Wednesday, 8 July 2020

Vấn đề chuẩn chính tả (Hoàng Phê - Từ Điển Vietlex)

VẤN ĐỀ CHUẨN CHÍNH TẢ GS. Hoàng Phê (Trích trong: Hoàng Phê - Tuyển tập Ngôn ngữ học. NXB Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, 2008)
(https://www.facebook.com/HoangPheTudien/posts/548797842133083/)
Một ngôn ngữ văn hoá dân tộc không thể không có chính tả thống nhất. Chính tả có thống nhất thì việc giao tiếp, bằng ngôn ngữ viết, mới không bị trở ngại giữa các địa phương trong cả nước, cũng như giữa các thời đại, đời trước và đời sau.
Chính tả muốn thống nhất thì phải có chuẩn chính tả, được quy định rõ ràng và được mọi người tuân theo. Chuẩn chính tả, có khi được hình thành dần dần trong thực tiễn sử dụng ngôn ngữ viết, được phản ánh trên sách báo và được ghi lại trong các từ điển, có khi được quy định bởi một cơ quan có quyền uy về mặt nhà nước hoặc về mặt học thuật. Và nhà trường là nơi phổ biến và duy trì chuẩn chính tả một cách có hiệu lực nhất. Trong những trường hợp đang có lưỡng lự, không có chuẩn chính tả rõ ràng và nhất trí, thì nhà trường có thể có một tác dụng lớn trong việc xác định, góp phần tiến tới chính thức quy định chuẩn chính tả. Vì vậy, việc áp dụng một chính tả thống nhất trong các sách giáo khoa, và giảng dạy chính tả thống nhất ấy trong nhà trường, bao giờ cũng là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng, được giới giáo dục và nói chung mọi người quan tâm.
Nhìn chung thì chính tả tiếng Việt thống nhất ở phần rất cơ bản: cách viết các âm tiết - hình vị. Chuẩn chính tả đã hình thành dần dần trong lịch sử, một cách ít nhiều tự phát, căn cứ vào những lối viết được ghi lại trong các từ điển, đặc biệt là từ giữa thế kỉ XIX lại đây. Nhưng giữa các từ điển không tránh khỏi có những trường hợp chính tả thiếu nhất trí. Mặt khác, tiếng Việt ngày nay đã phát triển khác trước khá nhiều, có nhiều hiện tượng mới, nhiều yêu cầu mới, đòi hỏi về mặt chữ viết cũng phải có những thay đổi và những phát triển tương ứng. Tình hình đó tạo ra tình trạng chính tả thiếu nhất trí, gây khó khăn cho nhiều mặt công tác, đặc biệt là công tác giảng dạy ở nhà trường.
Vấn đề chính tả bao gồm nhiều vấn đề cụ thể. Những vấn đề này có quan hệ chặt chẽ với nhau, cần được giải quyết một cách nhất quán, theo những nguyên tắc chung.
I. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CHUNG
1. Nguyên tắc chính tả
Mỗi chữ viết cụ thể được xây dựng trên cơ sở một (hoặc vài) nguyên tắc chính tả. Điều quan trọng là nguyên tắc chính tả cơ bản đó là gì, và nó đã được quán triệt đến đâu.
Chữ viết của tiếng Việt là một chữ viết ghi âm bằng chữ cái. Do đặc điểm của tiếng Việt (ngôn ngữ âm tiết tính, không biến hình), nguyên tắc chính tả cơ bản của chữ Việt đơn giản là nguyên tắc ngữ âm học: phát âm như nhau thì viết giống nhau, và viết giống nhau thì đọc như nhau, giữa phát âm và chính tả có mối quan hệ trực tiếp.
Nhưng nói chính tả dựa trên phát âm không có nghĩa là bất cứ phát âm nào cũng có thể là cơ sở của chính tả. Trán (cái trán), mà viết TRÁNG theo phát âm miền Nam, hoặc viết CHÁN theo phát âm miền Bắc, thì đều là sai chính tả. Chúng ta phát âm tiếng Việt không hoàn toàn thống nhất, có những từ phát âm có khác nhau giữa các địa phương, giữa các phương ngữ. Dựa vào những cách phát âm khác nhau đó mà viết thì chính tả cũng sẽ không thống nhất. Phát âm là cơ sở cho chính tả tiếng Việt không phải là phát âm thuần tuý của một phương ngữ nào. Phương ngữ miền Nam không phân biệt trán với tráng, đều phát âm là “tráng”; trong khi đó phương ngữ miền Bắc không phân biệt trán với chán, đều phát âm là “chán”. Phát âm làm cơ sở cho chính tả tiếng Việt vừa phân biệt -n với -ng như phát âm miền Bắc, vừa phân biệt tr- với ch- như phát âm miền Nam, nên phân biệt trán, một mặt với tráng, một mặt với chán (và do đó cả với cháng). Những sự phân biệt -n với -ng, tr- với ch-, có tác dụng làm phân biệt những âm tiết-hình vị trán, tráng, chán, cháng, gọi là những sự phân biệt âm vị học (phân biệt thành các âm vị đối lập -n với -ng, tr- với ch-). Những sự phân biệt âm vị học có tác dụng tích cực như vậy trong các phương ngữ đã được triệt để tận dụng. Với ý nghĩa đó, có thể nói rằng phát âm làm cơ sở cho chính tả tiếng Việt là một sự tổng hợp các sự phân biệt âm vị học có trong các phương ngữ. So với phát âm của phương ngữ miền Nam, thì phát âm của phương ngữ miền Bắc có những sự phân biệt âm vị học phong phú hơn rõ rệt, cho nên thực tế đây là một sự tổng hợp trên cơ sở phát âm của phương ngữ miền Bắc. Hoặc có thể nói đây là phát âm hình thành trên cơ sở phát âm miền Bắc, mà tiêu biểu là phát âm của thủ đô Hà Nội, có bổ sung những sự phân biệt âm vị học đặc trưng của phát âm miền Nam và các miền khác của đất nước; cụ thể là có bổ sung các phụ âm đầu tr-, đối lập với ch-; s- đối lập với x-; r- đối lập với z- (viết bằng D-/GI-); và các khuôn -ưu, đối lập với -iu; -ươu đối lập với -iêu.
Dạng tồn tại tự nhiên của ngôn ngữ là phương ngữ, cho nên phát âm tự nhiên của tiếng Việt chỉ có thể là các phát âm phương ngữ. Người Việt Nam chúng ta phát âm tiếng Việt một cách tự nhiên, chỉ có thể nói (cái) “chán”, nếu là người miền Bắc, hoặc (cái) “tráng” nếu là người miền Nam, phát âm cái “trán” vốn không tồn tại một cách tự nhiên. Nhưng dần dần chúng ta ý thức được rằng tiếng Việt chúng ta là một ngôn ngữ thống nhất, sự thống nhất đó thể hiện rõ rệt ở chính tả, đồng thời cũng cần được thể hiện ở phát âm; cần có một phát âm chung của cả nước, của dân tộc, một phát âm thống nhất của tiếng Việt, hay nói cách khác, một phát âm chuẩn, một chính âm của tiếng Việt. Trong trường hợp cụ thể này, nhiều người nghĩ một cách tự nhiên rằng phát âm chuẩn không thể là “tráng”, cũng không thể là “chán”, mà chỉ có thể là “trán”, vừa phân biệt -n với -ng, vừa phân biệt tr- với ch-. Nói cách khác, một khi chúng ta đã thừa nhận rằng chỉ có viết TRÁN mới đúng chính tả, thì chúng ta cũng mặc nhiên thừa nhận rằng chỉ có phát âm “trán” mới là đúng chính âm. Một khi chúng ta đã thừa nhận chính tả hiện nay của tiếng Việt, thì mặc nhiên chúng ta cũng thừa nhận rằng chính âm của tiếng Việt chính là phát âm đã làm cơ sở