Saturday, 23 July 2016

Nghĩa và từ nguyên của MOONG (An Chi - Năng Lượng Mới số 534 [24-6-2016])

An Chi·Friday, June 24, 2016
Từ ngày 16-6-2016, một số phương tiện truyền thông có đưa tin với hàng tít “Vỡ bờ moong khai thác titan ở Bình Thuận”. Từ “moong” trong cái tít này đã làm cho một số bạn đọc bỡ ngỡ vì vừa không hiểu nghĩa và càng không biết được xuất xứ của nó, thậm chí còn thắc mắc rằng không biết nó có thật sự tồn tại hay không.
“Moong” là một từ có thật và cũng xuất hiện với một tần số đủ để ta có thể tìm thấy nó một cách không khó khăn gì lắm. Sau đây là một số dẫn chứng :
1.–“Theo con đường xoáy ấy, xe xuống chở đất đá lên đưa ra bãi thải và xe chở than lên đưa về khu sàng tuyển. Cái lòng phễu khổng lồ ấy người ta gọi là hố moong.” (Nguyễn Thị Mai, “Trong lòng moong Cao Sơn”, Biên Phòng, 8-11-2011).
2.– “Xóm chúng tôi nằm trong lòng moong nên trong nhiều năm qua phải hứng chịu cảnh tượng chưa từng xảy ra […………] Các anh thấy đấy, mảnh vườn này thành ‘đất chết’ vì không có nước do mạch nước ngầm chảy hết ra lòng moong.” (Duy Tuấn - Thăng Long, “Sống dở chết dở tại mỏ sắt lớn nhất ĐNA – Bài 5: Sóng ngầm nơi moong mỏ”, Vietnamnet, 9-12-2011).
3.–“Moong than Cao Sơn như chiếc chảo khổng lồ, đến nỗi, từ bờ moong nhìn xuống, những chiếc xe trọng tải gần 100 tấn bò lồm ngồm như những chú …cua!” (Nhân Văn, “Chuyện lạ ở moong Cao Sơn”, Vinacomin, 08-10-2012).
4.–“Một ngày cuối năm, lên moong than Hà Tu, tôi vẫn thấy quang cảnh sản xuất quen thuộc như những ngày thường hồi đầu năm.” (Minh Hoa, “Tháng ‘củ mật’ ở moong than Hà Tu”, Vinacomin, 21-1-2014).
5.–“ [….] cả một đời ông lận đận với moong sâu […] Về kỹ thuật, ông là người kỹ tính, người ta gặp ông có khi đi chán dưới lòng moong, tưởng rằng ông sẽ về! Vậy mà [….]” (Phóng sự “Bóng người ở lại giữa moong sâu”, báo Quảng Ninh, 23-1-2010).
6.–“Đây là mô đất lau sậy um tùm, nằm sát con đường nội bộ dẫn từ moong H10 (moong than đang khai thác của Công ty Than Mông Dương) về bãi than giáp ranh với đầu băng tải của Nhà máy nhiệt điện Mông Dương.” (Trọng Phú, “Rút ruột mỏ than Mông Dương - Bài 1: Một đêm, hàng ngàn tấn than bị trộm”, Pháp luật, 31-10-2013).
7.–“[……] nhờ có nghị lực thép, những người thợ mỏ đã vượt qua tất cả để hôm nay trên công trường rộn ràng tiếng xe, tiếng máy, hàng trăm tấn quặng sắt nằm sừng sững giữa lòng moong ...” (Phan Thế Cải, “Từ lòng moong lên mặt đất”, Nhân dân điện tử, 10-7-2011).
8.–“Bên dưới là những lòng moong đang tiếp tục bị khoét sâu vào lòng núi [……]” (Phan A, “Cận cảnh hoang tàn tại một mỏ than lộ thiên”, Đại kỷ nguyên, 9-1-2016).
Cứ như trên thì “moong” hiển nhiên là một từ có thật nên cũng đã được Từ điển tiếng Việt (2007) của Trung tâm Từ điển học (Vietlex) do Hoàng Phê chủ biên thu nhận và giảng là “khẩu ngữ, ít dùng : đáy mỏ”. Nhưng tiếc rằng điều chú thích của quyển từ điển này thì lại rất sai vì từ “moong” chẳng những không thuộc về khẩu ngữ mà còn là một thuật ngữ của ngành khai khoáng nữa. “Quy định quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn trong khai thác mỏ lộ thiên” của Bộ Công Thương gồm có 12 chương mà chương 1 là “Quy định chung” với Điều 2 là “Giải thích từ ngữ”; tại điều này, mục 18 được ghi với chú thích bằng tiếng Anh trong ngoặc đơn như sau: “18. Moong (pit) : Là đáy mỏ, phần thấp nhất của đáy mỏ được bao khép kín bởi bờ mỏ xung quanh.” Cứ như trên thì “moong” là một thuật ngữ đã được giải thích rất rõ ràng. Chẳng những thế nó còn được chính thức vận dụng trong lời ăn tiếng nói hằng ngày một cách hoàn toàn đúng với nội hàm đã nêu trong bản “Quy định”, như đã thấy với 8 dẫn chứng ở trên. Vậy làm sao có thể nói nó là khẩu ngữ?
Nhưng từ “moong” này do đâu mà ra? Sự tra cứu của chúng tôi cho phép khẳng định rằng nó là một sản phẩm ra đời từ sự khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, trong đó có việc khai thác mỏ, đặc biệt là Mỏ than Hòn Gai, mà Pháp gọi là “Mines de charbon de Hongay”. Nói đến “mine” thì phải nói đến “gisement”. Ta cứ tìm trên mạng thì có thể thấy hai từ này thường “cặp bồ” với nhau. “Gisement” được Le grand Robert định nghĩa là “Disposition des couches de minéraux dans le sous-sol […] Par extension. Masse minérale importante, propre à l’exploitation”, nghĩa là “Cách sắp xếp các lớp khoáng sản trong tầng đất cái […] Nghĩa rộng. Khối khoáng sản quan trọng, thích hợp với việc khai thác.” Chính âm tiết “-ment” của “gisement” đã được phiên âm sang tiếng Việt kiểu bình dân thành “moong”. Hiện tượng này không có gì lạ : nó cũng giống như chuyện người Việt Miền Nam đã phiên âm “ciment” thành “xi-moong”, như có thể thấy trong nhan đề “Vôi đá xanh, vôi chịu nước và xi-moong. Cách làm đá giả” trên tạp chí Khoa Học số 59 (1-12-1933). Ca dao Miền Nam có câu:
“Chợ Sài Gòn cẩn đá, chợ Rạch Giá cẩn xi-moong
Giã em ở lại vuông tròn
Anh về xứ sở không còn ra vô.
” Trẻ con Miền Nam hồi nửa đầu thế kỷ XX không lạ gì với hai tiếng “xi-moong” này vì những viên bi mà họ chơi thời đó thường làm bằng xi-măng (về sau mới có bi thuỷ tinh ngũ sắc). Đó là những “cục đạn xi-moong”. Vậy “-ment” của “gisement” đi vào tiếng Việt thành “moong” không phải là chuyện không thể xảy ra. Còn chuyện “gise-” bị tỉnh lược thì chỉ là hệ quả của việc rút ngắn khi phiên âm : – adjudant > ách (thượng sĩ, ông quản), – aiguille > ghi (thiết bị dùng để chuyển đường ray tàu hoả), – alcool > cồn, – aluminium > nhôm, – portefeuille > bóp (ban đầu là bóp-phơi), – pourboire > (tiền) boa, – copier > cóp, – correcteur > cò (người sửa mo-rát), – commissaire > cò (cảnh sát trưởng), – essence > xăng, – effet > phê, – [en] arrière > de ( = lùi), v. v..
Tóm lại, “moong” là một từ Việt gốc Pháp, bắt nguồn ở từ “gisement”, có nghĩa là “vỉa [khoáng sản, đất đá, v.v.]”. Ngoài nguyên từ (etymon) này ra, chúng tôi không thấy có bất cứ từ nào khác có thể là ứng viên thích hợp. Dĩ nhiên là nếu có vị thức giả nào chỉ ra một nguyên từ khác có sức thuyết phục mạnh hơn thì chúng tôi sẽ vô cùng cám ơn.

Thursday, 21 July 2016

Gông, cùm, xiềng, xích của ta không có dây mơ rễ má gì với cangue và chaîne của tiếng Tây (An Chi - Năng Lượng Mới số 506 [18-3-2016]).


Mạng Tìm hiểu từ nguyên (Nguồn gốc từ ngữ / Từ ngữ và lịch sử) ngày 30-8-2012 có đăng bài “Cùm lim, xích sắt” của Nguyễn Dư (Lyon, 5-2008), trong đó những ý kiến chính đều sai, rất sai. Đáng nói hơn nữa là tác giả còn dựa vào những cái sai của mình để phủ nhân đôi câu đối tương truyền là của Cao Bá Quát:
Một chiếc cùm lim chân có đế
Ba vòng xích sắt bước thì vương
Nói về nguồn gốc của hai từ “gông”, “cùm”, Nguyễn Dư viết:
Cangue có liên hệ gì với cái gông, cái cùm?
Sưu tập Oger (1909) có tấm tranh Đốt quăng tra tiền vẽ cái cangue đeo cổ dành cho đàn bà.
“Chữ Quăng của tên tranh nghĩa là gì ? Quăng (chữ Hán, bộ Nhục) nghĩa là cánh tay. Quăng, tiếng Việt, nghĩa là ném mạnh và xa. Quăng bị người đàn ông đốt không phải là cánh tay, cũng không phải là vật gì bị ném ra xa. Quăng bị đốt là cái nia quàng vào cổ người đàn bà. Quăng chính là cái cangue dành cho đàn bà được Huard và Durand nói đến trên kia.
“Chữ Quăng của tên tranh không có nghĩa như chữ Hán, cũng không có nghĩa của tiếng Việt. Chữ Quăng được dùng để ghi âm từ cangue của tiếng Pháp. Tấm tranh Đốt quăng tra tiền cho phép suy ra rằng người Pháp đã đưa từ cangue (hoặc đưa cả cái cangue ?) vào Việt Nam.
“Bộ sưu tập Oger còn có tấm Cùm ngạch (vẽ bàn chân bị trói vào khúc tre của cái ngạch nhà). Hai tấm tranh là bằng chứng cho thấy vào khoảng đầu thế kỉ 20, từ cangue có lúc vẫn còn được phát âm là quăng, có lúc được Việt hoá thành cùm.
Còn cái gông ?
Từ cangue (căng-gơ) có hai âm tiết, được Việt hoá theo hai ngả : căng trở thành cùm trở thành gông.
Tranh Đốt quăng tra tiền
(trong bài của Nguyễn Dư).
Trong quá trình trả lời cho bạn đọc, chúng tôi cũng đã có đôi ba lần phản bác ý kiến của tác giả Nguyễn Dư nhưng lần này thì ông Dư mới làm cho chúng tôi kinh ngạc nhất. Tiếng Tây đâu có vào tiếng ta một cách ba trợn ba trẹo như vậy được. Trước nhất, chúng tôi không biết ông Nguyễn Dư đã căn cứ vào sách, báo nào của Tây mà khẳng định rằng “vào khoảng đầu thế kỉ 20, từ cangue có lúc vẫn còn được phát âm là quăng”, mà lại được phiên âm bằng chữ quốc ngữ Việt Nam. Đây là biểu hiện của một sự tưởng tượng cực kỳ táo tợn mà chắc chắn không một người Pháp nào có thể chấp nhận được. Huống chi, cái chữ [肱] trong hình vẽ mà ông Dư đọc thành “quăng” theo nghĩa của “cangue” trong tiếng Pháp, thì không hề tồn tại trong tiếng Việt, như sẽ phân tích rõ ở một đoạn sau. Riêng gôngcùm thì lại là hai từ đã có mặt trong tiếng Việt trước khi Pháp xâm lược Việt Nam nên tất nhiên không có dây mơ rễ má gì với cangue của tiếng Pháp cả.
Căng (của cangue) không trở thành cùmcùm đã có mặt trong Dictionarium Annamitico Lusitanum et Latinum của A. de Rhodes in tại Roma năm 1651, trong dạng chính tả “cồm”, với hai thí dụ “cầm cồm” và “đóng cồm”. Ở thời điểm này thì cùm còn phát âm thành “cồm”, cũng như hùm thành “hồm”. Đến thời Dictionarium Anamitico Latinum của Pierre Pigneaux de Béhaine (1772-73) thì cồmhồm đã được phát âm và viết thành cùm, hùm. Còn gông thì cũng đã được ghi nhận trong từ điển của A. de Rhodes với hai thí dụ “cầm gông”, “đóng gông”, nghĩa là cũng đã tồn tại trong tiếng Việt ít nhất là 200 năm trước khi Pháp sang cướp nước ta. Thế mà Nguyễn Dư còn viết:
“Mọi người còn nhớ mấy câu ca dao:
– Gái có chồng như gông đeo cổ Gái không chồng như phản gỗ long đanh ...
– Cờ bạc là bác thằng bần, Cửa nhà bán hết cho chân vào cùm.”
Với những câu ca dao trên thì cái “e” (air = dáng vẻ) xa xưa của nó cũng đã buộc nhà nghiên cứu phải thận trọng đặt vấn đề xem có thật là nó chỉ ra đời sau khi dân ta bị Pháp cai trị hay không. Đằng nầy … Đặc biệt Nguyễn Dư rất sai khi đọc cái chữ [肱] trong tranh vẽ của Sưu tập Oger 1909 thành “quăng” để mặc nhiên ghép nó vào từ loại danh từ rồi gán cho nó cái nghĩa của từ “cangue” ( = cùm). Thực ra thì khi chuẩn bị ấn hành bộ Sưu tập 1909 của Henri Oger với tên đề ở bìa ngoài là Technique du peuple Annamite (Edition 2009/ Chủ biên: Olivier Tessier & Philippe Le Failler, EFEO [Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp]), người ta đã tra cứu để đọc một cách chính xác – mặc dù không tuyệt đối – các chữ Hán và chữ Nôm dùng để chú thích cho từng bức tranh. Chữ [肱] đã được đọc một cách chính xác thành “quanh” và bốn chữ Nôm trong hình là “đốt quanh tra tiền”, như đã in rõ ràng tại mục 205D, tr.252, Bảng phân tích của tập 1, cũng như tại dòng chú thích số 4, tờ 205 ( là tờ có in bức tranh) của tập 2 . “Đốt quanh tra tiền” là một bức tranh giản dị phản ánh một trong hàng ngàn cảnh sinh hoạt thực tế của xã hôi Việt Nam đầu thế kỷ XX, trong đó có cảnh đứa bất lương khảo của bằng cách khoét lỗ giữa một cái nia rồi tròng vào cổ của nạn nhân mà đốt dần ở chung quanh để bắt ép người ta xì tiền cho nó. Làm gì có chuyện “căng trở thành cùm trở thành gông”.
Hai chữ xíchxiềng cũng chung số phận với gông và cùm nên cũng được Nguyễn Dư ghép vào cái nguyên từ chaîne của tiếng Pháp. Tác giả này đã dẫn Truyện Kiều mà viết:
“Hoạn Thư sai Khuyển Ưng đến Lâm Chuy bắt Kiều, đem về Vô Tích.
Dọn thuyền lựa mặt gia nhân,
Hãy đem dây xích buộc chân nàng về.”
Thực ra Truyện Kiều là một tác phẩm cuối thế kỷ XVIII, đầu XIX còn tiếng Việt thì chỉ có thể mượn tiếng Pháp từ sau năm 1862 mà thôi. Tác giả đã phỏng đoán rằng “từ xích xuất hiện vào khoảng cuối thế kỉ 19”. Thực ra, nó đã được ghi nhận trong từ điển 1651 của A. de Rhodes – nghĩa là trước niên đại mà Nguyễn Dư phỏng đoán ít nhất cũng là 200 năm – tại mục “xích con chó”, được giảng là “buộc chó bằng dây tre vặn lại, để chó đừng cắn dây”. Còn “xiềng” thì cũng đã được ghi nhận trong từ điển 1772-73 của Pigneaux de Béhaine nên tất nhiên cũng chẳng có dây mơ rễ má gì với chaîne của tiếng Pháp cả.
Cứ như trên thì từ nguyên của bốn từ “gông”, “cùm”, xiềng”, “xích” mà Nguyễn Dư đưa ra đều sai và việc ông dựa vào nó để phủ nhận đôi câu đối tương truyền là của Cao Bá Quát là một việc làm cực kỳ chủ quan và võ đoán.

