua bầu anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn quốc.
Nǎm vừa qua, Trung ương và Chính phủ đã cử đồng chí Nguyễn Lương Bằng sang làm Đại sứ ở Liên Xôvà đổi Đoàn đại biểu Việt Nam ở Trung Quốc thành Đại sứ, đồng thời các cuộc hội nghị quốc tế quan trọng như Hội nghị kinh tế quốc tế ở Mạc Tư Khoa, Hội nghị hoà bình châu á và Thái Bình Dương ở Bắc Kinh, Đại hội hoà bình của các dân tộc ở Viên đều có đại biểu của nhân dân ta tham dự. Đó là những cố gắng và tiến bộ của ta về mặt củng cố ngoại giao với các nước bạn và tham gia phong trào bảo vệ hoà bình thế giới.
Song ngoài những ưu điểm trên, chúng ta còn có những khuyết điểm và nhược điểm dưới đây:
1. Cuộc kháng chiến của ta mấy nǎm nay tuy tiến bộ nhiều nhưng còn phải trường kỳ gian khổ. Trước việc xúc tiến kế hoạch chuẩn bị chiến tranh thứ ba của bọn đế quốc, chúng ta còn gặp thêm nhiều khó khǎn. Bởi vậy, ta phải làm cho cán bộ và quần chúng nhân dân hiểu rõ đầy đủ cuộc kháng chiến của ta còn trường kỳ và gian khổ mà ra sức khắc phục những nhược điểm và khuyết điểm của ta.
2. Cuộc kháng chiến của ta phát triển không đều. Từ Chiến dịch Biên Giới (1950), nói chung ta đã giành được chủ động trên chiến trường Bắc Bộ, nhưng địch vẫn giữ chủ động trên chiến trường Trung và Nam. Các chiến trường phụ chưa thấy rõ vị trí của mình với chiến trường chính, chưa thấy rõ đầy đủ vị trí mình trong chiến lược chung để có thể phối hợp đúng mức, làm yếu thêm giặc, giành thêm chủ động cho ta.
3. Một nǎm nay, ta đã nắm vững phương châm tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng, tích trữ lực lượng của ta và đã thu được nhiều kết quả. Nhưng với chính sách của địch dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, ta chưa phát động được đầy đủ quảng đại quần chúng nhân dân sâu sắc, thường xuyên chống lại. Du kích chiến tranh chưa mạnh mẽ; công tác nguỵ vận còn kém; nên chưa phá được chính sách của địch. Ta còn phải cố gắng nhiều hơn nữa.
Cuộc đấu tranh giữa ta và địch ngày càng gay go, tàn khốc và phức tạp, thì trong hàng ngũ địch sẽ và đã có biến hóa (thí dụ: tinh thần quân đội địch và ngụy mỏi mệt, bạc nhược, khuynh hướng giảng hoà phát sinh trong một số tư bản Pháp, v.v.); đó là điều kiện rất có lợi cho ta, nhưng ta chưa lợi dụng hết những điều kiện thuận lợi đó.
4. Kháng chiến kéo dài, quần chúng nhân dân phải đóng góp nhiều mà chưa được bồi dưỡng đúng mức. Ta chưa phát động quần chúng một cách rộng rãi, để thực hiện đúng việc giảm tô, giảm tức, chưa phát triển đúng phong trào sản xuất; do đó chưa phát huy được những khả nǎng và sáng kiến của quần chúng nhân dân, chưa giành được ưu thế chính trị cho quần chúng cơ bản ở nông thôn. Vì những lẽ đó, nên hiện nay trong quần chúng có một số uể oải, tinh thần tham gia kháng chiến, tǎng gia sản xuất không được tích cực như trước. Chính quyền ở nông thôn nhiều nơi chưa đúng là chính quyền dân chủ của nhân dân. Người dân không những bị thiệt về kinh tế mà cũng không có quyền về chính trị. Một vài nơi bọn phản động lợi dụng tình hình đó hoạt động chống lại kháng chiến, chống lại nhân dân (như mấy xã ở Nghệ An và Thanh Hoá - Liên khu 4).
5. Một mâu thuẫn chính của phong trào ta hiện nay là chủ trương đường lối của Đảng và Chính phủ nói chung là đúng, phương châm chính sách dần dần cụ thể hơn. Nhưng vì tư tưởng và thành phần cán bộ và đảng viên các cấp, nhất là cấp xã, không thuần khiết. Cán bộ công nông trong bộ máy chính quyền và bộ máy chuyên môn chưa chiếm được ưu thế, nên nhiều chủ trương, chính sách không được chấp hành một cách đầy đủ. Việc chỉnh huấn chính trị nǎm nay đã mang lại kết quả tốt, nhưng vì chưa làm đến tận cơ sở và mới chỉnh đốn tư tưởng, chưa chỉnh đốn tổ chức, nên kết quả chưa được nhiều. Thành phần của tổ chức phức tạp là một vấn đề nghiêm trọng: các cấp chỉ đạo, nhất là ở cấp xã, phần nhiều nằm trong tay địa chủ, cường hào hoặc con cái họ. Chính những thành phần đó đã làm cho nhiều chính sách không thể thông suốt từ trên đến dưới và nhiều nhiệm vụ không được hoàn thành, làm thiệt hại rất lớn đến quyền lợi nhân dân, đến công cuộc kháng chiến và ảnh hưởng không tốt đến việc củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng.
6. Trải qua cuộc chỉnh huấn chính trị trong quân đội, trình độ chính trị và tư tưởng của bộ đội và cán bộ được đề cao một bậc. Cuộc chỉnh huấn chính trị đó đã bộc lộ tình hình tư tưởng và lập trường của cán bộ là chưa quyết tâm phục vụ công nông, không đi sát công nông, không nhận định đúng vai trò lãnh đạo của Đảng trong bộ đội, có khuynh hướng hữu khuynh và tốc thắng, thành phần công, nông trong bộ đội chưa được đào tạo, đề bạt đúng mức, ý thức giai cấp trong bộ đội chưa được xây dựng củng cố đầy đủ. Đó là một trở ngại lớn trước mắt khiến cho quân đội ta không thể tiến mau được. Đồng thời, biên chế tổ chức, chế độ công tác còn nhiều chỗ không hợp với nguyên tắc chiến thuật và yêu cầu khách quan (như tỷ lệ nhân viên cơ quan hậu phương và bộ đội chiến đấu là 1 với 3; vũ khí nặng thì nhiều, lực lượng đột kích thì quá yếu, v.v.).
7. Thực hiện đại đoàn kết kháng chiến trường kỳ là một thành tích quan trọng của phong trào ta. Nhưng từ trước đến nay ta chưa nắm vững cơ sở mặt trận là công nông. Trong khi vận dụng chính sách mặt trận, ta không biết đấu tranh với bọn ngoan cố, để củng cố cơ sở mặt trận, chưa nhận rõ có đấu tranh với bọn ngoan cố, có củng cố được cơ sở công nông mới tranh thủ được lực lượng trung gian; ta thiên về đoàn kết địa chủ kháng chiến mà coi nhẹ việc làm yếu giai cấp địa chủ, coi nhẹ bồi dưỡng lực lượng của nông dân. Coi nhẹ việc củng cố công nông liên minh, tức là coi nhẹ việc củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng.
*
*   *
Cǎn cứ vào tình hình hiện tại, cǎn cứ vào nhiệm vụ chuẩn bị cải cách ruộng đất và chuyển theo phương hướng chiến lược mới, nǎm nay ta vẫn phải tiếp tục tiến hành bốn công tác chính của nǎm ngoái:
a) Tǎng gia sản xuất và tiết kiệm,
b) Tác chiến và chỉnh quân,
c) Tǎng cường công tác sau lưng địch,
d) Chỉnh Đảng.
Và làm thêm một công tác trọng tâm mới là: "phát động quần chúng, chỉnh đốn công tác quần chúng".
Trong bài diễn vǎn khai mạc, Hồ Chủ tịch đã nói:
Nǎm nay, chúng ta phải kiên quyết thực hiện giảm tô, giảm tức triệt để.
Muốn vậy phải ra sức phát động quần chúng nông dân, làm cho quần chúng tự giác, tự nguyện đứng ra đấu tranh cho kỳ được. Đảng và Chính phủ phải lãnh đạo, tổ chức, giúp đỡ, kiểm tra.
Bởi vậy, nǎm nay, từ Liên khu 4 trở ra phải phát động quần chúng triệt để thi hành chính sách ruộng đất của Đảng và Chính phủ hiện nay.
Liên khu 5 và Nam Bộ, vì chỉnh Đảng chậm nên phát động quần chúng chậm hơn một chút.
A. Phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức và chỉnh đốn công tác quần chúng
1. Công tác trọng tâm của ta nǎm nay là phát động quần chúng nông dân, nhằm mục đích:
Đánh đổ thế lực phản động, làm yếu thế lực phong kiến, thoả mãn thích đáng yêu cầu kinh tế cho nông dân lao động, thực hiện ưu thế chính trị của Đảng và của quần chúng cơ bản ở nông thôn; củng cố chi bộ, củng cố Hội Nông dân cứu quốc, củng cố chính quyền địa phương (bao gồm Uỷ ban kháng chiến hành chính, dân quân và công an xã), củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất ở nông thôn, chuẩn bị điều kiện cải cách ruộng đất, đẩy mạnh sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến.
2. Nội dung phát động quần chúng là lãnh đạo nông dân đấu tranh đánh đổ Việt gian, cường hào gian ác, triệt để giảm tô (bao gồm thoái tô), thực hiện giảm tức; chia ruộng đất của Pháp và Việt gian cho nông dân không có đất hoặc ít đất; chia công điền và sử dụng ruộng nửa công nửa tư một cách công bằng; sử dụng hợp lý ruộng vắng chủ; xoá bỏ quyền chiếm hữu vô lý về rừng núi, đất hoang, bãi sa bồi. Điều tra lại ruộng ẩn nặc, bình nghị sản lượng một cách công bằng, sửa chữa những hiện tượng đóng góp quá nặng hoặc quá nhẹ. Trong những chính sách trên đây, nǎm nay phải giữ vững: triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, không được làm quá, trừ trường hợp đặc biệt phải xin chỉ thị của Trung ương.
Trong quá trình phát động quần chúng, cần chỉnh đốn chi bộ, Hội Nông dân cứu quốc, chính quyền và Mặt trận Liên Việt địa phương.
Phát động quần chúng chủ yếu là ở vùng tự do. Còn vùng cǎn cứ du kích thì tuỳ điều kiện mà định, nhưng yêu cầu và hình thức thấp hơn.
3. Phương châm của ta là: phóng tay phát động quần chúng theo đúng đường lối quần chúng; dựa vào đông đảo quần chúng mà vận động quần chúng đấu tranh giành lấy quyền lợi.
Để thực hiện phương châm trên, phải nắm vững mấy nguyên tắc dưới đây:
a) Cǎn cứ vào nguyện vọng tha thiết trước mắt của số đông quần chúng ở địa phương mà đưa ra khẩu hiệu đấu tranh cho thích hợp;
b) Kiên nhẫn giáo dục quần chúng, làm cho quần chúng đông đảo tự giác, tự nguyện đấu tranh, tuyệt đối không mệnh lệnh, không làm thay, không ban ơn;
c) Phải tìm ra những phần tử trung kiên làm cốt cán giúp Đảng lãnh đạo phong trào;
d) Phát động quần chúng nông dân cả nam và nữ, chỉnh đốn Hội Nông dân cứu quốc mạnh mẽ để làm nòng cốt cho phong trào.
4. Sách lược chung của Đảng đối với các tầng lớp ở nông thôn trong cuộc phát động quần chúng này là: dựa vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, trung lập phú nông, đấu tranh với địa chủ, đánh đổ Việt gian, phản động.
5. Sách lược đấu tranh với địa chủ trong cuộc phát động quần chúng này là: vừa đánh, vừa kéo, trong kéo có đánh, trong đánh có kéo, trước đánh sau kéo.
6. Để cho cuộc phát động quần chúng nǎm nay có kết quả tốt, ngay từ giờ phải chuẩn bị ráo riết về mọi mặt. Công tác chuẩn bị bao gồm những việc dưới đây:
a) Điều tra: Điều tra tình hình thi hành chính sách ruộng đất của Đảng và Chính phủ, thế lực địch, nguỵ; thế lực phong kiến, phản động, tình hình chi bộ, Hội Nông dân cứu quốc, chính quyền và Liên Việt xã, v.v. xét rõ thành phần các tổ chức đó, tình hình tư tưởng và tác phong của cán bộ xã, v.v..
b) Chuẩn bị chính sách: Chính phủ ra một sắc luật ruộng đất nhằm dùng khẩu hiệu chính nǎm nay là: triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức. Trung ương ra một chỉ thị phát động quần chúng và định rõ cương lĩnh đấu tranh của nông dân, định rõ kỷ luật cho cán bộ thi hành chính sách ruộng đất.
Những sắc luật, chỉ thị nói trên vừa làm kim chỉ nam, vừa làm chỗ dựa cho phong trào quần chúng.
c) Chuẩn bị tư tưởng: Tuyên truyền, giáo dục, phổ biến rộng rãi chính sách ruộng đất, đánh thông tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; chống những tư tưởng ngǎn trở phát động quần chúng như sợ hại đến đoàn kết, sợ địa chủ chống lại, hoặc khinh thường giai cấp địa chủ Việt Nam, hoặc bi quan với tình hình cơ sở không dám phát động quần chúng, v.v..
d) Chuẩn bị tổ chức: Tập trung cán bộ huấn luyện chính sách và tổ chức thành những đoàn chỉ đạo riêng giúp địa phương phát động quần chúng và giúp Trung ương chỉ đạo phong trào quần chúng.
7. Khi phát động quần chúng, cần nắm vững phương pháp lãnh đạo gồm mấy điểm như sau:
a) Phát triển phong trào theo lối "vết dầu loang" và kết hợp chỉ đạo một điểm với lãnh đạo toàn diện:
Các đoàn chỉ đạo riêng của Trung ương phối hợp với các đoàn của khu và tỉnh về một số xã điển hình, thực nghiệm trước, rút kinh nghiệm rồi lan dần ra các xã khác theo lối "vết dầu loang". Nếu không thí nghiệm điển hình thì cán bộ không có kinh nghiệm, cấp trên không nắm vững được lãnh đạo, dễ mắc phải sai lầm. Trong khi phát triển "vết dầu loang", vẫn phải nắm một số xã làm trọng điểm để lấy kinh nghiệm chỉ đạo các nơi khác. Tránh lối làm ào một lượt, hoặc đợi cho thật đầy đủ kinh nghiệm mới chịu phát triển ra bề rộng.
b) Kết hợp các hình thức đấu tranh:
Đấu tranh phải có phân biệt, tuỳ theo đối tượng lớn, nhỏ và tính chất của từng loại mà liên kết các hình thức đấu tranh như: đấu lý (cǎn cứ vào thực tế mà bẻ gẫy những lý lẽ quanh co của địa chủ); đấu lực (dùng lực lượng quần chúng bắt địa chủ phải khuất phục); đấu pháp (dùng pháp luật của chính quyền mà xử trí bọn gian ác, ngoan cố).
Phương pháp tốt nhất để áp dụng các hình thức đấu tranh trên là mở các hội nghị tố khổ, để quần chúng vạch tội ác của địa chủ, đánh đổ uy thế của địa chủ, làm tǎng uy thế của nông dân, giáo dục và phát triển ý thức giai cấp cho nông dân lao động.
Trong lúc đấu tranh, tuyệt đối không được tra tấn, đánh ẩu, giết ẩu.
c) Tổ chức tập đoàn lãnh đạo của nông dân:
Uỷ ban nông dân và chủ tịch đoàn do hội nghị đại biểu nông dân bầu ra, là cơ quan tập trung mọi quyền lực ở xã trong thời kỳ phát động quần chúng để thi hành chính sách ruộng đất. ở mỗi xã, chọn những đảng viên, hội viên nông hội và quần chúng thuộc thành phần bần cố nông tích cực nhất để quần chúng chọn và bầu vào uỷ ban nông dân và chủ tịch đoàn ở thôn hoặc xã.
Chú ý:Những tá điền tích cực, hǎng hái thuộc thành phần trung nông lớp dưới cũng có thể được bầu vào chủ tịch đoàn.
d) Kết hợp công tác:
Công tác phát động quần chúng là công tác trọng tâm trong nǎm nay. Các ngành đảng, chính, dân từ trung ương đến chi bộ phải thống nhất thực hiện kế hoạch phát động quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mỗi ngành đều có kế hoạch công tác cụ thể xoay quanh công tác trọng tâm là công tác phát động quần chúng, nắm vững lịch công tác chung để thực hiện công tác chính của ngành mình; lấy việc phát động quần chúng để đẩy tiến công tác và chỉnh đốn tổ chức của ngành mình; các cấp lãnh đạo của Đảng cǎn cứ vào trọng tâm và lịch công tác chung mà kiểm tra, đôn đốc các ngành. Không được khoán trắng cho nông hội hoặc phó mặc cho đoàn cán bộ do cấp trên phái về.
Trên đây là những điểm lớn trong công tác phát động quần chúng. Các cán bộ của Đảng từ trên xuống dưới phải hiểu rõ những điểm lớn đó và cố tranh thủ trong nǎm nay, cǎn bản phải làm xong triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức.
B. Vận động tǎng gia sản xuất, tiết kiệm và chấn chỉnh công tác kinh tế tài chính
Nhiệm vụ công tác kinh tế tài chính của ta trong nǎm nay là:
- Tiếp tục vận động nhân dân tǎng gia sản xuất và tiết kiệm, kết hợp với việc phát động quần chúng;
- Tiến tới thực hiện thǎng bằng thu chi để giải quyết những khó khǎn về ngân sách, bình ổn vật giá, tạo điều kiện phát triển sản xuất mạnh hơn.
Hướng sản xuất nông nghiệp vẫn là lúa, bông, lạc, đỗ; nhưng cũng phải chú trọng trồng nhiều ngô, khoai, sắn đề phòng thiên tai và địch phá hoại. Phải tỉnh táo đề phòng địch thả sâu phá hoại mùa màng. Phát triển chǎn nuôi gia súc và khai thác lâm sản, thổ sản.
Phải tích cực tổ chức, lãnh đạo và giúp đỡ quần chúng sản xuất, khắc phục khó khǎn vì thiên tai, và địch phá, vì thiếu nhân công, trâu bò, nông cụ; giúp đỡ và chỉ đạo quần chúng dần dần cải tiến kỹ thuật, nâng cao nǎng suất để sản xuất đủ ǎn, đủ dùng và thừa một ít để dự trữ.
Để thực hiện phương châm chung trên, cán bộ phải thấm nhuần chính sách phát triển sản xuất và thi hành tiết kiệm, nhằm mục đích cải thiện đời sống của quần chúng, bồi dưỡng lực lượng của nhân dân và của kháng chiến; mọi chính sách kinh tế tài chính khác phải phục vụ chính sách cǎn bản ấy. Phải thi hành đúng chính sách thuế nông nghiệp với ý thức đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển (công bố cố định sản lượng ở những nơi điều tra định sản tương đối đúng; ngoài thuế nông nghiệp, ở nông thôn không cho phép một thứ đóng góp nào khác). Phải thi hành đúng điều lệ dân công, tránh hiện tượng lấy và dùng dân công một cách không công bằng hợp lý gây nhiều lãng phí.
Hướng dẫn và giúp đỡ nhân dân phát triển tiểu công nghệ, thủ công nghiệp và nghề phụ gia đình. Phải phát triển tiểu công nghệ trên yêu cầu và cơ sở của nông thôn, của nông dân.
Cơ quan, bộ đội, công xưởng, trường học phải cố gắng sản xuất để tự cải thiện sinh hoạt và tiến tới tự túc một phần đặng giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân.
Ở khắp nơi, nhất là vùng có nông giang bị địch phá hoại, cần tích cực vận động nhân dân mở mang tiểu thuỷ nông, đào giếng, đào ao, đắp đập, đắp đê, kịp thời chuyển hướng canh tác trồng nhiều mầu.
Vùng du kích, cǎn cứ du kích và vùng giáp địch phải tǎng cường đấu tranh chống địch để bảo vệ mùa màng, đồng thời phát triển sản xuất.
Vùng mới giải phóng ở Tây Bắc, cần tổ chức tiếp tế muối, nông cụ, vải cho nhân dân, cổ động nhân dân phục hồi sản xuất.
Đi đôi với việc thực hiện kế hoạch sản xuất và tiết kiệm, nǎm nay ta phải cố gắng tiến tới thực hiện thǎng bằng thu chi.
Thuế nông nghiệp và thuế công thương nghiệp phải đảm bảo thu đủ mức dự định và đúng chính sách. Đồng thời kiên quyết tập trung những quỹ riêng của các cấp, các ngành vào ngân sách quốc gia. Lúc làm công tác tài chính, công tác thu thuế phải chống sai lệch chỉ lo tài chính, không lo sản xuất, chỉ đòi hỏi nhân dân đóng góp, không lo giúp đỡ nhân dân sản xuất.
Phải nghiêm khắc thi hành chế độ thống nhất quản lý thu chi, chấp hành kỷ luật tài chính.
Công tác bình ổn vật giá rất quan trọng, các cơ quan đảng, chính các cấp phải coi đó là trách nhiệm của mình, thường xuyên theo dõi, nghiên cứu và lãnh đạo. Phải chỉnh đốn và phát triển công tác mậu dịch đối nội và đối ngoại, với nước bạn. Phải chống quan điểm kiếm lãi đơn thuần, trái với chính sách mậu dịch phục vụ nhân dân, phục vụ sản xuất.
Về đấu tranh kinh tế với địch, ta phải kiên quyết chọc thủng vòng vây của địch để tranh thủ xuất nhiều hơn nhập, bài trừ nạn buôn lậu, chống việc dùng xa xỉ phẩm. Như thế để phát triển sản xuất lâm thổ sản và làm công nghệ ở vùng tự do.
Vấn đề giao thông vận tải cần được các đảng bộ và cơ quan chính quyền địa phương đặc biệt chú trọng; các cơ quan chuyên trách ở trung ương và các địa phương (Liên khu Việt Bắc, Liên khu 3 và Liên khu 4) phải cố gắng làm thêm đường mới và sửa chữa cầu, đường, phát triển vận tải đường bộ, đường thuỷ để phục vụ nhu cầu quân sự và phát triển kinh tế chung.
Ngoài những công tác trên đây, nǎm nay cần tiếp tục chấn chỉnh việc huy động dân công, để đỡ hại đến sức khoẻ và công việc sản xuất của nhân dân.
Để đảm bảo thực hiện những việc nói trên, cơ quan kinh tế tài chính các cấp cần được kiện toàn, nhất là đối với ngành mậu dịch. Cần chấn chỉnh tổ chức và lề lối làm việc: chống tác phong quan liêu, mệnh lệnh, thoát ly quần chúng, thoát ly thực tế, cấp dưới phải chấp hành đúng chế độ báo cáo và thỉnh thị, cấp trên phải kịp thời trả lời và giải quyết mọi khó khǎn do cấp dưới đề ra. Chỉnh đốn tư tưởng, giáo dục chính sách cho cán bộ, làm cho cán bộ hiểu rằng toàn bộ chính sách và công tác kinh tế tài chính nhằm mục đích phục vụ sản xuất, phục vụ nhân dân, phục vụ kháng chiến. Cán bộ đảng và cán bộ chính quyền các cấp phải học tập chính sách kinh tế tài chính và lãnh đạo chặt chẽ việc thực hiện những chính sách ấy.
C. Tác chiến và chỉnh quân
Cǎn cứ vào phương hướng chiến lược mới, tác chiến của ta nǎm nay nhằm tiêu diệt sinh lực địch là chính, đồng thời tranh thủ giải phóng một phần đất đai ở những vùng có tính chất chiến lược quan trọng mà lực lượng địch tương đối yếu.
Đối với chủ lực ở Bắc Bộ, phương châm tác chiến vẫn vận động chiến là chính, công kiên chiến là phụ. Trên chiến trường sau lưng địch ở Bắc Bộ và ở Trung, Nam thì du kích chiến là chính.
Nhiệm vụ giữ vững và đẩy mạnh chiến tranh du kích ở đồng bằng Bắc Bộ do các trung đoàn địa phương, bộ đội địa phương tỉnh và các đội dân quân du kích xã đảm nhiệm.
Trên các chiến trường Trung, Nam thì tuỳ theo điều kiện cụ thể mà đặt kế hoạch phát triển chiến tranh du kích.
Để làm tròn nhiệm vụ chuyển theo phương hướng chiến lược nǎm nay, công tác chấn chỉnh quân đội cần tiến tới một bước về các mặt: chỉnh huấn chính trị, chỉnh huấn quân sự, chỉnh đốn tổ chức.
Chỉnh huấn chính trị cần tranh thủ thời gian làm trong mùa mưa. Trọng tâm vẫn là cán bộ.
Đi đôi với chỉnh huấn chính trị, cần chỉnh huấn quân sự: chủ lực học tập vận động chiến và công kiên chiến là chính; bộ đội địa phương học tập du kích chiến là chính.
Phải cảnh giác ngǎn ngừa ảnh hưởng của các đảng phái Việt gian và các tổ chức phản động đội lốt tôn giáo làm gián điệp cho địch.
Trong vùng tạm bị chiếm, phải thường xuyên tuyên truyền những tội ác của địch, bóc trần mưu mô lừa phỉnh của chúng trước nhân dân. Vạch rõ cho quần chúng thấy các đảng phái Việt gian, tổ chức phản động đội lốt tôn giáo là những tổ chức chỉ điểm, gián điệp của địch để quần chúng tẩy chay và tỉnh táo đề phòng những tổ chức ấy. Đồng thời tuyên truyền, phổ biến những tin tức chiến thắng của ta để tranh thủ quần chúng, thuyết phục và làm tan rã nguỵ binh. Cần luôn luôn tǎng cường công tác bí mật để bảo toàn cán bộ, củng cố và phát triển cơ sở.
Cần chú trọng lãnh đạo nhân dân đấu tranh bảo vệ quyền lợi hàng ngày, chống địch áp bức bóc lột, bắt phu, bắt lính, dồn làng, v.v..
Ở vùng tạm bị chiếm, hình thức đấu tranh chủ yếu là hình thức hợp pháp và nửa hợp pháp, nhưng trong điều kiện không hại đến cơ sở thì có thể tổ chức những đội biệt kích phá các kho tàng, xe cộ, v.v. của địch, và tiêu diệt cán bộ lợi hại của chúng (như vụ biệt kích ở đường Đờ Gôn, Sài Gòn).
Phải có kế hoạch chuẩn bị điều kiện và tranh thủ cơ hội tốt để kịp thời lãnh đạo quần chúng chuyển từ những hình thức đấu tranh thường qua những hình thức đấu tranh vũ trang để thu hẹp phạm vi kiểm soát của địch, mở rộng vùng du kích của ta. Song trước khi thi hành, phải xin chỉ thị cấp trên.
Công tác ở các đô thị tạm bị chiếm cần được đặc biệt chú trọng. Các khu uỷ và tỉnh uỷ cần có những hội nghị tổng kết kinh nghiệm và bổ sung cán bộ có nǎng lực, có kinh nghiệm công tác bí mật vào các đô thị. Tuỳ theo sự quan trọng của từng thị xã, mà khu uỷ hay tỉnh uỷ phải trực tiếp phụ trách, không nên khoán trắng cho huyện uỷ như nhiều nơi trước đây.
Để thực hiện những nhiệm vụ công tác trên, các cấp bộ Đảng vùng sau lưng địch phải ra sức học tập các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương về phương châm công tác vùng sau lưng địch; học tập và phổ biến những kinh nghiệm đã tổng kết trong Hội nghị chiến tranh du kích tháng 7-1952. Phải quán triệt tư tưởng chiến tranh du kích và phương châm chống càn quét, thực hiện thống nhất lãnh đạo chặt chẽ. Kiên quyết chống lại những tư tưởng cầu an, thủ tiêu đấu tranh, chủ quan, máy móc hay phiêu lưu, mạo hiểm.
D. Chỉnh Đảng
Nǎm nay cần chỉnh huấn xong cán bộ.
Cǎn cứ vào tình hình tư tưởng của cán bộ trong hai khoá chỉnh Đảng của Trung ương và khoá đầu của các khu, tỉnh; đồng thời để chuẩn bị cho cuộc phát động quần chúng, cần quy định yêu cầu của chỉnh Đảng nǎm nay chủ yếu là nhằm khắc phục tư tưởng tiểu tư sản và tư tưởng địa chủ, đồng thời cũng khắc phục những tư tưởng sai lầm khác. Đặc biệt đối với cán bộ huyện và xã, thì yêu cầu chủ yếu là khắc phục tư tưởng địa chủ, phú nông.
Các tài liệu Dự thảo cương lĩnh ruộng đất vàchỉ thị phát động quần chúng sẽ là những tài liệu bắt buộc phải học trong các lớp chỉnh huấn.
Chỉnh huấn cán bộ xong, sẽ kết hợp với cuộc phát động quần chúng để bồi dưỡng và củng cố tư tưởng của cán bộ; bồi dưỡng, đề bạt những cán bộ tốt, điều động, trừng phạt, thanh trừ những cán bộ xấu. Trong việc đề bạt, bồi dưỡng cán bộ, sẽ đặc biệt chú trọng đề bạt, bồi dưỡng cán bộ công nông.
Việc chỉnh đốn chi bộ cũng sẽ tiến hành.
Mục đích, yêu cầu của việc chỉnh đốn chi bộ là:
- Nâng cao trình độ giác ngộ giai cấp và lập trường công nông của đảng viên;
- Làm cho tổ chức được trong sạch;
- Cải thiện và xiết chặt quan hệ giữa Đảng và quần chúng.
Việc chỉnh đốn chi bộ phải kết hợp chặt chẽ với phát động quần chúng, lấy công tác phát động quần chúng để củng cố chi bộ. Trước khi phát động quần chúng, phải nghiên cứu, tìm hiểu tình hình chi bộ. Phải tổ chức các đảng viên bần, cố nông và trung nông tích cực thành những tổ riêng, tách khỏi những phần tử xấu, phá hoại chính sách. Trong quá trình phát động quần chúng, phải đề bạt, bồi dưỡng các phần tử tích cực, đồng thời phải theo dõi, kiểm tra và xử trí kịp thời những phần tử chống lại chính sách. Sau khi phát động quần chúng, sẽ tiến hành tổng kết công tác, giáo dục tiêu chuẩn đảng viên, mở rộng phê bình, tổ chức ghi tên lại vào Đảng, xử trí các đảng viên không đủ điều kiện, tuyển cử chi uỷ. Sau đó chi bộ sẽ ra công khai và kết nạp đảng viên mới. Việc phát triển sẽ nhằm kết nạp những phần tử tốt trong thành phần bần, cố nông và trung nông, công tác tích cực, đấu tranh kiên quyết, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, tác phong đúng đắn; sau khi họ đã được giáo dục những điều tối thiểu mà người đảng viên cần biết, phải tổ chức theo đúng thủ tục điều lệ Đảng đã quy định.
Đối với vùng du kích, cǎn cứ du kích và miền núi thì tuỳ theo yêu cầu và hình thức phát động quần chúng mà có kế hoạch kết hợp chỉnh đốn chi bộ cho thích hợp.
Đối với các chi bộ cơ quan, chi bộ xí nghiệp và chi bộ trong quân đội, cũng cần phải có kế hoạch chỉnh đốn cho thích hợp với từng loại.
Cán bộ ngoài Đảng (trong các cơ quan chính quyền, mặt trận) cũng cần được học tập chính trị và giáo dục tư tưởng trước và trong quá trình phát động quần chúng nǎm nay.
Phát động quần chúng thi hành chính sách ruộng đất là một dịp thử thách, giáo dục về lập trường, quan điểm cho cán bộ, cho toàn thể đảng viên và cho cán bộ ngoài Đảng nữa, cho nên kế hoạch chỉnh Đảng và giáo dục cán bộ ngoài Đảng phải kết hợp chặt chẽ với kế hoạch phát động quần chúng.
Ngoài nǎm công tác chính nǎm nay như trên đây, còn những công tác khác mà Hồ Chủ tịch đã đề ra như: chuẩn bị thành lập những vùng dân tộc tự trị, gia cường đoàn kết Việt - Lào - Miên, củng cố tình giao hảo với các nước bạn, tích cực tham gia bảo vệ hoà bình thế giới. Những vấn đề đó, Bộ Chính trị sẽ nghiên cứu và quyết định sau.
*
* *
Các đồng chí,
Tôi đã trình bày những nhiệm vụ mới và những công tác chính nǎm nay của Đảng. Hai nhiệm vụ mới là phát động quần chúng, chuẩn bị cải cách ruộng đất và chuyển theo phương hướng chiến lược mới. Hai nhiệm vụ đó có đứng ngoài ba nhiệm vụ lớn mà Hồ Chủ tịch và Trung ương đã đề ra trong Hội nghị Trung ương lần thứ ba không? Không. Vì chuyển theo phương hướng chiến lược mới là cốt nhằm tiêu diệt sinh lực địch. Phát động quần chúng thi hành chính sách ruộng đất, chuẩn bị cải cách ruộng đất là một cách tích cực bồi dưỡng lực lượng nhân dân.
Những nhiệm vụ và công tác nǎm nay thật nặng nề. Đế quốc Pháp - Mỹ và bù nhìn mỗi ngày một gian ác. Chúng càng suy yếu và lúng túng, càng gian ác thêm. Cuộc kháng chiến của chúng ta sẽ càng ngày càng gay go, phức tạp. Nhưng chúng ta quyết không sợ gian nan, khổ cực.
Chúng ta nhất định thắng, vì chúng ta mật thiết liên hệ với quần chúng, dựa vào quần chúng; chịu khó học tập kinh nghiệm quý báu của Đảng Cộng sản Liên Xô và của Đảng Cộng sản Trung Quốc; thẳng thắn tự phê bình và phê bình.
Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch, chúng ta kiên quyết đánh bại đế quốc xâm lược và bù nhìn bán nước.
- Việt Nam độc lập thống nhất muôn nǎm!
- Hoà bình thế giới muôn nǎm!
- Hồ Chủ tịch, người lãnh đạo và giáo dục chúng ta, muôn nǎm!