cho chính tả đó, hay nói cách khác, đã được phản ánh trên chính tả đó. Chính âm và chính tả có quan hệ trực tiếp với nhau, chính âm là cơ sở cho chính tả và chính tả phản ánh chính âm. Vấn đề chính âm của tiếng Việt đã từng là một đề tài tranh luận, nhưng trên thực tế nó đã được giải quyết về nguyên tắc từ lâu rồi và đơn giản như vậy. Và trên thực tế, cũng đã hình thành một lớp người, tuy hiện nay đang còn là số ít, có ý thức không những viết đúng chính tả mà còn cố gắng nói đúng chính âm, ít nhất là trong những trường hợp nhất định: một số người miền Nam cố gắng phát âm phân biệt v- với d-/gi-, -n với -ng, -t với -c, phân biệt các thanh điệu hỏi và ngã, v.v.; cũng như một số người miền Bắc cố gắng phát âm phân biệt tr- với ch-, s- với x-, v.v. Cùng với sự phát triển của văn hoá giáo dục, số người đó ngày một tăng. Tuy nhiên, phổ biến chính âm và thống nhất phát âm là cả một quá trình lâu dài, khó khăn hơn rất nhiều so với chuẩn hoá và thống nhất chính tả. Đi đôi với chính tả, nhà trường cũng cần dạy chính âm cho học sinh, nhưng yêu cầu có khác nhau: nếu yêu cầu viết đúng chính tả là tuyệt đối, thì yêu cầu nói đúng chính âm, ít nhất là hiện nay, chỉ có thể là tương đối. Nên giới thiệu chính âm cho học sinh, và yêu cầu học sinh cố gắng đọc đúng chính âm trong những trường hợp nhất định, như trong giờ tập đọc chẳng hạn. Ý thức coi trọng chính tả, và cùng với chính tả là chính âm của tiếng Việt, là biểu hiện của ý thức coi trọng tiếng Việt, một nhân tố quan trọng làm nên sự thống nhất của dân tộc ta.
2. Chuẩn chính tả
Chuẩn chính tả có một số đặc điểm khác những chuẩn khác (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) của ngôn ngữ.
a) Chuẩn chính tả có tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối. Yêu cầu viết đúng chính tả là yêu cầu phổ biến đối với mọi người. Một cách viết rõ ràng là không hợp lí, thậm chí vô lí nhưng đã được công nhận là chuẩn chính tả, thì ai cũng phải theo. Về mọi mặt, viết NGỀ NGIỆP hợp lí hơn viết NGHỀ NGHIỆP, vừa khoa học hơn lại vừa giản tiện hơn, tiết kiệm hơn, thế nhưng trong chữ Việt cho đến ngày nay chỉ có viết NGHỀ NGHIỆP mới là đúng chính tả. Về mặt chính tả, không có sự phân biệt hay - dở, mà chỉ có sự phân biệt đúng sai (với chuẩn). Đối với chính tả, yêu cầu cao nhất là sự thống nhất. Một chữ viết không thật hợp lí, nhưng có chính tả thống nhất, quy đến cùng, vẫn tốt hơn, tiện lợi hơn là một chữ viết có phần hợp lí hơn nhưng chính tả lại không thống nhất. Để bảo đảm sự thống nhất của chính tả, cần có những chuẩn chính tả được xác định rõ ràng. Và với những điều kiện như nhau, thì quy tắc chính tả tốt nhất là những quy tắc rõ ràng và đơn giản, vừa không có trường hợp mập mờ, vừa dễ áp dụng cho số đông.
b) Chuẩn chính tả có tính ổn định cao, rất ít thay đổi. Chuẩn chính tả thường được giữ nguyên trong một thời gian dài, nên cũng thường tạo thành thói quen ít nhiều lâu đời, tạo nên một tâm lí bảo thủ khá phổ biến. Ngày nay chúng ta đã quá quen với những hình thức chính tả như YÊU GHÉT, đến mức nếu có người chủ trương viết (hợp lí hơn) IÊU GÉT chẳng hạn, thì phản ứng đầu tiên ở nhiều người là thấy chướng mắt, thậm chí khó chịu. Mặt khác, khi ngôn ngữ đã phát triển thành ít nhiều khác trước, đặc biệt là về mặt ngữ âm, mà chính tả (ghi âm) vẫn giữ nguyên không thay đổi, thì có thể phát sinh những mâu thuẫn nhất định, tạo nên những bất hợp lí hoặc rắc rối của chính tả. Tiếng Việt trước kia phát âm phân biệt hai phụ âm d- và gi-, nhưng từ ít nhất hơn một thế kỉ nay, sự phân biệt đó trong phát âm thực tế không còn nữa. Thế nhưng trên chính tả thì vẫn viết phân biệt D- với GI- như cũ, tạo nên một khó khăn về chính tả: nên viết (trau) DỒI hay GIỒI, (già) DẶN hay GIẶN? Gần đây có một số từ mượn của tiếng nước ngoài, chúng ta viết GI (gilê), GIĂM (giămbông), với GI- chỉ vì không có cách nào khác, chứ thật ra chúng ta đâu có phát âm “gi”, “giăm”, mà ở đây là một âm mới chúng ta tiếp thu của tiếng nước ngoài, “ji”, “jăm” (nếu tạm ghi bằng J). Bằng cải tiến chính tả có thể xoá bỏ những bất hợp lí như vậy. Nhưng điều cần thiết là sau một thời gian lại có mâu thuẫn mới phát sinh, cho nên thường chỉ có thể đòi hỏi ở chính tả một tính hợp lí tương đối (dĩ nhiên là trong phạm vi tương đối đó, một chính tả hợp lí vẫn tốt hơn).
c) Nhưng dù có tính ổn định cao, chuẩn chính tả cũng như các chuẩn ngôn ngữ khác, cũng không phải là bất di bất dịch. Ban đầu là có một số hình thức chính tả mới nảy sinh, hoặc để nhằm thay thế cho những chuẩn chính tả đã rõ ràng trở thành lỗi thời, hoặc để đáp ứng những yêu cầu mới của ngôn ngữ. Hình thức chính tả mới này có thể dần dần được nhiều người tán thành, đến mức được công nhận là chuẩn. Trước đây, viết ĐÀY TỚ, TRẰM TRỒ là chuẩn; ngày nay phổ biến hơn nhiều là viết ĐẦY TỚ, TRẦM TRỒ, phản ánh phát âm đã có biến đổi. Trước đây chỉ ít chục năm, viết PA, XTA là xa lạ đối với chính tả tiếng Việt; ngày nay, viết PIN (so sánh BIN), PARI (so sánh BA LÊ), APATIT, XTALIN (so sánh A-PA-TÍT, XÍT-TA-LIN) là bình thường. Tình hình nói trên thường tạo ra, trong một giai đoạn nào đó, tình trạng có thể gọi là lưỡng khả: có hai ba hình thức chính tả khác nhau cùng tồn tại, những hình thức chính tả này có thể có giá trị như nhau (đều là chuẩn), hoặc có giá trị khác nhau (có một hình thức là chuẩn phổ biến, còn những hình thức khác chỉ được sử dụng một cách hạn chế là những biến thể chính tả cũ, hoặc phương ngữ, ít dùng, v.v.). Lưỡng khả là một tình trạng quá độ trong quá trình hình thành của chuẩn ngôn ngữ, cũng như trong quá trình chuyển biến biện chứng từ cái không chuẩn trở thành chuẩn, và ngược lại. Trong những trường hợp nhất định, tính lưỡng khả còn đáp ứng yêu cầu của các phong cách, cung cấp những biến thể phù hợp với những phong cách khác nhau. Chuẩn chính tả không chỉ đơn giản là xác định (hoặc quy định) chuẩn chính tả, mà còn là xác định những trường hợp thật sự có lưỡng khả, và trong từng trường hợp, xác định giá trị khác nhau của mỗi hình thức chính tả.