Sunday, 26 June 2016

Tử Hình Khủng Bố Việt Cộng Trần Văn Đang tại Pháp Trường Cát Saigon ngày 22.6/1965 (Nguyễn Văn Chức

Tử Hình Khủng Bố Việt Cộng Trần Văn Đang tại Pháp Trường Cát Saigon ngày 22.6/1965
(https://vietcongonline.com/2016/06/25/tu-hinh-khung-bo-viet-cong-tran-van-dang-tai-phap-truong-cat-saigon-ngay-22-61965/)

Mời quý vị đọc bài viết này của Luật Sư Nguyễn Văn Chức người được luật sư đoàn Sài Gòn chỉ định biện hộ (thày cãi) cho Trần Văn Đang đã kể lại sự vụ của y như dưới đây để biết thêm về "Anh hùng Nguyễn Văn Trổi" của việt cộng "anh hùng"như thế nào.
05 tháng 2/1968 : Một người lính VNCH đang lục soát tìm vũ khí dấu trong người của 1 ông già tình nghi là VC.

Chi tiết vụ án:
” Tôi về đến nhà, đã thấy chiếc xe mô tô đen của trung sĩ Ân đỗ trong sân. Ân giơ tay chào, đưa cho tôi một phong thư mầu vàng của tòa án Mặt Trận, và yêu cầu tôi đọc ngay. Phong thư đóng dấu ” tối mật “. Tôi xé ra. Bức thư bên trong chỉ vỏn vẹn mấy dòng chữ đánh máy, nhưng tôi đọc rất lâu. Tôi ký sổ biên nhận, rồi bước vào trong nhà.
Ân có chào tôi hay không, và chiếc mô tô rồ máy bỏ đi lúc nào, tôi cũng không để ý. Tôi đang bận nghĩ đến hắn…
Cách đây khoảng 3 tháng, luật sư đoàn Sài Gòn chỉ định tôi biện hộ cho hắn trước tòa án Mặt Trận Vùng Ba Chiến Thuật. Hắn là tên đặc công bị bắt trong khi đặt chất nổ trên đường Tự Do. Hắn bị truy tố về hai tội phản nghịch và mưu sát; hắn có thể bị tử hình. Sau khi xem xong hồ sơ, tôi vào nhà lao để gặp hắn. Đây là một thói quen nghề nghiệp, và cũng là một cái thú. Nói chuyện với tử tù, thường phạm hay chính trị, đôi khi hấp dẫn hơn đọc một cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất.
Tôi ngồi trong phòng đợi, nhìn ra vạt sân nắng bên kia chấn song sắt, rồi chợt nhớ đến Nguyễn Văn Trỗi. Trước đây, Trỗi cũng đã ngồi nói chuyện với tôi trong căn phòng này. Trỗi khóc như một đứa con nít, thỉnh thoảng đưa hai tay lên vắt nước mũi rồi quẹt xuống gầm bàn. Trỗi còn trẻ, mới 26 tuổi, nhưng trông già như người 40.
Hắn trẻ hơn Trỗi. Khi nhân viên nhà lao dẫn hắn đến gặp luật sư, miệng hắn đang còn nhai nhóp nhép, hình như là khô mực. Người hắn sặc mùi dầu khuynh diệp. Hắn khép nép ngồi xuống một cái ghế trước mặt, rồi chăm chú nhìn tôi. Lúc đó tôi mới để ý đến cái đầu húi cua và khuôn mặt non nớt của hắn. Khác hẳn với tấm hình đăng trên các báo: tóc dài bù xù, và mặt nhăn nheo như mang đầy thẹo. Tôi mỉm cười hỏi: ” Em vừa húi tóc? “. Hắn gật. Tôi lại hỏi: ” Em là Trần Văn Đang? “. Hắn gật.
– Em có bí danh Sáu Nhỏ, Hai Gà, Năm Lựu Đạn, có phải vậy không? Hắn gật.
– Em bị bắt khi đặt chất nổ trên đường Tự Do, có phải vậy không? Hắn gật.
Tôi nói cho hắn biết: tôi là luật sư sẽ cãi cho hắn trước tòa, hôm nay tôi vào nhà lao gặp hắn để tìm hiểu thêm về tội trạng của hắn. Và tôi yêu cầu hắn kể lại tất cả sự việc từ đầu đến cuối, để giúp tôi phối kiểm lại hồ sơ.
Hắn nhìn tập hồ sơ trên bàn, rồi nhìn ra ngoài sân rất lâu, như đang suy nghĩ lung về một vấn đề. Tôi cũng nhìn hắn và chợt thấy hắn dễ thương. Hắn vẫn ngồi im. Tôi hỏi: ” Khi lấy cung, người ta có tra tấn và hăm dọa em không? “. Hắn mở to mắt nhìn tôi. Tôi lại dục: ” Em nên kể lại tất cả sự việc, từ lúc được móc nối cho đến khi bị bắt, bị hỏi cung. Em kể lại hay không, đó là quyền của em. Em cũng có thể từ chối không nhận tôi là luật sư của em và chọn một luật sư khác. Đó là quyền của em “.
Hình như tôi còn nói nhiều nữa. Tôi muốn đến gần hắn, tôi muốn được ” hân hạnh ” nói chuyện với hắn.
Hắn nhìn tôi, tỏ vẻ dè dặt. Tôi đợi một lúc khá lâu, rồi lại hỏi: ” Tất cả những điều em khai trong hồ sơ đều là sự thật, có phải vậy không? “. Hắn gật đầu một cách thản nhiên.
Bên ngoài vạt nắng đã thu hẹp lại ở góc tường bao quanh cái sân nhỏ. Tiếng người gọi đi thăm nuôi, tiếng quát tháo, tiếng chửi thề… đã bắt đầu thưa thớt. Tôi không đeo đồng hồ, và trong phòng cũng không có đồng hồ, nhưng tôi đoán lúc đó khoảng 4 giờ chiều, nghĩa là gần hết giờ thăm nuôi phạm nhân. Riêng tôi, vì là luật sư, tôi có thể nói chuyện với thân chủ cho đến 5 giờ chiều. Khổ một nỗi, thân chủ lại không muốn nói chuyện với luật sư. Tôi đành phải làm cái công việc bất đắc dĩ của nghề nghiệp, là tóm tắt hồ sơ và đọc những điểm quan trọng cho thân chủ nghe, để thân chủ hoặc xác nhận, hoặc phủ nhận.
Hồ sơ hắn dầy gần trăm trang đánh máy, gồm phúc trình của Công An và An Ninh Quân Đội. Cô thư ký của tôi đã chép độ 20 trang quan trọng nhất. Riêng tôi đã lận đận trọn một ngày ở tòa án Mặt Trận để đọc lại toàn bộ hồ sơ và ghi chú thêm. Lận đận như vậy, vì lương tâm nghề nghiệp, và cũng vì tò mò nghề nghiệp. Trong những vụ án chính trị lớn tại miền Nam, tôi từng tiêu hoang thì giờ tại tòa án, để đọc và suy nghĩ về những lời khai của các bị can. Nhờ đó, tôi đã biết được cái lý do sâu xa đã khiến văn hào Nhất Linh-Nguyễn Tường Tam uống thuốc độc tự vận, một ngày trước khi tòa xử.
Tôi giở hồ sơ hắn ra và bắt đầu đọc:
Hắn sinh tại Gò Dầu Hạ, bố vô danh. Mười lăm tuổi, hắn mồ côi mẹ và được người chú mang lên làm công cho một tiệm sửa xe Vespa tại đường Trương Minh Giảng-Sài Gòn. Trong thời gian sống ở Sài Gòn hắn làm quen với một tên Tư. Tên này ” xây dựng ” hắn, và gửi hắn vào bưng học tập. Bốn tháng sau, hắn trở về Sài Gòn hoạt động trong tổ đặc công của tên Tư.
Một ngày trước khi bị bắt, hắn được tên Tư cho đi ăn uống tại một con hẻm đường Nguyễn Huệ. Sau bữa ăn, cả hai thả bộ ra đường Tự Do để quan sát địa điểm hành động. Đó là một cái ” bar ” Mỹ mà hắn đã từng đi ngang qua nhiều lần. Chiều hôm sau, một buổi chiều thứ Bẩy, tên Tư đem về hai cái bọc, mỗi cái đựng 10 kg thuốc nổ và bộ phận nổ chậm.
Tên Tư gài bộ phận nổ chậm, rồi đặt cái bọc thứ nhất trong thùng một chiếc Vespa mầu xanh. Cái bọc thứ hai được đặt trong thùng một chiếc Vespa mầu trắng. Rồi cả hai cùng đi tới địa điểm hành động. Lúc đó, đồng hồ nhà tên Tư chỉ đúng 5 giờ 15 phút. Hắn cưỡi chiếc xe Vespa mầu xanh, tên Tư cưỡi chiếc xe mầu trắng, hai xe cách nhau khoảng 200 thước.
Hắn có nhiệm vụ phá cái bar Mỹ đã quan sát chiều hôm trước. Còn tên Tư có nhiệm vụ phá cái bar khác gần khách sạn Eden Rock ở cuối đường Tự Do. Khoảng 15 phút sau, hắn tới cái bar Mỹ. Hắn ngừng xe lại, còn tên Tư tiếp tục đi về phía cuối đường Tự Do. Hắn xuống xe, nhấc chiếc Vespa lên lề đường, rồi dắt chiếc xe về phía cái bar Mỹ. Theo chỉ thị của tên Tư, hắn có nhiệm vụ đỗ chiếc xe Vespa trước cửa cái bar Mỹ rồi bỏ đi. Tên Tư cũng cho hắn biết: quả mìn sẽ nổ đúng 6 giờ. Hắn không đeo đồng hồ. Hắn biết chắc hắn còn nhiều thì giờ, ít nhất là 15 phút để thi hành phận sự. Hắn lấy chân đạp vào chiếc cần sắt của chiếc Vespa, kéo ngược chiếc Vespa lên và dựng chiếc Vespa ngay trước cửa bar. Hắn chưa kịp bỏ đi, thì người cảnh sát đứng bên kia đường thổi còi và ngoắc tay làm hiệu cho hắn phải dắt chiếc xe đi chỗ khác.
Hắn đâm ra lúng túng, và trong lúc hạ cần xe xuống, hắn làm đổ chiếc Vespa. Hắn hì hục dựng chiếc Vespa lên. Người cảnh sát bên kia đường lại thổi còi. Hắn đâm ra hốt hoảng. Chiếc Vespa trở nên quá nặng đối với hắn. Hắn sẽ phải dựng chiếc xe lên. Hắn sẽ phải dắt chiếc xe đi chỗ khác. Và hắn chợt nhớ tới quả mìn. Quả mìn sẽ nổ banh xác hắn.
Hắn không kịp nghĩ thêm gì nữa. Hắn rầm chạy. Hắn chạy ngược về phía tiệm sơn mài Thành Lễ. Mấy người cảnh sát bên kia đường rút súng, huýt còi đuổi theo. Và hắn đã bị bắt. Khoảng 20 phút sau, nhân viên cảnh sát lục soát chiếc xe Vespa và đã tìm thấy quả mìn. Theo phúc trình của cảnh sát, thì bộ phận nổ chậm bị hư, nếu không, quả mìn đã nổ vào lúc 5 giờ 50 phút, nghĩa là lúc hắn đang lúng túng với chiếc xe Vespa. Theo hồ sơ, hắn nhận hết tội, tại Công An cũng như tại An Ninh Quân Đội, và không một lần nào phản cung. Hắn có vợ và một đứa con trai 10 tháng.
Tôi đọc hồ sơ rất chậm, chờ đợi ở hắn một phản ứng, một cử chỉ, một lời nói. Nhưng tôi đã đọc hết dòng chót, mà hắn vẫn ngồi im, mặt cúi gầm xuống đất. Có lẽ hắn không nghe tôi đọc.
Tôi muốn hỏi hắn về những điểm trong hồ sơ, nhất là về tên Tư nào đó. Nhưng nhân viên nhà lao đã bước vào cho tôi biết chỉ còn đúng 5 phút với hắn. Tôi nhìn ra ngoài, thở dài. Vạt sân đã hết nắng. Khi xốc hồ sơ bỏ vô cặp, tôi vô ý làm rớt tấm ảnh của thằng con trai tôi mới được 8 tháng. Tôi chợt nhớ ra: hắn cũng có một đứa con trai trạc tuổi đó. Tôi liền hỏi: ” Từ ngày em bị bắt, em đã gặp con chưa? “. Hắn nhìn tôi rất nhanh, đôi mắt vụt trở nên khẩn thiết. Tôi lại hỏi: ” Em có muốn gặp vợ con em không? “.
Hắn túm tím miệng, nuốt nước bọt cái ực, rồi nói một cách vội vàng: ” Ông có giúp tôi được không? “. Tôi gật. Lúc đó hắn mới cho tôi biết: theo lời khuyên của tên Tư, một tuần trước khi đặt chất nổ, hắn đã cho vợ con về sống với quê ngoại ở Mỏ Cày. Hắn hy vọng vợ hắn đọc báo đã biết tin hắn bị bắt và đã đem con lên Sài Gòn ở với người chú. Hắn cho tôi hai địa chỉ ở miệt Cầu Ông Lãnh, và xin tôi làm mọi cách để vợ con hắn vào thăm hắn trong tù. Hình như hắn muốn nói nhiều nữa, nhưng nhân viên nhà lao đã bước vào đem hắn đi. Hắn bỗng nắm chặt bàn tay tôi, cánh tay run run. Hắn nhìn tôi, và tôi thấy mắt hắn ướt.
Chiều hôm ấy, khi ra khỏi nhà lao, tôi lái xe thẳng đến khuôn viên nhà thờ Đức Bà, gửi xe cho một đứa bé, rồi thuê xích lô đạp về chợ Cầu Ông Lãnh. Tối mịt, tôi mới ra về. Tôi không tìm thấy vợ con hắn.
Trưa hôm sau, tôi viết hai lá thư, một cho người chú, một cho vợ hắn, báo tin ngày tòa xử và nhắn vợ hắn đến văn phòng tôi để làm thủ tục xin giấy đi thăm nuôi chồng. Ký xong bức thư, tôi vào nhà lao báo cho hắn biết về cuộc tìm kiếm của tôi. Nhưng tôi không được gặp hắn: hắn đã bị trả về An Ninh Quân Đội để bổ túc hồ sơ. Từ hôm đó đến ngày xử, tôi không có dịp gặp hắn nữa.
Hôm tòa xử, tôi đi rất sớm. Mới 8 giờ sáng tôi đã có mặt ở bến Bạch Đằng. Khi lái xe vào cổng tòa án Mặt Trận, tôi thấy một thiếu phụ ôm con ngồi nép ở lối đi, bên cạnh một cái lẵng mây. Không hiểu sao tôi nghĩ đó là vợ hắn. Tôi đỗ xe trong sân tòa án, rồi đi bộ ra cổng gặp người thiếu phụ. Tôi hỏi ngay: ” Chị là vợ anh Đang? “. Thiếu phụ gật. Tôi hỏi: ” Chị được tin hôm nào? “.
Thiếu phụ cho biết: khi đọc báo biết tin chồng bị bắt, chị muốn lên Sài Gòn ngay, nhưng vì đứa con đau nặng, nên ông bà già không cho đi. Cách đây bốn hôm, chị nhận được thư của người chú báo tin ngày tòa xử, vả lại đứa con cũng đã gần hết bịnh, nên ông bà già cho đi.
