Thursday 25 April 2013

VỀ Ý ĐỊNH ĐƯA MẤY KÝ TỰ F, J, Z, W VÀO BẢNG CHỮ CÁI TIẾNG VIỆT (Đào Tiến Thi)


Đào Tiến Thi
(Nhà xuất bản Giáo dục)
Đầu tháng 8 năm 2011, cư dân mạng bỗng xôn xao sau khi có tin Cục Công nghệ thông tin, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ trình dự thảo “Quy định về sử dụng tiếng Việt” (gọi tắt là Dự thảo), trong đó bổ sung vào bảng chữ cái tiếng Việt bốn kí tự f, j, z, w.
Thực ra ngay từ đầu vấn đề này đã không được đặt ra một cách rõ ràng, cho nên việc bàn cãi nhiều khi không trúng vấn đề. Có nhiều người cho rằng thời hội nhập, những chữ ấy “Tây” có thì hà cớ gì mình không có. Lại có ý kiến tỏ ra bức xúc như là xưa nay mấy chữ ấy bị “cấm”. Trong khi điều đầu tiên và cốt yếu lẽ ra phải là: mỗi chữ ấy nếu đưa vào bảng chữ cái thì để “gánh” nhiệm vụ gì? Đưa thêm vào để ghi những âm mới phát sinh trong hệ thống ngữ âm tiếng Việt hay để thay thế một số chữ cái (hay tổ hợp chữ cái) trong bảng chữ cái hiện hành, thì cuộc tranh luận chí ít cũng tránh được chuyện “ông nói gà, bà nói vịt”.
Một số bản tin của báo chí dẫn lời TS. Quách Tuấn Ngọc nói rằng mấy ký tự trên sẽ thêm vào bảng chữ cái. Trong cuộc tọa đàm ngày 7-9-2011 về chủ đề Công nghệ thông tin và tiếng Việt”, ông cũng khẳng định như vậy. Ông lấy ví dụ tiếng dzô” (tức “vô”, nhưng âm “vờ” đã biến thành “dờ”, tiếng mời “cạn chén” trong phương ngữ Nam Bộ) để thấy hệ thống chữ cái hiện thời chưa thể hiện hết các âm vị tiếng Việt. Như vậy, ý định của người soạn Dự thảo là thêm vào bảng chữ cái mấy ký tự  trên, chứ không phải thay thế một số ký tự cũ. Tuy nhiên, nhiều ý kiến trên mạng lại bàn theo xu hướng thay thế, ví dụ f thay cho ph, còn z cả thay cho cả d và gi (hoặc là j thay gi, cònz thay cho d),... Điều này cũng dễ hiểu, vì ý kiến đề nghị thay thế như trên thực ra đã có từ lâu, từ thời có phong trào cải tiến chữ Quốc ngữ (QN) những năm sáu mươi của thế kỷ trước, thậm chí từ đầu thế kỉ XX và hiện nay vẫn tiếp tục, được đề cập ngay cả trên một số giáo trình Việt ngữ học.
Cho nên trong bài này chúng tôi xin bàn theo cả hai hướng, hướng định thêm vào, cũng như hướng định thay thế.
Theo chúng tôi, vấn đề này cần xét ít nhất trên bốn phương diện:  
– Phương diện ngôn ngữ: Có đem lại sự tiến bộ gì cho tiếng Việt, cụ thể là chữ Quốc ngữ (QN) hiện thời không? Và từ đó tác động đến các khoa học liên quan như thế nào?
– Phương diện văn hóa: Có hài hòa giữa truyền thống và hiện tại không?
– Phương diện xã hội: Có gây xáo trộn không? Xã hội có chấp nhận không?
– Phương diện kinh tế: Có tiết kiệm hơn trong viết tay, in ấn, lưu trữ không?
Bốn phương diện trên sẽ được đề cập ở hai vấn đề dưới đây. Tùy từng trường hợp mà mỗi phương diện bị tác động nhiều ít khác nhau, cho nên cũng tùy từng trường hợp mà chúng tôi bàn thiên về một, hai phương diện nào đó là cơ bản, còn các phương diện khác thì lướt qua.
1. Thêm vào (hay thay thế) bốn kí tự f, j, z, w để giải quyết vấn đề gì?
Như chúng ta đều biết chữ QN được xây dựng chủ yếu (xin lưu ý chủ yếu chứ không phải tất cả) trênnguyên tắc ghi âm. Tức là mỗi ký tự (hay tổ hợp ký tự) trong bảng chữ cái chữ QN dùng để ghi một âm (và mỗi âm, về nguyên tắc chỉ được ghi bằng một chữ). Ví dụ:
- Chữ “a” (a) dùng để ghi âm // như trong tiếng chata.
- Chữ “b” (bê) để ghi âm // (bờ) như trong tiếng bi.
- Chữ “c” (xê) để ghi âm // (cờ) như trong tiếng còcon.
Bên cạnh đó, chữ QN cũng áp dụng nguyên tắc lịch sử. Ví dụ chữ g và gh đều ghi âm // (gờ), chữ ng vàngh đều ghi âm đầu /N/ (ngờ). Cách viết ng/ngh xét theo nguyên tắc ghi âm là “vô lý” nhưng nó là thói quen từ lâu, đã trở thành một hình ảnh thị giác quen thuộc, và cũng không gây khó khăn gì, nên không cần thiết phải thay đổi. Và cũng không nên thay đổi, vì nếu thay đổi sẽ dẫn đến những xáo trộn bất lợi.
Bên cạnh đó, chữ QN cũng chứa cả nguyên tắc ghi ý. Điều này nói ra chắc nhiều người cảm thấy rất “nghịch tai”, vì từ trước cho đến nay nó bị bỏ qua, không ai để ý. Nhưng theo chúng tôi điều này là có thật. Đó là giá trị khu biệt nghĩa của một số từ và tiếng đồng âm. Ví dụ các trường hợp như và gi: cùng ghi âm // nhưng viếtquốc gia để phân biệt với da thịti và y: cùng ghi âm // nhưng viết công ty để phân biệt với ti trônc và q cùng ghi âm // nhưng viết tổ quốc để phân biệt với con cuốc.
Bây giờ chúng tôi dùng các nguyên tắc trên để xem xét việc đưa thêm hay thay thế các chữ f, j, z, w vào bảng chữ cái tiếng Việt đưa đến hệ quả gì.
a) Đưa thêm f, j, z, w
Theo nguyên tắc chữ ghi âm, các ký tự trên đưa thêm vào phải có lý do để ghi những âm vị nào đó. Như chúng ta đều biết, 14 nguyên âm, 22 phụ âm của tiếng Việt đều đã có các ký tự (hoặc tổ hợp ký tự) tương ứng để biểu thị. 6 thanh điệu cũng đã có các dấu thanh ghi lại (riêng tiếng chứa thanh ngang không ghi dấu gì, nhưng bản thân hình thức không dấu cũng là một cách biểu thị).