d) Cũng như các chuẩn ngôn ngữ khác, chuẩn chính tả là kết quả của một sự lựa chọn: lựa chọn giữa nhiều hình thức chính tả đang cùng tồn tại. Những hình thức chính tả này có thể phản ánh những cách phát âm khác nhau: có khi đó là một phát âm cũ bên cạnh phát âm ngày nay, thí dụ, so sánh chỗi/trỗi (dậy), uý/uỷ (lạo); có khi đó là hai ba cách phát âm khác nhau đang cùng tồn tại trong phạm vi cả nước, khó xác định một chuẩn phát âm duy nhất, thí dụ, so sánh chưng/trưng (bày), (eo) sèo/xèo; có khi đó là một cách phát âm tuy là phổ biến, nhưng có ý kiến cho là “sai”, bên cạnh một cách phát âm khác, được một số người đánh giá là “đúng”, nhưng lại không phổ biến, thí dụ, so sánh (khoái) trá/chá, mãn/mạn (tính). Cũng có những trường hợp tuy rằng để phản ánh một phát âm duy nhất, nhưng lại đang tồn tại hai ba hình thức chính tả, hoặc là do bất hợp lí của bản thân chữ viết, thí dụ, so sánh HI/HY (sinh), QUÍ/QUÝ; hoặc là do đây là một từ phương ngữ, với một phát âm phương ngữ có thể viết hai ba cách khác nhau, thí dụ, so sánh MẮC/MẮT (rẻ), MẢNG/MÃNG/MÃN (cầu) (viết khác nhau, nhưng đều đọc giống nhau, trong phương ngữ miền Nam).
Giữa những hình thức chính tả khác nhau đang cùng tồn tại như vậy, qua thực tiễn sử dụng ngôn ngữ viết của số đông, đặc biệt là của lớp người có văn hoá, có ảnh hưởng về mặt chuẩn hoá ngôn ngữ, dần dần thấy rõ một sự lựa chọn của xã hội, có khi có ý thức, có khi không hoàn toàn có ý thức. Sự lựa chọn này dựa trên những tiêu chí nhiều khi khác nhau: tiêu chí ngữ âm (căn cứ vào phát âm ngày nay), tiêu chí thói quen (căn cứ vào thói quen đã hình thành của số đông), tiêu chí lịch sử (căn cứ vào phát âm hoặc hình thức chính tả đã có từ lâu trong lịch sử của ngôn ngữ, như đã được phản ánh trong sách cũ, từ điển cũ), tiêu chí từ nguyên (căn cứ vào phát âm hoặc hình thức chính tả phản ánh đúng nhất nguồn gốc của từ), v.v. Trong ngôn ngữ không thể đòi hỏi một tính hệ thống tuyệt đối, cho nên cũng không thể máy móc dựa vào một tiêu chí duy nhất trong mọi trường hợp, nhưng dựa trên tiêu chí nào là chính, coi trọng tiêu chí nào hơn những tiêu chí khác, phản ánh những quan điểm khác nhau, có khi đối lập nhau. Chuẩn chính tả phải lấy chuẩn phát âm làm cơ sở, và ngược lại, trong những trường hợp nhất định, nó phải có tác dụng trở lại phát âm, góp phần nhanh chóng xác định, củng cố và phổ biến chuẩn phát âm. Mặt khác, đối với sự hình thành cũng như sự duy trì, củng cố của chuẩn ngôn ngữ, thói quen của số đông thường có ý nghĩa quyết định cuối cùng. Khi đã là thói quen của số đông, nhất là một thói quen ngày một ăn sâu lan rộng, bất chấp mọi ý kiến phản bác, thì ở đây đã có tác động của một quy luật khách quan nào đó. Khi một phát âm mới đã trở thành thói quen như thế của số đông, thì chứng tỏ thực tế đã hình thành một chuẩn phát âm mới, làm cơ sở cho một chuẩn chính tả mới. Tiêu chí ngữ âm kết hợp với tiêu chí thói quen, phải là quan trọng nhất, là quyết định, vì chỉ khi nào, vì những lí do nào đó, không thể vận dụng được hai tiêu chí ấy kết hợp với nhau, thì mới vận dụng đến một số tiêu chí khác.
Hơn các chuẩn ngôn ngữ khác, chuẩn chính tả có thể chịu tác động trực tiếp và có ý thức của con người, và thường là kết quả trực tiếp của công tác chuẩn hoá. Chữ viết do con người đặt ra một cách có ý thức, cho nên con người hoàn toàn có thể quy định chuẩn chính tả một cách có ý thức, nhằm làm cho chính tả đạt cái mức tối đa thực tế cho phép của một sự hợp lí tương đối, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển của ngôn ngữ.
II. CHÍNH TẢ ÂM TIẾT-HÌNH VỊ CỦA TIẾNG VIỆT
1. Về cách viết các âm tiết-hình vị của tiếng Việt, chúng ta có một chính tả về cơ bản thống nhất. Mặc dầu giữa các phương ngữ vẫn tồn tại những sự khác nhau đáng kể trong phát âm, các âm tiết-hình vị của tiếng Việt nói chung đều có chuẩn chính tả rõ ràng, ổn định và thống nhất cho cả nước.
2. Ở diện cách viết các âm vị, chính tả tiếng Việt không thật quán triệt nguyên tắc ngữ âm học (âm vị học): có nhiều trường hợp dùng hai ba kí hiệu (con chữ) khác nhau để ghi cùng một âm vị (như dùng C, K hoặc Q để ghi âm vị /k/). Nhưng điều đáng chú ý là việc dùng những con chữ khác nhau tuân theo những quy tắc chặt chẽ (thí dụ, nếu đã viết CA, KE, QUY, thì không viết KA, CE, CUY, KUY), trong sự thiếu nhất quán lại vẫn có được một sự nhất quán, cho nên mặc dầu trong nhiều trường hợp không có được sự tương ứng một đối một chặt chẽ giữa chữ và âm ở cách viết các âm vị, nhưng lại vẫn bảo đảm được sự tương ứng đó ở cách viết các âm tiết: nói chung mỗi âm tiết của tiếng Việt chỉ có một cách viết (một vần) nhất định, và ngược lại, mỗi vần chỉ có một cách đọc nhất định. Cho nên chỉ cần nắm cách phát âm chuẩn làm cơ sở cho chính tả (hoặc nói cách khác, nắm những sự khác nhau giữa cách phát âm phương ngữ với cách phát âm chuẩn), và một số quy tắc không nhiều lắm, là nói chung có thể viết căn bản không sai chính tả.
Tuy nhiên, có những trường hợp ngoại lệ, với cùng một âm tiết lại có hai cách viết khác nhau, tuỳ từng hình vị, từng từ cụ thể, tạo nên những khó khăn về chính tả và tình trạng chính tả thiếu nhất trí. Đó là trường hợp D- và GI-, vẫn viết phân biệt, tuy phát âm không còn phân biệt nữa, như đã nói ở trên. Ngoài ra, còn có trường hợp quy, có thể viết QUI hoặc QUY; và trường hợp chỉ riêng mấy âm tiết hi, ki, li, mi, ti, tuỳ từng hình vị, từng từ cụ thể mà viết khác nhau HI hoặc HY, KI hoặc KY, LI hoặc LY, MI hoặc MY, TI hoặc TY (so sánh HỈ (mũi) và (báo) HỶ, LI (bì), LI (ti) và LY (kỳ), (biệt) LY, v.v.). Đây là kết quả của một thói quen không rõ từ đâu, chỉ bắt đầu hình thành một cách tự phát từ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Điều này tạo ra một bất hợp lí và những lộn xộn thấy rõ khi so sánh chẳng hạn cách viết một số từ trong bốn quyển từ điển tiếng Việt xuất bản trong vòng ba mươi năm lại đây (Tự điển Việt Nam phổ thông của Đào Văn Tập, viết tắt ĐVT; Từ điển Việt Nam của Thanh Nghị, viết tắt TN; Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức, viết tắt LVĐ; và Từ điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên, viết tắt VT):
ĐVT: KÌ, KÌ kèo, HY sinh, MỴ dân
TN: KỲ cọ, KÌ kèo, HY sinh, MỊ dân
LVĐ: KÌ/KỲ cọ, KÌ kèo, HI/HY sinh, MỊ dân
VT: KỲ cọ, KỲ kèo, HI sinh, MỊ dân