Tôi nhìn đứa bé nằm ngủ trong lòng mẹ. Da nó xanh mét. Thỉnh thoảng nó cựa mình rên khe khẽ, người mẹ lại vỗ nhẹ lên người nó để ru. Chị ta hỏi tôi: ” Thưa ông, liệu ảnh có việc gì không? “. Tôi không tìm được câu trả lời. Tôi nhìn đứa bé rồi hỏi: ” Cháu được mấy tháng? “. Chị ta trả lời: ” Con sanh cháu được 10 tháng thì ảnh bị bắt “.
Bỗng có tiếng còi hụ và tiếng người nhốn nháo. Tôi nhìn về phía đường Bạch Đằng. Một chiếc xe nhà binh đang trờ tới. Đó là xe chở tội nhân. Những người đứng dưới đường vội vàng dạt ra hai bên để cho xe quẹo vào cổng tòa án. Khi chiếc xe đi ngang qua, tôi nhìn thấy hắn, và người vợ cũng nhìn thấy chồng. Chị ta vội vã đứng lên, một tay xách chiếc lẵng mây, một tay ôm con, lễ mễ chạy vào trong sân tòa.
Đoàn tội nhân đã xuống khỏi xe, đứng xếp hàng giữa sân tòa. Hắn đứng ở hàng chót, ngơ ngác nhìn quanh như tìm kiếm. Vợ hắn gọi lớn: ” Anh hai, em và con đây nè “. Hắn quay mặt về phía tiếng gọi, và khi trông thấy vợ hắn, hắn giơ hai tay bị còng lên như muốn ôm ghì một hình bóng. Vợ hắn đứng cách xa hắn chỉ một khoảng sân nhỏ.
Chị ta bỏ chiếc lẵng mây xuống đất, ôm con xăm xăm chạy về phía hắn. Nhưng người lính đã ngăn chị ta lại, rồi ra lệnh cho đoàn tội nhân đi vào hành lang. Đây là một lối đi lộ thiên, nằm giữa hai bức tường của hai dãy nhà quay lưng vào nhau. Người ta dùng chỗ đó để tạm giữ tội nhân, trong khi chờ tòa gọi tội nhân ra trước vành móng ngựa.
Hắn ngồi hàng chót, nép vào chân tường. Tay hắn đã được mở còng. Vợ hắn lễ mễ ôm con lại gần. Người lính định cản lại, nhưng thấy tội nghiệp, nên đã để cho đi qua.
Tôi chỉ kịp trông thấy người đàn bà ngồi thụp xuống đất bên cạnh người chồng rồi khóc nức nở. Hắn không khóc, mở to mắt nhìn về trước mặt, một tay để lên vai vợ, một tay vuốt tóc con. Lúc sau người vợ lấy vạt áo lau nước mắt, rồi lấy ở trong lẵng ra một xị nước ngọt đựng trong túi nylon đưa cho chồng: ” Anh uống đi cho đã khát, em có mua cho anh ổ bánh mì thịt ở trong lẵng “.
Hắn rời tay khỏi vai vợ, đỡ lấy túi nước ngọt đưa lên môi, nhưng tay kia vẫn sờ trên mình đứa con, đôi mắt dịu hẳn xuống. Trong một lúc tình cờ, hắn ngẩng đầu lên. Hắn nhìn thấy tôi đứng bên kia tường. Tôi giơ tay làm hiệu chào hắn.
Chỉ còn độ một hai giờ nữa, tòa sẽ kêu đến vụ hắn. Tôi muốn nói chuyện với hắn. Nhưng tôi không nỡ làm bận rộn cuộc xum họp mà tôi linh cảm là cuộc xum họp lần chót. Tôi thở dài ái ngại, rồi bỏ đi ra phía sân tòa. Thời gian như chậm lại. Hắn, con hắn, vợ hắn, lởn vởn trong đầu tôi. Làm thế nào để cứu hắn khỏi chết? Làm thế nào để tòa án hiểu rằng: hắn, cũng như Nguyễn Văn Trỗi, cũng như bao thanh thiếu niên khác, chỉ là nạn nhân đáng thương của một hệ thống đểu cáng và vô nhân đạo nhất lịch sử loài người.
Mãi mười một giờ trưa, tòa mới kêu đến tên hắn. Hắn từ hành lang đi ra, bên cạnh hai người lính. Vợ hắn lễ mễ ôm con theo từ đằng xa, rồi ngồi xuống một chiếc ghế cuối phòng xử. Phòng xử hôm đó đông nghẹt dân chúng. Bên ngoài, trời oi ả như sắp có cơn dông.
Trước vành móng ngựa, hắn nhỏ bé và non nớt hơn cái hôm tôi gặp hắn trong nhà lao. Da hắn xanh mướt, và nét mặt thản nhiên. Tôi đến bên hắn, hắn quay lại nhìn tôi một thoáng rồi lại nhìn thẳng đàng trước mặt. Không khí nặng nề. Cả phòng xử im lặng. Ông chánh thẩm hỏi lý lịch, rồi truyền cho hắn trở về ghế bị can để nghe bản cáo trạng.
Tôi cũng từ vành móng ngựa đi theo xuống ngồi bên cạnh hắn. Hắn xích lại gần, như để tỏ lòng biết ơn. Viên lục sự bắt đầu đọc bản cáo trạng, tiếng ông ta vang lên đều đều. Cả tòa, từ ông chánh thẩm, ủy viên chính phủ, đến công chúng ngồi dưới, đều lắng tai nghe. Chỉ có hắn là không. Hắn nhìn đăm đăm đàng trước mặt, như đang suy nghĩ. Có lẽ hắn nghĩ tới vợ con hắn. Một lần, tôi chợt thấy hắn quay đầu lại nhìn xuống cuối phòng xử, như muốn tìm xem vợ con hắn ngồi ở đâu. Bỗng nhiên, mặt hắn biến sắc, tay hắn run run, đầu cúi rầm xuống.
Viên lục sự đã đọc xong bản cáo trạng. Hắn rời ghế bị can, rồi cùng tôi bước lên vành móng ngựa.
Ông chánh thẩm hỏi: ” Anh đã nghe bản cáo trạng. Anh bị cáo về tội phản nghịch và mưu sát. Anh có nhận tội không? “. Hắn gật đầu.
– Anh có thể kể lại cho tòa nghe tất cả sự việc từ đầu đến cuối không?
Hắn nhìn ông chánh thẩm, nhìn bồi thẩm đoàn, nhìn ủy viên chính phủ, nhìn tôi, rồi lắc đầu.
Ông chánh thẩm lại hỏi: ” Có phải anh đã đỗ chiếc Vespa trước cái bar Mỹ? “. Hắn gật.
– Anh có biết chiếc Vespa có chất nổ không?
Hắn gật.
– Anh đỗ chiếc Vespa trước cửa bar, để phá cái bar đó, có phải không?
Hắn gật.
– Tên Tư bao nhiêu tuổi, vóc dáng như thế nào?
Hắn đứng im không trả lời.
Ông chánh thẩm nhìn tôi, tôi nhìn ông ta. Một bên ở vào cái thế khó xử, một bên ở cái thế khó cãi. Đại tá Ủy viên Chính Phủ bỗng quát lớn: ” Tại sao bị can không trả lời? “. Hắn ngước mắt nhìn ủy viên chính phủ, rồi đứng im như pho tượng.
Khi tòa trao lời cho ủy viên chính Phủ chính thức đặt câu hỏi, thì ủy viên chính phủ nhún vai, như muốn nói với tòa rằng ông không có gì để hỏi một bị can chỉ biết gật với lắc đầu. Nhưng chỉ một vài giây sau, ông nói như hét: ” Thằng Tư, tên thật nó là gì. Địa chỉ nó ở đâu? “. Hắn lại nhìn ủy viên chính phủ rồi im lặng. Một lần nữa, ủy viên chính phủ lại nhún vai và làm cái cử chi quen thuộc để tòa hiểu rằng ông ta không còn gì để hỏi nữa.
Đến lượt tôi đặt câu hỏi. Tôi hỏi hắn: ” Khi bị lấy cung tại Công An và An Ninh Quân Đội, em có bị tra tấn hoặc bị hăm dọa không? “. Hắn lắc đầu. Tôi lại hỏi: ” Em có hối hận vì đã trót nghe lời dụ dỗ của tên Tư không? “. Hắn cúi gầm mặt xuống lắc đầu.
Tôi đã đưa ra hai cây sào để cứu hắn. Không ngờ hắn đã từ chối không nắm lấy và hình như còn thích thú để cho nước cuốn trôi đi. Nước mắt người vợ và tình thương con đã không làm hắn thay đổi. Một đời luật sư, tôi từng ngang dọc trong những vụ kiện lớn của chế độ, nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy mình bất lực như hôm nay.
Ủy viên Chính Phủ đứng lên buộc tội. Trong 15 phút hùng biện, ông gay gắt lên án bị can. Ông nhấn mạnh đến trường hợp quả tang phạm pháp, đến bản chất của tội trạng (phản nghịch và mưu sát) và sự ngoan cố của bị can. Ông kết luận: ” Trong cuộc đấu tranh chống lại bọn cộng sản ” kẻ thù của dân tộc ” chúng ta cần phải nghiêm trị những bọn phá hoại, những tên cán bộ nằm vùng, những tên đặc công khủng bố giết người không gớm tay.
Nếu hôm đó quả mìn nổ, bao nhiêu dân chúng qua đường đã bị chết thảm, bao nhiêu người dân vô tội đã bị què cụt đui mù… “. Ông yêu cầu tòa lên án tử hình. Tòa trao lời cho tôi. Trách nhiệm của tôi quá lớn, và nhiệm vụ của tôi quá khó khăn. Tôi biện hộ cho một bị can phạm tội phản nghịch và mưu sát với trường hợp gia trọng. Bị can ấy nhận tội tại Công An, tại An Ninh Quân Đội, và trước tòa án.
Bị can ấy từ đầu đến cuối không lúc nào phản cung. Bị can ấy từ chối không trả lời tòa án, không trả lời ủy viên chính phủ, không trả lời luật sư. Bị can ấy im lặng tuyệt đối, như để bảo mật cái tổ đặc công giết người của hắn, theo một mệnh lệnh… Giọng tôi trầm trầm. Tôi nói, hình như không phải cho tòa nghe, mà cho chính tôi nghe. Tôi nói, để cố trả lời cho những câu hỏi mà chính tôi đang thắc mắc.
Tại sao hắn không có một lời để tự bào chữa? Tại sao hắn đã nhận tội một cách thản nhiên, và không một lần nào phản cung, trong hồ sơ cũng như trước tòa án? Hắn là một tên đặc công bị bắt quả tang trong khi đặt chất nổ, chắc chắn hắn đã bị tra tấn của công an trong khi lấy cung. Tại sao hắn không nói điều ấy ra trước tòa? Và tên Tư? Tên Tư là ai? Tại sao hắn lại im lặng không chịu cung khai về tên Tư? Tại sao hắn lại từ chối không trả lời những câu hỏi có lợi cho hắn?
Không ai muốn chết. Không ai muốn bị hành hình. Không ai muốn bị đập chết như một con chó ở góc tường, như những nhân vật trong tiểu thuyết Kafka. Huống chi, hắn mới 21 tuổi, có vợ, có con, và thương vợ thương con. Thế thì tại sao hắn lại im lặng? Chỉ có một câu trả lời. Hắn bị quyến rũ phạm tội ác, và sau khi bị bắt, hắn vẫn bị theo rõi. Hắn sợ vợ con hắn bị trả thù, hắn đã phải im lặng, tuyệt đối im lặng.
Biết đâu trong phòng xử hôm nay, lại không có tên Tư nào đó đang ngồi theo rõi hắn. Hướng về phía ông Ủy viên Chính Phủ, tôi nói như tâm sự: ” Tôi đồng ý với ông là chúng ta, những người quốc gia, phải thẳng tay trừng trị, nếu cần, phải giết những tên đặc công gian manh, những tên cán bộ khát máu, những tên đặc công giết người không gớm tay. Nhưng trong hiện vụ, tôi không nghĩ bị can là một tên cộng sản gian manh, một tên cán bộ khát máu, một tên giết người không gớm tay. Và đây là điểm cực kỳ quan trọng: quả mìn hôm ấy đã không nổ “.
Kết luận, tôi yêu cầu tòa khoan hồng. Bị can mới hai mươi mốt tuổi, chưa hề can án, có vợ còn trẻ và con còn nhỏ, vì vậy đáng được hưởng sự khoan hồng của luật pháp.
Sau lời biện hộ của tôi, tòa hỏi hắn: ” Luật sư đã biện hộ cho anh rồi. Anh có quyền nói lời chót. Anh muốn nói gì không? “. Hắn lắc đầu. Tòa ngưng xử, bước vào phòng để nghị án.
Khoảng một giờ sau, tòa trở lại tuyên án: tử hình. Lập tức, hắn bị còng tay mang đi. Lúc đó, đã quá trưa, những đám mây đen từ đâu kéo về bao kín cả một góc trời đã mất ánh sáng. Dân chúng kéo nhau ra về. Tôi xách cặp đi ra xe như người mất hồn. Khi lái xe qua cổng tòa án, tôi thấy vợ hắn ôm con ngồi khóc. Tôi về văn phòng, viết đơn xin ân xá cho hắn. Đây chỉ là thủ tục tòa án, nhưng tôi đã làm với tất cả sự cẩn trọng của một lễ nghi tôn giáo. Tôi muốn cứu hắn khỏi chết. Vì nhân đạo. Vì nghề nghiệp. Và cũng vì trường hợp cá biệt của hắn.
Hắn khác Nguyễn Văn Trỗi. Nguyễn Văn Trỗi khóc lóc van xin trước tòa, và sau khi bị tòa lên án tử hình, Trỗi đã hô lớn ” Hồ Chí Minh muôn năm “. Hô xong lại khóc, lại van xin. Còn hắn, hắn nín thinh. Không khóc lóc, không van xin, không hô khẩu hiệu.
Hắn khác Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Hữu Thọ huênh hoang và cao ngạo trước tòa. Hắn chịu đựng, nhẫn nhục, đến độ gần như khắc kỷ. Tôi nghĩ đến con chó sói trong bài thơ ” La Mort du Loup ” của thi hào Vigny.
Ba tháng đã trôi qua. Bức thư của tòa án Mặt Trận mà trung sĩ Ân đưa cho tôi chiều hôm nay chỉ vỏn vẹn mấy dòng chữ đánh máy: ” Trân trọng báo để luật sư tường: đơn xin ân xá của Trần Văn Đang đã bị bác. Ngày mai, hồi 5 giờ sáng, bản án tử hình sẽ được thi hành. Nếu luật sư muốn hiện diện nơi hành quyết, thì xin có mặt tại khám Chí Hòa vào lúc 4 giờ sáng. Trân trọng “.
Suốt đêm, tôi trằn trọc không ngủ, đầu óc lởn vởn khuôn mặt của hắn, và hình ảnh của hắn ngồi trong hành lang tòa án, một tay để lên vai vợ, một tay sờ lên mình đứa con. Chưa đầy 3 giờ sáng, tôi đã thức dậy, đi vào khám Chí Hòa. Tôi bước vào phòng đợi, đã thấy một nhà sư gầy gò mặc nâu sòng đang ngồi lần chuỗi hạt.