Đây là một hệ thống chặt chẽ. Nếu thêm vào một yếu tố nào đó thì yếu tố ấy phải không được trùng với yếu tố đã có, tức là yếu tố đó phải mới. Nếu bớt đi, phải do một yếu tố đã hoàn toàn mất vai trò, hoặc là hai yếu tố giống hệt nhau đang cùng tồn tại dẫn đến bất hợp lý. Chẳng hạn hiện tượng d/gi là một dạng song tồn hai ký hiệu cùng ghi một âm, xét về mặt ngữ âm, lẽ ra phải bỏ một, nhưng ở đây do chúng dùng để khu biệt nghĩa như trên đã nói, nên lại có lý do tồn tại.
Bây giờ ví dụ thêm ký tự “f” vào bảng chữ cái của chữ QN. Ký tự này vốn dùng để ghi âm // (phờ) theo thông lệ của nhiều chữ viết hệ La tinh, bây giờ đưa vào bảng chữ cái tiếng Việt cũng để ghi âm //thì không thể được, vì đã có tổ hợp “ph” để ghi âm // rồi([i]). Tương tự, nếu dùng z ghi âm // (dờ) thì tiếng Việt đã có d và giđể biểu thị. Còn các ký tự j và w không rõ những người chủ trương định ghi âm gì? Thực ra chỉ cần một, hai trường hợp như trên thôi, ta đã thấy nó vô lý rồi. Và thực tế tiếng Việt hiện nay mỗi âm vị đã có một ký tự (hoặc tổ hợp ký tự) để ghi, thêm j và w không biết để biểu thị âm vị nào nữa?
Xin dừng lại để bàn thêm một chút. Cho đến nay, theo chúng tôi, tiếng Việt không phát sinh một âm nào mới để phải tìm cách ghi lại bằng ký tự mới. Trường hợp tiếng “dzô” (Nam Bộ) mà TS. Quách Tuấn Ngọc nêu, nếu xét thuần về ngữ âm học, đúng là âm đầu của nó chưa có chữ cái riêng để biểu thị. Nhưng chúng ta cần thấy đây chỉ là dạng biến thể phương ngữ. Hiện nay âm đầu // (dờ) của phương ngữ Nam Bộ khác khá xa ở phương ngữBắc Bộ. Nếu chính xác thì âm // của Nam Bộ đã biến sang âm /j/ (đọc gần như từ “yes” của tiếng Anh). Ví dụ, cùng là tiếng dạ”, theo cách phát âm của Bắc Bộ, thì âm đầu là âm //, một âm xát (khi phát âm, không khí đi qua khe hở giữa mặt lưỡi và ngạc) trong khi đó, người Nam Bộ phát âm thành /j/, một âm nửa xát (khe hở cho hơi đi qua lớn hơn âm xát). Nói nôm na, những tiếng mang phụ âm đầu // như dạ, danh dự, dung dăng dung dẻcủa Nam Bộ nghe nhẹ hơn hẳn Bắc Bộ. Tuy nhiên, nếu đi theo hướng ấy thì còn hàng loạt biến thể phương ngữ khác không sao kể xiết. Và nếu cứ theo nguyên tắc trung thành với phát âm một cách tuyệt đối như thế thì chữ QN thống nhất của chúng ta hiện nay sẽ chia ra thành chữ Bắc Bộ, chữ Nam Bộ, chữ Trung Bộ,... Cũng có nghĩa là tiếng Việt sẽ vỡ ra làm nhiều mảng, tiền đề để ra đời những ngôn ngữ riêng! Mà trước hết sẽ hỗn loạn về chính tả, mà hỗn loạn thì cũng có nghĩa văn tự ấy sẽ không còn tồn tại. Ví dụ chữ danh dự, nếu để thể hiện sự chính xác về phát âm, phương ngữ Bắc Bộ sẽ viết là danh dự, còn Nam Bộ, Trung Bộ sẽ viết là janh jự. Nhưng sẽ không ai dại dột viết như thế, mặc dù không phải không có ý kiến đã từng đề nghị([ii]) như vậy. Làm như vậy, chữ QN hiện thời và tiếng Việt nói chung sẽ tan vỡ. Chúng ta thấy ngày nay tiếng Anh có sự khác nhau về phát âm giữa các tiếng Anh – Anh, Anh – Mỹ, Anh – Úc,... một sự khác nhau ở cấp quốc gia mà người ta cũng vẫn duy trì thống nhất ở dạng chữ viết, nếu không tiếng Anh sẽ vỡ ra làm nhiều thứ tiếng khác nhau.
b) Dùng f, j, z, w thay thế
Ví dụ f thay cho ph, z thay cho d và gi,…Theo nguyên tắc ghi âm và xét một cách cục bộ thì được. Về mặt kinh tế cũng có tiết kiệm chút ít ở trường hợp f và (1 ký tự thay vì 2 ký tự). Tuy nhiên sự tiết kiệm đó không được là bao, nhất là khi bây giờ cả viết lẫn in ấn, lưu trữ đã có phần mềm máy vi tính trợ giúp.
Nhưng ngay cả nguyên tắc ghi âm, nếu xét toàn cục thì phải thay cả các trường hợp khác đang tồn tại còn “vô lý” hơn. Trong Dự thảo cải tiến chữ QN năm 1960 của Viện Văn học([iii])mới chỉ “cải tiến bước 1”,ngoài các trường hợp trên, chỉ nhất loạt c/k/q thành ki/y thành iđ thành d, âm đệm u thành w và các từ phức được viết liền, thì chữ Việt đã “đổi hình dong” đến lạ mắt rồi. Đây là bản viết thử Tuyên ngôn độc lập do Tiểu ban Ngôn ngữ Viện của Văn học đề xuất, xin trích một câu:
Tấtcả các zântộc trên thếzới dều sinh ra bìnhdẳng; zântộc nào cũng có cwiền sống, cwiền sungsướng và cwiền tựzo.
Cũng hồi đó, cụ Nguyễn Công Tiễu (1892  1976) đề nghị rút gọn thêm các trường hợp ch, tr, kh, nh, th, gh, ngh như bảng dưới đây([iv]):
Chữ cũ
Chữ mới
Ví dụ
Chữ cũ
Chữ mới
Ví dụ
ch
ĉ
ĉa (cha)
th
§
§ơ (thơ)
kh
k
ku (khu)
tr
ç
çi (tri)
ng/ngh
j
jủ (ngủ)
nh
n̈ a (nhà)
Kết hợp cả phương án của Viện Văn học với phương án của cụ Nguyễn Công Tiễu thì ta viết câu trên như sau:
Tấtcả các zântộc çên §ếzới dều sinh ra bìdẳng; zântộc nào cũj có cwiền sốj, cwiền suj sướj và cwiền tựzo.