Bỏ sự phân biệt D- và GI- (như thay nhất loạt bằng Z- chẳng hạn), là việc làm hợp lí, nhưng chỉ có thể thực hiện trong phạm vi một cải tiến chính tả. Còn nếu quy định viết HI, KI, LI, MI, TI (thống nhất với cách viết BI, CHI, DI, v.v.) trong mọi trường hợp, chứ không viết HY, KY, LY, MY, TY; đồng thời viết QUY (và do đó QUYT) (thống nhất với cách viết UY, DUY, HUY, SUY, và HUYT, SUYT, v.v.), chứ không viết QUI (và QUIT), thì đó chỉ là trong phạm vi chuẩn hóa chính tả: một việc có thể làm và nên làm để hợp lí hoá một bước chính tả.
3. Vấn đề quan trọng nhất là xác định chuẩn chính tả khi đang có hiện tượng chính tả không nhất trí. Cần so sánh mức phổ biến của các hình thức chính tả để có được một căn cứ khách quan đáng tin cậy. Muốn vậy, tốt nhất là tiến hành một công tác điều tra về tình hình chính tả thực tế trên sách báo trong cả nước và qua các thời kì (trong những trường hợp cần thiết, cần có sự phối hợp với một công tác điều tra về phát âm). Không có điều kiện làm việc này, những người biên soạn từ điển trước đây, kể cả biên soạn từ điển chính tả, ngoài việc tham khảo chính tả trong các từ điển xuất bản trước, chỉ có thể dựa vào những hiểu biết cá nhân rất hạn chế và khó tránh khỏi chủ quan của mình về phát âm, về chính tả trên sách báo, và có khi cả về từ nguyên, để quyết định chọn một hình thức chính tả nào đó. Kết quả là chính trong những trường hợp cần xác định rõ ràng, có căn cứ và nhất trí một chuẩn chính tả, thì giữa các từ điển thường có mâu thuẫn, và nhiều khi sai lầm ở một từ điển này được lặp lại ở các từ điển khác.
Gần đây chúng ta đã có được một cơ sở để nghiên cứu tình hình chính tả thực tế trên sách báo. Đó là tư liệu phiếu từ điển (mỗi phiếu ghi một câu chọn trích ở sách báo, chủ yếu là ở các tác phẩm văn học) của Viện Ngôn ngữ học thuộc Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam, với số lượng hiện nay đã đạt khoảng hai triệu rưỡi phiếu. Chúng tôi đã sử dụng tư liệu đó để so sánh mức độ phổ biến của các hình thức chính tả khác nhau của cùng một âm tiết hình vị, trong khoảng 1400 trường hợp, với từng trường hợp đều có đối chiếu với các hình thức chính tả trong các từ điển, chủ yếu là những từ điển xuất bản trong vòng 50 năm lại đây. Kết quả cho thấy rằng:
1. Có những trường hợp trong hai hình thức chính tả ghi không nhất trí giữa các từ điển, có một hình thức phổ biến hơn rõ rệt. Thí dụ, nhiều từ điển viết DA DIẾT, (láng) GIỀNG, nhưng các từ điển cũ, từ từ điển của A de Rhodes (1651) cho đến nói chung những từ điển xuất bản từ trước 1930, và một vài từ điển sau 1930, lại viết GIA GIẾT, (láng) DIỀNG; so sánh số phiếu từ điển (cho đến tháng 12-1982): GIA GIẾT: 1 phiếu; DA DIẾT: 202 phiếu; (láng) DIỀNG: 1 phiếu; (láng) GIỀNG: 84 phiếu. Như vậy có thể xác định chuẩn chính tả ngày nay là DA DIẾT, (láng) GIỀNG, còn GIA GIẾT, (láng) DIỀNG là những chuẩn chính tả cũ. Hoặc so sánh (chối) ĐAY ĐẢY: 4 phiếu; ĐÂY ĐẨY: 54 phiếu; ĐẴM (máu): 10 phiếu; ĐẪM: 241 phiếu; có thể xác định chuẩn chính tả ngày nay là ĐÂY ĐẨY, ĐẪM, còn ĐAY ĐẢY, ĐẴM vốn là những chuẩn chính tả cũ, ngày nay chỉ tồn tại như là những biến thể chính tả có tính chất phương ngữ (miền Nam).
2. Có những trường hợp có một hình thức chính tả mới, không thấy có trong các từ điển (trước kia bị đánh giá là “sai”), nhưng lại phổ biến hơn rõ rệt, gấp nhiều lần hình thức chính tả đã được ghi nhất trí trong các từ điển cho đến gần đây. Thí dụ: TRẦM (trồ): 212 phiếu, so với (chuẩn theo các từ điển) TRẰM (trồ): 10 phiếu; ĐẦY (tớ): 54 phiếu, so với ĐÀY (tớ): 3 phiếu; đề (kháng): 99 phiếu, so với để (kháng): 4 phiếu; hoặc (trường hợp phức tạp hơn) RUN RỦI: 40 phiếu, so với (hình thức chính tả ghi không nhất trí trong các từ điển) DUN DỦI: 14 phiếu, DUN GIỦI: 0 phiếu, DUN RỦI: 0 phiếu, GIUN GIỦI: 1 phiếu. Như vậy, có thể xác định chuẩn chính tả ngày nay là TRẦM (trồ), đầy (tớ), đề (kháng), RUN RỦI; còn TRẰM (trồ), DÀY (tớ) là những hình thức chuẩn chính tả cũ, ngày nay chỉ còn tồn tại như là những biến thể chính tả phương ngữ, ít dùng; ĐỂ (kháng) là hình thức chuẩn chính tả cũ, ngày nay thực tế không dùng nữa; DUN DỦI có thể là chuẩn chính tả cũ, hoặc biến thể phương ngữ, còn DUN GIỦI, DUN RỦI, GIUN GIỦI chỉ là những lối viết sai lầm, theo chủ quan của người biên soạn từ điển.