Viên quản đốc nhà lao cho tôi biết: nhà sư đã đến trước tôi cả nửa giờ. Lát sau, một linh mục béo tốt bước vào, trong bộ quân phục thiếu tá tuyên úy. Bốn giờ ba mươi phút, ủy viên chính phủ đến. Rồi đoàn người, gồm viên quản đốc nhà lao, ủy viên chính phủ, luật sư, và hai vị tuyên úy, lặng lẽ đi vào một căn phòng rộng. Thường nhật, đây là chỗ điểm danh tội nhân. Hắn đã ngồi đó từ bao giờ, bên cạnh cái bọc quần áo. Ánh sáng vàng bệch của ngọn đèn cáu bụi trên trần nhà phả xuống bốn bức tường trắng xóa.
Tôi chợt có ý nghĩ kỳ lạ là đang bước vào căn nhà xác của bệnh viện. Đoàn người tiến lại gần hắn. Hắn đứng dậy, đôi mắt như dò hỏi. Một phút im lặng, dài như một ngày. Đại tá ủy viên chính phủ trịnh trọng nói với hắn: ” Anh hãy cam đảm lên, và nghe tôi đọc “.
Rồi ông lớn tiếng đọc bản án tử hình và bản quyết định bác đơn xin ân xá của hắn. Hắn cúi đầu nhìn xuống sàn nhà, đôi mắt mở to. Người hắn run lên. Nhưng chỉ giây lát, hắn lấy lại bình tĩnh. Hắn hỏi: ” Bao giờ người ta xử tôi? “. Viên quản đốc nhà lao để tay lên vai hắn: ” Ngay sáng hôm nay, trước khi mặt trời mọc “. Rồi ông thân mật nói với hắn: ” Bây giờ em muốn ăn uống gì không, khám đường sẽ chu tất cho em ? “. Hắn lắc đầu.
Lúc đó, không ai bảo ai, mỗi người nói với hắn một vài câu an ủi. Không khí trở nên thân mật và âu yếm như trong một cuộc tiễn đưa. Riêng tôi chỉ nhìn hắn, tôi muốn nói chuyện riêng với hắn; đó là quyền của tôi, quyền của luật sư biện hộ. Ủy viên chính phủ đồng ý, và cho tôi biết: tôi có 5 phút. Rồi đoàn người bước ra khỏi phòng, để một mình tôi với hắn. Người cuối cùng đã bước ra khỏi phòng. Hắn nắm lấy tay tôi, và nhìn tôi rất lâu, đôi mắt ướt sũng. Tôi hỏi: ” Em có muốn nói nhắn với vợ em điều gì không? “.
Hắn suy nghĩ giây lát, rồi nói: ” Em bị chúng nó lừa. Luật sư có gặp vợ em, thì bảo đừng ở dưới vườn nữa, và nuôi lấy con “. Tôi hỏi: ” Em chết, có điều gì oán hận không? “. Hắn không trả lời. Tôi an ủi hắn: ” Người ta, ai cũng phải chết một lần, đời sau mới là quan hệ. Em theo đạo nào? “. Tôi là người Công giáo. Tôi ước ao hắn dành một vài phút để nghĩ đến Thượng Đế và tình thương bao la của Người.
Nhưng ủy viên chính phủ đã bước vào nói nhỏ: ” Luật sư hết giờ rồi “. Rồi ông thân mật hỏi hắn: ” Ở đây có hai vị tuyên úy em muốn nói chuyện với ai? “. Hắn nhìn nhà sư mặc áo tu hành, hắn nhìn vị linh mục mặc quân phục thiếu tá, rồi xin được nói chuyện với nhà sư.
Tôi cúi đầu theo ủy viên chính phủ và vị linh mục đi ra một góc phòng. Nhìn về phía hắn, tôi thấy nhà sư cúi đầu tụng kinh, và hắn cũng cúi đầu như lắng tai nghe kinh. Khoảng khắc, nhà sư ngẩng đầu lên, đặt tay lên vai hắn, trong một cử chỉ vỗ về bao dung. Lúc đó, đồng hồ trên tường chỉ đúng 5 giờ sáng, giờ khởi hành. Người ta xúm lại chung quanh hắn, mỗi người nói với hắn một câu chân tình.
Hắn như chợt nhớ ra, xin phép được thay quần áo. Một cảnh sát viên chạy lại cầm cái bọc quần áo đưa cho hắn. Hắn mở bọc, lấy ra một chiếc sơ mi cụt mầu xám, và một chiếc quần vải dragon đen đã bạc mầu.
Thay xong quần áo, hắn xin một điếu thuốc. Viên quản đốc nhà lao mỉm cười, rút trong túi ra một bao thuốc lá Ách Chuồn. Ông ta trịnh trọng lấy ra một điếu, dộng dộng trên ngón tay cái, rồi đưa cho hắn. Hắn ngậm điếu thuốc, và được viên quản đốc châm lửa. Lúc đó, nhân viên an ninh đến. Hắn ngoan ngoãn đưa hai tay chụm ra đằng trước để người ta còng.
Rồi đoàn người lặng lẽ đi ra. Hắn đi đầu, thản nhiên bước qua từng đợt cửa, thỉnh thoảng dùng hai tay còng đưa điếu thuốc lên môi. Khi đoàn người ra tới sân nhà lao, điếu thuốc gần lụi, và hắn buông rơi xuống đất. Hắn bước lên chiếc xe bít bùng, đầu hơi cúi xuống. Cửa xe đóng sập lại. Tôi lên xe riêng, lái thật nhanh ra khỏi nhà lao.
Chiếc xe của tôi lầm lũi đi trong đêm, ánh đèn pha chiếu dài cả con đường Hòa Hưng, rồi đường Lê Văn Duyệt. Thành phố Sài Gòn đang trở mình thức giấc, một vài gánh hàng đi nép bên lề đường. Và đó đây, có tiếng động cơ quen thuộc của những chiếc xe Lam dậy sớm.
Tới bùng binh chợ Bến Thành, tôi đã thấy một đám đông bu quanh vùng ánh sáng của pháp trường cát. Những phóng viên ngoại quốc chạy nhốn nháo, với máy ảnh và máy quay phim. Cảnh sát chận xe tôi lại. Khi nhìn thấy chiếc áo đen của tôi, họ dẹp đám đông cho xe tôi tiến vào. Tôi đỗ xe sát chân tường Nha Hỏa Xa, cách pháp trường cát độ 30 thước. Những ngọn đèn pha cực mạnh đã được đặt tại đó chiều hôm trước. Tất cả đều chiếu vào pháp trường cát, tạo nên một vùng ánh sáng rợn người. Một chiếc cọc đen đứng cô đơn, đằng sau là những bao cát chất thành vòng cung. Cách đó 3 thước, là chiếc quan tài đậy nắp, trên nắp có một tấm vải trắng. Xa nữa là chiếc xe chữa lửa.
Tôi đứng trong vòng ánh sáng chưa được 10 phút thì nghe tiếng còi hụ. Người ta chạy nhốn nháo. Tôi háy mắt nhìn về phía tiếng còi hụ, thì thấy đoàn xe chở tội nhân đang tiến tới. Chiếc xe bít bùng đỗ lại bên lề đường. Lát sau hắn bước xuống khỏi xe. Tôi vội choàng lên người chiếc áo đen, chạy ra với hắn. Hắn và tôi đi đầu, theo sau là đoàn áp giải. Hắn bước đều đều, mặt cúi xuống đất. Dân chúng bu nghẹt chung quanh, chỉ chừa một lối đi được ngăn giữ bằng hàng rào an ninh. Bây giờ chúng tôi đã bước vào vùng ánh sáng.
Hắn bỗng ngửng đầu lên, và đứng khựng lại. Người lính đằng sau lấy tay đẩy nhẹ vào lưng hắn, hắn lại tiếp tục bước đi. Tôi đoán chiếc quan tài và chiếc khăn liệm đã làm hắn khựng lại. Hình ảnh trung thực của chiến tranh không được tìm thấy ở chiến trường ” da ngựa bọc thây “, mà được tìm thấy trong các bệnh viện, nơi đó có những hình hài cụt chân cụt tay, những đống thịt bầy nhầy, những hố mắt sâu thẳm, những cuốn băng bê bết máu, và những tiếng rên rỉ đau đớn. Và hình ảnh trung thực của cái chết vẫn là chiếc quan tài, tấm khăn liệm và những người thân yêu tiễn đưa.
Bây guờ, hắn và tôi đã bước vào trong vòng những bao cát. Người ta mở còng, rồi giữ ghì lấy hai cánh tay hắn, đẩy hắn dựa lưng vào chiếc cọc sắt. Hai cổ chân hắn bị cột chặt vào thân cọc, hai cánh tay hắn bị kéo ngược ra đằng sau, cột ngược vào một cái cọc ngang. Chiếc cọc ngang này hơi cao, hắn phải kiễng chân lên. Hắn nhăn mặt kêu đau. Tôi nói với viên sĩ quan: ” Đằng nào tội nhân cũng sắp chết, ông nên cho hạ thấp chiếc cọc ngang xuống, kẻo máu bị ngừng ở nơi nách, tội nghiệp “. Viên sĩ quan gật đầu, hạ thấp chiếc cọc ngang xuống.
Hắn nhìn tôi, và lần đầu tiên hắn nói: ” Cám ơn luật sư “. Lúc đó, đội hành quyết đã sắp hàng chỉnh tề, chỉ còn đợi sĩ quan Quân Trấn Trưởng của Quân khu Sài Gòn đến là khởi sự. Một phút, hai phút, rồi ba phút… Cả pháp trường im lặng, trong sự đợi chờ và trong ánh sáng chói chang.
Chỉ còn mình tôi đứng bên cạnh hắn. Hắn bỗng trăn trối: ” Em đã bị chúng nó lừa. Luật sư nhớ bảo vợ em đừng ở dưới vườn, đừng nghe theo chúng nó và gắng nuôi con “. Tôi gật đầu. Hắn nấc lên: ” Con ơi, Cảnh ơi, Cảnh ơi “. Tiếng nấc của hắn làm tôi mủi lòng.
Tôi để tay lên vai hắn, định an ủi, nhưng cổ họng bị tắc nghẽn. Tôi chợt nghĩ đến linh hồn hắn. Tôi thì thầm bên tai hắn: ” Em hãy ăn năn hối cải, và cầu xin Chúa giúp em chết lành. Em chết, nhớ phù hộ cho vợ con em “. Hắn lại nấc lên: ” Con ơi, con ơi, Cảnh ơi, Cảnh ơi “. Lúc đó, có tiếng còi hụ. Quân Trấn Trưởng đến. Đội hành quyết đứng nghiêm.
Người ta bịt mắt hắn. Hắn vẫn nấc, vẫn gọi tên con. Có tiếng lên đạn đàng sau lưng tôi. Ủy viên chính phủ nói lớn: ” Xin ông luật sư đứng tránh xa ra một bên “. Tôi đi giật lùi ngang về phía bên trái, mắt không rời hắn. Miệng hắn vẫn lắp bắp gọi tên con. Một tiếng hô. Một loịat đạn nổ. Đầu hắn ngoẹo xuống, gục về bên trái. Máu từ trong người hắn chảy róc xuống đùi, xuống chân, rồi bò ngoằn ngoèo trên lề đường.
Viên đội trưởng hành quyết tiến lại, nắm tóc kéo ngược đầu hắn về phía sau, dí khẩu súng lục vào màng tang bên trái của hắn, bắn phát súng ân huệ. Một tiếng ” đẹt ” khô khan. Người ta vội vàng liệm xác hắn, và chiếc vòi nước của chiếc xe chữa lửa vội vã phụt sạch những vết máu trên lề đường. Phương Đông, chân trời đã bắt đầu hừng đỏ.
Tối hôm đó, đài phát thanh Hà Nội mặc niệm hắn, hết lời ca tụng cái chết anh hùng của hắn. Đài phát thanh Hà Nội nói rõ ràng: từ lúc bị trói vào cọc cho đến lúc bị hành quyết, hắn đã noi gương anh hùng Nguyễn Văn Trỗi, không ngớt đả đảo Mỹ Ngụy và hô to khẩu hiệu ” Hồ Chí Minh muôn năm “.
Nguyễn Văn Chức
Chú thích (của luật sư Nguyễn Văn Chức):
Dưới đây là những chi tiết liên quan đến vụ Trần Văn Đang. Bị can sinh năm 1942 tại Vĩnh Long, bị bắt ngày 30 tháng 3 năm 1965 trong khi đặt chất nổ, bị đem ra tòa án Mặt Trận hai tuần sau, và bị bắn tại pháp trường cát bùng binh chợ Bến Thành sáng ngày 21 tháng 6 năm 1965.
Chánh thẩm xử án là đại tá Phan Đình Thứ (tức Lam Sơn), linh mục tuyên úy Công giáo tên Thông, nhà sư tuyên úy Phật giáo là đại đức Sĩ. Quân Trấn Trưởng là đại tá Giám.
Nguyễn Văn Trỗi bị bắt ngày 9 tháng 5 năm 1964, trong lúc đặt bom ở gầm cầu Công Lý, chờ ám sát phái đoàn của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Mc Namara. Y bị toà án Vùng 3 Chiến Thuật xử tử hình. Trước toà, y khóc lóc, chửi bọn xúi y đi ôm bom là bọn ” chó đẻ “, và xin toà tha tội. Khi toà tuyên án tử hình, y hô to Hồ Chí Minh muôn năm. Hô xong y lại khóc và xin toà tha.
****Năm 1993, tôi (luật sư Nguyễn Văn Chức) có đọc cuốn ” Chung Một Bóng Cờ ” do nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia (Hà Nội) ấn hành, gồm những bài viết của Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Hữu Thọ, Phạm Văn Đồng… Cuốn sách đã dành một trang để nói về cái chết của Anh Hùng Trần Văn Đang. Xin trích một vài dòng cuối: ” Sáng ngày 21 tháng 6 năm 1965 lúc 5 giờ 52 phút, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đem anh ra xử bắn tại pháp trường cát, với hy vọng có thể khủng bố được tinh thần nhân dân Sài Gòn. Nhưng chúng đã lầm. Trước đông đảo đồng bào và phóng viên trong và ngoài nước đang tụ tập dọc đường Hàm Nghi và chợ Bến Thành, vừa bước xuống xe, Trần Văn Đang dõng dạc nói lớn: Hỡi đồng bào chợ Bến Thành, hỡi đồng bào Sài Gòn thân yêu, tôi là Trần Văn Đang đây, chiến sĩ giải phóng, tôi đánh Mỹ để giải phóng dân tộc… Đả đảo đế quốc Mỹ… đả đảo tập đoàn tay sai bán nước. Ngay sau khi súng đã nổ, anh vẫn không ngừng hô to Hồ chủ tịch muôn năm, đả đảo đế quốc Mỹ ” (trích trong Chung Một Bóng Cờ, trang 886-887).