Friday, 24 May 2019

Sự kiện nhà văn Lan Khai mất tích (Lan Phương - Tạp Chí Sông Hương số 307)

15:29 | 18/09/2014
“Lịch sử không bao giờ lầm lẫn, nhà văn Lan Khai là người có công với nước”. Câu nói đó của Thiếu tướng Hoàng Mai đã khẳng định những cống hiến của Lan Khai đối với cách mạng và nền văn học nước nhà. Từ thành tựu sáng tác cho đến nhận định của các nhà văn, nhà báo tiền bối (Trần Huy Liệu, Hải Triều, Vũ Ngọc Phan...) về Lan Khai, chúng ta càng thấy tự hào về một con người, một nhà văn đáng kính đã làm trọn thiên chức của mình đối với dân tộc...
Sự kiện nhà văn Lan Khai mất tích
Ông Lan Phương, người con duy nhất còn lại của nhà văn Lan Khai
... Văn chương của Lan Khai thể hiện lòng yêu thiên nhiên, tinh thần dũng cảm chống đế quốc, phong kiến, lòng yêu thương đồng bào, tinh thần đoàn kết dân tộc... Tất cả làm nên bức chân dung rõ nét về một nhà văn yêu nước. Nhưng một thời gian dài di sản của ông bị khuất lấp, đến nay mọi điều đã sáng tỏ, Lan Khai lại hoàn nguyên. Tên tuổi của ông là niềm tự hào của quê hương Tuyên Quang và của nền văn học Việt Nam hiện đại”. 
                             (Nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam)



LAN PHƯƠNG

Sự kiện mờ ám làm nhà văn Lan Khai bỗng dưng mất tích trong năm 1945, bản thân gia đình chúng tôi cùng những người dân lương thiện, giới văn sĩ Bắc Hà, những nhà cách mạng chân chính không ai ngờ tới! Trước khi dẫn vào câu chuyện tôi xin lược thuật đôi điều liên quan đến vận mệnh của ông từ trước đó.