Khi một hình thức chính tả mới, phản ánh một cách phát âm mới, đã trở thành phổ biến đến mức được công nhận là chuẩn, thay thế cho chuẩn chính tả cũ thì điều đó có nghĩa là ngữ âm đã có biến đổi, một thói quen phát âm mới của từ đã hình thành, trở thành chuẩn, thay thế cho chuẩn cũ, làm cho vỏ ngữ âm của từ có thể biến đổi thành khác hẳn, hoặc thành càng xa hơn cái dạng gốc, từ nguyên của nó. Đây là một hiện tượng ngôn ngữ bình thường, có tính quy luật.
3. Nhưng cũng có những trường hợp đang có sự giằng co, nếu có thể nói được như vậy, giữa hai hình thức chính tả. Có khi một trong hai hình thức chính tả này phản ánh một phát âm phù hợp với từ nguyên, và cái căn cứ từ nguyên tương đối rõ làm cho phát âm (và hình thức chính tả tương ứng) ấy được một số người có văn hoá, duy trì, bảo vệ một cách có ý thức trước sự phổ biến của một phát âm khác, bị đánh giá là “sai”. Do đó mà trên chữ viết, hình thức chính tả phản ánh phát âm phù hợp với từ nguyên có thể vẫn tương đối phổ biến hơn (và thường đó cũng là hình thức chuẩn được ghi lại trong các từ điển). Thí dụ, so sánh HẰNG (trong “hằng ngày, hằng tháng”, từ gốc Hán; so sánh: “hằng nghĩ tới”, “vĩnh hằng”): 60 phiếu; HÀNG: 37 phiếu. Trong những điều kiện như vậy, nên xác định HẰNG vẫn là chuẩn chính tả (và phân biệt với HÀNG trong “hàng mấy ngày”, “đợi hàng giờ”, tuy không loại trừ khả năng có sự thay đổi về sau này, nếu quả phát âm “hàng ngày” và cả hình thức chính tả tương ứng, vẫn cứ tiếp tục ngày càng phổ biến. Nhưng những trường hợp như thế không nhiều, chỉ là cá biệt. Thường là khi có hai hình thức chính tả phổ biến tương đương như nhau, thì phải chấp nhận cả hai, thừa nhận sự tồn tại đồng thời của hai chuẩn chính tả có giá trị như nhau, hoặc căn bản như nhau, tuy rằng có thể một hình thức sẽ có khả năng dần dần trở thành chuẩn phổ biến duy nhất. Thí dụ (eo) SÈO: 37 phiếu, và (eo) XÈO: 34 phiếu; NHỎM (dậy): 119 phiếu, và NHỔM: 110 phiếu; (sinh) MẠNG: 46 phiếu và (sinh) MỆNH: 49 phiếu; (chuẩn theo các từ điển) ĐÀY (đoạ): 43 phiếu, và ĐẦY (đoạ): 47 phiếu; (chuẩn theo các từ điển) (trôi) GIẠT: 94 phiếu, và DẠT: 104 phiếu.
4. Sự diễn biến của chính tả tiếng Việt trong mấy chục năm gần đây cho thấy rõ một vài xu thế biến đổi của chuẩn chính tả tiếng Việt ngày nay. Đáng chú ý là trong nhiều trường hợp, hình thức chính tả vốn là biến thể phương ngữ miền Bắc đã dần dần trở nên phổ biến thành chuẩn chính tả của tiếng Việt văn hoá ngày nay, thay thế cho chuẩn chính tả trước đây, nay bị coi là cũ, hoặc bị đẩy xuống địa vị biến thể phương ngữ (miền Nam). Quá trình này đã diễn ra với ĐÂY ĐẨY, ĐẪM, TRẦM (trồ), ĐẦY (tớ) đã nêu ở trên; và với (ôm) CHẦM: 99 phiếu, thay cho (ôm) CHẰM: 5 phiếu; CHÂY (lười): 35 phiếu, thay cho TRÂY (lười): 8 phiếu; (nuốt) CHỬNG: 87 phiếu, thay cho TRỬNG: 9 phiếu; ĐẦM (đìa): 155 phiếu, thay cho ĐẰM (đìa): 3 phiếu; NHẤM (nháp): 103 phiếu, thay cho NHẮM (nháp): 12 phiếu; (công) XÁ: 35 phiếu, thay cho (công) SÁ: 12 phiếu, v.v.; quá trình này đang tiếp tục diễn ra với một số từ khác. Hiện tượng này xảy ra với loại từ nào và trong những điều kiện như thế nào, là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, nhưng có điều tương đối rõ là phần lớn đây là những trường hợp phương ngữ miền Bắc phát âm với -â-, mà không có sự đối lập với -ă-, trong khi phương ngữ miền Nam phát âm với -ă-, (viết Ă hoặc A, trong AU, AY) có đối lập với -â-. Xu thế trên đây chứng tỏ vai trò và ảnh hưởng của phương ngữ miền Bắc đối với sự hình thành và phát triển của tiếng Việt văn hoá.
Một xu thế khác đáng chú ý là viết D- thay cho (chuẩn theo các từ điển) GI: không kể trường hợp DA DIẾT trong lịch sử, hiện tượng này đã xảy ra với: (già) DẶN: 153 phiếu, thay cho (già) GIẶN: 24 phiếu; DÂY (máu ăn phần): 48 phiếu, thay cho GIÂY: 26 phiếu; (mái) DẦM: 20 phiếu, thay cho GIẦM: 3 phiếu; DỀNH DÀNG: 103 phiếu, thay cho GIỀNH GIÀNG: 0 phiếu, v.v.; xu thế này đang tiếp tục diễn ra với một số từ khác. Điều này chứng tỏ sự phân biệt trên chữ viết D- với GI- đã không còn có cơ sở ngữ âm nữa, và khi lưỡng lự thì dễ có xu hướng viết D-, vì là đơn giản hơn.
5. Trên đây chỉ là một số nhận xét chung. Chuẩn chính tả cần được xác định một cách cụ thể, từng trường hợp một. Một quyển từ điển chính tả mới là cần thiết, để thiết thực chuẩn hoá chính tả.
(1983 – Hết trích)