Người thợ máy biệt động kiên cường (Hoàng Châu - An Ninh Thế Giới)

(http://antg.cand.com.vn/Tu-lieu-antg/Nguoi-tho-may-biet-dong-kien-cuong-391348/)

Người thợ máy biệt động kiên cường

14:05 04/05/2016

Từ cửa chợ Hòa Hưng có một con đường mang tên Trần Văn Đang chạy dài một vòng ôm hết bờ tường của ga xe lửa Sài Gòn. Trong hồi ức lịch sử, chiến sỹ biệt động Trần Văn Đang từng là niềm kiêu hãnh trong đội ngũ những người anh hùng “xuất quỷ nhập thần” đánh địch ngay giữa lòng thành phố Sài Gòn.


Thursday, 23 June 2016

"Ông Tùng đã thảo văn kiện đầu hàng" (Bùi Thanh - Tuổi Trẻ)


"Ông Tùng đã thảo văn kiện đầu hàng"

30/04/2007 06:07 GMT+7
TT - Trong phần tường thuật dưới đây, nhà báo chuyên nghiệp Borries Gallasch đã trả lời một cách chắc chắn về vấn đề gây tranh cãi hàng chục năm qua: người đã thảo lời tuyên bố đầu hàng cho tổng thống Dương Văn Minh.
RMM5mXjv.jpgPhóng to
Đại tá Bùi Văn Tùng
TT - Trong phần tường thuật dưới đây, nhà báo chuyên nghiệp Borries Gallasch đã trả lời một cách chắc chắn về vấn đề gây tranh cãi hàng chục năm qua: người đã thảo lời tuyên bố đầu hàng cho tổng thống Dương Văn Minh.