Nếu không thuộc sẵn Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì đố ai đọc được! Như vậy cái lý do “hợp lý hóa” cho đạt nguyên tắc ghi âm (và để “tiết kiệm giấy”), nếu chỉ làm với f và z thì nửa vời, còn làm triệt để thì có lẽ tất cả chúng ta phải học lại lớp 1. Và sách báo từ nay trở về trước, đời sau phải có người phiên dịch. Sự xáo trộn khủng khiếp này chắc sẽ không được xã hội đồng tình.
Riêng d/gi nhập thành còn làm mất hết những chỗ phân biệt nghĩa và cội nguồn của các từ đồng âm như davà gia đã nói trên, tức là nếu chữ QN đạt được thuần túy nguyên tắc ghi âm thì lại gạt bỏ mất chỗ ưu việt của nguyên tắc ghi ý. Cái chỗ “bất hợp lý” mà nhiều người chê nhưng học giả Cao Xuân Hạo cho là rất đáng quý ấy, là “có ít còn hơn không có”, cũng mất nốt.
2. Hệ thống chữ cái tiếng Việt hiện nay có cản trở gì cho công nghệ thông tin và sự hội nhập không?
Đọc nhiều ý kiến trên mạng cũng như theo dõi cuộc tọa đàm “Công nghệ thông tin và tiếng Việt” đã nói, tôi thấy một số người vẫn nghĩ rằng đưa bốn ký tự f, j, z, w vào bảng chữ cái sẽ thuận lợi hơn cho ngành công nghệ thông tin (CNTT) và sự hội nhập của đất nước nói chung. Tôi cho đó là những ý kiến rất cảm tính và ở đây có cả những sự nhầm lẫn về khái niệm.
2.1.Quan hệ với ngành CNTT
Tôi chưa thấy chuyên gia CNTT nào nêu ý kiến rằng cần thiết phải có f, j, z, w trong bảng chữ cái. Ý kiến cần đưa f, j, z,w vào bảng chữ cái lại là của những người “ngoại đạo”. Có người nghĩ rất “hồn nhiên” là thấy trên bàn phím máy tính có các ký tự đó, mà bàn phím thuộc về CNTT thì ắt các chữ ấy cũng cần cho CNTT! Một điều hiển nhiên khác dễ thấy là: từ trước đến nay, không có các chữ ấy trong bảng chữ cái thì những chuyên gia CNTT vẫn làm việc bình thường. Thậm chí họ vẫn dùng các ký tự f, j, z, w mà chẳng cần biết nó có trong bảng chữ cái tiếng Việt hay không. Vậy thì việc công nhận hay không công nhận nó trong bảng chữ cái chẳng có ích gì hơn, cũng chẳng có hại gì hơn đối với công việc của họ. Còn việc bảo nó ngắn gọn, đánh máy dễ hơn, nhanh hơn thì đấy là việc của chung mọi người sử dụng CNTT, chứ không phải của ngành khoa học CNTT. Và đấy lại là chuyện của ngôn ngữ, như trên kia đã nói.
Theo sự hiểu của tôi, về nguyên lý, CNTT sử dụng các ký tự a, b, c, của hệ chữ La tinh cũng như các ký tựabcdefg,.. của hệ chữ phi La tinh, cũng như các ký hiệu <=>~,… của chung toàn thế giới, về bản chất là như nhau cả. Dùng cái nào nào cũng đối xử với nó như những ký hiệu, gán cho nó thuộc tính nào, chức năng nào thì nó mang thuộc tính đó, chức năng đó, tùy thuộc người lập trình. Ví dụ trong cách gõ Telex, lấy phím chữ s chỉ dấu sắc, f – huyền, r – hỏi, j – nặng,… còn cách gõ Vni lại lấy phím số 1 chỉ dấu sắc, 2 – huyền, 3 – hỏi, 4 – ngã, 5 – nặng.
Hoặc giả sử bộ chữ viết của chúng ta nói riêng và tiếng Việt nói chung hiện thời gây khó khăn cho CNTT trong việc mã hóa, tạo ra các bộ gõ, trong dịch tự động,… thì nhiệm vụ của CNTT là bằng mọi cách tìm ra các quy luật của chữ Việt, tiếng Việt để xử lý, chứ không phải “nắn” tiếng Việt sao cho “vừa tầm” CNTT. Vì sao vậy? Vì tiếng Việt, chữ Việt là cái có trước, cái đã ổn định, là cái tồn tại khách quan, và là tài sản chung của toàn dân tộc, không ai có thể tự ý thay đổi được. (Tất nhiên tiếng Việt vẫn biến đổi, nhưng là sự biến đổi từ từ theo quy luật nội tại chứ không phải theo ý muốn của riêng ai). Tiếng Việt là cái chân, CNTT là cái giày, giày phải làm theo chân, chứ không thể gọt chân cho vừa giày. Việc “làm giày” thiết nghĩ không phải quá khó đối với các chuyên gia CNTT. Rắc rối như chữ Hán, chữ Hàn, chữ Nhật, chữ Khmer,… mà người ta cũng làm được kia mà.
2.2. Vấn đề hội nhập
Mấy ký tự f, j, z, w thực ra đã được sử dụng từ rất lâu (sớm nhất thấy trong cuốn Sổ sách sang chép các việc của Philip Bỉnh, đầu thế kỷ XIX). Ở đây chắc là nhiều người nhầm lẫn, thấy các ký tự f, j, z, w có trong văn bản tiếng Việt thì cũng nghĩ nó đã (hoặc cần phải) nằm trong bảng chữ cái tiếng Việt. Không phải vậy. Việc sử dụng nó trong văn bản tiếng Việt khác hẳn việc sử dụng nó trong bảng chữ cái tiếng Việt, tuy rằng hai việc có liên quan với nhau.
Khi chúng ta sử dụng các ký tự f, j, z, w để viết các công thức khoa học như Fe2O3, F = p.S,… thì đó là cách biểu thị có tính quy ước quốc tế, giống như các con số 1, 2, 3,…, giống như các ký hiệu @, #, $, &,… tức là các ký tự f, j, z, w chỉ mang chức năng làm ký hiệu chứ không phải chức năng chữ cái (để ghi âm, ráp vần). Ngoài các ký tự đó ra, còn sử dụng hàng loạt ký tự khác, như abcdefg,... Các ký tự này do “lạ mắt” với chữ cái Việt hơn nên không ai lầm lẫn là chữ cái tiếng Việt, chứ bản chất vẫn hệt như f, j, z, w.