Tuesday, 7 July 2020

Có phải người Việt tự nghĩ ra câu Gieo gió gặt bão?



Nguyễn Lân bảo người Việt dịch tục ngữ tiếng Pháp. Người học tiếng Pháp tự nhiên nghĩ ngay tới câu Qui sème le vent récolte la tempête.

Hoàng Tuấn Công bảo không phải thế.

Không có căn cứ nào để nói rằng, “Gieo gió gặt bão” là “dịch một tục ngữ Pháp”. Nếu có giống với tục ngữ Pháp cũng nên cẩn trọng xem xét, bởi trong kho tàng thành ngữ, tục ngữ của nhân loại, nhiều câu có nghĩa đen và nghĩa bóng giống nhau, nhưng chưa hẳn là vay mượn trực tiếp của nhau. Đây là một câu tục ngữ về luật nhân quả rất phổ biến, với nhiều dị bản đồng nghĩa: Gieo gì gặt nấy; Cấy gió, chịu bão; Cấy gió, gặt bão; Gieo vạ nhỏ rước vạ lớn…

(http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/tu-dien-tieng-viet-cua-gs-nguyen-ln-ph-bnh-v-khao-cuu-ky-20/)

Nhưng không có văn bản nào làm căn cứ để nói rằng người Việt tự nghĩ ra câu Gieo gió gặt bão.