Năm 1940, bọn phát xít Nhật vào Đông Dương để hất cẳng thực dân Pháp đang cai trị dân ta, hòng lập nên một nền thống trị mới lâu dài ở nước ta và cả xứ Đông Dương. Trong nước, cả hai bọn Nhật, Pháp vào hùa với nhau bóc lột, dân ta sống trong cảnh “một cổ hai tròng”. Nhật cho lực lượng triển khai đi chiếm nhiều nơi, mãi sau mới chiếm đóng hẳn thị xã Tuyên Quang. Tuyên Quang là nơi có chiến khu bí mật của lực lượng cách mạng Việt Minh. Cha tôi ngày đó bị thực dân Phát xít bắt giam vì tội cho in cuốnLầm than, chúng gọi là “truyền đơn cộng sản”. Trong tù cha tôi đã viết bài Dòng huyết lệ gửi mẹ tôi mang cho chú Trần Huyền Trân báo cho anh em “Vũng Lương Sơn bạc” biết: Lan Khai còn sống! Trong đó có câu: “Tam Khuyển hoành hành nát giang san. Ý nói: ba con chó cướp bóc tàn phá Tổ quốc Việt Nam (Pháp, Nhật, bọn tay sai). Bọn cai thầu chủ mỏ ở Tuyên Quang rất thâm thù cha tôi, bởi cuốn sách Lầm than đã vạch rõ những tội ác và thủ đoạn bóc lột của chúng, bởi vậy đây cũng là lực lượng luôn tìm dịp để trả thù. Khi cuốn sách in ra, lão cai thầu đã tìm đến tận nhà đe dọa ông nội tôi: “Tôi nói cho gia đình ông biết: Không ai đảm bảo cho tính mệnh tên Nguyễn Đình Khải khi trở về đất Tuyên Quang này!”.

Trước năm 1930, cha tôi đã từng tham gia Quốc dân Đảng của ông Nguyễn Thái Học, là đồng chí của cả Phó Đức Chính, Nguyễn Khắc Nhu, Phạm Tuấn Tài, Nhượng Tống, Khái Hưng và Trần Huy Liệu nữa... Nói như ông Tướng Hoàng Mai: “Đây là những người Quốc dân Đảng yêu nước chân chính khác hẳn với bọn Việt Quốc Việt Cách mang danh Quốc dân Đảng năm 1945”. Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo nhằm chống giặc Pháp. Tuyệt nhiên không phải là bọn giả danh Quốc dân Đảng Ôn Như Hầu năm 1946 sau này. Năm 1930 khi tổ chức Quốc dân Đảng bị bại lộ, Thực dân Pháp giăng lưới lùng sục khắp nơi để bắt các đảng viên của Đảng, trong đó chủ yếu là Phạm Tuấn Tài và Lan Khai ở khu vực Tuyên Quang. Thời ấy, có kẻ cho những người bị lùng bắt là “quân bạo loạn”. Năm 1945 - 1954, chúng tôi thấy ở Tuyên Quang một số ông Việt Minh vẫn gọi những người trong Quốc dân Đảng xưa là “Bọn Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Xứ Nhu”. Sau kháng chiến chống Pháp trở đi mới thấy họ phân biệt thế nào là Quốc dân Đảng và Việt Quốc, Việt Cách. Nhiều người trước đây không hiểu biết đã oán trách đến các vị cách mạng chân chính xưa. Mặt khác nữa, trước đó, có một số quan lại người Việt làm tay sai cho thực dân Pháp, chúng biết tiếng cha tôi là người có trình độ học thức khá, giỏi cả tiếng Pháp lẫn Hán văn nên đã gián tiếp cho người đến vận động dụ dỗ thậm chí còn đe dọa nhà văn, nhà giáo Lan Khai để ông ra làm việc cho chúng. Nhưng lần nào cha tôi cũng khôn khéo tìm mọi cách từ chối. Trong thâm tâm của ông rất căm thù bọn Pháp Nhật và Tàu ô vì chúng bóc lột, giết hại đồng bào mình. Mẹ tôi kể: Thời đó có kẻ đã tìm cách vận động hai bà mẹ tôi bảo cha tôi ra làm việc cho Tây, Nhật, đại để những câu như: “Có học vấn như ông Lan Khai, sao các bà lại không để chồng ra làm quan, mà lại lam lũ vất vả kiếm ăn ở cái xó chợ Xuân Hòa này mãi!”. Mẹ tôi đều trả lời: “Ông Lan khai nhà tôi yếu đau bệnh tật chỉ biết viết văn, dạy học, vẽ vời kiếm sống thôi! Các ông hãy đi tìm chỗ khác”. Cha tôi cũng luôn tìm cách lánh mặt, từ chối những ông chánh, ông Lý tới nhà vận động làm quan. Đồng thời cha tôi cũng tìm mọi cách cho anh em chúng tôi trốn tránh quân dịch của bọn Pháp Nhật. Cho nên khi anh em tôi Lan Hương 19 tuổi, Lan Phương 18 tuổi mà vẫn thoát khỏi việc bắt lính của Tây và Nhật. Thoát khỏi nhà tù, cách mạng bùng nổ, cha tôi nói: Tất cả gia đình ta phải tham gia đuổi thực dân phát xít và tay sai! Tùy theo sức lực mỗi người trong gia đình chúng tôi đều hưởng ứng khởi nghĩa; anh cả tôi cầm mã tấu lên chiến lũy, hai người mẹ tôi đun nước nấu cơm tiếp tế cho tự vệ; cha tôi tham gia vào chính quyền mới.

Trước đó, tôi từng chứng kiến có lần bọn tay sai lần mò đến gạ gẫm, rồi dọa nạt cha tôi yêu cầu ông ra làm việc cho chúng, chúng sẽ chu cấp cho nào là đủ tiền, gạo và gái đẹp v.v. Ông bình tĩnh đáp: Tôi chỉ có một nghề cầm bút viết văn, bàn tay trói gà không chặt thì làm sao đủ sức, đủ tài ra làm quan như các ông, gánh cái việc trị dân ấy được! Xin các ông cho được sống yên ổn. Theo những kẻ cơ hội thời bấy giờ: Ông Lan Khai tuy có tài năng học vấn nhưng là người “dại dột”, “kém thức thời”?! Kiên trì dụ dỗ, ve vãn, dọa nạt mãi không được nên chúng tỏ ra thù ghét ông. Hai bà mẹ tôi còn kể lại: có kẻ lên tiếng phỉ báng: “Người ta đến mời làm quan lại không làm, ông này có nhiều chữ nghĩa mà dại dột!” Nhưng khi cách mạng bùng nổ, Nhật bị bao vây, đầu hàng thì chính mấy tên này lại hung hăng cầm mã tấu hô hét xông vào đòi chém hàng binh mà những anh tự vệ chính hiệu lại phải can chúng lại. Duy cha tôi thì biết mặt từng tên. Do vậy chúng luôn né tránh cha tôi trước công chúng và tìm cách hại ông. Mẹ và cô tôi kể: trong số chúng, có kẻ trước thì theo Pháp, khi Nhật tới thì theo Nhật, cách mạng nổi lên thể Pháp Nhật suy yếu lại chạy sang lực lượng những người cách mạng. Bọn chúng khéo léo ngụy trang, tạo vỏ bọc, che đậy lai lịch, nguồn gốc để chui luồn vào hàng ngũ Việt Minh. Lúc bây giờ, ở Tuyên Quang, những người kiểu như vậy không phải ít. Cha tôi lại là người biết những kẻ nào là Việt gian cơ hội, nên khi cách mạng thành công rồi, chúng rất sợ cha tôi phát giác. Việc tàng trữ và phát hành báo cấm (Cứu quốc, Cờ giải phóng) của Lan Khai, chắc không thể qua mắt bọn Việt gian cơ hội đó. Về phía kẻ thù thì cuốn Lầm than năm 1938 đã làm cho cả bọn Pháp và tay sai người Việt một phen đau đầu, hoảng loạn. Ngoài việc bỏ tù ông, đó còn là cái cái cớ để chúng thúc ép ông, dọa nạt ông, nhưng chúng đều thất bại. Theo tôi nghĩ, bây giờ và mãi mãi về sau, bọn cơ hội ở đâu cũng có. Những người trung lương, tâm huyết với đất nước, với dân tộc đều biết cả, nhưng ít ai dám vạch mặt chỉ tên bọn chúng cho bàn dân thiên hạ biết. Bởi bản thân chỉ là một thường dân, bên mình bao thế mạnh khác khôn lường được. Ngày đó giữ cho thân mình an toàn đã khó lắm rồi! Sự thực bấy giờ, trong những người tham gia vào lực lượng cách mạng phần đông là những người chân chính, sống có lí tưởng và hành động cao đẹp vì quốc gia dân tộc, nhưng trong đó cũng không thiếu kẻ cơ hội tà tâm.

Từ khi Nhật khởi chiến đến lúc hạ thành, thực dân Pháp phải đầu hàng chỉ mất khoảng nửa tháng. Cơ hội cho bọn tiểu nhân trả thù, hãm hại cha tôi đã đến (lúc này đã có một số tên Việt gian nằm trong hàng ngũ Việt Minh). Chúng diễn rất khéo vài cơ hội của mình trên sân khấu chính trị. Khi cần thì miệng cũng hô đả đảo phát xít, nhưng khi phát xít mạnh lại dẫn lối đưa đường cho phát xít hại người mình. Cha tôi khi đó biết rất rõ ai làm tay chân cho Tây Nhật, lúc nào “thay áo” cầm mã tấu quay sang lực lượng Việt Minh. Trước đó, có kẻ đã rình mò, đánh hơi thấy trong quán sách Lan Đình của cha tôi có tàng trữ báo của Việt Minh (Báo Cứu Quốc, Cờ Giải phóng  Việt Nam độc lập do Hội Văn hoá Cứu Quốc giao nhiệm vụ từ 1943) mới dẫn đến thảm kịch bọn Nhật ập vào khám nhà và bắt giam ông. Kể cả ngay sau ngày khởi nghĩa thắng lợi, cha mẹ tôi từng điểm mặt ai là những con rắn lục. Nên việc diệt trừ đầu mối là việc làm cần thiết đối với bọn lưu manh chính trị, núp sau danh nghĩa quần chúng hay vào vai tự vệ cách mạng.

Sau đây tôi sẽ kể lại những sự kiện chính về những ngày tiền khởi nghĩa và cái chết mờ ám, oan khuất của cha tôi:

Chuyện xảy ra trong một đêm đầu mùa hè, năm 1945. Sau khi đã cơm nước xong, vào khoảng 7 giờ tối, cả nhà vẫn còn ngồi chuyện trò hóng mát, chưa một ai đi ngủ bởi quá nóng bức. Tôi ngồi mải đọc cuốn truyện kiếm hiệp Long hình quái khách vì sáng mai phải trả, mãi tận khuya mới cùng cả nhà đi ngủ. Vào khoảng quá nửa đêm, không gian tĩnh mịch, mọi người đang mơ mơ màng màng, nửa ngủ nửa thức, thì đột nhiên, tiếng đập cửa đánh rầm một cái, nghe thật chát chúa, khác hẳn những tiếng gõ cửa bình thường. Thấy lạ, cả nhà tỉnh giấc, nằm im trên giường nghe ngóng, chờ đợi... Linh tính báo tôi biết sẽ có một tai họa chẳng lành giáng xuống đầu gia đình mình đây!

Được một lát sau, cả nhà tôi chưa ai dám lên tiếng thì lại tiếp một cú đập nữa, mạnh hơn, dữ dội hơn lần trước, làm cả nhà bật dậy. Chúng tôi nghe một tiếng quát thật to: Nhượng Tống đây, mở cửa! Nghe xưng danh là vậy nhưng giọng nói lại không phải. Tôi vội đặt câu hỏi trong óc: Đêm hôm khuya khoắt thế này, sao ông ta lại ở đây làm gì? Trong nhà tôi chưa một ai kịp định thần đáp lại, thì bất thình lình lại nghe một tiếng rầm nữa thật to, làm rung chuyển cả nhà cửa, tức thì cánh cửa bật mở tung ra. Thì ra, bọn hiến binh Nhật đã nổi xung, dùng báng súng đập phá cửa, không cần chờ đợi người nhà tôi ra mở. Liền đó là một toán lính, chừng ba tên, tay lăm lăm cầm súng cắm lưỡi lê sáng loáng, lầm lì, im lặng ùa vào nhà. Tiếp đó, một tốp khác gồm bốn tên cũng cầm súng cắm lưỡi lê sáng quắc, trông thật rợn cả người, theo chân tốp trước hùng hổ xông vào nhà. Trong tốp này, tôi trông thấy một tên hạ sĩ quan, mắt nó đeo kính trắng.

Mẹ tôi hoảng quá, từ trên giường nhảy đại ngay xuống đất, định chạy ra khỏi nhà nhưng bị ngay một tên trong toán đầu, lấy báng súng gạt bà ngã sóng xoài ra đất và nó quát to gọi tên cha tôi: Lan Khai đâu? Cũng ngay lúc đó, cả hai tên còn lại trong tốp ấy, đã chạy thẳng đến bên cái giường mà chúng nghi có cha tôi nằm đó. Chúng lấy báng súng gạt hai cánh màn lên, thấy ông, thế là chúng hè nhau kéo ông ngồi thẳng dậy, đẩy ông xuống đất rồi trói nghiến hai tay ông lại và giải ông đi ngay cùng với tên lúc trước quát gọi tên cha tôi. Tôi nằm tại giường bên nên kịp thời quan sát, theo dõi kĩ mọi hành vi, cử chỉ điên cuồng, dã man của bọn chúng và đã nhận ra là, trong số lính của cả hai tốp, thì đa phần là người Việt đi theo nhưng vận quân phục lính Nhật, chỉ có hai tên và tên sĩ quan trong cả bọn mới là lính Nhật thực sự mà thôi.

Sau khi ba tên tốp đầu đã giải cha tôi đi khỏi nhà rồi, thì số bốn tên còn lại, theo sự chỉ huy của tên hạ sĩ quan, đi lục lọi khắp nhà, bới tung lộn tùng phèo mọi thứ để tìm tang vật. Chúng liên mồm quát lác vừa đấm đá vừa doạ nạt mọi người: Sách báo Việt Minh đâu? Báo cấm giấu ở đâu? Nhanh khai ngay không chúng tao giết hết, đốt nhà bây giờ! Hơn một tiếng đồng hồ sau, không thấy gì nghi vấn nữa, chúng xì xồ bảo nhau kéo ra khỏi nhà để lại gia đình tôi một nỗi kinh hoảng, ngơ ngác, chẳng ai hiểu mô tê gì!

Sau vụ kinh hoàng ấy, chừng ba ngày sau, bỗng nhiên bọn chúng lại kéo đến nhà tôi một tốp gồm ba tên, trông có vẻ ít dữ dằn hơn những toán đến trước (trong tốp này, tôi vẫn trông thấy tên hạ sĩ quan đợt trước) còn hai tên trong bọn là người Việt, tất cả cũng đều mặc quân phục lính Nhật. Hai tên người Việt đi theo cùng khênh một túi gạo, ước khoảng 70 kilô gì đó. Chúng mang thẳng vào nhà tôi. Khi đã vào trong nhà cả rồi, tên hạ sĩ quan mới xổ ra một tràng tiếng Nhật. Tiếp luôn, một trong hai tên đi theo làm thông ngôn, dịch lại câu nói của tên sĩ quan, đại để thế này: Bà nhà không phải sợ hãi gì cả, nước đại Nhật Bản chúng tôi không bao giờ làm hại ai vô cớ khi người ấy không hề có tội! Nay chúng tôi cần phải giữ ông nhà ít bữa để xét hỏi ít chuyện, khi xong công việc mà thấy ông không có tội gì, chúng tôi sẽ lại thả ông về nhà ngay! Vậy bà và gia đình yên tâm chờ đợi, không được hoang mang gì cả. Nghe chưa! Phiên dịch xong câu nói đó là cả bọn lẳng lặng đặt cái túi gạo ấy lại rồi kéo nhau ra khỏi nhà tôi, đi thẳng, chẳng hề nói thêm câu nào nữa.

Đứng trước một sự thật bất ngờ quá sức tưởng tượng, trong lúc ông nội tôi tuổi già, lại đang bệnh tật, hai mẹ con tôi, phận đàn bà chân yếu tay mềm, còn mấy anh em, người thì mới qua tuổi vị thành niên, người còn nhỏ dại, thật không còn đường nào khác hơn là đành phải im lặng, nhẫn nhịn, cúi đầu trước cái việc bạo tàn xảy ra ngay trước mắt đó! Nay, đã trở về già, đủ khả năng để suy ngẫm, tôi nghĩ đi nghĩ lại về việc ấy (Sao mình không đánh lại chúng? Nếu đánh chúng ngay có khi sẽ bị hại cả nhà?), mới nhận thấy thái độ của mình lúc đó là hèn yếu, nhưng sự thực cũng không thể làm gì được...