Còn khi viết các thuật ngữ và tên riêng nước ngoài bằng nguyên ngữ, thì các ký tự f, j, z, w, trở thành các chữ cái, tức là có giá trị biểu âm, nhưng không phải âm tiếng Việt (chúng tôi nhấn mạnh). Dễ nhận thấy điều này vì ta thấy nó không được đọc theo quy tắc chính tả tiếng Việt (nếu đọc thì hỏng). Mỗi người, theo trực cảm bản ngữ, khi gặp một tên riêng hay thuật ngữ nước ngoài, nếu viết phiên âm (có gạch nối, có dấu phụ), ta đọc theo chính tả Việt, còn nếu viết nguyên dạng (viết liền, không có gạch nối, không có dấu phụ), ta đọc theo kiểu khác (đọc theo ngoại ngữ mà mình biết hoặc đọc theo thói quen đã phổ biến). Ví dụ, “sh” sẽ đọc như “s”, còn “s” lại đọc như “x”, “d” đọc như “đ” của tiếng Việt: Shakespeare (Sếch-xpia), Scotland (Xcốt-len)), Dickens (Đích-ken),... Các chữ cái “Tây” rõ ràng có một giá trị phát âm khác các chữ cái Việt, tuy rằng đứng trong cùng một văn bản.
Chỉ riêng điều đó thôi đã đủ chứng tỏ các ký tự f, j, z, w tuy có trong văn bản tiếng Việt nhưng không thuộc hệ thống chữ cái tiếng Việt. Và không thể nào đưa thêm vào bảng chữ cái hiện nay nếu vẫn giữ nguyên hệ thống chữ cái hiện thời. Các ký tự f, j, z, w chỉ được dùng vào 3 chức năng như từ trước đến nay vẫn dùng: viết công thức khoa học, thuật ngữ nước ngoài và tên riêng nước ngoài (ở hình thức viết nguyên dạng).
Nhiều người lại nghĩ rằng, tuy trên thực tế các ký tự f, j, z, w đã dùng (vào 3 chức năng trên) từ lâu nhưng chưa được thừa nhận chính thức, nên công việc bây giờ là phải “chính thức hóa” nó vào bảng chữ cái tiếng Việt. Sự thực không phải thế. Văn bản gần đây nhất, quyết định số 240/QĐ Quy định về chính tả tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt ban hành ngày 5-3-1984 do Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Thị Bình ký (đến nay vẫn còn giá trị) mục 2a “Về các tên riêng không phải tiếng Việt” ghi rõ:
“Nếu chữ cái của nguyên ngữ dùng chữ cái La tinh thì giữ đúng nguyên hình trên chữ viết của nguyên ngữ, kể cả những chữ cái f, j, w, z như trong nguyên ngữ”.
Như vậy, các ký tự f, j, w, z được thừa nhận sử dụng cả trên thực tế lẫn mặt pháp lý.
Thay lời kết luận, chúng tôi muốn nói rằng, đối với tiếng Việt hiện nay, có rất nhiều vấn đề thiết thực mà lẽ ra phải làm, như việc chuẩn hóa chính tả (nhất là cách viết i ngắn y dài), chuẩn hoá viết hoa (nhất là viết hoa danh hiệu, chức tước, tên cơ quan, tổ chức), chuẩn hoá cách viết tên riêng và thuật ngữ nước ngoài,… thì lại không được quan tâm. Cái việc bàn thảo đưa thêm mấy chữ f, j, w, z, nói thật, là việc chẳng đâu vào đâu, tuy rằng bàn về nó cũng vỡ ra được thêm nhiều vấn đề. Sẽ chắc chắn không có chuyện đưa thêm vào cũng như thay thế. Vì nếu đưa thêm vào sẽ “không có chỗ”, hoặc cố tạo cho nó một chỗ thì sẽ chồng chéo lên chỗ của các thành viên cũ, dẫn đến rối loạn về chính tả. Còn nếu thay thế thì đó là một cuộc thay đổi đại quy mô, tức là một cuộc cải cách chữ viết của dân tộc. Nhưng cái dự án cải cách tương tự như thế đã từng được phát động cách đây hơn nửa thế kỷ, nhưng (lại nhưng) càng có độ lùi thời gian thì càng thấy cái dự án ấy thật ấu trĩ, nếu không nói thẳng là ngớ ngẩn.
Thư mục tham khảo
1.     Cao Xuân Hạo: Tiếng Việt, văn Việt, người Việt. Nxb Trẻ, 2001
2.     Đào Tiến Thi: Chuyện tiếng Việt: Đừng vội vàng quá! TC Ngôn ngữ và Đời sống số 10-2011.
3.     Hoàng Hồng Minh: Chuyện tiếng Việt. TC (mạng) Tia sáng, tháng 8-2011 (http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=113&CategoryID=6&News=4277).
4.     Hoàng Tiến: Chữ Quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết đầu thế kỷ XX. Nxb Lao động, 1994.
5.     Nguyễn Ngọc San: Tìm hiểu về lịch sử tiếng Việt. Nxb Giáo dục, 1993.
6.     Nguyễn Quang Hồng: Đặc điểm của chữ Việt La tinh trong quan hệ với đặc điểm của tiếng Việt, TC Ngôn ngữ số 2-1992.
7.     Quy định về chính tả tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt (Quyết định 240/QĐ ngày 5-3-19984), in trongChuẩn hóa chính tả và thuật ngữ tiếng Việt. Nxb Giáo dục 1984.
8.     Trần Trí Dõi: Chữ Quốc ngữ trong lịch sử tiếng Việt, trong sách Giáo trình lịch sử tiếng Việt. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007.
9.     Trần Trí Dõi, Nguyễn Ái Việt,…: Thêm 4 ký tự F, J, W, Z lại "nóng" trên bàn nghị sự. Trả lời phỏng vấnICTnews ngày 28-8-2011 (http://ictnews.vn/home/ArticlePrinter.aspx?PublishID=89364).
(Bài đã đăng trên tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư số 1-2012; tác giả có sửa lại cách diễn đạt ở một số chỗ và bổ sung phần Thư mục tham khảo)
ĐTT


([i]Có người lý luận: Hồi mới ra đời chữ QN, // trong tiếng Việt phát âm “bật hơi” nên được viết “ph”, ngày nay sự bật hơi đó đã mất, // của tiếng Việt giống như // các tiếng châu Âu, cho nên phải đổi sang ký tự “f” mới đúng. Thiết nghĩ đó là một kiểu tư duy “dĩ Âu vi trung” thô thiển. Giả sử // ngày nay khác // ngày xưa đúng như thế thì dùng “ph” có hại gì đâu? Về nguyên tắc ngữ âm học, có thể dùng bất kỳ ký tự nào để ghi lại âm //, miễn là không trùng với ký tự khác trong hệ thống. 