Thảo văn kiện
Sau một vài phút, ông Dương Văn Minh, ông Vũ Văn Mẫu và ông Bùi Văn Tùng rời khỏi phòng, theo sau là những người đã có mặt tại đây để sang đài phát thanh. Chúng tôi bước xuống cầu thang ra bãi cỏ, đến ngang chỗ vòi phun nước, tổng thống Dương Văn Minh và thủ tướng Vũ Văn Mẫu leo lên một chiếc xe jeep được bảo vệ bởi hai chiến sĩ giải phóng (đại úy Phạm Xuân Thệ đi xe này - TS). Chính ủy Bùi Văn Tùng và một người lính khác lên chiếc xe thứ hai. Tôi đang đứng ngay cạnh chiếc xe jeep nói chuyện với ông chính ủy bằng tiếng Pháp, cố gắng xin ông ta để được lên xe. Ông gật đầu đồng ý. Luật sư Đỉnh với bộ râu dài cũng leo lên chiếc xe jeep này và chúng tôi lái đi. Chỉ có hai chiếc xe này của chúng tôi chạy giữa thành phố lúc ấy - một thành phố đã từng sôi sục mà nay sự sợ hãi bỗng nhiên được làm dịu đi - qua tòa đại sứ Mỹ trống hoác, đến đài phát thanh nằm trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Chúng tôi đi vào phòng thu nhỏ trên lầu một. Những kỹ thuật viên đã lấy chân dung của Thiệu từ trên tường xuống và ném qua cửa sổ ra sân. Chúng tôi ngồi bất động một lát. Ông Mẫu quạt mặt mình bằng một quyển sách. Tổng thống Dương Văn Minh và chính ủy xe tăng Bùi Văn Tùng ngồi trên hai chiếc ghế và tôi ngồi giữa họ tại một chiếc bàn nhỏ. Ông Tùng thảo văn kiện đầu hàng trên một mảnh giấy màu xanh.
WG8hNwA4.jpgPhóng to
Trung tá chính ủy Bùi Văn Tùng và nhà báo Borries Gallasch tại dinh Độc Lập ngày 30-4-1975 (Ảnh tư liệu gia đình của Borries Gallasch)
Ông Mẫu trông có vẻ hài lòng. Ông tỏ ra như thể chiến thắng này là chiến thắng của ông. Người thành lập và phát ngôn cho lực lượng thứ ba, mà mới tuần trước đã giải thích cho tôi tại sao nhóm trung lập của ông ấy sẽ là một nhân tố cần thiết cho bất cứ một tương lai chính trị nào ở Nam VN, nay tuyên bố rằng: “Không còn lực lượng thứ nhất nữa nên chúng ta không còn cần đến lực lượng thứ ba, hòa giải dân tộc diễn ra sớm hơn dự định. Bây giờ dù muốn hay không chúng ta cùng làm việc cho nhân dân ta”. “Không phân biệt chính kiến?”. “Đúng, chúng ta có khác nhau về quan điểm nhưng những điểm khác nhau đó chỉ hướng chúng ta đi đến một mục đích chung”.
Chính ủy Tùng đã rất khó viết. Ông ngồi bất động trong khi thảo ra được một vài từ rồi đến từ nữa, rồi lại thay thế bằng những từ khác. Sau 30 năm chiến đấu cho một mục đích, thật là khó để biết phải viết như thế nào.
Trong lúc đấy mọi người dường như đang thư giãn và giảm phấn khích hơn so với một giờ trước. Đại úy Phạm Xuân Thệ, người đã bắt ông Minh trong dinh, vẫn còn lăm lăm khẩu súng trong tay. Ông ta nhắc đi nhắc lại với ông Minh về việc đầu hàng trên đài.
Thời khắc lịch sử
Trên đường tìm kiếm tài liệu và gặp gỡ nhân chứng, vào tháng 3-2005, phóng viên Tuổi Trẻ đã đến Bộ tư lệnh Quân đoàn II đóng ở Bắc Giang (cách Hà Nội 80km). Trong khi xem xét kỹ từng hiện vật ở bảo tàng quân đoàn (lúc đó còn rất ngổn ngang vì đang sắp xếp trưng bày lại), phóng viên Tuổi Trẻ đã sửng sốt khi nhìn thấy bản thảo lời tuyên bố đầu hàng của tổng thống Dương Văn Minh. Đó là hai trang giấy pơluya màu xanh, nhăn nhúm và lấm lem bụi đường. Nhìn nét chữ thì biết ngay của đại tá Bùi Văn Tùng và cán bộ bảo tàng cũng xác nhận điều đó.
Điều đáng nói là ngay bên cạnh bản thảo viết tay của đại tá Tùng, chúng tôi lại thấy một bản thảo cùng nội dung, nhưng được một người nào đó viết. Trả lời thắc mắc này, cán bộ Bảo tàng Quân đoàn II nói rằng: Sợ bản thảo gốc bị mờ, giấy lại nhăn, khó đọc, nên bảo tàng cho người viết lại để dễ đọc.
Một lời giải thích khó có thể chấp nhận! Do vậy cán bộ bảo tàng đã không thể trả lời được câu hỏi tiếp theo: Điều gì sẽ xảy ra khi bản thảo của đại tá Tùng bị mất, và con cháu chúng ta sẽ chỉ nhìn thấy một bản thảo được ai đó viết lại?
Sau cuộc hội ý với cấp trên, sĩ quan tuyên huấn quân đoàn đã không đồng ý cho phóng viên sao chụp, ghi hình tư liệu này.
Đại tướng Dương Văn Minh im lặng. Dưới chiếc mũ cối, những người lính bộ đội nhìn ông Minh với vẻ tò mò. Họ vây quanh ông ta trong lúc phía bên ngoài vẫn còn nghe những tiếng nổ. Những người lính giải phóng đã thể hiện sự vui mừng không kìm nén được. Cuối cùng ông Minh đã lên tiếng, hỏi một người lính: “Em trai của tôi hiện nay ra sao? Khi nào tôi có thể gặp chú ấy?”. Đó là số mệnh của những người dân VN: người em của tổng thống là một tướng lĩnh trong quân đội miền Bắc VN và trong 20 năm anh em ruột thịt ở hai bên chiến tuyến (Tuổi Trẻ sẽ trở lại câu chuyện này trong một hồ sơ sắp tới).
Đại úy Thệ im lặng. Tất cả mọi người bỗng nhiên im lặng. Rồi một vài người lính giải phóng nói chuyện với tôi bằng tiếng… Nga. Họ trông thấy phù hiệu “Báo chí Đức” trên áo sơmi của tôi và tưởng tôi là nhà báo Đông Đức. Họ đã nói chuyện với tôi về Các Mác. Bạn tôi là Hà Huy Đỉnh đã giải thích cho họ rằng tôi là nhà báo Tây Đức. Mặt họ sầm xuống, tỏ ra nghi ngờ và e dè hơn.
Cuối cùng mọi người đã sẵn sàng, nhưng không ai trong số người này biết sử dụng máy ghi âm. Chính ủy Tùng hướng dẫn rất rõ ràng cho tôi những việc tôi phải làm: ông Minh cần phải đọc lại bản tuyên bố vào máy ghi âm của tôi, việc này được lặp đi lặp lại ba lần. Lần đầu tiên ông Minh chần chừ vì được yêu cầu phải đọc là: “Tôi, Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài Gòn”, nhưng ông ấy chỉ muốn nói: “Tôi, đại tướng Dương Văn Minh...”. Họ tranh luận qua lại và cuối cùng đi đến thỏa thuận: không nhượng bộ ông Minh. Ông Minh phải nói: “Tôi, đại tướng Dương Văn Minh, tổng thống của chính quyền Sài Gòn”. Nhưng ông Minh không đọc được bản viết tay của chính ủy Tùng và nói sai nhiều lần. Tất cả mọi thứ lại phải được đọc lại từ đầu. Cuối cùng đã xong. Ông Minh kết thúc âm giọng chính xác: “...miền Nam Việt Nam”.
Tôi cũng ghi âm lời phát biểu của ông Mẫu và ông chính ủy Tùng rồi chúng tôi đi vào phòng thu thanh. Tôi ngồi ngay trước micro và bật băng của ba bài phát biểu. Ông Minh ngồi bên tay trái tôi. Chính ủy Tùng, ông Mẫu đứng đằng sau chúng tôi. Kỹ thuật viên ngồi phía bên kia của kính ngăn yêu cầu bật máy lại, lần này để máy lại gần micro hơn và không quá to. Lúc này mọi sự đều tốt đẹp. Chính ủy Bùi Văn Tùng đã nói những gì với tôi mà tôi không hiểu. Hà Huy Đỉnh dịch lại. Tôi đã được ông cảm ơn về sự giúp đỡ của tôi và cho phép tôi chở ông về lại dinh Độc Lập trên chiếc xe jeep. Chúng tôi rời khỏi tòa nhà. Tôi ngồi sau tay lái và ông chính ủy ngồi ghế bên.
Tôi không thể nổ máy chiếc xe. Lúc ấy ông chính ủy trở nên sốt ruột và chúng tôi đã đi sang một chiếc xe khác, nơi tôi lại ngồi băng ghế sau. Chúng tôi lại đi qua những con đường của VN. Lúc ấy khoảng 2g chiều, những người lính của Mặt trận Giải phóng đã đứng gác tại tất cả các ngã tư và trên những con đường đã rất đông người. Chúng tôi đã đi mà không có bảo vệ. Sài Gòn đã chắc chắn ở trong tay của chính quyền cách mạng, không gặp sự kháng cự nào.
Tại dinh Độc Lập, tôi nhảy ra khỏi xe. Trên khuôn mặt bình thản của chính ủy Bùi Văn Tùng giấu một nụ cười. Rồi ông nói với tôi bằng một câu tiếng Đức mà ông biết: “Danke” (cảm ơn).
Hai ngày sau, ông Minh được tự do trở về nhà với vườn hoa phong lan của mình.
m5kE4CFO.jpgPhóng to
Trong ảnh, Borries Gallasch ngồi cạnh ông Dương Văn Minh để chuẩn bị ghi âm lời tuyên bố đầu hàng. Đây là bức ảnh duy nhất ghi lại thời khắc lịch sử ở Đài phát thanh Sài Gòn ngày 30-4-1975.
Tác giả bức ảnh này là nhà báo Kỳ Nhân - một nhà báo đối lập trước năm 1975, lúc đó đang cộng tác cho Hãng tin AP (Mỹ). Khi nhìn thấy bức ảnh duy nhất này, cả George Esper và Peter Arnett (phóng viên chiến trường nổi tiếng, sau này làm cho CNN) đều thảng thốt: “Tấm ảnh này sẽ đi vào lịch sử!”.
Nhà báo Kỳ Nhân đã giao phim và ảnh cho AP. Sau đó ít ngày, George Esper và Peter Arnett đã “tặng” lại cho đại diện quân giải phóng là trung úy Phùng Bá Đam (nay là đại tá). Trước khi đi học, ông Đam có bàn giao phim và ảnh lại cho bộ phận tuyên huấn của Trung đoàn 66, Sư đoàn 304.
Đón đọc hồ sơ khởi đăng số tới:
Chuyện từ làng Hạ Bình (Trung Quốc)
Ô nhiễm môi trường gia tăng, nạn tham nhũng tràn lan, thị trường bất động sản nằm ngoài tầm kiểm soát... Đó chỉ là một vài trong số những thách thức mà Trung Quốc đang đối mặt sau ba thập kỷ theo đuổi nền kinh tế thị trường. Những mảng tối đó đã được phản ánh sinh động qua loạt phóng sự của các nhà báo tờ Wall Street Journal (WSJ), giúp đem về cho họ giải thưởng báo chí quốc tế Pulitzer 2007.
Mời bạn đọc theo chân WSJ đến làng Hạ Bình, tỉnh Phúc Kiến để tìm hiểu thực hư về những ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống người dân.
BÙI THANH

Thursday, 16 June 2016

Áp đặt, quy chụp là dội nước lạnh vào nhiệt huyết bảo vệ Tổ quốc (Trần Công Trục - Giáo Dục)

 

Áp đặt, quy chụp là dội nước lạnh vào nhiệt huyết bảo vệ Tổ quốc

14/06/2016 10:43 Ts Trần Công Trục
(GDVN) - Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam chỉ có một "động cơ" duy nhất và xuyên suốt là đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ...

LTS: Tiến sĩ Trần Công Trục, một chuyên gia về Luật Biển Việt Nam và Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982) gửi đến Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam bài phân tích của ông xung quanh lập trường của Nga về Biển Đông qua bài bình luận "Nga chưa bao giờ thay đổi lập trường về tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông" của Đại tá Lê Thế Mẫu đăng trên Báo điện tử Infonet ngày 13/6.

Tôn trọng những tiếng nói đa chiều ngõ hầu làm sáng tỏ không chỉ nội dung tranh luận làm sao bảo vệ tốt nhất độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông, mà còn cả cách thức tranh luận và trao đổi sao cho đúng trọng tâm học thuật và không chính trị hóa các vấn đề pháp lý, làm sai lệch bản chất câu chuyện, Tòa soạn gửi tới bạn đọc bài viết này của Tiến sĩ Trần Công Trục.