Còn nói về cái túi gạo kia xuất hiện bất ngờ trong cảnh tượng ngoài đường nhiều người đang chết đói. Có đứa trẻ ngậm nhai vú người mẹ đã chết nằm đắp chiếu manh. Nguồn sống gia đình cạn kiệt. Túi gạo thật hấp dẫn, khi gia đình tôi lúc đó: ông nội bệnh tật, lại phải thiếu nhịn lâu ngày, chúng tôi bữa đói bữa khát thất thường, củ khoai, củ sắn trong nhà cũng hết, cọng rau ngoài vườn cũng chẳng còn, trong nhà không còn một đồng xu... Mặc dù vậy, nhưng mấy ngày liền không ai dám sờ mó gì vào túi gạo. Đúng lúc gia đình hết mọi cái ăn, chồng bị bắt bớ đày đọa, không biết sống chết ra sao? Mãi tuần sau, thương cha chồng, thương con, mẹ tôi đánh liều lấy gạo đó thổi cơm cho cả nhà ăn.

Có thể, cũng bởi cái sự kiện bất đắc dĩ ấy cùng với sự cạn nghĩ của mẹ tôi mà sau đó làm cho một số kẻ dòm ngó, ác khẩu đặt điều, cả gia đình tôi phải điêu đứng về sau này... Cả nhà tôi luôn hi vọng, ngày một, ngày hai là bọn Nhật sẽ thả cha tôi về, nhưng rốt cục là chúng tôi hi vọng hão.

Bọn phát xít Nhật tìm mọi cách vừa tra tấn vừa mua chuộc cha tôi không được nên chúng đem giam giữ, cùm kẹp ông, ngày đêm canh gác, đe dọa hòng lung lạc chí khí của ông. Cha tôi suốt mấy tháng liền bị cùm trong trại Nhật, chúng không khai thác được gì, mãi tới ngày phát xít đầu hàng đồng minh, trước tổng khởi nghĩa tháng Tám chừng nửa tháng gì đó, tưởng cha tôi chết chúng mới kéo cha tôi vứt ra ngoài trại, đúng lúc lực lượng Việt Minh đang ráo riết chuẩn bị khí tài, chờ thời cơ để công đồn, cưóp chính quyền.

Như tôi thường kể, cha tôi vốn dĩ người nho nhã, thư sinh, lại có bệnh suyễn mãn tính lâu năm luôn hành hạ nên làm gì có sức đế mà chống chọi với ngục tù. Vì vậy, sau mấy tháng bị giam, khi được thả ra trông ông tiều tụy vô cùng. Mặt mày thâm tím, sưng vù, quần áo rách bươm, máu và phân, nước tiểu rây ra khắp mình. Gia đình tôi và những người tốt bụng đã kịp đưa tấm thân tàn của cha tôi ngoài cổng trại giam về nhà. Ông lê từng bước khó nhọc. Đôi mắt của ông rực lửa căm hờn. Tôi nghĩ mà xót thương cho cha và cứ vẩn vơ trong đầu câu hỏi: Cớ sao loài người cứ phải độc ác với nhau như vậy? Ai đến thăm cũng lắc đầu: ông Lan Khai chắc không thể nào qua khỏi. Ai cũng nói: chắc chắn có kẻ chỉ điểm làm cái việc bất lương kia, chúng không còn có tính người! Gia đình tôi, những công dân lương thiện, chuyên làm nghề nhân đức, không gây thù chuốc oán với ai, vậy mà bỗng dưng bị hãm hại?! Nhớ lại, cái hình ảnh của cha tôi ngày ấy, thể như cây sắt nung đỏ luồn sâu vào tâm khảm của tôi một ấn tượng đau đớn, hãi hùng theo suốt cuộc đời, lòng căm thù vô hạn đối với bọn bất lương! Số phận cha tôi cũng như bao người trung lương, kiên trinh khác, đều phải trả giá như vậy trước bàn tay của bọn thực dân Phát xít và tay sai.

Những ngày sau khi quân Nhật thả cha tôi ra, ông quá yếu, làm cho ông nội tôi đang ốm nhưng buộc phải vào cuộc vì cái việc cực chẳng đã xảy ra với người con trai yêu quý duy nhất của cuộc đời cụ. Ông tôi đã thuốc thang chăm sóc, chạy chữa cho cha tôi nhanh chóng hồi phục. Cả nhà tiếp tục phải dè xẻn, tiết kiệm hơn nữa tiền của, mong sao cho cha tôi mau chóng khỏe lại. Bởi cha tôi mà có mệnh hệ gì thì cả gia đình biết trông cậy vào ai lúc này. Ông là trụ cột của gia đình. Mãi gần nửa tháng sau, sức khỏe cha tôi mới khá lên được một tí. Cả nhà tạm thời an tâm. Cha tôi mới bình tĩnh kể lại thật tỉ mỉ về những ngày tháng ông bị giam cầm, bị hành hạ, đánh đập trong đồn binh Nhật như thế nào... Cứ mỗi lần đi đánh Việt Minh bị thua trận là y như rằng, khi về, chúng lôi đám tù nhân vô tội ra tra khảo, đánh đập thả sức cho hả bớt cơn tức giận, theo lối giận cá chém thớt. Bọn Nhật đóng quân ngay ở đồn binh Pháp trước đây. Nơi này, xưa là thành Nhà Mạc, được xây dựng rất kiên cố, tường bằng đá ong cao 4 m, chiều dày của tường trên 1 m, xung quanh có hào sâu bao bọc, trong chính giữa tòa thành cổ có một quả núi đất, gọi là núi Thô Sơn. Cha tôi bị chúng giam tại đây. Bọn Nhật tưởng có thể nuốt trôi khu căn cứ cách mạng của ta ở Tân Trào nhưng không ngờ lực lượng Việt Minh đánh cho thất bại. Chúng tức khí nên đánh tù nhân, trong đó có cha tôi. Ông là tù nhân đầu tiên bị chúng hành hạ dã man hơn cả, bởi cái tội: không chịu khai ra nguồn báo cấm, không chịu khuất phục, không đồng ý họp tác với Nhật, chống lại mọi âm mưu mua chuộc, dụ dỗ của chúng.

Ông kể, có một lần quân Nhật, về tới trại, chúng liền lôi ông và các tù nhân ra đánh đập. Khắp người ông, máu me loang lổ. Sau đó, chúng còn lấy dây thừng đem trói chặt hai cổ tay lại với nhau, rồi mang phơi nắng cho sợi dây săn lại. Chúng lại dội nước cho sợi dây nở ra. Bị dây thắt chặt, hai bàn tay tụ máu, xưng vù, hai cổ tay ông trông như sắp đứt rời ra. Chúng phơi nắng ông suốt cả ngày, tới gần tối mới lôi ông vào nhà giam. Buổi trưa hôm đó, ông phải cắn vỡ chiếc nhẫn đen bằng hạt huyền (kỉ niệm quý của ông) vì ngón tay xưng to quá như quả chuối mắn. Đau đớn quá mức, không chịu nổi, ông đã cố lê đến miệng cống nước thải, định dìm đầu mình xuống cho tắt thở, chết đi để khỏi phải chịu nỗi đau đớn quá sức này. Suy nghĩ lao lung mãi, khi bình tâm trở lại, ông đã gạt bỏ suy nghĩ mà ông cho là hèn nhát ấy. Cuối cùng, ông nghĩ cần phải sống, có thời cơ rồi sẽ có ngày ra khỏi nơi địa ngục trần gian này. Tự tử là sự hi sinh vô nghĩa trong lúc này! Ông sẽ làm cho cha già, vợ con thêm đau khổ. Song giả sử, ngày ấy cha tôi bị tra tấn mà chết trong trại giam thì có lẽ lại được tiếng khen là: chết oanh liệt! 

Cùng thời gian bị bọn Nhật giam giữ trong trại tù, ông đã ra tay làm một hành động nghĩa hiệp. Theo phương ngôn xưa của tiền nhân dạy: Thương người như thể thương thân nhưng chính ông lại rơi vào cảnh: Thương người thì hại đến thân! Cha tôi đã vận dụng kiến thức và mưu trí để cứu giúp hai cán bộ Việt Minh đang bị giam giữ cùng buồng với ông. Bản thân ông không hề quen biết hai người ấy bao giờ. Ông đã cứu họ thoát khỏi trại giam của phát xít Nhật vào trước ngày Tổng khởi nghĩa 19/8/1945 để họ tiếp tục tham gia đấu tranh cách mạng. Vì tế nhị và cẩn tắc, cha tôi không hỏi han lai lịch gia cảnh, quê hương của họ (vì cha tôi đã có kinh nghiệm đi hoạt động từ trước 1930). Nhưng biết chắc họ là hai cán bộ Việt Minh qua cử chỉ họ đã tiết lộ cho cha tôi biết: Họ đang làm công việc đánh Tây đuổi Nhật. Sự kiện ông Lan Khai cứu hai tù nhân Việt Minh về sau nhiều người còn nhớ, nhưng chúng tôi không biết rõ hai tù nhân vượt ngục đó tên là gì, còn sống hay đã mất. Nếu họ còn sống, họ có bao giờ nghĩ đến ông, người đã liều mạng ra tay giúp họ? Sự việc cha tôi cứu hai người Việt Minh nọ, có lẽ cũng liên quan đến sự thác oan của cha tôi. Xin lưu ý với quý vị: Nơi bọn Nhật giam giữ tù nhân, trước kia vốn là trại lính lê dương của Pháp, nó được thiết kế để dùng làm chỗ ở cho binh lính, chứ không phải để giam tù nên các chấn song cửa sổ đều làm bằng gỗ lim đen bóng trông như sắt. Đến lúc Nhật thắng Pháp, chiếm giữ được đồn rồi cũng lại lấy đây làm nơi cho bọn lính của chúng ở. Khi bắt người của ta trong những trận càn quét về, chúng lấy mấy căn buồng ấy làm chỗ giam giữ tù nhân. Cha tôi kể: “Trước lúc giam giữ, do vội vã nên bọn Nhật không kiểm tra kĩ, vì thế không phát hiện được chấn song làm bằng gỗ. Lợi dụng điểm này, tôi nghĩ ra kế sách vượt ngục cho mình. Nhưng xét kỹ: Nếu mình thoát được thì hai anh Việt Minh sẽ bị giết và cả nhà ta sẽ bị trả thù ngay lập tức!”. Sau suy nghĩ lại, cha tôi chuyển hướng kế hoạch chỉ giải thoát cho hai người Việt Minh. Trước thời điểm diễn ra phi vụ ấy, thường ngày cha tôi đều đứng ở gần cửa sổ, để tâm quan sát xung quanh hiện trường, nghiên cứu quy luật của bọn lính canh. Những hôm mẹ tôi được phép vào thăm, mang cơm nước cho ông, ông dặn mẹ tôi lưu ý, thì phải nhớ kĩ lấy một lưỡi dao nhỏ bằng thép thật mỏng, thật sắc, rồi cho vào trong nắm cơm, ngụy trang cho cẩn thận để ông lấy đó làm công cụ cho việc cắt chấn song. Công việc này, mẹ tôi làm đúng như lời ông dặn. Bà làm được cả thảy hai lần trót lọt. Vậy là, trong tay cha tôi đã có hai lưỡi dao thép sắc bén. Cắt được chấn song, khi ra ngoài sẽ theo đường cống thải để thoát thân (lỗ cống cái ở ngay trong trại, có lần cha tôi đã định nhờ nó mà tự sát). Ông bàn bạc với hai người ngay trong buồng giam về hoàn cảnh gia đình, vợ con và cha già của mình, cả ấn tượng tốt đẹp của mình đối với hai người cùng ý đồ giúp họ trốn thoát ra ngoài nhanh đế tiếp tục hoạt động. Còn ông không thể ra đi cùng họ được vì ông trốn được bọn chúng sẽ không tha những người thân ở cách trại giam chưa đầy một cây số.

Lợi dụng một đêm mưa to, gió lớn, ngoài trời tối hơn thường ngày, cha tôi đã nhẹ nhàng, khéo léo, lấy lưỡi dao, cẩn thận cắt tiện từng tí một những chiếc chấn song trong khi mọi tù nhân khác đang say sưa ngủ vì có cơn mưa mát mẻ. Vừa cắt tiện, ông vừa lắng tai nghe mọi động tĩnh trong, ngoài. Cứ thế, lần lượt ông cắt được hai, ba chiếc, vừa đủ thân người chui lọt. Xong việc, ông phi tang cả hai lưỡi dao và các mảnh gỗ vụn ra ngoài trời mưa cho nước chảy trôi đi. Mãi tới khi trời tờ mờ sáng thì mọi dự định mới được xong xuôi như mong muốn. Rất may không bị lộ. Liền ngay sau đó, ông khẽ khàng lay tỉnh hai người Việt Minh kia dậy, rồi thì thầm vào tai họ nhũng chi tiết của kế hoạch vượt ngục. Mặc dù bữa trước đã bàn và nhất trí với nhau rồi. Nhưng mãi tới lúc bấy giờ, họ mới thực sự hiểu rõ mọi sự trù tính của cha tôi mà không khỏi lắc đầu thán phục về mưu trí và lòng nhân ái của ông. Họ xúc động và rủ ông cùng trốn thoát ngay đêm ấy. Tiếc rằng, sức khỏe của cha tôi suy kiệt bởi những trận đòn tra tấn dã man, lại còn số phận của gia đình nữa. Trời sắp sáng đến nơi, sợ bọn Nhật phát hiện bắt lại thì sẽ liên lụy đến cả họ, cái kế hoạch vượt ngục kia đã mất bao công lao ngày đêm suy tính sẽ công toi. Vả lại nếu ông có trốn thoát được thì bọn Nhật sẽ trả thù gia đình, nơi có cha già và vợ con ông. Vì ông mà người thân sẽ khổ. Vậy là, ông từ chối đề nghị của hai người cán bộ Việt Minh và giục họ đi cho kịp trước khi chúng phát hiện ra còn mình ở lại chịu hậu quả về sau... Hai người còn ghé tai cha tôi dặn kĩ: Khi nào chúng tôi thoát đi xa rồi, ông nhớ kêu to: “Tù trốn! Tù trốn!”. Nếu không khi chúng biết, chúng sẽ xả súng bắn hàng loạt vì cho tù đồng mưu giải thoát như ở một số căn trước đó.

Cảm phục tấm lòng hi sinh của cha tôi, cả hai người xúc động nhìn cha tôi rồi cúi đầu bái biệt ra đi dưới trời mưa to, sấm chớp.

Cha tôi ngồi nhẩm tính thời gian và biết chắc là hai người kia đã chui qua cống ra tới bờ sông Lô đi xa rồi. Lúc ấy, ông mới vờ như người vừa chợt tỉnh giấc và phát hiện ra có tù xổng, ông giả đò kêu: “Tù trốn!” cho bọn lính canh biết là có tù bỏ trốn. Nếu không nhanh trí như vậy mà để đến sáng bạch ra bọn chúng biết có tù trốn mà trong phòng giam không ai biết, thì lập tức, chúng sẽ đem bắn sạch tù nhân ngay.

Nghe tiếng có tù xổng, và khi biết đó lại là hai người cán bộ Việt Minh quan trọng làm cho bọn lính hoảng sợ, vì quan trên sẽ trừng phạt. Chúng nháo nhác truy lùng khắp nơi, trong và ngoài trại. Lẽ tất nhiên, chúng không thể tìm thấy vì họ đã vượt quá xa sang bên kia bờ sông, nơi đắc địa của Việt Minh rồi.

Chúng lùng sục chán chê không thấy đâm ra hậm hực, điên cuồng. Thế là đám tù nhân vô tội ở trong cái buồng giam ấy (gần hai chục sinh mạng) đều bị lôi ra ngoài hứng chịu một trận đòn thù vô cùng khủng khiếp, dã man, tàn bạo chưa từng thấy. Cha tôi cũng bị đánh ngất đi trong số tù nhân đó. Đó là câu chuyện cứu tù của cha tôi kể lại, sau những ngày đang hồi phục và mẹ tôi cũng là nhân vật tham gia hỗ trợ gián tiếp vào cuộc vượt ngục táo bạo này. (Về quá trình thâm nhập vào trại giam Nhật, mẹ tôi sẽ kể sau). Một cảnh tượng đau thương và xúc động, hơn nửa thế kỷ qua thường xuyên sống lại trong tôi. Khi nghe tin cha bị hành hạ có lẽ không qua khỏi, mẹ tôi và mấy anh em tìm cách vào thăm ông. Qua song cửa nhà tù thấy một tấm thân bết máu chỉ còn da bọc xương, cha tôi cố lết lại chấn song thì thầm vào tai mấy anh em: “Bằng mọi cách không cho chúng bắt vào binh dịch. Dù trong hoàn cảnh nào, các con nhớ: Hãy một lòng trung lương với nước như cha ông mình đã sống!”. Hai hốc mắt người như xói vào trái tim tôi hơn 60 năm qua nhiều đêm chợt giấc tôi vẫn gặp. Rất tiếc, cha tôi đã bị bọn nặc danh hãm hại, giờ đây nếu còn sống, tôi tin chắc ông sẽ viết những tập tiểu thuyết dày kể về tội ác của bọn phát xít, việt gian phản động, bọn quỷ đội lốt người!

Có một nguyên nhân nữa, mà là nguyên nhân chính liên quan đến cái chết oan khuất của cha tôi. Sau khi tra khảo, đánh đập và dụ dỗ cha tôi không được, bọn Nhật buộc phải thả ông ra. Mặt khác do đội quân Quan Đông thiện chiến của chúng dồn dập bị thất bại và đầu hàng quân đồng minh vô điều kiện. Nhân cơ hội ngàn năm có một này, lực lượng quân cách mạng do Việt Minh lãnh đạo đã chớp thời cơ tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Tình thế cấp bách và vô kế khả thi, cực chẳng đã, bọn Nhật buộc phải thả tất cả các tù nhân chúng giam giữ ra khỏi trại, chứ không phải thiện ý gì. May sao, trong số đó có cha tôi còn sống sót.