([ii])Xem Vai trò của “F, J, W, Z” đối với việc phiên chuyển địa danh (TC Ngôn ngữ số 3-2007). GS. Hoàng Thị Châu đề nghị thêm các con chữ f, j, z, w để ghi những âm mới xuất hiện trong tiếng Việt. Ví dụ thêm chữ “j” để ghi âm /y/ trong tiếng Trung và Nam Bộ. Nếu theo nguyên tắc đó, từ “dép da”, để đọc đúng âm Bắc thì viết “dép da” (phiên âm /zEf za/) còn đọc đúng âm Trung và Nam, viết “jép ja” (phiên âm /yEf ya/). Hàng loạt chữ nữa sẽ có hai, cách viết. Và tiếng Việt sẽ không còn là một tiếng thống nhất từ Bắc chí Nam.
([iii]) http://vietpali.sourceforge.net/binh/DuThaoPhuongAnCaiTienChuQuocNgu.htm.

Tên gọi Thánh "Dóng" và lễ hội "Phù Đổng": Góc nhìn từ ngữ âm lịch sử tiếng Việt (Trần Trí Dõi)


Tuesday 23 April 2013

Món ăn của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long (Trần Ngu Lạc - Báo Cần Thơ)

Món ăn của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long
Thứ bảy, 25/02/2012 19 giờ 56 GMT+7
Mắm là món ăn hết sức đặc trưng của người Khmer. Đó chính là kết quả tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên, lấy những nguyên liệu từ tự nhiên để chế biến thành một món ăn theo cách riêng. Đối với bà con Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long, mắm không chỉ là một món ăn không thể thiếu trong cơ cấu bữa ăn hàng ngày mà nó còn là một thứ gia vị đặc biệt, đôi khi mang tính bắt buộc trong việc chế biến một số món ăn.
Mắm pro-hốc là món ăn điển hình. Mắm pro-hốc có thể được làm từ nhiều loại cá nhỏ, như: cá sặt, cá chốt, cá lòng tong... Hoặc những loại cá lớn, như: cá trê, cá lóc... Người ta lựa những con cá lóc còn tươi đem đánh vẩy, mổ bụng ra rồi rửa cho sạch nhớt đem ngâm nước lạnh một đêm, vớt ra đem phơi nắng cho ráo nước. Sau đó người ta ướp muối, trộn với cơm nguội, đem cho vào hũ, hoặc khạp, rải muối hột vào rồi gài cứng, đậy nắp lại, để khoảng từ bốn tháng đến sáu tháng là ăn được. Có thể để nguyên con đem kho, hoặc ăn sống; hoặc cho vào ít lá chanh, lá gừng xắt nhỏ, ớt, đường, và chanh chưng. Còn có loại mắm chua gọi là pò-ót, được làm từ tép mòng - một loại tép rất phổ biến ở Đồng bằng sông Cửu Long. Khi ăn, người ta trộn với đu đủ, riềng hoặc gừng non. Pò-ót làm khoảng 10 ngày là ăn được.
Mắm pro-hốc có hai loại: mắm cá nhỏ gọi là pro hoc trey changvar, gồm tất cả các loại cá trắng, đen, như các loài: sặt, trèn, chốt, lòng tong, cá chạch đất,...; mắm cá lớn gọi là pro hoc trey thom gồm các loại cá lóc, cá bông, đặc biệt là cá trê vàng.
Bánh thốt nốt của người Khmer. 
Để làm mắm pro-hốc đầu tiên là làm sạch cá: đánh vảy, chặt kỳ, mổ bụng bỏ sạch ruột. Để cá chảy hết máu rồi rửa nhiều lần, chừng nào thấy nước trong mới thôi. Nếu cá làm không sạch, còn máu hoặc nhớt, vảy dơ cá sẽ thối, đắng ăn không được.
Cá làm sạch cho vào cái vịm nước (vật dụng làm bằng sành, sứ - như cái thau) ngâm nước một đêm, sau đó vớt ra rổ để ráo nước và đem phơi nắng một ngày.
Muối hột rửa cho trắng (bỏ tạp chất làm cho muối có màu đen, sẫm), cho vào cối giã nhuyễn rồi trộn với cá. Lượng muối nhiều hay ít là do kinh nghiệm của người làm. Chất lượng mắm cũng từ đó mà xác định. Bỏ ít muối (lạt muối) thì cá sẽ sình, hoặc ngược lại bỏ nhiều muối mắm quá mặn.
Trộn muối với cá xong, bỏ cá vào cối quết nhẹ bằng chày cây. Khi quết cho thêm cơm nguội vào tán nhừ, ước chừng một tô mắm thì hai muỗng cơm. Quết xong, múc cá ra rổ để cho nước rỏ xuống. Phía trên mắm lót ít lá chuối tươi, lấy gạch đá dằn lên khoảng một ngày đêm cho nước trong mình cá chảy ra hết. Ngày sau, người ta xếp mắm vô hũ hoặc tỉn đã rửa sạch để khô, nhận ém thật cứng, phía trên gài bằng mo nang dừa, trên cùng gài mắm bằng các dọc dừa già chẻ vừa mặt dụng cụ nhận mắm. Trên đổ nước muối. Quan trọng là phải ém mắm cho kỹ không để nước muối lọt xuống thấm vào mắm. Khoảng từ 4 đến 6 tháng trở lên giở mắm ra là ăn được. Mắm pro-hốc để càng lâu, càng ngon.
Mắm pro-hốc được người Khmer dùng nêm cho gần hết các món ăn. Hoặc ăn riêng thì chưng, kho, chiên,... Một nồi xiêm lo, một nồi nước lèo thì đồ nêm tất nhiên không thể thiếu mắm pro-hốc!
Xiêm lo cũng là một món canh tiêu biểu trong văn hóa ẩm thực của người Khmer khác với tất cả các loại canh của người Việt hay người Hoa. Nấu món canh này người ta dùng thịt, cá tươi và rau ngổ, chuối rém, hoặc trái đu đủ non và được nêm bằng mắm pro-hốc. Canh xiêm lo còn được nấu với nhiều loại rau như: lá bồ ngót, lá bình bát dây, bông điên điển, đọt bí, đọt bầu, cùng với măng, mướp, khoai môn, khoai lang, bầu, bí đao, rồi rau đắng... Canh xiêm lo cũng có nhiều loại khác nhau như xiêm lo mít, xiêm lo bình bát... Mỗi loại canh đều thể hiện sự phong phú, tài khéo léo của bà con Khmer.
Bà con Khmer còn có một số món canh độc đáo khác, như: canh chua nấu với trái chuối xiêm xanh. Người ta tước bỏ vỏ chuối xiêm xanh, xắt hơi dày, nấu với cá và thịt gà, thêm cơm mẻ và các loại rau om, tần dày lá, ngò gai, sả và mắm pro-hốc. Canh chua nấu bằng bắp chuối thái mỏng với cá khô và lá me non...