Tôi lục từ điển của Génibrel (1898), Hội Khai Trí Tiến Đức (1931), Gustave Hue (1937), không thấy từ điển nào dẫn câu ấy. Có khi nào các nhà soạn từ điển lại bỏ sót một câu rất phổ biến trong tiếng Việt?

Chỉ tìm thấy một đoạn như sau trong Kinh Thánh tiếng Việt in năm 1934:

Vì chúng nó đã gieo gió và sẽ gặt bão lốc. Chúng nó không có lúa đứng; cây lúa sẽ không sanh ra bột; mà dầu có sanh ra nữa, thì dân ngoại sẽ nuốt lấy.


Người Pháp chắc chắn không nghĩ ra câu Qui sème le vent récolte la tempête. Các từ điển tiếng Pháp đều nói rõ nguồn gốc của câu tục ngữ ấy là Kinh Thánh (origine biblique). Và câu ấy cũng xuất hiện trong nhiều thứ tiếng khác (xem ảnh). Có đụng đến Kinh Thánh ắt phải dịch ra tiếng nước mình thành thế ấy. Tôi rất muốn tin người Việt tự nghĩ ra câu Gieo gió gặt bão chứ không dịch của tiếng nào hết. Nhưng họ nghĩ ra câu ấy từ khi nào?

Tuesday, 23 June 2020

Sĩ tử là ai?




Brian Wu chê bản dịch Về tinh thần hiếu học của người Việt qua tác phẩm của ông Baron
Nguyên tác Anh ngữ:
The Tonqueenese have a great inclination for learning, because it is the only step to acquire dignity and preferments, which encourageth them to a studious and diligent application to learning; which is often attended with good or ill success, as in other countries, according to their several talents, and as they are indued with vivacity, spirit, and more-especially as they are furnish' d with a good or bad memory; which is the chief requisite for mastering that sort of learning which is in repute in this country, which consists mostly of hieroglyphick characters, whereof they have as many as words or things, requires a very retentive memory. Hence it is, that some scholars are fit to take degrees upon them after twelve or fifteen years study, others in twenty-five or thirty, many not in their life-time. They may, as soon as they think themselves able or capable, adventure their trial, without either obligation to continue longer a scholar, or limitation of years: Nor have they any publick schools, but every one chuses such a preceptor for his children as he fancies, at his own cost.

Dịch thuật Hoàng Anh Tuấn:

Người Đàng Ngoài rất hiếu học vì đây là con đường để đạt được quyền lực và vinh hiển. Đây là động lực khiến người Đàng Ngoài miệt mài và chăm chỉ học hành. Nhưng cũng như ở nhiều nơi khác, sĩ tử đỗ đạt hay thất bại phụ thuộc vào nhiều nhân tố, nhất là liệu họ có trí nhớ tốt hay không bởi nghiệp học ở đây và thứ chữ tượng hình rất cần có trí nhớ tốt. Do vậy nên có người đỗ đạt sau mười hai hay mười lăm năm sôi kinh nấu sử; nhưng cũng có kẻ hai lăm hoặc ba lăm năm đèn sách mà vẫn lận đận, thậm chí có người chẳng thể đỗ đạt dù tiêu tốt cả đời mình vào nghiệp học hành. Khi người học cảm thấy tự tin về khối kiến thức của mình họ sẽ đăng ký dự thi. Ở Đàng Ngoài người học không bị buộc phải học cũng như không hạn chế tuổi tác với người đi thi. Họ cũng không có các trường công để dạy học. Các bậc phụ huynh tự chọn cho con mình một người thầy mà họ nghĩ là tốt, và tự trả công dạy dỗ cho thầy.

Dịch thuật Brian Wu:

Người Đàng Ngoài có một thiên hướng thật mãnh liệt (dành cho việc) học tập, bởi vì học tập là bước (đường) duy nhất để đạt được tước vị và thăng cấp (trong xã hội Đàng Ngoài), (và những quyền lợi này) đã khuyến khích người Đàng Ngoài học tập một cách chăm chỉ và chuyên cần; và thường kèm theo cách học này là sự thành công hay thất bại, (và sự thành công hay thất bại này), cũng như tại các quốc gia khác, là tùy thuộc vào tài năng của họ, cũng như là phụ thuộc vào tánh hoạt bát, lòng nhiệt tình, và đặc biệt hơn, là họ có được trí nhớ tốt hay là không; (và trí nhớ tốt) là điều kiện tiên yếu để mà có thể nắm vững việc học hành tại quốc gia này, vì việc học tập này bao gồm phần lớn là các ký tự tượng hình, mà trong đó có rất nhiều từ hoặc điều (dạy), (chúng) rất cần đến một trí nhớ thật tốt. Do vậy mà, nhiều sĩ tử (scholars) có thể đỗ đạt sau 10 hay 12 năm học tập, các sĩ tử khác thì từ 25 đến 30 (năm), nhiều kẻ cả đời cũng không bao giờ đỗ đạt. Người Đàng Ngoài có thể phiêu lưu thử thách (việc thi cử), ngay sau khi họ nghĩ rằng họ đã có thể hoặc có khả năng (để dự thi) mà không cần phải tiếp tục học thêm hoặc bị giới hạn về năm tháng [bao nhiêu lần có thể dự thi]: Họ cũng chả có trường công nào (để đào tạo), mà ai nấy (sẽ) tự chọn một người thầy cho con cái của mình tùy theo ý thích của phụ huynh, và (các phụ huynh) tự trả chi phí (cho người thầy mà họ chọn).



tửngười đi thi trong đời khoa cử. (Đào Duy Anh, 2005:673)

Lê Văn Đức et al. (1970b:1291) giảng là cử tử, thí sinh, tiếng gọi học trò đi thi hồi xưa.


Scholar trong văn bản gốc nghĩa là người đi học, không có nghĩa là người đi thi.
Không hiểu sao cả hai dịch giả đều dịch scholar thành sĩ tử.


Có người Việt nào hiểu phiêu lưu thử thách (việc thi cử) là gì không? Ông Tuấn dịch đăng ký dự thi có gì sai mà phải sửa? Học đến lúc thấy đủ sức thì ứng thí / đi thi / dự thi. Có học, có thi, chưa chắc có đỗ nên ông Tây dùng từ adventure với hàm ý là kết cục không có gì chắc chắn. Nếu từ thi của tiếng Việt vẫn chưa đủ bộc lộ cái hàm ý đó thì cũng không nên phang thêm phiêu lưu vào. Không phù hợp.