Như trên tôi đã kể: Nhân dân khu vực gần gia đình tôi đều biết rất rõ về cha tôi. Ông không những là một nhà văn nổi tiếng, một nhà giáo, một trí thức nhân hậu, khiêm nhường, luôn đồng cảm với nỗi đau khổ, vất vả, cực nhọc, nghèo túng của lớp người lao động lương thiện. Cha tôi có thói quen sống thân thiện, hay giúp đỡ người nghèo, coi trọng những phẩm chất tốt đẹp ở họ, chống lại áp bức bất công. Tất cả nhân dân trong vùng rất kính nể ông, nhiều người vẫn gọi cha tôi là Thầy. Khi chính quyền về tay nhân dân, họ đồng loạt đề cử ông làm người đại diện cho chính quyền sở tại khu phố Xuân Hòa cũ (làm Chủ tịch Ủy ban Lâm thời). Cha tôi hồn nhiên nhận nhiệm vụ của chính quyền và ủy ban lâm thời trao. Trong buổi họp ở đình Xuân Lôi, cha tôi ra sức kêu gọi mọi người “nhường cơm sẻ áo, phòng gian bảo mật, giúp đỡ chính quyền xây đời mới; đề phòng quân Tàu ô sắp kéo vào thị xã v.v”... Phải chăng đây cũng là một tai họa cho người trí thức trong buổi đầu cách mạng còn non trẻ. Dưới con mắt của bọn Việt gian đội lốt cách mạng đây lại là mối họa của chúng. Nên không hiếm kẻ một mặt xum xoe nịnh bợ một mặt ngấm ngầm tìm cách hãm hại cha tôi, mà vị chủ tịch khu phố Xuân Hòa tỉnh lị Tuyên Quang không lường hết được! Cách mạng là đổi thay tất cả, trong đó có con người. Người xấu sẽ chuyến hóa thành ngươi tốt! Đó là “bệnh thật thà” trong suy nghĩ của những người tri thức bấy giờ.

Chính vào cái giờ phút mà cả tôi và ông ngộ nhận, tưởng như đấy là cái vinh hạnh được mang sức tài, tâm huyết để phục vụ bà con nay vừa tới. Gia đình tôi có ngờ đâu, đó là khởi đầu cho nhũng tai bay vạ gió đang từ từ chờ thời là chụp xuống đầu ông. Tôi có linh cảm như vậy nhờ xâu chuỗi tất cả các sự kiện xảy ra đối với cha tôi! Đó cũng là cái bi hài kịch, tôi đọc thấy một nhà văn Pháp đã nói: “Khổ vì có trí tuệ”!

Cái công việc tưởng là vinh hạnh ấy của cha tôi bỗng dưng biến thành trò ảo thuật, làm cha tôi mất tích, không còn để lại dấu vết gì từ bấy đến nay. Ngay trong thời gian ấy, chúng tôi, những thân tín của ông chỉ toàn nghe thấy những lời đồn thổi thật ghê sợ, theo kiểu dã man thời trung cổ. Nào là: nhà văn đã bị một bọn côn đồ nào đó giấu mặt, bắt cóc ông rồi mang vào rừng sâu khảo tra, đánh đập cho tới lúc chết và vùi xác đâu đó trong bạt ngàn lau lách cho mất tung mất tích đi. Nào là: ông bị bọn nặc danh đảng phái nào đó bắt cóc rồi đưa ông vào giọ, buộc đá lăn xuống sông như tên vua Ngọa Triều đã từng làm với nhân dân thời xưa mà sinh thời cha tôi đã viết trong cuốn tiểu thuyết lịch sử Cái hột mận. Thì nay, thời đại văn minh, chính nhà văn lại bị rơi vào cái bi kịch dã man!... Thôi thì, lắm lời đồn thổi thật là ghê sợ. Nhiều lời đồn lắm, chúng tôi chẳng biết tin vào đâu! Đến chú Ngọc Giao khi quá xúc động, nghe mẹ tôi kể lại trong cơn hoảng loạn cũng nghe lầm chuyện đó??? Câu chuyện về một người bị bắt bỏ giọ trôi sông, tuy không phải cha tôi nhưng cũng là điều có thực mà mẹ tôi đã thấy ở một trường hợp khác.

Dù thể nào thì tất cả những lời đồn thổi ấy chẳng có gì là chứng cứ xác thực cả. Bất ngờ vào mấy tháng, sau khi sự kiện xảy ra, cả nhà tôi được tin ông qua một lá thư bí mật của ông gửi từ nơi rừng sâu Việt Bắc về. Ông gửi được hai lần, mỗi lần cách nhau hơn một tháng gì đó. Về sau, và mãi mãi chúng tôi không còn được nhận thư của ông nữa. Ông đã vĩnh biệt ngàn thu! (Mãi gần đây, vào năm 2003, gia đình tôi mới may mắn gặp được một người tin cậy, vốn là một vị sĩ quan cao cấp trong ngành an ninh cho biết: Tôi đã từng quen biết nhà văn Lan Khai từ thời tiền khởi nghĩa. Mặc dù ông ấy không phải là đảng viên cộng sản, nhưng tán thành chủ trương đánh Pháp đuổi Nhật của mặt trận Việt Minh. Tôi còn biết rất rõ Lan Khai bị Tây bỏ tù vì viết cuốn Lầm than. Khi đến An toàn khu làm nhiệm vụ, tôi được tin nhà văn Lan Khai bị một tên côn đồ nào đó ám sát (bắn bằng súng lục) chứ không phải là Việt Minh giết hại. Mặt trận Việt Minh không hề có chủ trương giết hại Lan Khai! Đây là tin của quần chúng báo cho cơ quan an ninh quốc gia lúc bây giờ, khi cơ quan của chúng tôi đóng ở bản Lũng Cò, xã Minh Thanh thuộc huyện Sơn Dương, Tuyên Quang. Còn về chính trị ông cho biết: Trong hồ sơ lưu trữ ở Bộ Công an, do tôi theo dõi, ông Lan Khai không hề tham gia vào bất cứ tổ chức phản động nào dù là Quốc dân đảng (bọn Việt Quốc, Việt Cách) hay đảng của Pháp, của Nhật). Không có một tài liệu nào, cá nhân nào nói ông Lan Khai tham gia vào tổ chức phản động suốt từ đầu kháng chiến chống Pháp đên sau này. Các tin tức từ trong nhân dân cũng như thế. Đây là điều chắc chắn! Một thông tin quan trọng nữa, ông cho biết: Thời kỳ tiền khởi nghĩa, theo yêu cầu của thượng cấp Mặt trận Việt Minh, có lần tôi cùng ông Lê Quang Đạo tới nhà ông Lan Khai (khi đó ở gần khu phố Cửa Nam, Hà Nội) để mời ông tham gia vào Hội Văn hóa cứu quốc của Việt Minh nhưng hôm ấy không gặp vì Lan Khai đi vắng, nhưng bà vợ ông ở nhà, chúng tôi gửi bức thư hẹn gặp lại và mấy ngày sau đã gặp được ông... Khi kết nạp Lan Khai vào Hội Văn hóa cứu quốc, ông Lê Quang Đạo đã giao nhiệm vụ cho ông Lan Khai phát hành báo chí bí mật và tuyên truyền cho Việt Minh. Ông Lan Khai đã nhiệt tình nhận nhiệm vụ này và trực tiếp phát hành báo chí bí mật của Việt Minh. Ít lâu sau, ông lại về Tuyên Quang và từ đấy là tôi không có dịp được gặp mặt nhà văn nữa, nhưng vẫn gián tiếp liên hệ với nhau cho đến ngày Nhật đảo chính Pháp; cơ sở bên trong vẫn cho biết tin tức hoạt động tuyên truyền cách mạng tích cực của ông.

*

Sự kiện bí mật về việc cha tôi bỗng dưng mất tích xảy ra vào một buổi trưa cuối thu năm 1945. Sau giờ làm việc thường nhật ở Ủy ban Lâm thời khu phố Xuân Hòa, cha tôi về nhà nghỉ để dùng bữa như thường lệ. Lúc đó là 11 giờ 30 gì đó (lâu quá rồi, tôi không nhớ rõ), tôi vừa mới pha một ấm trà cho ông uống và lấy nước để ông rửa mặt, chuẩn bị ăn cơm trưa. Ông vừa mới kịp rửa mặt và uống một chén trà. Tôi định quay vào bưng mâm cơm lên cho cha ăn, thì bất chợt có hai người khách lạ bỗng dưng ở đâu tới nhà, hỏi thăm tên cha tôi và nói cần gặp ông gấp (cả nhà không ai biết mặt hai người này bao giờ). Nghe hai người nói xong, tôi bảo với họ vui lòng chờ một lát để tôi vào mời cha tôi ra. Tôi vào thông báo cho cha hay, quay ra đã thấy hai vị khách lạ mặt bước theo chân vào nhà. Khi chủ và khách cùng an tọa bên bàn nước cũng là lúc tôi phải lui vào gian bên (cha tôi có cái thông lệ: mỗi khi có khách dù lạ hay quen, người trong nhà làm nhiệm vụ pha trà mời khách xong, là phải lui vào chỗ khác ngay, không được quanh quẩn chỗ cha tôi tiếp khách, bất kể là ai trong chúng tôi đều vậy. Ai vi phạm là sau khi khách ra, về sẽ bị trách phạt ngay).

Lần này, vì tò mò, không biết ma xui quỷ ám thế nào mà tôi lại trái lệnh của cha (có lẽ vì hai người trông lạ hoắc lại ăn vận cũng khác người làm tôi để ý). Tôi ngồi nghe lén câu chuyện giữa cha tôi và hai người lạ mặt kia (chả là các vách ngăn nhà tôi làm bằng phên nứa sơ sài nên gian nọ gian kia nghe rất rõ). Thế là, tôi đứng im sau liếp để quan sát và xem họ nói những gì với cha.

Nói về hình thức thì đó là hai người có dáng tầm thước, người đậm, mặc đồng phục bằng vải ka ki màu vàng nhạt, đầu đội mũ lưỡi trai, chân quấn sà cạp và đi giày vải đồng màu, hệt như những tên lính Trung Hoa - Tàu Tưởng thường vận. Sau này, tôi mới biết đó là kiểu quần áo Tôn Trung Sơn. Còn về diện mạo, thì thật tiếc, họ ngồi quay lưng về phía tôi nên không trông thật kĩ chi tiết từng nét mặt. Tôi chỉ được nhìn qua khi họ mới đến và lúc ra về. Còn cuộc đàm thoại ngắn ngủi diễn ra thế này:

Cha tôi nói:

- Xin lỗi, tôi chưa hề hân hạnh được quen biết hai ông!

- Vâng, quả là đúng ạ! Nhưng xin thú thật và xin lỗi tôn ông, chỉ là hai chúng tôi vừa mới ở Trung Hoa tới!

- Xin lỗi, vậy mục đích cuộc gặp này của các ông?

- Một lần nữa xin lỗi tôn ông. Chúng tôi không những được nghe tên tuổi văn chương của tôn ông mà tôn ông còn là một nhà yêu nước... Ngài đã hai lần bị Pháp bỏ tù vì dính vào quốc sự. Vừa qua ngài lại bị phát xít Nhật bắt giam. Nay ngài đang làm Chủ tịch phố Xuân Hòa...

- Xin lỗi! Vì sao các ông nói vừa chân ướt chân ráo về nước mà lại biết được những chuyện riêng của tôi? Vậy ý hai ông muốn nói gì?

Cả hai vị khách không mời mà đến này bật cười to: “Cám ơn tôn ông, rồi ông sẽ hiểu chúng tôi!” Rất ngạc nhiên về thái độ của hai khách lạ, cha tôi nghiêm sắc mặt nói:

- Tôi không hiểu hai ông cười cái gì? Đây là việc tôi xin hỏi nghiêm túc!

- Dạ thưa tôn ông, có gì mà khó hiểu: Chúng tôi muốn mời ông hợp tác.

Nghe đến đây, cha tôi tỏ ra phẫn nộ nhìn thẳng vào hai vị khách nói:

- Sao có chuyện lạ thế? Không đâu! Có lẽ là các ông nhầm cửa mất rồi? Từ năm 1930 về trước tôi có tham gia vào một số phong trào ái quốc, nhưng tuổi trẻ bồng bột, sức khỏe yếu đau tôi không làm chính trị nữa mà chỉ chuyên chú viết văn và dạy học thôi. Giữa lúc này, nhân dân cần cách mạng cần thì tôi ra giúp vì có chút văn hóa, chứ chẳng màng lợi danh gì. Xong đây tôi lại lui về dạy học viết văn thôi!...

Sau câu nói mạnh mẽ đó, cha tôi nói:

- Xin mời các ông lên trụ sở Ủy ban hành chính lâm thời tỉnh làm việc với thượng cấp Việt Minh! Nay tôi có việc bận bên trụ sở lâm thời khu phố. Tôi xin phép không thể tiếp các ông ở đây được. Mong các ông hiểu cho!

Cha tôi liền đứng phắt lên, rồi lên tiếng gọi tôi đưa tiễn khách ra về... Khi hai ông khách lạ phải bước ra, tôi gặp luôn một người nữa trong bọn họ đứng chờ ngay lối ra vào công. Tôi chào ba người lạ mặt đó ra về, rồi quay vào nhà ngay để báo cáo với cha.

Chính sự kiện này là một mắt xích quan trọng trong cái màn kịch mưu hại cha tôi. Và những kẻ xấu xa đơm điều đặt tiếng cũng nhắm thời cơ lúc đó để vu oan giá họa. Khi đó tôi đã là một thanh niên 18 tuổi có học hành, nhưng già dặn về suy nghĩ hơn lứa tuổi các cháu bây giờ, từng chứng kiến tấm lòng trinh bạch của cha mình trong những tình huống rối ren đó. Nhưng tôi vẫn chôn chặt nó trong lòng từ ấy, chỉ thổ lộ với mẹ và các em cùng những người thân thuộc gia đình thôi. Còn hai người khách lạ mặt ấy, nếu còn sống tới ngày nay, thời thế đổi thay rồi, hãy nói ra sự thật đi! Các người là Việt quốc, Việt cách, hay Việt gian giả danh Việt quốc để hại người yêu nước!?

Cho tới bây giờ tôi mới kể lại cái câu chuyện kì bí này để làm tư liệu sống cho con cháu, vì lâu nay có người đã nhân đó mà đang tay bóp méo sự thực lịch sử, làm cho trắng đen lẫn lộn. Có lẽ, người ta luôn nghĩ rằng: Người chết rồi thì làm sao cãi lại được với người đang sống như ông Tướng Hoàng Mai đã trả lời ông Trần Mạnh Tiến. Trên cái cõi đời trần gian phàm tục này, mọi cái, mọi thứ, mọi sự đều rất có thể xảy ra lắm chứ?

Tôi cần nói ra câu chuyện bí ẩn này để cung cấp cho lịch sử văn học Việt Nam những thông tin xác thực về nhân cách một nhà văn trong hoàn cảnh hiểm nghèo, cho cả những nhà biên soạn, khảo cứu có trách nhiệm hơn khi cầm bút. Kẻ vu oan giá hoạ cho con người đều đáng lên án, nhưng vu oan giá họa cho người bằng cây bút là “độc ác và nhẫn tâm” hơn tất cả. Lịch sử là khách quan dù có một thời nào, ai đó cố tình làm sai sự thật, thì thời gian, trước sau vẫn phanh phui ra tất cả. Tôi biết ngày nay khoa ngoại cảm tâm linh đã góp sức tìm ra nhiều chân lý!

Tôi xin kể tiếp câu chuyện trên:

Sau khi ba người khách lạ ra về, tôi nhận thấy tâm trạng cha tôi lúc ấy không vui như mọi bận, nhưng chỉ thoảng qua, rồi sau đó ông sai tôi đi dọn cơm (lúc này đã quá Ngọ) để ông dùng bữa xong còn nghỉ ngơi giây lát lấy sức đi làm buổi chiều. Thế rồi, mâm cơm vừa bưng ra để nguyên trên bàn, ông chưa kịp ăn, thì... lại tiếp luôn một chuyện bất ngờ nữa. Như một dự báo, linh tính tôi mách bảo, sắp có sự chẳng lành, số là, cha tôi đột nhiên nhận được một mảnh giấy nhỏ, cỡ bàn tay, do một người cũng lạ hoắc, từ đâu bước tới đưa tận tay cha tôi ngay sau khi hai người lạ mặt trước vừa ra khỏi cửa nhà tôi chưa đầy hai phút. Nội dung: Thượng cấp mời ông lên bàn việc gấp (khẩn). Nhận được mảnh giấy không rõ của ai, đọc xong, tôi thấy nét mặt cha tôi cau lại, nhưng chắc ông nhận ra chữ của ai rồi. Chưa kịp nói gì, ngay lập tức, cái người vừa mang mảnh giấy ấy tới, đã vội vã giục cha tôi, theo họ đi ngay. Thế là, ông không kịp ăn cơm, nghỉ trưa gì nữa, cũng không còn kịp đề phòng cảnh giác, hỏi han cái người lạ kia điều gì, mà cứ thế ông đi theo chân người vừa đến đó, ông chỉ kịp dặn ngoái lại cho mẹ con, anh em chúng tôi một câu: “Tôi có việc cần đi gấp ngay, cả nhà cứ việc ăn cơm, không phải để phần, có lẽ tôi không ăn đâu!”. Cái câu nói của cha dặn ngoái lại này, cùng cái lời trăng trối của ông nội tôi lúc lâm chung. Cụ luôn lặp đi lặp lại gọi tên cha tôi ngày ấy, làm cho tôi, suốt hơn sáu thập kỷ qua, nó vẫn luôn vang âm trong đầu tôi, không làm sao quên được!

Và thế là, kể từ cái giờ phút oan nghiệt đó xảy ra, thì cha tôi đã ra đi, ra đi biền biệt ngàn thu! Đến nay tôi chỉ còn lưu trong kí ức về cái thời điểm lúc ấy, đâu khoảng chừng là quá Ngọ, của một ngày gần cuối thu. Về ngày tháng cụ thể, quá lâu rồi, nên tôi chỉ còn nhớ vào khoảng mấy ngày đầu tháng chín năm 1945.