“Người nội trợ Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long còn nhớ rất nhiều món canh quen thuộc của dân tộc mình, đặc sắc nhất là các món canh xiêm lo ko-kô tức canh thập cẩm, được nấu với nhiều loại rau rừng và rau đồng như rau cỏ chai, cải trời, rau đắng, rau ngổ, rau chóc, rau chay, rau bợ, rau chuối, khổ qua, đu đủ non... cùng các loại tôm, thịt, cá và các thứ gia vị như sả, ớt, thính, củ gừng, củ riềng, bột cà ri, dừa khô, mắm pro-hốc... Hoặc như món xiêm lo prohơ cũng là một loại canh nấu với thịt hoặc cá với gia vị là mắm pro-hốc, sả, ớt, ăn với gỏi đu đủ, dưa leo chấm với nước chua là cơm mẻ (một loại vi khuẩn trong cơm nguội để lên men)v.v...”1
Đặc biệt, món bún nước lèo của người Khmer được cả người Việt và người Hoa ưa thích - đã trở thành một đặc sản chung của cư dân Đồng bằng sông Cửu Long, được nhiều du khách phương xa thưởng thức và nhớ mãi. Để nấu món này, người ta dùng tôm, cá nấu nhừ lấy nước cốt, đem cá ra rút hết xương, nước cốt của cá được nêm muối ớt, sả... và hai món nêm không thể thiếu là ngải bún giã nhỏ và mắm pro-hốc. Nước cốt sau khi nêm và nấu kỹ đã trở thành một thứ nước lèo rất tuyệt hảo.
Cũng như các dân tộc khác ở Đồng bằng sông Cửu Long, người Khmer cũng có nhiều món bánh. Bánh ngọt có mặt gần như hầu hết trong các dịp lễ hội của người Khmer. Tiêu biểu các loại bánh: bánh củ gừng, bánh tai yến... nhưng đặc sắc hơn cả có thể nói là bánh thốt nốt. Đó là, nguyên liệu được làm từ trái thốt nốt, mà trái thốt nốt chỉ có nhiều ở những khu vực đông đảo người Khmer sinh sống. Người ta bẻ trái thốt nốt xuống, sau đó đem chà vào rổ để lấy bột, rồi đem bột này trộn với bột gạo, thêm chút dừa nạo, sau đó lấy lá thốt nốt gói lại, rồi sau đó đem hấp. Bánh có màu vàng ươm, có mùi thơm hết sức đặc biệt vị ngọt tinh khiết, vị béo của dừa rất ngon. “Người Khmer từng tự hào về các loại bánh ngọt cổ truyền của dân tộc mình vì nó chiếm một số lượng khá phong phú, lại vô cùng độc đáo. Bánh ngọt giữ một vị trí khá quan trọng trong đời sống của người Khmer vì nó không thể vắng mặt trong tất cả các dịp lễ, Tết, cúng bái theo phong tục.”2 Bánh ngọt của người Khmer gồm một số loại tiêu biểu sau:
* Num còn khuyên
Người Việt gọi Num còn khuyên là bánh rế. Bánh làm bằng đậu xanh, đậu nành và nếp. Mỗi thứ lấy trọng lượng bằng nhau, vo sạch, để ráo rồi đem rang riêng. Rang để lửa nhỏ, đến khi vừa vàng thì đổ ra, sau đó trộn cả ba thứ vào chung, vọt nát như xây thín.
Nước đường thốt nốt thắng đến rít lại, bỏ bột đã vọt nhuyễn vào quậy đều như nhân bánh ít, đem ra nắn hình tròn như cá mâm có chân, gọi là bánh rế.
Lấy bột gạo, ít nhiều tùy theo kinh nghiệm của người làm bánh, trộn trong thau, cho bột nghệ xay vào để tạo màu vàng, đổ nước vào quậy sền sệt, đem từng cái bánh rế nhúng vào rồi chiên với mỡ. Bánh vàng, vớt ra để ráo, ăn giòn ngon.
* Num Crọp Khnô
Num Crọp Khnô nghĩa là bánh hột mít. Bánh làm đậu xanh nấu mềm, đãi bỏ vỏ, giã nhuyễn trộn với đường thốt nốt như nhân bánh ít. Sau đó, dùng tay vắt viên tròn như hột mít, lăn vào tròng đỏ trứng vịt, gà. Sau đó, đem chiên giòn. Ăn khi ráo mỡ.
* Num chô
Bánh làm bằng gạo trắng vọt sạch, để ráo rồi cho vào cối vọt nhừ nát, khi vọt dùng sàng rây nhiều lần để giã lại cho thật nhuyễn, bột càng nhuyễn, bánh càng nổi to. Nước đường thốt nốt thắng đến rít lại, bỏ bột gạo vào quậy đều như nhân bánh ít, đem ra nắn từng cái hình tròn hay vuông, dẹp lớn nhỏ tùy ý. Sau đó, bỏ vào chảo mỡ chiên. Bánh sẽ nổi lớn như bánh tiêu của người Tiều (Triều Châu). Bí quyết độc đáo của loại bánh này nằm ở lượng đường ngào, nếu không ngọt thì bánh sẽ tan trong chảo chiên, ngược lại ngọt quá, bánh sẽ chai, không nổi, ăn không ngon.
* Num Khnhây
Num Khnhây là bánh gừng. Nếp trắng vo sạch, để ráo đem quết thành bột, khi quết dùng sàng rây nhiều lần để giã cho thật nhuyễn, bột càng nhuyễn, bánh càng nổi lớn. Bột giã xong, đem phơi cho thật khô. Sau đó, lấy lòng trắng trứng vịt đánh nổi, cho bột vào quậy đến sền sệt, sau đó nắn thành hình củ gừng (có người nắn hình cá, hình chim, cua, tôm,...). Bánh gừng chiên bằng mỡ. Bánh nổi lớn, sau đó ngào với nước đường thốt nốt thắng sền sệt. Bí quyết của cách làm bánh này là khi cho bột vào lòng trắng trứng vịt sau cho vừa phải liều lượng thì bánh mới nổi đều. Khi chiên phải lẹ tay lật bánh qua lại.
Bánh gừng thường không thể thiếu trong đám cưới của người Khmer.
* Num Niềng Nóc
Num Niềng Nóc nghĩa là bánh của Nàng Nóc, theo các bậc trưởng thượng thì Nóc là tên người đầu tiên làm thứ bánh này. Người Khmer sau đó lấy tên người đặt cho tên bánh như để ghi công cho nàng. Gạo đem vo sạch, ngâm trong nước độ một đêm, sau đó quết thành bột, đổ nước sền sệt, lấy màu vàng của nghệ, màu đỏ của gấc pha vào cho đẹp mắt.
Nhân làm bằng đậu xanh quết nhuyễn trộn với đường thốt nốt, nước cốt dừa.