Sunday, 21 June 2020

Sách cũ, mới tìm được trên mạng


Nhatbook-Nhập môn thống kê Ngôn Ngữ học-Nguyễn Đức Dân-1998

Cảm ơn những người đã bỏ công scan sách.

https://nhatbook.com/2020/06/01/nhap-mon-thong-ke-ngon-ngu-hoc/

Wednesday, 13 May 2020

Phó Chánh án lý giải ba vấn đề trong vụ án Hồ Duy Hải
- Phó Chánh án TAND Tối cao Nguyễn Trí Tuệ khẳng định không có cơ sở để hủy bản án tử hình với Hồ Duy Hải dù việc điều tra có sai sót là rõ ràng.
13 tháng 05 năm 2020 08:48 GMT+7    0 Bình luận




Ngày 12/5, thông tin về phiên giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải, ông Nguyễn Trí Tuệ cho biết, trong ba ngày làm việc, Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao đã công bố các tài liệu, chứng cứ vụ án, kết quả thẩm định. Qua đó, việc toà án các cấp xét xử Hồ Duy Hải về tội Giết ngườiCướp tài sản là “có căn cứ”. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, Hải đều xin giảm nhẹ hình phạt, sau khi bị Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm hình phạt tử hình mới kêu oan.
Giải thích lý do Hội đồng Thẩm phán xác định kháng nghị đề nghị hủy án của VKSND Tối cao là “không phù hợp với pháp luật”, ông Tuệ cho hay “luật không cho phép Viện trưởng VKSND Tối cao và Chánh án TAND Tối cao kháng nghị xem xét lại vụ án khi quyết định bác ân giảm của Chủ tịch nước đang có hiệu lực pháp luật”.
Phó Chánh án nêu ba vấn đề nổi lên sau phán quyết “bác kháng nghị” của Hội đồng Thẩm phán tại phiên giám đốc thẩm.
Thứ nhất: Vì sao nhận định có thiếu sót, vi phạm tố tụng nhưng không huỷ án?
Ông Tuệ giải thích cấp giám đốc thẩm thấy rằng trong quá trình điều tra, cơ quan tố tụng có những vi phạm, sai sót như không kịp thời thu con dao, cái thớt, có vết máu không giám định… Những sai sót trên được đánh giá không ảnh hưởng tới bản chất vụ án nên không thể hủy án để điều tra bổ sung.
“Qua xem xét, đối chiếu lời khai, chứng cứ, Hội đồng Thẩm phán xác định Hải không oan. Bản chất của vấn đề là hành vi giết người cướp của của Hải phải bị trừng trị theo pháp luật”, Phó chánh án nói.

Phó Chánh án TAND Tối cao Nguyễn Trí Tuệ công bố quyết định giám đốc thẩm, ngày 8/5. Ảnh: TTXVN.

Thứ hai: Chánh án TAND Tối cao khi làm Viện trưởng VKSND Tối cao đã có quyết định không kháng nghị và hiện làm chủ tọa phiên giám đốc thẩm, có vi phạm quy định tố tụng không?
Ông Tuệ cho hay với quy trình tố tụng bình thường thì thẩm phán hoặc người tố tụng phải từ chối ngồi ghế Hội đồng xét xử trong một số trường hợp. Tuy nhiên, Giám đốc thẩm là giai đoạn tố tụng đặc biệt. Luật quy định chánh án, viện trưởng có quyền kháng nghị hoặc không kháng nghị nhưng vẫn tham gia Hội đồng Thẩm phán. Hơn nữa, họ còn tham gia tố tụng không chỉ một lần mà còn nhiều lần,  không vi phạm.
“Quy định đặc biệt tố tụng nhiều lần của cấp giám đốc thẩm là thế”, ông nói và ví dụ nếu vụ án này bị Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu xem xét lại thì cả Hội đồng thẩm phán sẽ ngồi lại một lần nữa.
Thứ ba, dư luận xã hội cho rằng thành viên Hội đồng Thẩm phán không vô tư, khách quan khi giơ tay theo Chánh án?
Nói về điều này, ông Tuệ trình bày: “Tôi khẳng định các thành viên hội đồng thẩm phán hoàn toàn độc lập, không phụ thuộc chánh án. Chúng tôi là thẩm phán do Quốc hội phê chuẩn, do Chủ tịch nước bổ nhiệm, không có gì chi phối phải nghe theo”.
Theo ông, 17 thành viên của Hội đồng Thẩm phán “biểu quyết bằng cái tâm, bằng nhận thức pháp luật của mình và chịu trách nhiệm với việc biểu quyết”.
Ông Tuệ cho biết vụ án Hồ Duy Hải là vụ án lần đầu tiên TAND Tối cao xét xử giám đốc thẩm công khai. Thành phần tham dự có các cơ quan tố tụng từ trung ương tới địa phương; các cơ quan tố tụng của vụ án từ sơ thẩm đến phúc thẩm; một số cơ quan như Ban Nội chính Trung ương, Bộ Công an, Văn phòng Chủ tịch nước…
Hồ Duy Hải bị cáo buộc, tối 13/1/2008 đến Bưu điện Cầu Voi chơi – nơi chị Nguyễn Thị Ánh Hồng (23 tuổi) và em họ tên Vân (21 tuổi) làm việc. Hải nảy sinh ý định quan hệ tình dục với chị Hồng nhưng không thực hiện được nên sát hại cô và người em.
TAND tỉnh Long An và Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP HCM tuyên phạt bị cáo mức án tử hình. Sau nhiều năm Hải không được chấp nhận đơn xin giảm án và ân xá, gia đình anh này đi kêu oan.
Ngày 22/11/2019, VKSND Tối cao kháng nghị, đề nghị Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao giám đốc thẩm vụ án theo hướng huỷ cả hai bản án. Hôm 8/5, Hội đồng giám đốc thẩm TAND Tối cao bác kháng nghị này.

(Nguồn: https://tapchitoaan.vn/bai-viet/thoi-su/pho-chanh-an-ly-giai-ba-van-de-trong-vu-an-ho-duy-hai)