Một lát sau, khi cha tôi và cái người lạ mặt ấy ra khỏi nhà, vì quá vội đi ngay nên cả hai người đã vô tình bỏ quên cái mảnh giấy đó ở trên mặt bàn, cạnh ngay mâm cơm. Mà hình như nó được xé ra từ trong một cuốn sổ tay nào đấy để viết. Thấy vậy, tôi lại đâm tò mò đọc xem nội dung trong đó họ viết những gì quan trọng đến nỗi làm cha tôi phải vội vã đi ngay như thế, đến bỏ cả bữa ăn đã dọn sẵn và cả giấc ngủ trưa. Xưa nay, ông không thế bao giờ.

Và đây, cái mảnh giấy chết tiệt đó, đã gây ra mối oan nghiệt cho cha tôi và gia đình tôi suốt cả chặng đường sáu mươi năm chỉ vì mấy dòng chữ trông nguệch ngoạc, như chữ của người mới thoát nạn mù chữ, chưa qua được vỡ lòng.

Bức thư viết như thế này:

Gửi ông Lan Khai

Thượng cấp mời ông lên bàn việc gấp.

(Khẩn)

Đấy, bức thư nặc danh vẻn vẹn có mấy chữ thế thôi mà nó đã làm thác oan mất một nhân vật của lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, và đặc biệt khu phố Xuân Hòa mất đi người lãnh đạo mà nhân dân kì vọng. Gia đình họ tộc Nguyễn Đình mất đi một con người yêu thương nhất. Hàng trăm học trò bị mất Thầy dạy chữ...

Cũng may, cái sự vô tình lãng ý của cha tôi và người lạ mặt nọ đã bỏ quên mảnh giấy gửi cha tôi ấy, mà tôi được biết thêm một chi tiết quan trọng nữa. Sau cái sự kiện về câu chuyện hai người khách lạ hoắc vừa mô tả ở trên. Và cũng nhờ đó mà sau đấy mấy ngày, mẹ tôi đã đến tận Ủy ban Lâm thời Tỉnh để cãi lí với ông thượng cấp, qua bằng chứng bức thư nọ. Rồi bà đã tìm mọi cách về Hà Nội nhằm khiếu nại với thượng cấp Trung ương.

Khi đọc xong mảnh giấy kì lạ ấy và biết nội dung trong đó rồi thì mẹ tôi cùng cả nhà mới hơi yên tâm, bớt lo đi một chút. Chúng tôi đều nghĩ rằng: Chắc là ông đi chốc lát, xong việc rồi thì sẽ về... Nào ai có ngờ rằng, phải đợi hết cả chiều ngày hôm đó, đợi mãi... đợi hoài đợi đến 54 năm vợ không gặp chồng, đợi đến 58 năm con chẳng gặp cha là thế đấy!? Thế là mọi người trong nhà lại phỏng đoán: có lẽ do công việc phải bàn nhiều nên chưa xong, như mọi khi, có lúc cũng thế. Khi đó cha tôi bận bịu đêm ngày trăm công ngàn việc, lo sao cho cuộc sống dân phố được bình yên: Nào là lo chôn người chết, nào là lo chống đói, Tàu Tưởng sắp kéo vào thị xã. Chúng tôi trấn an nhau yên tâm chờ đợi.

Đêm xuống, vẫn không thấy cha về. Thế là, trừ ông nội tôi yếu đau, già cả, còn tất cả nhà chia nhau tỏa đi mỗi người mỗi nơi để tìm cha tôi. Tìm khắp những nơi mà chúng tôi nghĩ cha tôi có thể đến, nhưng vô vọng. Lúc này ở thị xã Tuyên Quang thì nhốn nháo đủ các loại người, các đảng phái. Nào là Việt quốc, Việt cách, Tân Việt, Tàu trắng, Tàu đen, Ba Viên, mật thám, Việt Minh đầy đường đầy phố, nơi thì chạy cướp ngày, nơi thì kêu khóc bởi cướp đêm... Dân thì sợ hãi, đóng cửa im ỉm trong nhà, bởi đầy sự nguy hiểm. Thực tế như vậy làm sao chúng tôi có thể yên tâm được? Cả nhà tìm cả ngày hôm sau cũng không thấy, rồi hôm sau nữa. Chúng tôi nhờ cả bạn hữu, người quen nhưng không ai tìm thấy ông.

Cuộc tìm kiếm kéo dài chừng một tuần lễ nhưng không có kết quả. Lúc này, mẹ tôi mới sực nhớ ra tờ giấy quái ác kia, bà liền mang nó lên thẳng Thượng cấp đế hỏi cho ra nhẽ. Xin lưu ý, ở Tuyên Quang bấy giờ có hai loại thượng cấp: Thượng cấp tối cao tức Trung ương trú tại mãi khu ATK, thuộc huyện Sơn Dương, nơi này canh phòng cẩn mật, dân thường không ai có thể lai vãng ra vào được. Còn một Thượng cấp nữa là của Ủy ban Lâm thời Tỉnh, thì từ bên này thị xã qua sông sang bến đò Nông Tiến, vào gần tới Đạo Viện, nó là vòng ngoài để bảo vệ cho Trung ương nhưng cũng không kém phần cẩn mật, kín đáo, khó vào...

Thời ấy, mọi người thường gọi cấp trên theo danh từ Hán tự là Thượng cấp, mà Thượng cấp đối với cha tôi lúc ấy là Ủy ban Lâm thời Tỉnh, nó tương đương như Ủy ban Nhân dân Tỉnh bây giờ, đại diện là ông Nguyễn Công Bình (tức Chì) đứng đầu cơ quan ấy. Không hiểu bằng cách nào mà mẹ tôi lọt được vào chỗ ông Bình, nghĩa là đã tới Ủy ban Lâm thời Tỉnh (cấp trên của cha tôi lúc đó), bà mới chất vấn hỏi người ta là làm sao mời chồng bà lên họp bàn mà mãi tới nay không thấy ông về?

Bà hỏi đi hỏi lại chán chê ra nhưng, những người làm việc trong ủy ban đều từ chối, bảo là họ không hề biết gì về việc này cả... Vòng vo đôi hồi mãi cũng vẫn không ăn thua. Thế là mẹ tôi quá uất, kêu khóc om xòm, một mực đòi trả lại tự do cho chồng bà ngay. Mọi người của Ủy ban Lâm thời không ngờ tình huống lại diễn biến như vậy. Còn về phần bà, quả là nước mắt người phụ nữ thông minh nhiều khi được việc. Cực chẳng đã, không thể giấu mình được, ông Bình ở nhà trong lúc đó mới xuất hiện. Mẹ tôi phải đấu lí với ông ta một thôi nữa nhưng lúc đầu ông ta vẫn tỏ ra cứng rắn. Cuối cùng, mẹ tôi hét toáng lên gọi tên chồng, kêu trời và xì cái mảnh giấy viết mấy dòng chữ Thượng cấp mời ra. Thật không ngờ, cái giấy ấy có chữ của ông ta nên vừa thoạt trông thấy nó, thì ông ta sững người lại và đổi ngay nét mặt, rồi liền đấu dịu với bà. Ông ta nói: “Ôi thôi! Bà bình tĩnh. Vậy, quả thực là Ủy ban Lâm thời có cho người đem giấy mời tới nhà, để mời ông nhà lên đây bàn một số công việc gấp, chuẩn bị cho ngày Tổng tuyển cử chính thức và bầu Ủy ban Lâm thời trước mắt. Nhưng công việc bàn luận đã xong từ lâu rồi, ngay buổi chiều hôm ấy ông nhà đã ra về rồi mà!..”. Mẹ tôi nói: Nếu các ông để chồng tôi mất, các ông phải chịu tội với tôi và gia đình tôi!...”. Trước lúc mẹ tôi quay ra về (vì bà không còn biết xử lí thế nào nữa), thì không hiểu sao, ông ta lại giật giọng gọi bà quay lại và hứa: “Thôi bà về đi, chúng tôi sẽ cho nguời tìm ông nhà giúp bà!”

Lúc mẹ tôi bước qua ngưỡng cửa ra ngoài hẳn, ông ta lại gặng nói một câu nữa: “Bà phải hết sức lưu ý cẩn thận đấy, hiện giờ trong thị xã ta có đủ loại người của các đảng phái khác nhau, kẻ xấu, người tốt lẫn lộn không phân định được... Có lẽ, chưa biết chừng là ông nhà ta đột nhiên bị mất tích, hẳn là do những kẻ ấy bắt cóc ông và thủ tiêu ông đi chăng? Dẫu sao thì chúng tôi cũng nhận với bà là Ủy ban phải có trách nhiệm trong việc này. Bà cứ yên tâm mà ra về, còn chúng tôi sẽ cử người đi tìm cho bằng được ông nhà về cho bà và gia đình”.

Mãi về sau, mẹ con chúng tôi mới nhận ra cái sự dối trá của lòng người! Những lời ông Bình hứa chỉ là mị muội suông cho mẹ tôi an lòng mà về, để mẹ tôi khỏi làm om xòm lên ở đấy mà thôi, chứ thực ra làm gì có chuyện ông ta cử người đi tìm cha tôi. Tôi biết được thông tin quan trọng này, sau hai sự kiện đã kể trên là khi tôi đã lớn khôn, trưởng thành có đầy đủ cả lí trí, biết phân tích, không còn bồng bột, ngây thơ nữa. Mẹ tôi tin tưởng tôi kể lại tỉ mỉ, chi tiết, phòng sau này có lúc nào cần đến để giãi bày, minh tỏ cho cha, cho gia đình và cho cả lịch sử nữa, để người sau không ngộ nhận như đầu lưỡi kẻ gian, đúng với người đã khuất. Theo mẹ tôi phỏng đoán và cả tôi cũng nhận ra rằng: Sự kiện cha tôi mất tích là do một số người ít học, hồ đồ gây ra. Người phải chịu trách nhiệm chính là ông Nguyễn Công Bình (tức Chì) chứ sự kiện này tuyệt nhiên không có gì dính líu tới Trung ương. Ngày ấy, ông Trần Huy Liệu cũng khẳng định ngay như vậy, khi nhận được bức thư cuối cùng của cha tôi gửi tới ông. Về sau này khi ông Liệu gặp ông Bình, lúc bị chất vấn, ông Bình mới nói với ông Trần Huy Liệu: “Thưa đồng chí thượng cấp! Trường hợp ông Lan Khai, thật đáng tiếc, không may bị mất tích!”. Khi sự việc đã đi quá xa, họ sợ tai tiếng với nhân dân và sợ cấp trên khiển trách, cả sự sĩ diện nữa. Vì thế, họ diễn tiếp cái kịch bản đã trót sai lầm kia bằng cái trò dựng lên xung quanh sự kiện đó một màn che bí mật, vu khống cho cha tôi thế này thế khác nào là “thành phần giai cấp tiểu tư sản, nào là đi hát cô đầu”, nào là “tham gia đảng bạo loạn của bọn Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài”, nào là “đối tượng tri thức đáng lẽ ra phải đào tận gốc trốc tận rễ từ lâu rồi”, nào là “thân Nhật”, ngay đúng lúc hỗn quân, hỗn quan, náo loạn, không phân biệt được thật giả, trắng đen khi ấy và cả giai đoạn về sau nữa... Đó thực chất là thứ hỏa mù của kẻ thiếu lương tâm!

Sự kiện diễn ra sau đó đã xác minh cho sự phỏng đoán chính xác của mẹ tôi và tôi cảm nhận. Mãi gần sáu mươi năm qua đi, chúng tôi mới có được những thông tin xác đáng từ một vị quan chức cấp cao của Bộ Công an.

Lại thêm một chi tiết đáng buồn, đáng xấu hổ nữa cho bọn họ là sau khi lừa gạt, rồi thủ tiêu cha tôi, họ lại phong tỏa cả gia đình tôi bằng mạng lưới các thông tin bịa đặt. Họ cho người theo dõi gia đình tôi cả ngày lẫn đêm, coi gia đình tôi như một đối thủ nguy hiểm suốt ba mươi năm liền từ khi chúng tôi ở thị xã Tuyên Quang đến khi lên thị xã Hà Giang, xung quanh vụ án đen tối đó để lại nhiều câu chuyện đau lòng và nực cười về cách ứng xử với con người... Sở dĩ, biết được điều này do có một lần vào nửa đêm tôi và chú em Lan Diệp vô tình ra ngoài đi tiểu đã bắt gặp có người nấp rình nghe chuyện trong nhà và một lần khác, cũng vô tình, chú em tôi hất cả chậu nước tiểu ra vườn vô tình trúng ngay vào kẻ đang nấp, rình xem gia đình chúng tôi bàn bạc những gì (ngày đó chưa có điện sáng nên trời tối là không nhìn thấy gì). Họ ngấm ngầm dựng chuyện, phao tin cho rằng gia đình tôi là “gia đình phản động” nên phải cảnh giác, phải theo dõi... mà chẳng có bằng chứng gì. Lạ nữa, không hiểu tại sao một số người trong Ủy ban Lâm thời gặp anh em chúng tôi nơm nớp né xa, rồi buộc cho gia đình tôi cái tội tày trời đó, miệng truyền miệng mơ hồ và độc địa. Ngồi nghĩ lại ngày ấy: Cân não những người trong gia đình nhà văn Lan Khai không vững vàng, không có bản lĩnh, có lẽ chỉ uất mà đã chết! Bởi có kẻ nhân danh cấp trên đã tung tin như vậy, chúng tôi biết kêu ai nỗi oan này? Kì dị thay, những năm 60 của thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI này, còn có kẻ đưa tin lên một số nhà lãnh đạo địa phương: “Ông Lan Khai mắc vào tội Nhân văn Giai phẩm và là kẻ ra tù vào tội!”.

Ôi! Rõ là mỉa mai thay cái từ “phản động” trên đầu lưỡi của một số kẻ tiểu nhân, nhân danh cách mạng mà vô học! Để che đi tội ác hại người, họ mới vu cho gia đình tôi cái tội quái ác như vậy nhằm đánh lạc dư luận. Nhưng họ có biết đâu một lời cửa miệng của kẻ cầm quyền đã làm cho cả một dòng họ đau đớn tinh thần suốt sáu mươi năm! Sáu mươi năm chịu nỗi oan, sáu mươi năm chịu sự kì thị, sáu mươi năm nuốt nước mắt vào lòng, sáu mươi năm nhân dân và bạn đọc, học sinh trong nhà trường bị mắc lừa? Một nhà văn một chiến sĩ yêu nước, một nhà giáo tâm huyết bị chôn vùi danh dự; một gia đình chìm đắm trong nước mắt...

Vậy là cho tới một ngày kia dù cho họ có đặt mạng lưới vô hình hay trăm tai, ngàn mắt bí mật theo dõi, ngăn cản gia đình chúng tôi liên hệ với Trung ương, nhưng thật kì lạ, không hiểu bằng cách nào mà mẹ tôi đã bí mật rời khỏi thị xã Tuyên Quang (sau ngày cha tôi biệt tích ít lâu) đi thẳng về Hà Nội. Bà đi đường Đại Từ, Thái Nguyên qua ga Trung Dã về Hà Nội một cách trót lọt, để tới Bắc Bộ phủ khiếu nại, kêu oan. Phụ trách Ủy ban Bắc bộ phủ thời gian này là ông Nguyễn Xiển, ông làm Chủ nhiệm văn phòng đó. Ông vốn là một trí thức khoa học, là Tổng Thư kí Đảng Dân chủ ở nước ta, trước đó cha tôi đã quen biết ông bởi cùng trí thức với nhau cả. Nhiều bè bạn của ông Xiển cũng là bè bạn của cha tôi.

Thoạt gặp bà, ông tỏ vẻ ngỡ ngàng giây lát, qua giới thiệu, ông biết tính danh của bà là người vợ của bạn mình đã phải lặn lội từ Tuyên Quang Việt Bắc về kêu oan cho chồng. Sau khi nghe xong mẹ tôi thuật lại cái chuyện kì quái không tưởng kia đã làm ông xúc động, ngậm ngùi giống như ông Trần Huy Liệu cũng đã phải nhỏ lệ xót thương khi biết tin về cha tôi. Ông Xiến tỏ ra bất bình với cách hành xử của một nhóm người Tuyên Quang đối với cha tôi. Sự đã rồi, ông không biết làm sao nữa. Ông hứa với mẹ tôi: nhất định một ngày gần nhất ông sẽ đích thân lên tận Tuyên Quang đế kiểm tra và giải quyết sự vụ đó xem hư thực thế nào. Trước khi mẹ tôi ra về, ông đã nói cho bà nghe nhận định của ông về sự kiện này, cũng tương tự như sự phỏng đoán của bà: “Đúng! Rất có thể như bà nghĩ, đây có lẽ là một sự manh động, ấu trĩ, tả khuynh của một số người có quyền nhưng thiển cận đã gây ra chăng? Thực ra, Trung ương không có chủ trương hành động sai trái như vậy và cũng không nghe ai báo cáo về việc này bao giờ. Nay là lần đầu, tôi được nghe từ bà. Thôi thì vì quốc gia đại sự, đằng nào thì việc cũng xảy ra như thế rồi làm sao được nữa. Rất tiếc là việc ấy lại xảy ra với ông nhà, người bạn mà tôi hằng quý trọng... Tôi xin chia sẻ nỗi khổ tâm cực nhọc của bà và gia đình ta! Bà cứ yên tâm ra về, nay mai tôi sẽ trực tiếp lên đó kiểm tra xem thế nào, rồi tôi sẽ nói lại để bà cùng gia đình biết”.

Khi mẹ tôi về nhà, chúng tôi liền xúm lại hỏi han bà, bà chỉ im lặng. Lát sau, bà mới từ từ bảo anh em chúng tôi: “Các con hãy yên tâm, không phải lo, nay mai thế nào rồi cha của các con sẽ về. Bây giờ phải ngoan và nghe lời mẹ, để yên cho mẹ còn phải lo chăm nom ông, lo công việc kiếm ăn cho cả nhà nữa. Tiền gạo hết cả rồi, tập trung vào lo việc sống của mình đã. Các con hiểu không?”