Bắc chảo lên bếp, cho mỡ vào. Đợi mỡ gần sôi thì lấy bột nhúng vào kéo lên, kéo xuống, tréo qua, vắt lại cho đến khi bột giòn thì nắn thành hình hộp như hộp thuốc lá, để nhân ở giữa. Chiên tiếp cho vàng, vớt ra, ăn khi ráo mỡ.
Nhìn chung, các món ăn của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long tuy không cầu kỳ, nhưng nó phản ánh khá rõ nét đặc điểm văn hóa trong ẩm thực của cộng đồng tộc người này. Đó là quá trình thích ứng, tương tác và tận dụng đối với môi trường thiên nhiên mà đồng bào Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long dễ chế biến ra nhiều món ăn phong phú, mang bản sắc riêng.
Trần Ngu Lạc

Monday 22 April 2013

THỬ LÍ GIẢI NGUYÊN NHÂN SỰ BIẾN ĐỔI VÀ CÁCH ĐỘC HÁN VIỆT QUA VÀI CỨ LIỆU ĐỊA DANH HÀNH CHÍNH Ở HẢI PHÒNG (Nguyễn Kiên Trường - Thông Báo Hán Nôm Học)

Nguyễn Kiên Trường
49. Thử lí giải nguyên nhân sự biến đổi và cách đọc Hán Việt qua vài cứ liệu địa danh hành chính ở Hải Phòng (TBHNH 1996)
Cập nhật lúc 16h47, ngày 12/12/2007
NGUYỄN KIẾN TRƯỜNG
Trung tâm Biên soạn Từ điển Bách khoa
Địa danh là một trong những nguồn cứ liệu có giá trị để tìm hiểu cách đọc và sự biến đổi âm Hán - Việt. Những điều ghi chép trong các thư tịch cũ cho biết không nhiều, không chi tiết về các đơn vị hành chính thời cổ của Hải Phòng, trừ một vài địa danh như Câu Lậu, Kê Từ, An Định v.v… nhưng dù sao cũng là một chỗ dựa để lần trở lại vài thông tin về lớp tên Hán cổ còn hoặc không còn tồn tại đến ngày nay. Bài viết này đề cập vài nét về sự biến đổi lớp địa danh Hán Việt qua cứ liệu điều tra điền dã ở Hải Phòng.
Từ những đơn vị cư trú cổ xưa với những trang, trại, động, giáp, trang… (phổ biến ở vùng núi Thủy Nguyên), quá trình ghi chép địa danh bằng chữ Hán đã làm biến đổi về cơ bản hệ thống địa danh cư trú - hành chính. Nếu như lớp địa danh hành chính trước thời kỳ độc lập tự chủ chỉ có châu, huyện, xã v.v… thì những tên làng xã(1) cổ xưa đã có thêm những tên gọi mới song hành tồn tại với tên cũ: loại tên chính thức trong văn bản, dùng để khai báo; loại tên dân gian, ở đây thể hiện một phương diện về hai nền văn hóa. Văn hóa, ngôn ngữ bản địa có sức sống lâu dài qua tên Nôm; Sự ứng xử linh hoạt, có tiếp thu và sáng tạo của người Việt qua sự chuyển đổi từ Nôm sang Hán với cách đọc Hán - Việt ở mỗi thời kì. Các thế hệ nhà nước Việt Nam đã cố gắng chứng minh được phần nào tính độc lập, tự chủ của mình trong khuôn khổ có thể có được bên cạnh chính quyền phong kiến phương Bắc, nhưng không hoàn toàn bứt khỏi ảnh hưởng của văn hóa khu vực đó. Đặc biệt, xét trên lĩnh vực địa danh, lối đặt tên chữ theo kiểu dập khuôn (nổi rõ từ thời Minh Mạng) đã làm cho quá trình “văn tự hóa” mang trong mình nhiều lớp khá dày những địa danh Hán - Việt. Chủ thể sáng tạo những địa danh này thường là các tầng lớp Nho sĩ, được đào tạo theo kiểu truyền thống. Tuy nhiên, khi đặt địa danh, họ không tách biệt khỏi đời sống văn hóa của làng xã, trong nhiều trường hợp, họ “nói thay, viết hộ” bà an.
1. “Làng” là hiện tượng thuần Việt. Trong các văn bản và thư tịch hành chính của nhà nước phong kiến, chỉ có xã và thôn, trên là tổng, huyện và châu, phủ v.v.. Các đơn vị châu, phủ, chỉ v.v.. tồn tại đến năm 1945, còn các làng xã cũ đổi thành thôn, nhiều thôn hợp lại thành xã.
Để có thể hình dung phân nào diễn biến tên gọi theo thời gian, chúng tôi xin ra ví dụ về một đối tượng địa lí tên gọi huyện Cát Hải hiện nay mới có từ cuối thế kỷ 19, trước đó là cả một lớp tên gọi khác.

Phương pháp đào sâu
Địa danh và biến đổi
Thời gian xuất hiện, tồn tại

CÁT HẢI
NGHIÊU PHONG
(kiêng húy)
Từ cuối thể kỉ 19
Nửa sau thế kỉ 19
(Các lớp đào và “tầng văn hóa”
HOA PHONG
CHI PHONG
với nghĩa “chi phái”
với nghĩa “cỏ chi”
(giữ âm đổi nghĩa)
TƯ PHONG
(lầm tự dạng)
ÂN PHONG
Trước 1861
Thế kỷ 17-18
Trước thế kỉ 17-18
Trước 1469

Không phải bao giờ cũng tìm được niên đại và ý nghĩa của các địa danh khác nhau của một đối tượng như vậy. “Các lớp đào” ở Cát Hải cho ta thấy một phần các “tầng văn hóa” ở đây, nhưng nếu như nhà khảo cổ dùng các phương pháp khoa học chính xác (ví dụ phương pháp C14) để giả định, khẳng định niên đại hay đặc trưng của một đối tượng, vật thể nào đó, thì nghiên cứu địa danh phải dùng các phương pháp gián tiếp. Ân do lầm tự dạng Hán, đó là xét về văn tự “Chi” với hai nghĩa: Lúc đầu với nghĩa “cỏ chi”, sau đổi “chi phái”, đó là giữ âm đổi nghĩa; điều này ta cũng gặp qua ví dụ về “Thăng Long”: a) với nghĩa “rồng lên”; b) với nghãi “thịnh vượng lên”,khi tính chất kinh đô đã mất và thường bị “bạt thấp”). Đổi Chi Phong sang Hoa Phong chưa xác định được nguyên nhân… Theo lệ kiêng húy, ví mẹ vua Thiệu Trị tên Hoa nên phải đổi Nghiêu Phong, nhưng trong khi các địa danh Hoa đổi đồng loạt thành Phương hoặc “đọc trại” Huê thì Hoa đổi Nghiêu lại nằm ngoài hệ thống. Tuy nhiên, từ Ân Phong đến Nghiêu Phong vẫn luôn bảo lưu Phong, một dấu vết cần thiết phải lưu ý: sự biến động là có thực nhưng sự bảo lưu cũng có thực, “động” trong cái “tĩnh”. Đây cũng là hiện tượng thường thấy ở các làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ví dụ về “Bảy làng La…”: La Khê, La Tinh, La Cả (La Nội) La Khê Bắc, La Khê Đông, La Khê Nam, La Khê Tây.