Nội dung và văn phong bài viết thể hiện tiếng nói, quan điểm của tác giả. Tiêu đề bài viết do Ban Biên tập đặt.

Hiện nay dư luận đang chờ đợi phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) về vụ Philippines kiện Trung Quốc áp dụng và giải thích sai các quy định của UNCLOS 1982 ở Biển Đông.

Việt Nam là một bên liên quan trực tiếp và rất có lợi nếu PCA bác bỏ đường yêu sách “lưỡi bò” trên biển vô lý của Trung Quốc. Trong lúc đó thì cá nhân tôi cảm thấy ngỡ ngàng, bất ngờ khi đọc bài viết "Nga chưa bao giờ thay đổi lập trường về tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông" của Đại tá Lê Thế Mẫu trên Infonet ngày 13/6.

Tiến sĩ Trần Công Trục, ảnh do tác giả cung cấp.

Ngỡ ngàng không chỉ bởi những lập luận của Đại tá Lê Thế Mẫu về bài viết "Nga ra tuyên bố mới về Biển Đông" của tác giả Hồng Thủy đăng trên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam ngày 11/6, mà bởi cách nhận xét, đánh giá theo phương cách quy kết, áp đặt một chiều, có vẻ phản ánh tư duy duy ý chí, chính trị hóa các vấn đề pháp lý.

Điều đó khiến cho dư luận có thể sẽ gặp những khó khăn trong tiếp cận và nhận thức bản chất của các vấn đề phức tạp và nhạy cảm hiện nay.

Trong khi đó, như mọi người đều đã biết, Trung Quốc đang đẩy mạnh chiến dịch tuyên truyền chống phá quyết liệt phán quyết của PCA hàng ngày, hàng giờ.

Vì vậy, chúng ta nên bình tĩnh lắng nghe và trân trọng những tiếng nói bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam, cũng như luật pháp quốc tế mà tác giả Hồng Thủy và Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đã công khai thể hiện trong thời gian gần đây trước những bức xúc trong dư luận về một số động thái có liên quan đến tình hình Biển Đông.

Thiết nghĩ những bài báo đó hầu hết đều là những nội dung nghiên cứu nghiêm túc, khách quan, kịp thời và với động cơ tích cực, trong sáng và xuyên suốt là bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích hợp pháp của Việt Nam với lập luận, luận cứ chắc chắn, mang tính xây dựng…. 

Với tư cách một công dân Việt Nam và từng có thời gian nghiên cứu Luật Biển Việt Nam, UNCLOS cũng như từng tham gia các hoạt động đàm phán phân định biên giới trên bộ cũng như trên biển giữa Việt Nam với các nước láng giềng, cá nhân tôi xin chia sẻ một vài suy nghĩ của mình để làm sáng tỏ vấn đề, sau khi tác giả Hồng Thủy và Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đã có phản hồi đối với bài viết của Đại tá Lê Thế Mẫu:

Về lập trường của Nga trong vấn đề Biển Đông

Tác giả Hồng Thủy đã phân tích khá kỹ "vấn đề Biển Đông" hiện nay đang tồn tại nhiều loại tranh chấp phức tạp, trong đó có những tranh chấp xuất phát từ việc giải thích và áp dụng sai các quy định của UNCLOS 1982 và những hành động phiêu lưu quân sự hóa Biển Đông mà Trung Quốc đang theo đuổi.

Tranh chấp chủ quyền / lãnh thổ là một loại tranh chấp nổi bật, nhưng không phải tất cả các tranh chấp đang tồn tại trong Biển Đông.

Việc phân loại các tranh chấp này với diễn biến và đánh giá khác nhau sẽ có liên quan đến chủ trương và cách ứng xử của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc cũng như với các quốc gia khác trong khu vực và quốc tế, đặc biệt là với các “siêu cường”. 

Mục đích, nội dung và lập luận của Hồng Thủy trong bài "Nga ra tuyên bố mới về Biển Đông" cũng chỉ xoay quanh việc nhấn mạnh, làm rõ rằng:

Các tranh chấp hàng hải, tranh chấp về việc giải thích và áp dụng sai UNCLOS 1982, khiến dư luận quan tâm và có nhiều quan niệm lệch lạc, do vô tình hay cố ý, nhất là nhận thức về bản chất các tranh chấp này thành "tranh chấp chủ quyền / lãnh thổ", trong đó có những tuyên bố gây tranh cãi từ Liên bang Nga gần đây.

Có thể thấy rằng đây là tình trạng "ông nói gà, bà nói vịt" khi PCA và dư luận quốc tế đang đấu tranh bảo vệ UNCLOS 1982, bảo vệ hòa bình, ổn định, tự do hàng hải và hàng không qua Biển Đông. Đây cũng chính là bảo vệ các quyền và lợi ích chung của khu vực và quốc tế.

Đại tá Lê Thế Mẫu, ảnh: Infonet.

Trong khi đó, để lẩn tránh nghĩa vụ của mình, Trung Quốc tìm mọi cách ngụy biện rằng đó là "tranh chấp chủ quyền" để lấy đó làm cớ "không tham gia, không chấp nhận phán quyết của PCA".

Đúng lúc đó Nga lại liên tục lên tiếng về "tranh chấp chủ quyền" ở Biển Đông, đặc biệt là việc chống quốc tế hóa, chống bên thứ ba can thiệp.

Đánh giá, nhận định những tuyên bố, phát biểu của Nga về các loại tranh chấp trong Biển Đông mà dư luận đang quan tâm, theo người viết, việc này nên được đặt trong bối cảnh chung rộng hơn.

Đó là, thời gian gần đây phải chăng vì những lý do về địa- chiến lược, địa- chính trị, địa-kinh tế …mà khu vực Biển Đông không còn là trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Nga khiến Moscow không nắm rõ bản chất các tranh chấp?

Và phải chăng những thông tin Biển Đông mà phía Nga tiếp nhận gần đây không phản ánh đúng bản chất vấn đề, bị thiên lệch, chủ yếu là do phía Trung Quốc cố ý cung cấp thiếu khách quan?

Như mọi người đã biết, Trung Quốc không ngừng rêu rao rằng: Vấn đề tranh chấp trên Biển Đông hiện nay thực chất là "tranh chấp chủ quyền / lãnh thổ", nhằm đánh lạc hướng dư luận quốc tế.

Không riêng Nga, ngay cả một số quốc gia ASEAN trực tiếp hay gián tiếp liên quan, cũng vẫn còn có những nhận thức lệch lạc về bản chất của các tranh chấp trong Biển Đông.

Những quốc gia này vẫn còn mơ hồ về các loại tranh chấp trong khi quyền chủ quyền, quyền tài phán của mình bị xâm hại trực tiếp hay gián tiếp bởi những hoạt động của Trung Quốc đang diễn ra ngày càng trắng trợn ở bên trong đường “lưỡi bò”…

Do đó trách nhiệm giải thích cho các bạn Nga và bạn bè khu vực và quốc tế hiểu thực chất vấn đề Biển Đông hiện nay thuộc về chính chúng ta.

Tôi tin rằng những bài phân tích về lập trường của Nga trong quan hệ quốc tế nói chung, vấn đề Biển Đông nói riêng, sẽ thường xuyên được Đại sứ quán Liên bang Nga tại Việt Nam cập nhật và báo cáo về nước, bởi đó là một trong những công việc và nhiệm vụ của họ.

Qua phân tích của Đại tá Lê Thế Mẫu và qua một số ý kiến, quan điểm của một số học giả, kế cả một số cán bộ làm công tác quản lý liên quan của Việt Nam mà tôi có may mắn được tiếp xúc, thì có thể nói rằng vẫn còn đánh giá khá mơ hồ, lẫn lộn khái niệm về chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích của mình trong phán quyết của PCA có liên quan đến Việt Nam.

Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến việc Việt Nam sẽ ứng xử như thế nào trước việc Philippines kiện Trung Quốc để có thể bảo về các quyền và lợi ích hợp pháp của chúng ta và góp phần thượng tôn pháp luật, bảo vệ hòa bình, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không quốc tế.

Đồng thời cũng là cách góp phần thực hiện một cách hiệu quả phương châm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” với Trung Quốc trong bối cảnh Bắc Kinh đang ra sức tìm cách vận động lôi kéo, gây sức ép, mua chuộc và đang cố tình khai quật chính sách “cây gậy và cũ cà rốt” đã bị chôn vùi trong nấm mồ “chủ nghĩa thực dân kiểu mới” để vận dụng cho kế hoạch của họ, thực hiện chiến lược độc chiếm Biển Đông.

Làm rõ lập trường của Moscow về Biển Đông không có nghĩa là chống lại Nga

(GDVN) - Chúng ta cứ ứng xử với nhau một cách minh bạch và sòng phẳng trên cơ sở luật pháp quốc tế là cách bảo vệ tình hữu nghị tốt nhất, lâu bền nhất.

Trong khi đó, chính trong nội bộ chúng ta, đội ngũ tham mưu và nghiên cứu vẫn còn những quan điểm mơ hồ về giải pháp pháp lý, lại còn vương vấn tư duy duy ý chí lỗi thời, chính trị hóa vấn đề pháp lý.

Có lẽ đây cũng chính là hiện tượng mà chúng ta không thể không suy ngẫm, nêu không muốn nói là đáng lo ngại trong bối cảnh hiện nay.

Tất nhiên không loại trừ khả năng Nga có những tính toán của riêng mình trong bối cảnh quốc tế hiện nay khi đưa ra những tuyên bố gây tranh cãi về Biển Đông.

Đặc biệt là cạnh tranh Nga- Mỹ ngày càng gay gắt, Nga chịu ảnh hưởng nặng nề từ lệnh trừng phạt của phương Tây vì cuộc khủng hoảng Ukraine, Syria và cần có tiếng nói, sự hỗ trợ từ phía Trung Quốc.

Đặt trong bối cảnh cụ thể ấy, chúng ta mới có thể trao đổi rõ ràng với các bạn Nga về lập trường nhất quán của Việt Nam trong vấn đề Biển Đông, tránh những phát biểu và hành vi làm tổn hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông chỉ vì thiếu thông tin, thiếu trao đổi hoặc bất kỳ nguyên nhân nào khác.

Còn riêng vấn đề chủ quyền đối với các thực thể ở Hoàng Sa và Trường Sa, thì Nga, Mỹ, Nhật, EU...đều đã nói rõ, họ trung lập, chúng ta không thể đòi hỏi gì hơn.

Lập luận của Đại tá Lê Thế Mẫu trong bình luận thứ (2), (3) của ông về phát biểu của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Nga theo cá nhân tôi chỉ phản ánh suy nghĩ của cá nhân ông Mẫu.

Bởi lẽ từ khi ông Lavrov lên tiếng cho đến khi bà Maria Zakharova giải thích thêm, truyền thông quốc tế vẫn hiểu rằng dường như Moscow có xu hướng bênh vực Trung Quốc. Ông Mẫu nói:

"(2) Quan điểm của Nga về việc “các lực lượng thứ ba tham gia vào các cuộc tranh chấp này chỉ có thể khiến cho tình tình trong khu vực này căng thẳng thêm”.

Quan điểm của Nga phản ánh một thực tế là, từ trước tới nay, tất cả các cuộc đàm phán về DOC, hay COC, hay tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông đều chỉ được tiến hành trong khuôn khổ song phương giữa Trung Quốc với Việt Nam và các nước khác có tranh chấp, hoặc trong khuôn khổ ASEAN-Trung Quốc."

Tôi cho rằng điều này không chính xác. DOC là thành quả của quá trình đàm phán và ký kết giữa ASEAN với Trung Quốc về ứng xử của các bên trên Biển Đông với tư cách một tập thể, không phải cá nhân riêng rẽ từng nước như Đại tá Lê Thế Mẫu nói.

Quá trình đàm phán COC cũng vậy. Không có chuyện "đàm phán song phương" giữa Việt Nam với Trung Quốc hay giữa các nước khác trong ASEAN với Trung Quốc.

Nói như vậy sẽ làm bạn bè quốc tế hiểu sai về chính chúng ta.

Đại tá Mẫu lập luận: "(3) Theo quan điểm của Nga,“các cuộc tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông cần phải được giải quyết trên cơ sở tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc không sử dụng sức mạnh, thông qua các giải pháp chính trị-ngoại giao, dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế, trước hết là UNCLOS, theo tinh thần của DOC.

Nga sẽ tiếp tục ủng hộ nỗ lực của Trung Quốc và các nước ASEAN xây dựng Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC)”. 

Quan điểm này của Matxcơva đã gián tiếp lên án Trung Quốc bởi hành động của Bắc Kinh xây cất, tôn tạo các bãi đá ở Trường Sa do họ chiếm đoạt của Việt Nam đã vi phạm nghiêm trọng DOC và UNCLOS.