Nghe mẹ nói vậy, chúng tôi đành yên lòng mà chờ đợi, nghe ngóng tin cha.

Và rồi, đúng như lời đã hứa, khoảng gần một tháng sau (tôi không nhớ rõ ngày), ông Nguyễn Xiển đã đích thân lên Tuyên Quang. Ông đến thẳng chỗ cơ quan ông Nguyễn Công Bình (lúc này đã ra công khai chính thức là Chủ tịch của Ủy ban Lâm thời). Ông đã thông báo lại cho ông Bình biết tất cả câu chuyện mẹ tôi đã phải thân gái dặm trường lặn lội về Trung ương khiếu nại cho chồng. Ông yêu cầu ông Bình: “Nếu quả, Tuyên Quang có nhầm lẫn mà giữ nhà văn Lan Khai ở đâu thì phải thả ông ra ngay lập tức, chứ việc này mà vỡ lở ra thì không ổn đâu! Cơ sở bên trong của ta cho biết: “Ông Lan Khai là người trung kiên, không được nghi ngờ lẫn lộn Quốc dân này với Quốc dân kia”!

Lúc bấy giờ, vị Chủ tịch Tuyên Quang Nguyễn Công Bình (tức Chì) ấy mới ngớ người ra, không hiểu bằng cách nào mà mẹ tôi lại về được tận Trung ương trót lọt trong khi mạng lưới mật gài sẵn khắp nơi trong thị xã nhắm trông chừng bà. Ông ta giật mình về cái sự mưu trí và lòng can đảm của mẹ tôi. Và ông ta không ngờ những vị lãnh đạo Việt Minh cấp trên lại hiểu rõ tường tận về cha tôi như thế... Trước yêu cầu của ông Nguyễn Xiển, ông Bình báo cáo trực tiếp bằng lời như sau:

Thưa thượng cấp đại diện Trung ương! Chúng tôi ở đây nhận có cho người đến tận nhà mời ông Lan Khai tới và lưu giữ ở đây trong một thời gian thực.

Nguyên nhân việc phải câu lưu nhà văn trong lúc này là để cảnh giác nhằm bảo vệ cách mạng non trẻ của chúng ta. Hơn nữa cũng là đế bảo vệ cho cả chính ông Lan Khai nữa, vì ông là một nhà văn, một nhân sĩ đang làm trong Ủy ban Lâm thời khu phố, là cấp dưới của chúng tôi, lại đích thực là thành phần trí thức nữa. Bởi có một hiện tượng làm chúng tôi phải chú ý là nhà văn đã tự ý tiếp hai kẻ lạ mặt từ hải ngoại tại nhà riêng, cách đây mấy tháng, tức là sau ngày tổng khởi nghĩa ít ngày. Có người đã báo lại cho hay như vậy. Nhưng cũng xin báo cáo lại với Trung ương rằng: không rõ làm thế nào mà ông Lan Khai đã tìm được cách để bỏ trốn đi cùng với hai người khác nữa, từ cách đây những mấy tháng rồi. Từ bấy đến nay chúng tôi đã phải bỏ công cho người đi lùng sục, tìm kiếm ông và cả hai người kia, đều không thấy tăm hơi họ đâu cả!?

Ông Xiển liền vặn lại: Vậy thì, họ trốn đi đâu, trong khi ở ATK của chúng ta bổ trí canh phòng cẩn mật, núi rừng, địa thế lại rất hiểm trở như thế. Nội bất xuất ngoại bất nhập, ốm yếu như ông Lan Khai trói gà không chặt, vừa thoát khỏi nhà giam của Nhật làm sao lại có thể trốn đi được?

Khi được ông Nguyễn Xiển hỏi như vậy thì ông Bình trả lời:

- Không biết, chúng tôi không rõ!

Trước vị Thượng cấp của mình mà ông Bình (tức Chì) đã trả lời như thế, thực khó hiểu? Hẳn phải có vấn đề “bí mật” đằng sau chuyện đó!? Xin lưu ý mọi người, ngày đó mẹ tôi cho biết: văn phong ông Bình rất kém cỏi, bà nhận xét: “Ông Chì chỉ thạo mua bán gia súc lớn, nên chữ nghĩa không nhiều. Rất nhiều giấy tờ ông phải đến nhờ cha các con viết hộ để đọc và báo cáo cho cấp này cấp nọ đấy!”. Biết văn hóa của ông ta như vậy, nhưng cha tôi luôn vui vẻ sẵn sàng viết giúp ông và sửa chữa chính tả cho ông nhiều bài viết và công văn, giấy tờ...

Nghe xong người đứng đầu Ủy ban Lâm thời Tỉnh báo cáo, trả lời vậy, vị đại diện Trung ương chả còn biết lí giải thực hư trong chuyện này ra sao nữa, ông đành bỏ cuộc mà ra về, rồi đích thân tới tận gia đình tôi thông báo lại mọi sự diễn biến cho hai người mẹ của tôi theo như lời báo cáo của ông Bình. Không biết giải quyết bằng cách nào cho hai người mẹ tôi an lòng, ông Xiển đành úy lạo, an ủi các bà để nguôi ngoai: “Bà và các cháu trong gia đình ta nên kiên tâm, nhẫn nại đợi chờ, hy vọng vào thời cuộc và tin tưởng vào tương lai. Theo tôi, sự việc này thật phức tạp và nghiêm trọng lắm. Với tôi, thật là khó nói! Như lời báo cáo lại của địa phương thì rất có thể là ông nhà đã lánh tạm ở đâu đó trong lúc hỗn độn, rối ren này. Tôi biết ông Lan Khai là người tốt, lại trung thực và tâm huyết với đất nước xưa nay, ắt là ông không thể làm điều gì có hại cho thanh danh của bản thân và gia đình mình đâu. Có lẽ ông cố thoát ra để chờ thời cơ ổn định mới lộ diện, bởi ông là người sống thác với sự nghiệp văn học với nhân dân và được nhân dân kính trọng tất sẽ không có điều gì không hay đâu. Tôi tin sẽ có một ngày, khi tình hình đất nước lắng dịu mọi sự trở lại bình thường, chắc chắn ông nhà sẽ trở về. Bà và gia đình hãy yên tâm và tin tưởng! Tôi đã thay mặt cấp trên đề nghị ông Bình và Ủy ban chú ý quan tâm đến gia đình nhà văn Lan Khai. Ông Bình đã hứa với tôi rồi! Hiện chúng tôi cũng đang cần người, muốn mời ông Lan Khai về Hà Nội lo một số công việc văn hóa bộ”. Rồi ông đưa cho hai bà mẹ tôi xem tờ giấy ông đi xác minh việc Ủy ban lưu giữ nhà văn Lan Khai.

Nghe những lời thông báo và úy lạo chân tình đó của vị đại diện Trung ương, lại là người quen biết chồng mình thì mẹ tôi cũng đành biết vậy nhưng trong lòng vẫn không yên. Bà mang một mối hồ nghi nhưng không nói nên lời. Cái tia hi vọng một ngày kia cha tôi sẽ trở về thật mong manh! Sau này, hai người mẹ tôi đã kể lại chi tiết chuyện này cho con cháu hay để khi cần thì có các tư liệu sống,

Thế là kể từ lúc mẹ tôi quyết làm cho ra lẽ ấy, thì đích thân ông Bình (tức Chì) đã không làm khó dễ cho bà và gia đình tôi như trước kia nữa. Không những vậy mà ông còn cho người đến nhà mời mẹ tôi lên cơ quan để vỗ về, an ủi và cấp cho bà một khoản vốn nho nhỏ làm kế sinh nhai, đặng có thể nuôi sống bản thân và gia đình. Nếu cha tôi - nhà văn Lan Khai là người có tội thì sao lại được hưởng “ân huệ” đó! Hay là mưu lược để làm dịu tình hình với cấp trên đang phản ứng về câu chuyện mờ ám kia của một số người chức trách? Mẹ tôi cho biết thời gian đó một số học trò của cha tôi giúp việc trong ủy ban đã bí mật liên hệ và ngầm báo với mẹ tôi: “Có hàng trăm bức thư của nhân dân và các nhà giáo nhà văn bạn bè của cha tôi phỏng vấn và kiến nghị về chuyện nhà văn Lan Khai vì sao mất tích, nhưng có người đã hướng dẫn giấu đi?” Sự thật là như vậy! Trong hàng ngũ những người cán bộ và nhân viên tỉnh thời đó cũng có nhiều người có nhân tâm đạo lý và tình nghĩa, là những người cách mạng chân chính chứ không phải cá mè một lứa cả đâu! Nhưng thế và lực của họ không đủ sức phanh phui sự thật. Cũng kể từ khi đó, việc nhà tôi trước đấy luôn bị mạng lưới bí mật nào đó theo dõi thì có vẻ như đỡ sít sao hơn.

Và rồi qua cái việc ông Bình đích thân gặp gỡ vỗ về, đấu dịu mẹ tôi lúc ấy, nó đã làm tiền đề cho cái việc mẹ tôi cùng với bà Lê Thị Sói sẽ cùng nhau hoạt động cho tổ chức ở Tuyên Quang một thời gian, cả khi lên Hà Giang cũng vậy. Bà Lê Thị Sói chính là người mà “họ” khéo léo, dàn dựng “giao nhiệm vụ” trong toàn bộ cái kịch bản kia nhằm ngầm theo dõi trực tiếp mẹ tôi cho đến cùng. Việc này, ngay từ khi được mẹ tôi kể lại thì tôi đã cảm nhận như vậy qua linh tính của mình. Trong quá trình ngược xuôi lặn lội, có đôi lần bà Sói bị đau mệt, mẹ tôi gần gũi săn sóc, thấy mẹ tôi là người sống có tình có nghĩa, thật thà, bà Sói đã dần dần tiết lộ cho mẹ tôi rằng: “Mình được giao nhiệm vụ đó, nhưng có đời thủa nhà ai lại đi theo dõi người lương thiện. Chị thật là người có nhân có đức. Chẳng may vận số chồng mình thế thì mình phải chịu. Đời tôi cũng trải nhiều cay đắng như ông Lan Khai rồi, tôi hiểu! Tôi được biết anh Lan Khai là người vô tội, chết oan! Chị yên tâm giữ kín chuyện này! Con người tốt phải sống tốt với nhau đã. Việc họ làm kệ họ. Tôi có lối nghĩ của tôi. Chị khuyên các cháu nên kiềm chế. Tôi tin chắc chính sách của cụ Hồ sẽ giải oan cho anh ấy thôi”. Tôi còn dự cảm cả cái việc ông Bình báo cáo cấp trên cũng như việc ông ta cấp vốn cho mẹ tôi chỉ là những ảo thuật để ông ta thực hiện việc che đi một sự đã rồi!

Xin lại kể tiếp, đúng như những gì tôi dự cảm, vào cuối năm 1945, trong lúc cả nhà tôi đang mải mê vật lộn để tìm kế sinh nhai, chẳng còn thời gian, sức lực để theo đuổi cái tia hi vọng mơ hồ là cha tôi sẽ trở về, thì đùng một cái có sự việc bất ngờ xảy ra: Vào một buổi chiều cuối đông, bỗng dưng có một người dân tộc Cao Lan lạ mặt tới nhà (sao mà lắm khách không mời đến nhà là vậy, lại tai hoạ gì chăng? Tôi nghĩ vậy). Tôi đã quan sát ông ta ngay từ khi mới xuất hiện. Tôi thấy, thái độ của ông ta có vẻ lo lắng, bồn chồn, sợ sệt một cái gì đó vô hình nhưng rất ghê sợ thì phải. Vì thế, ông ta lấm lét nhìn quanh, rồi vội lẻn nhanh vào trong nhà, đúng lúc mẹ tôi đang ở đấy. Khi đã lọt hẳn vào trong nhà tôi rồi, ông ta mới khẽ lên tiếng: Đây có phải nhà ông Lan Khai không? Giọng nói nghe còn hơi ngường ngượng, chưa thật sõi tiếng Kinh (phát âm Lan thành Lang). Nghe hỏi vậy, mẹ tôi lấy làm lạ. Bà hỏi lại: Vâng, phải nhưng ông là ai? Ông muốn hỏi gì nhà tôi? Mà hình như chúng tôi chưa hề quen biết ông bao giờ?

Nghe vậy, ông ta liền đảo mắt nhìn chúng tôi.

Mẹ tôi hiểu ý và bảo nhẹ chúng tôi: Các con ra chỗ khác, mẹ có khách lạ cần nói chuyện!

Câu chuyện ấy, sau này mẹ tôi mới kể lại cho chúng tôi biết: ông ta là một người tốt. Tuy lạ lẫm nhưng là người nhân hậu, trung thực. Ông ta mãi từ trong rừng sâu, nơi mà cha tôi đang bị giam giữ. Ông ta có công việc phải ra thị xã, nhân tiện ghé tới thăm nhà tôi để báo tin cha còn sống và mang thư của cha tôi gửi về. Nhiệm vụ của ông ta là canh gác những người nào bị tình nghi, trong số ấy có cha tôi. Ông ta nói là không hiểu vì sao mà cha tôi bị giam lỏng ở đó. Ông chỉ biết rằng: cha tôi là một người rất tốt, hiền lành, tài giỏi lắm, biết dạy chữ, dịch tiếng Tây ra tiếng ta cho Việt Minh, nói thạo tiếng Tày, Cao Lan, Quần Trắng, Đeo Tiền, nhưng người thì yếu ớt, gầy còm. Cha tôi đã dạy cho ông ta học chữ Quốc ngữ, cho đến nay đã đọc và viết được rồi. Cha tôi còn giúp bảo ban nhiều người điều hay, lẽ phải như cách cộng trừ nhân chia, phòng chống sốt rét, ỉa chảy và cần tránh những điều ác hại người...

Cảm cái ơn đó và đặc biệt là quý mến tấm lòng nhân hậu của cha tôi, vốn quen thạo đường rừng nên ông đã mạo hiểm làm cái việc có thể chết người này. Ông tự nguyện làm liên lạc mật giúp cha tôi báo tin và đưa thư, đồng thời xem hoàn cảnh hiện nay của gia đình tôi thế nào về nói lại cho cha tôi. Ngoài việc phải làm là canh chừng cha tôi, ông còn giúp cha tôi cơm nước, giặt giũ quần áo và những việc sinh hoạt hàng ngày khi cha tôi cần. Tuy thế, nhưng thường là cha tôi làm lấy, chỉ trừ những lúc ốm đau, thật yếu mệt, cha tôi mới cậy nhờ tới sự giúp đỡ. Chính vì thế lại càng làm cho ông ta thêm kính trọng cha tôi hơn. Ông ta đã kể lại như vậy.

Còn về bức thư đầu tiên gửi về nhà (kể từ khi cha tôi mất tích), cha tôi viết đại để như thế này (tôi được đọc đi đọc lại nhiều lần nên nhớ kỹ các ý).

Kính thưa Thầy và mẹ nó cùng các con yêu quý, nhớ thương!

Tôi không may đã bị người ta nghi ngờ nên hiểu lầm, về cái chuyện có lần tôi vô tình tiếp hai người khách lạ không mời mà đến, họ vận quần áo Tàu tìm đến nhà ta để gặp tôi. Hiện giờ họ đang câu lưu tôi trong này nhưng được biệt đãi hơn nhũng người khác, nghĩa là được đi lại tự do trong một phạm vi định sẵn, không phải giam cầm như các trường hợp khác. Tôi được ở riêng biệt hẳn một túp nhà sàn nhỏ trong rừng sâu, không được tự ý đi ra đi vào ngoài khu vực của bản họ đã quy định cho tôi. Họ luôn có người canh chừng sợ tôi bỏ trốn, ông này là người phục vụ tôi cơm nước và các việc vặt hàng ngày.

Về nhiệm vụ của tôi trong này là hàng ngày dạy học cho họ, có chia ra các buổi, các lớp tùy theo từng trình độ của họ, đồng thời kiêm cả chân thư kí khi họ có yêu cầu. Chẳng hạn: giúp thảo vài ba công văn, viết vài bài báo, dịch một số tài liệu theo yêu cầu của Việt Minh...

Ở nhà, Thầy và mẹ nó cùng các con cứ yên tâm, không phải lo lắng cho tôi. Tôi tự thấy rằng mình chẳng làm gì hại cho ai, cũng như cho thanh danh tôi và cả gia đình mình cũng như dòng họ nhà ta nên chẳng e ngại gì cả!

Việc câu lưu tự ý là việc của họ, muốn làm sao là do lương tâm họ cả, tôi không quan tâm... Trong này tôi chỉ cần nhất là sách báo, là tin tức về sức khỏe của Thầy và cuộc sống của cả nhà cùng một ít thuốc men chữa bệnh thông thường, nhất là căn bệnh suyễn kinh niên của tôi. Tìm cách gửi cho tôi chiếc áo len dài tay, màu tím than tôi vẫn thường mặc hồi nọ và một ít thuốc giảm cơn xuyễn vì đang vào mùa đông tháng giá. Ở rừng hồi này lạnh lắm!

Kính lạy Thầy, thương nhớ cả nhà!

(Bức thư không đề ngày tháng và không có chữ kí mà chỉ có hai chữ L.K viết tắt bằng chữ in hoa. Ở phía dưới bức thư có viết thêm vài dòng tái bút: Người mang thư này là người tốt, có thể tin cậy được. Khi ông ta đến nhà thì mẹ nó và các con cần niềm nở đón tiếp sao cho chu đáo nhưng phải giữ thật kín, cẩn thận nếu để lỡ hở ra thì ông ta có thể chết).

Sau ngày mẹ con tôi nhận được tin và thư cha tôi gửi về, dù là thế nào thì chúng tôi cũng vô cùng xúc động và cũng lại yên tâm hi vọng phần nào về cái ngày cha tôi sẽ trở về.