Hơn nữa, khi Nga nói tới “luật pháp quốc tế” thì trong đó không loại trừ phán quyết của Tòa trọng tài quốc tế. Như vậy, quan điểm của Nga hoàn toàn phù hợp với quan điểm của ASEAN, quan điểm của Việt Nam cũng như cộng đồng quốc tế. 

Nga ra tuyên bố mới về Biển Đông

(GDVN) - Nga đang hùa theo Trung Quốc, cố tình đánh tráo, trộn lẫn khái niệm, lập lờ đánh lận con đen trong vấn đề Biển Đông hòng né tránh...

Đương nhiên, xuất phát từ quan hệ Nga-Trung Quốc, Matxcơva chỉ yêu cầu “các bên tranh chấp tuân thủ DOC và UNCLOS”, mà không chỉ đích danh Trung Quốc.

Cũng tương tự như vậy, các nước khác như Mỹ, Nhật Bản, EU cũng chỉ yêu cầu “các bên kiềm chế”, “không thay đổi nguyên trạng” ở Biển Đông, chứ không chỉ đích danh Trung Quốc."

Lập luận này là ví dụ điển hình cho việc nhầm lẫn các khái niệm. Một là tranh chấp lãnh thổ thì không thể dựa vào UNCLOS, DOC hay COC để giải quyết, mà phải thông qua hệ thống luật pháp và án lệ quốc tế về quyền thụ đắc lãnh thổ.

Hai là, "Quan điểm này của Matxcơva đã gián tiếp lên án Trung Quốc bởi hành động của Bắc Kinh xây cất, tôn tạo các bãi đá ở Trường Sa do họ chiếm đoạt của Việt Nam đã vi phạm nghiêm trọng DOC và UNCLOS" chưa chắc đã phải Nga nói Trung Quốc như Đại tá Mẫu nghĩ.

Bởi Nga cũng có thể ám chỉ Hoa Kỳ lắm chứ? Chẳng phải Trung Quốc đang hoặc công khai lộ liễu, hoặc ám chỉ Hoa Kỳ "quân sự hóa Biển Đông" thông qua các hoạt động duy trì tự do hàng hải, hàng không và hiện diện của hải quân Mỹ ở Biển Đông đó sao? Nhưng điều đó chưa phải vấn đề lớn.

Cách giải thích của ông Mẫu rằng: "Hơn nữa, khi Nga nói tới “luật pháp quốc tế” thì trong đó không loại trừ phán quyết của Tòa trọng tài quốc tế. Như vậy, quan điểm của Nga hoàn toàn phù hợp với quan điểm của ASEAN, quan điểm của Việt Nam cũng như cộng đồng quốc tế" một lần nữa nhầm lẫn về khái niệm.

"Luật pháp quốc tế" theo cách hiểu của Nga chưa chắc đã là "luật pháp quốc tế" theo cách hiểu của ASEAN, Việt Nam hay Hoa Kỳ.

Trung Quốc cũng đang dùng "luật pháp quốc tế" theo cách hiểu bóp méo của họ để chống lại luật pháp quốc tế thực chất và phổ quát đó thôi.

Ví dụ, PCA xét xử 7/15 nội dung Philippines khởi kiện liên quan đến áp dụng, giải thích và vi phạm UNCLOS 1982 theo đúng tinh thần, quy định, trình tự, thủ tục trong Phụ lục VII, UNCLOS 1982 thì Trung Quốc có nghĩa vụ phải chấp hành với tư cách một thành viên UNCLOS 1982, cho dù muốn hay không. 

Nhưng họ vẫn cứ ra rả rằng "luật pháp quốc tế" không chấp nhận giải quyết "tranh chấp chủ quyền" / "tranh chấp lãnh thổ" thông qua cơ quan tài phán. Nói nôm na, người ta hỏi "anh ăn cơm chưa" thì Trung Quốc lại trả lời "tôi đi tắm rồi". Bắc Kinh nhắc đi nhắc lại câu trả lời không ăn nhập và liên quan gì đến câu hỏi.

Không chính trị hóa các vấn đề pháp lý

Cá nhân người viết cảm thấy bất ngờ khi Đại tá Lê Thế Mẫu không tập trung làm rõ hay phản biện những lập luận của tác giả Hồng Thủy xung quanh việc nhầm lẫn hoặc đánh tráo khái niệm giữa "các tranh chấp ở Biển Đông" thành "tranh chấp chủ quyền" / "tranh chấp lãnh thổ" ở Biển Đông, nhầm lẫn giữa tranh chấp hàng hải, tranh chấp ứng dụng, giải thích và vi phạm UNCLOS ở Biển Đông với "tranh chấp lãnh thổ" / "tranh chấp chủ quyền" mà lại đi "truy tìm động cơ".

Đây chính là vấn đề Hồng Thủy đặt ra đối với các bạn Nga, vừa là phân tích để phía Nga cũng như dư luận quan tâm hiểu và phân biệt rạch ròi các loại tranh chấp này, từ đó mới có nhận thức và phản ứng phù hợp với phán quyết của PCA cũng như bảo vệ, củng cố lòng tin chiến lược và quan hệ hợp tác song phương.

Đại tá Lê Thế Mẫu không làm điều này, mà ông vẫn tiếp tục đi theo tư duy nhầm lẫn các khái niệm, gây tranh cãi của phía Nga, cũng như tư duy ngụy biện Trung Quốc đang theo đuổi. Hơn thế nữa, vị Đại tá Lê Thế Mẫu lại “đấu tố” Hồng Thủy rằng:

"Đây là nhận định có tính chất xuyên tạc quan điểm của Bộ Ngoại giao Nga, gây hoang mang trong dư luận và làm tổn hại đối với quan hệ đối tác chiến lược và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Liên bang Nga mà vừa qua trong chuyến thăm chính thức Liên bang Nga Thủ tướng nước ta Nguyễn Xuân Phúc đã khẳng định:

“Cá nhân tôi, lãnh đạo và nhân dân Việt Nam luôn tin tưởng tuyệt đối vào nước bạn Nga”.

Và: "Thật khó giải thích về động cơ của những ai, không biết vì lý do gì, lại cố tình xuyên tạc, bóp méo quan điểm của Nga về tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, gây hoang mang trong dư luận, làm tổn hại tới quan hệ giữa hai nước trong bối cảnh chúng ta đang tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng".

Là người theo dõi thường xuyên các bài viết của tác giả Hồng Thủy và Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, cũng như thường xuyên cộng tác, trao đổi cùng với Báo, tôi nhận thấy rằng Hồng Thủy và Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam chỉ có một "động cơ" duy nhất và xuyên suốt là đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên Biển Đông.

Trong quan hệ quốc tế, Hồng Thủy và Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam thường xuyên đấu tranh với những quan điểm sai trái gây tổn hại đến lợi ích quốc gia dân tộc.

Đồng thời tác giả và tòa soạn cũng góp phần củng cố quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam và các nước, trong đó có bạn bè truyền thống hay đối tác chiến lược toàn diện như Nga và Trung Quốc, trên tinh thần thực sự khách quan, cầu thị và căn cứ trên luật pháp quốc tế hiện đại, thể hiện đúng tinh thần chừng mực, vừa hợp tác vừa đấu tranh.

Tuyệt đối không có chuyện Hồng Thủy hay Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam "chống phá quan hệ Việt - Nga" hay "chống phá quan hệ Việt - Trung".

Lúc này guồng máy truyền thông nhà nước Trung Quốc, các Đại sứ Trung Quốc ở nước ngoài liên tục có bài chống phá phán quyết của PCA, tác động và ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam hàng ngày hàng giờ.

Thiết nghĩ những tiếng nói kịp thời, hợp lý hợp tình và hợp pháp như nhà báo Hồng Thủy, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam thể hiện là rất cần thiết, mặc dù thực tế chúng ta cần làm nhiều hơn thế, cần nhiều chuyên gia và nhiều cơ quan truyền thông nắm chắc luật pháp quốc tế lên tiếng hơn nữa.

Vì vậy mặc dù Hồng Thủy và Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đã có bài viết trao đổi lại về những lập luận của ông Lê Thế Mẫu xung quanh các nội dung học thuật và pháp lý, nhưng cá nhân người viết cảm thấy cần phải có thêm tiếng nói.

Người viết hy vọng cách thức trao đổi, đối thoại các vấn đề học thuật trong chính cộng đồng người Việt Nam chúng ta diễn ra sao cho đúng trọng tâm, đạt mục đích bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc và thượng tôn pháp luật, trên tinh thần khách quan, cầu thị, sòng phẳng và đặc biệt là không chụp mũ, không chính trị hóa các vấn đề học thuật, không áp đặt quan điểm cá nhân lên người khác, không "độc quyền chân lý".

Bởi lẽ về cả đối nội cũng như đối ngoại, tư duy chính trị hóa các vấn đề pháp lý, lập trường hóa, hình sự hóa các vấn đề học thuật, nâng cao quan điểm, suy diễn và quy chụp có thể gây ra những tác động tai hại đến nhận thức và hành vi, thậm chí có thể tạo ra bạo loạn xã hội như chúng ta đã thấy trong lịch sử cận hiện đại.

Vì vậy, trong tình hình hiện nay, hơn lúc nào hết, chúng ta cần thật sự bình tĩnh lắng nghe, học tập lẫn nhau, tránh hiện tượng “đấu tố”,  cố tình sử dụng, trích dẫn các phát biểu của các vị lãnh đạo để răn đe các ý kiến khác với quan điểm của mình phục vụ cho động cơ riêng.

Thiết nghĩ điều đó có lẽ không chỉ là một sự xúc phạm đối với cá nhân tác giả và tòa soạn mà còn là một gáo nước lạnh dội lên lòng yêu nước, làm tổn thương nhiều người muốn nỗ lực bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, xúc phạm các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam./.

Lời Tòa soạn: Liên quan đến loạt bài viết của Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam được ông Lê Thế Mẫu trích dẫn đăng trên Báo điện tử Infonet, Tòa soạn có quan điểm như sau:

Khi thực hiện các bài viết này, chúng tôi mong muốn góp tiếng nói nhằm thống nhất nhận thức, quan điểm trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, quyền chủ quyền, quyền tài phán và các lợi ích hợp pháp của Tổ quốc Việt Nam mà cha ông đã đổ bao xương máu để gầy dựng và bảo vệ.

Các căn cứ, lập luận nêu ra đều có căn cứ khoa học, dựa trên chuẩn mực, quy định, định chế pháp luật quốc tế cũng như chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước Việt Nam.

Ban Biên tập Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam khẳng định luôn bám sát và tuân thủ lập trường đối ngoại của Đảng, Nhà nước rằng Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới; không liên minh, liên kết với bất cứ bên nào để chống lại một bên cụ thể; lập trường ngoại giao hòa bình, thân thiện, tranh thủ sự ủng hộ và đôi bên cùng có lợi...

Việc làm rõ quan điểm của Nga về Biển Đông không phải là chống lại Nga mà là để nhận thức rõ ràng rằng, đây là cuộc đấu tranh pháp lý chống lại đường lưỡi bò phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông đang đe dọa quyền chủ quyền, quyền tài phán hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và các nước trong khu vực.

Trong phạm vi bài viết của chúng tôi được ông Lê Thế Mẫu Trích dẫn hoàn toàn không bàn về khía cạnh tranh chấp lãnh thổ, mà nhấn mạnh và làm rõ các tranh chấp hàng hải, ứng dụng và giải thích UNCLOS 1982, trọng tâm vụ kiện của Philippines.

Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam cho rằng, nhận xét của ông Lê Thế Mẫu là quy chụp, thiếu khách quan, một chiều, là “gắp lửa bỏ tay người” gây hiệu ứng xấu, trực tiếp làm ảnh hưởng tiêu cực đến lòng yêu nước của người Việt Nam.

Cho đến thời điểm này, Báo điện tử Giáo dục Việt Nam chưa nhận được bất kỳ trao đổi nào của ông Mẫu cũng như của Báo điện tử Infonet về sự việc.

Trên bình diện nhận thức và góp phần bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, luật pháp và công lý quốc tế cũng như quan hệ hữu nghị Nga-Việt nói riêng, chính sách đối ngoại của Việt Nam nói chung, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam sẵn sàng mở bàn tròn thảo luận với sự tham gia của Bộ Ngoại giao; các cơ quan quản lý báo chí; các chuyên gia, nhà khoa học, ông Lê Thế Mẫu về các vấn đề này.

Nội dung và tinh thần trao đổi được nhấn mạnh là khoa học, tử tế, nghiêm túc và cầu thị.

Ts Trần Công Trục
(https://giaoduc.net.vn/tieu-diem/lam-ro-lap-truong-cua-moscow-ve-bien-dong-khong-co-nghia-la-chong-lai-nga-post168650.gd)