Đúng như những gì tôi đã dự cảm trước đây về lời nói của ông Bình là không thật. Riêng với tôi, qua trực giác và cảm nhận thì vẫn bán tín bán nghi và ngờ rằng: rất có thể là bức thư kia chưa hẳn đã phải là của cha tôi viết, tuy nhiên với mẫu tự, trông có vẻ hơi giống chữ ông nhưng cách hành văn thì không đúng lắm. Đây có lẽ là họ đọc cho ông viết chăng? Và hình như những lời lẽ này là ý của họ thì đúng hơn?

Tôi nhận thấy một sự vô lí ở trong cái sự kiện không hề mong đợi này là làm sao lại có người tốt bụng như thế chứ (buông lỏng cho cha tôi tự do đi lại, còn cắt cử người ra để chăm nom, phục vụ cho ông nữa) như cha tôi viết và cả người đưa thư cũng kể như thế trong khi họ câu lưu giam lỏng mình. Nhưng sáu mươi năm sau gia đình tôi gặp lại nhân chứng sống, thì những thông tin về việc cha tôi bị giam lỏng đó là sự thật!

Nghĩ vậy nhưng tôi vẫn để bụng xem cái sự thật giả sẽ diễn ra như thế nào? Còn ông nội tôi, thì hỡi ôi! Cụ đâu có biết rằng sẽ có tin và thư của người con trai duy nhất của mình để mà chờ đợi, mà vui mừng. Cụ đã ra đi vĩnh biệt mọi người, bỏ lại những đứa con dâu nết na, hiền thảo và đàn cháu nội yêu quý bỗng dưng phải côi cút cha ông của mình.

Về phần cha tôi cũng vậy, ông đâu được biết về sự thế diễn ra với người cha vô vàn kính yêu, thương nhớ của mình, đã vì uất đời đen bạc mà phải giã từ những con người mà cụ thương yêu, quý mến nhất trên đời.

Hỡi ôi! Thật tội nghiệp và đau xót cho cả hai người!

Xin quý vị lưu ý cho: về cái tình tiết sự việc cha tôi còn sống và đang bị người ta lưu giữ mãi trong rừng sâu ATK Việt Bắc là một sự thật hiển nhiên, chứ không phải do tôi tưởng tượng. Bởi tôi có một người bạn vong niên rất thân, anh là người dân tộc Tày ở Cao Bằng, ở Hà Giang từ lúc còn thanh niên. Sau ngày đảo chính cướp chính quyền từ tay phát xít Nhật, anh đã tham gia công tác ở nhiều cơ quan khác nhau, một dạo anh chuyển sang làm phóng viên nhiếp ảnh ở Ty Thông tin - Văn hóa Hà Giang. Tôi làm quen với anh. Anh tên là Toán Văn Báo, nghỉ hưu được chừng 20 năm. Hồi chưa tham gia công tác, anh thường đi đây đi đó du ngoạn. Một lần đúng lúc tổng khởi nghĩa thì anh qua địa phận thị xã Tuyên Quang và không may cho anh, lớ ngớ thế nào mà cũng bị người ta nghi ngờ, rồi bị tóm mang vào giam nơi rừng sâu ATK cùng chỗ với cha tôi. Khi chúng tôi quen và thân nhau rồi, trong một lần tâm sự ngẫu nhiên, thế nào anh lại nói cho tôi biết là anh cũng đã từng bị giam ở Tuyên Quang, trong rừng sâu và may mắn được biết một người rất hiền hậu, tài hoa học rộng, thường kể nhiều chuyện cho anh nghe. Anh rất yêu quý và kính phục ông ấy, tên ông là Lan Khai. Ông Lan Khai cho biết: “Tôi cũng vô tình bị bắt oan vào đây. Hàng ngày họ giao cho tôi dạy học, soạn giấy tờ”. Anh Báo nói: “Tôi thoát được là do quen luồn rừng của một người sinh ra ở núi, đặc biệt biết chọn đúng thời cơ và thời gian. Có một lần tôi đã mạnh dạn rủ ông Lan Khai: Trốn quách về nhà đi! Thà chết còn hơn bị cầm hãm ở đây! Nhưng ông ấy không định trốn, ông Lan Khai thật thà lại tin: Không có tội họ sẽ tha. Đêm đó tôi lần theo dấu chân hổ, để tự vệ không biết được, khéo léo luồn rừng thoát khỏi ATK, nên được sống”. Mãi sau anh Báo mới biết ông ấy chính là nhà văn Lan Khai, người cha của chúng tôi. Anh Báo mới qua đời cách đây vài năm, hưởng thọ 78 tuổi. Hiện gia đình anh vẫn cư trú cùng phường Trần Phú với gia đình tôi...

Thế rồi, từ cái lần gia đình, mẹ con tôi nhận được tin và thư của cha tôi gửi về, không hiểu có ma lực gì mà ai cũng nuôi hi vọng (trừ tôi) và luôn mong ngóng người Cao Lan nhân hậu nọ. Nhưng dù mọi người chúng tôi có mong hoài, mong mãi thì vẫn bặt bóng chim tăm cá. Đến khi cả nhà vô vọng thì... đột nhiên, thật bất ngờ, cái ông người Cao Lan lần nọ bỗng đâu lại xuất hiện, như thể trong mơ!

Khi ông hiện diện, cả nhà mừng quýnh lên, ai nấy đều đứng ngồi không yên. Nhận rõ tình cảnh vậy, ông ta liền lắc đầu, chép miệng và không nén nổi sự xúc động trong lòng, ái ngại bật lên tiếng: Khổ thân cho bà và các cậu quá! Mọi người phải hết sức bình tâm thì tôi mới có thể kể lại về ông nhà cho nghe. Vừa nói, ông vừa rưng rưng muốn khóc. Cảm thấy như có chuyện chẳng lành xảy ra với cha tôi, mẹ tôi mới nghiêm nét mặt, nén sự xúc động đang dâng trào trong lòng bà và ra hiệu cho chúng tôi yên lặng để nghe ông ta nói. Phút xúc động và hồi hộp của chúng tôi tạm thời lắng xuống. Cả nhà tôi khi ấy như nín thở, người căng lên để chờ đợi nghe những điều ông ta sắp nói.

Nhận rõ lúc này cả nhà tôi đã chế ngự được cơn xúc động, ông ta mới từ tốn, chậm rãi, mở nắp cái túi vải chàm bạc màu mà ông ta vẫn đeo bên hông từ lúc vào nhà đến giờ. Ông lần lượt lấy từng thứ từ trong cặp ra, đặt lên mặt bàn: thoạt tiên là chiếc đồng hồ quả quýt, nhãn hiệu Oméga, vỏ bằng đồng đen, quà tặng của chú Côn Sinh năm xưa cho cha tôi (hồi ở Hà thành), sau đó là chiếc bút máy loại to quá khổ, nhãn hiệu Parker, có thể đổ mực vào hàng tuần mới phải bơm mực lại, đó là quà của chú Đỗ Thúc Trâm tặng cha tôi khi còn làm việc ở tòa soạn Tân Dân Hà Nội và cuối cùng là một phong thư (đây là bức thư thứ hai và là bức thư cuối cùng). Lúc đầu, chúng tôi nhìn thấy cái cử chỉ lạ lùng, từ tốn ấy của ông dân tộc Cao Lan nọ, thì đều nhìn chằm chằm vào tay ông ta và sau khi đã trông rõ từng thứ vật dùng (như đã nói ở trên) mà trước khi đi cha tôi mang theo, được đặt lên bàn thì chúng tôi giật thót người lên và cảm nhận được cái sự chẳng lành đã xảy ra với cha tôi. Thế là, cả nhà chẳng ai bảo ai, nhất loạt òa lên khóc nức nở, vì đoán chắc rằng, cha tôi không còn nữa! (Cũng vì thế mà bức thư thứ hai của cha tôi gửi về, tôi chẳng còn bụng dạ nào mà đọc nữa. Vì vậy nội dung bức thư thế nào, tôi không được rõ.)

Để cho mẹ con chúng tôi khóc chán chê, tất cả đều đã ngấm mệt, lúc này ông người dân tộc Cao Lan, giọng ngùi ngùi xúc động mới thuật kể về chuyện của cha tôi. Ông nói: Bà nhà và các cậu bình tâm nghe đây. Ông nhà gửi tôi bức thư thứ hai này đã cách đây hơn một tháng (lần trước biết tin nhà, ông phấn chấn hẳn lên, riêng việc ông cụ thân sinh ông mất, tôi vẫn phải giấu, không dám cho ông biết) nhưng vì không tiện dịp mang ra (do chưa có việc gì để lấy cớ ra ngoài tỉnh), mặt khác nữa là, hình như tôi cũng bị nghi ngờ, nên đang bị người ta theo dõi thì phải.

Đến nay, ông nhà ta đã thực sự qua đời rồi, trước khi sắp qua đời, ông nhà gọi tên cụ và nhắc đến bà, đến các chú, nhất là tên chú út Diệp, rồi trào hai dòng nước mắt ra... còn những thứ này (ông ta chỉ vào những thứ để trên mặt bàn lúc trước) mà nói rằng: ông để lại cho tôi làm vật lưu niệm những ngày tháng tôi sống bên ông, phục vụ ông. Nhưng thưa bà và các cậu, tôi không dám dùng chúng, bởi dẫu sao thì đây vẫn là những vật cuối cùng của người đã khuất, cần phải mang ra nhà trả lại cho thân nhân của ông, cho dù trong lòng tôi có yêu thích chúng. Hôm nay, có dịp ra thị xã, tôi mang theo đến nhà để hoàn lại bà và các cậu làm kỉ niệm. Bà và các cậu là người cần giữ những vật này!

Nghe ông ta nói vừa dứt đoạn, mẹ tôi và tất cả chúng tôi lại òa lên khóc nức nở một hồi lâu. Thật đau đớn vô cùng! Cái tin sét đánh đến, làm chúng tôi sững sờ, không thể tin được! Thế là hi vọng cha tôi trở về đã tan tành mây khói!

Trong lúc cả nhà tôi, ai nấy đều đau đớn khóc than trước cái chết oan nghiệt, đầy bi kịch của cha tôi làm cho mọi người đều thấm mệt rồi, thì mẹ tôi, tạm bình tâm trở lại, bà ngẩng đầu lên gặng hỏi ông người Cao Lan nọ về sự thể cái chết của cha tôi. Bà gặng hỏi mãi, hỏi mãi thế nào thì ông ta cũng nhất định không chịu hé răng nói lấy nửa lời về sự thực cái chết diễn ra như thế nào của cha tôi, nhà văn Lan Khai. Ông ta im lặng, thở dài não nuột. Một lát sau, ông từ từ đứng dậy hướng vào mẹ con tôi mà nói lời chào từ biệt. Sau đó, ông ta lặng lẽ ra khỏi nhà tôi, cúi đầu lê bước.

Từ sau sự kiện ấy cho tới mãi đến tận bây giờ, chúng tôi không bao giờ còn gặp lại cái bóng dáng của hai người khách lạ vận quần áo Tàu hồi nọ và cả cái người đã mang mảnh giấy mời chết tiệt ấy đến nhà tôi. Người dân tộc Cao Lan nhân hậu ấy cũng không thấy đâu nữa?

Tất cả họ có khi đã đi vào cõi thiên thu như thể một giấc mơ kinh hoàng làm nhức nhối đau thương, đến là ghê sợ, hãi hùng.

Lại nói thêm một tư liệu nữa, vào khoảng năm 95 - 96, bà mẹ tôi nhắn tìm anh Trần Mạnh Tiến để nói một chuyện riêng mà mẹ giấu chúng tôi. Đó là một bức thư có nội dung sám hối của một người có tuổi ở ATK nhờ một người mang đến cho mẹ tôi: “Kính gửi bà Lan Khay! Hồi đảo chính Nhật, tôi nghe thượng cấp tỉnh bắt mang ông Lan Khay đi chết. Sau đấy họ cũng cấm tôi ra tỉnh, nếu nói ra chuvện chết của ông Lan Khay sẽ bị đưa đi lũng như ông Khay. Đến nay hơn 50 năm rồi tôi không đêm nào ngủ được yên. Nhắm mắt vào lại thấy nó ngồi bên cạnh giường. Người già bảo: đây là con ma của người chết oan. Nhà tôi mấy năm người cứ chết dần, gà lợn nuôi chẳng ở, con cái làm hại nhau. Lúa ngô năm nào cũng kém. Tôi đã đến chỗ nó bị chết cúng mấy lần nhưng nó không nghe vẫn cứ ở nhà tôi. Thầy bảo phải tìm vợ con người chết oan họ cúng cho mới khỏi. Đêm qua, vừa chợp mắt, ông Khay nó cũng về bảo thế. Tôi xin lạy van bà nếu bà còn sống bà cúng bảo nó tha tội cho con cháu tôi, để tôi chết thay cũng được. Con cháu tôi được sống, tôi sẽ đền bà. Tôi là người họ Lương..., bà giúp ơn giấu tên cho tôi với mọi người.” Nhận được bức thư ấy mẹ tôi xúc động khóc giấu cháu con, rồi lặng lẽ làm lễ cầu vong cho gia đình ông Tích ở khu ATK được sống bình yên. Tôi cảm thấy ngờ ngợ, dần dà mẹ tôi mới nói thực cho tôi: “Mẹ rất thương những người lầm lỗi, tội không sinh ra từ họ, đó là kẻ thừa hành thôi. Nói ra sợ con cháu không kìm nổi lại khoét sâu nỗi đau buồn, tủi hận đã quá lâu rồi. Cho Tiến và Lan xem kỹ bức thư ấy, làm lễ cầu vong xong, đêm ấy mẹ đốt rồi!”. Nghe bà kể “bức thư ấy chữ nguệch ngoạc chẳng thành câu cú hàng lối gì cả. Thật tội nghiệp!” 

Và rồi, cho đến tận hôm nay, sau sáu mươi năm đã qua, có nhiều sự biến động thăng trầm đến với đất nước, làm cho cả dân tộc anh hùng chúng ta phải chịu bao mất mát, đớn đau để bảo vệ thành quả cách mạng, để giành lại cuộc sống độc lập tự do từ tay các kẻ thù xâm lược. Trong những thành quả đã đạt được của dân tộc có cả sự đóng góp của gia đình chúng tôi tuy là nhỏ bé. Đặc biệt sự đóng góp của cha tôi, một nhân vật lịch sử của nền văn học Việt Nam hiện đại, nhà văn đường rừng, nhà văn của phu mỏ than! Vậy mà cái chết oan khuất đầy bí ẩn của cha tôi vẫn chưa một lần được ai lí giải, chưa một lần được một cơ quan nào làm sáng tỏ! Không một cá nhân tổ chức nào thông báo công khai nhận trách nhiệm về sự thật cái chết của nhà văn Lan Khai?

Cái chết của cha tôi diễn ra một cách bí ẩn, âm thầm và đầy sự khuất tất còn nói chi đến tiếng kèn, tiếng trống, đến nén nhang tưởng niệm, đến tiếng khóc xót thương... Cái chết của ông giống hệt những cái chết li kì, rùng rợn, ông đã miêu tả trong những cuốn tiểu thuyết như số phận của mình vậy. Đó là số phận hay đó là sự ghen ghét, đố kị, hằn thù của những kẻ vô học, bất lương đối với người lương thiện?

Một nhà văn, một con người, ngay từ thời tiền chiến, nước Việt Nam còn đang trong vòng nô lệ bởi thực dân Pháp, ông đã nổi tiếng trên văn đàn, được đông đảo độc giả xa gần mến mộ. Một con người đã hết lòng vì dân, vì nước, vì sự phát triển của nền văn học nước nhà, đã không mệt mỏi làm đẹp cho non sông bằng tấm lòng, bằng những trang văn thấm đẫm tình người, tình đời của mình.

Cái “việc tày đình ấy” (chữ của ông Trần Huy Liệu nói với gia đình tôi và các nhà văn) mà người đời vẫn tưởng là bình thường ấy lại bị một số kẻ cố tình giấu kín, muốn ém vào sự bí ẩn mãi chăng và nhờ vào thời gian để xóa mờ vết tích? Theo tôi, nếu sự thể diễn ra đúng như dự cảm thì có lẽ, chỉ có ông hiện đang dưới mồ và những người trong cuộc là biết được tường tận từ đầu chí cuối cái việc diễn ra mà thôi. Song, cha tôi thì đã đi xa mãi mãi còn những người trong cuộc kia, chắc gì đến nay họ vẫn còn sống, để mà xác minh, mà làm chứng!

Riêng về phần tôi, chỉ biết những gì thuộc tư liệu có thực liên quan đến sự kiện cái chết của cha tôi, mà lúc sinh thời mẹ tôi kể lại cho nghe và những gì anh em tôi chứng kiến. Dầu sao thì Bông Lan rừng yêu kính của chúng tôi và của cả những độc giả mến mộ Lan Khai, vẫn thực sự lan tỏa cái hương thơm quyến rũ đến với mọi người trong suốt bao năm qua. Đó là sự thực không ai ngăn cản nổi, để chiến thắng mọi thế lực bạo tàn như lời của người xưa đã từng dạy: Thật thà là cha quỷ quái và Lênin vĩ đại cũng từng nói: Sức mạnh của chúng ta là ở trong sự thật. Này, những người sống quen bằng dối trá, có nghĩ chăng khi con cái của mình cầm trên tay cuốn sách dạy làm người: Sự thực là gì? Vì sao cần sự thực? Khi còn sống, Lan Khai đã từng nói: “Diễn tả cho đúng hệt con người, nghệ thuật văn chương đã đạt được mục đích và, do đấy, có thể trở nên thứ nghệ thuật văn chương muôn đời vậy”. (Bàn qua về nghệ thuật - Tao Đàn số 6/1939). Thế ra sự thực là chân lý của đời người và nghệ thuật. Thiếu tướng Hoàng Mai cũng khẳng định: “Lịch sử không bao giờ lầm lẫn, nhà văn Lan Khai là người có công với nước”.

L.P
(SH307/09-14)