2. Sự biến đổi có thể do nhiều nguyên nhân:
- Về tự dạng, có thể ghi lầm, phiên lầm. Khi chép chữ Hán, đôi chỗ phải dùng lối “giản tự” cho dễ, vì chữ cổ có nhiều nét, ví dụ: thôn An Lư ở Thủy Nguyên (có tên Nôm làng Sưa) được ghi An Các (Yên Các), nhưng huyện này không có làng An Các, có thể lầm chữ Các với chữ vì mặt chữ hơi giống nhau. Thôn Bính Động Thủy Nguyên được ghi Nội Động, vì chữ Nội @ và Bính @ gần giống nhau. Thôn Đốc Hành của huyện Tiên Lãng trước thế kỉ 19 được ghi Giá Hành, ngờ viết lầm Đốc @ và Giá @, vì chùa Hồng Khánh ở thôn này có bia “Hồng Khánh tự điền bi kia” (1589) và “Hồng Khánh tự bi kí” (1629) đều ghi xã Đốc Hành. Thôn Do @ Lễ Thủy Nguyên còn được ghi Khúc @ Lễ, ngờ người sao viết lầm thêm một nét sổ, dây tình trạng tam sao thất bản làm sai lạc tên gọi, xã Minh Nghị @ phiên lầm thành Minh Huyên @ Tiên Lãng, xã Hộ Tư phiên lầm Ngạc Tư(1).
Khác biệt về cách đọc: An Bồ cũng đọc Yên Bồ, thôn Xuân Áng còn đọc Xuân Đám (Cát Hải); làng cũ Cát Bi có thể là “Ba Lộ” thời cổ (đối chiếu với bản chữ Hán thì địa danh Ba Lộ chắc Bi Lộ, sau đổi Cát Bi… “Chữ Bi cũng có thể đọc Ba. Vậy Bi Lộ hay Ba Lộ phải chăng là tên cũ của Cát Bi thời Lý?”(2); v.v…
- Thay đổi tên vì kiêng húy:
Thôn Phương Đôi của huyện Tiên Lãng nay vốn là Hoa Đôi trước thế kỉ 19, cũng đổi tên vì kiêng tên húy mẹ vua Thiệu Trị là HOA. Rất nhiều làng đổi tên như vậy. Thôn Phấn Dũng (Kiến Thụy) có tên cũ Phấn Đường; huyện Thủy Nguyên.
Tên cũ Thủy Đường, nhiều địa danh có chữ Đường đều đổi vì kiêng húy vua Đồng Khánh (Ưng Đường); các địa danh có chữ CHÂN (Chân Đào đổi Trực Đào (An Lão); các địa danh chữ “LAN” (Tá Lan, Văn Lan, phải đổi Quan, Hòa (tháng 11-1961, vua Tự Đức ban nhiều tên húy, trong đó có chữ Lan nên làng Tá Lan Tả Quan (Thủy Nguyên), Văn Lan Văn Hòa (Kiến Thụy), v.v… đều phải đổi vì kiêng húy. Các địa danh có chữ: TÂN, MINH, HƯƠNG… cũng đổi vì lí do này.
- Đổi tên vì lí do chính trị, xã hội:
Làng Đại Lộc (Kiến Thụy) vốn là Thiên Lộc, nhưng triều đình bắt đổi vì đó là “Lộc trời”, dân không có quyền hưởng. Ở Hà Tĩnh, huyện Can Lộc vốn là Thiên Lộc, cũng bị đổi vì nguyên nhân này, v.v…
- Biến đổi tên gọi hay đặt tên gọi mới do đối tượng biến đổi hoặc thay đổi, nảy sinh:
Thôn cũ An Ninh thuộc xã An Sơn (Thủy Nguyên), sau chia làng, ghép thêm các từ chỉ vị trí để khu biệt: An Ninh Nội, An Ninh Ngoại; thôn Phù Lưu: Phù Lưu Ngoại, Phù Lưu Nội (Thủy Nguyên); An Tử; An Tử Thượng, An Tử Hạ v.v
- Sự biến đổi tên gọi không rõ nguyên nhân:
Một số ví dụ: làng An Bồ (Vĩnh Bảo) có tên cũ An Miệt (“Cổ An Miệt, kim An Bồ, kim cổ đồng thanh diệc như nhất”: “Xưa An Miệt, nay An Bồ, trước nay cùng gọi như một”); thôn An Khê (quận Ngô Quyền) thời cổ có tên Tây Khê; tổng An Khoái đổi thành tổng Đôn Lương (Cát Hải); thôn An Hựu đổi thành An Dụ (Tiên Lãng) v.v…
Sự song hành nhiều tên gọi khác nhau do nói tắt, rút gọn (Ngoài cách dùng tên khác gồm tên Nôm, tên dân gian, v.v..)
Có thể nói đây là hiện tượng phổ biến trong thói quen của người Việt.
Trong cách dùng tên, có xu hướng giản tiện, nhưng không gây hiểu lầm về đối tượng.
Tên làng xã phần lớn là Hán - Việt gồm hai âm tiết (ví dụ làng Giáo Mục) hoặc ba âm tiết (ví dụ làng Phương Lang Hạ). Khi sử dụng trong giao tiếp hàng ngày, những tên gọi đó thường được gọi tắt theo yếu tố đầu: làng Nhân tức là Nhân Vực, chợ Hôm tức chợ Hạ Hôm Vĩnh Bảo, thôn Bàng tức thôn Bàng Động (Đồ Sơn); hoặc có trường hợp gọi tắt theo các yếu tố sau: thôn Vật Cách Hạ được gọi là Cách Hạ, thôn Vật Cách Thượng - Cách Thượng (An Hải) v.v…
- Sự đổi tên có những quy luật nhất định:
Giữ âm đổi nghĩa:
Ví dụ về huyện Cát Hải có tên cũ Chi Phong với nghĩa “cỏ chi”, sau đổi “chi phái” (đã nêu trên).
- Đổi âm giữ nghĩa:
Huyện Tiên Lãng xưa là Tiên Minh (được đọc là Tiên Miêng do kiêng húy). Lúc đầu là Tân Minh, do kiêng húy đổi thành Tiên Lãng (từ đời Thành Thái) được hiểu là “trước sóng” nhưng không hẳn như vậy. Chữ Lãng với nghĩa “sáng” nếu căn cứ vào mặt chữ @. Đổi Tiên Minh thành Tiên Lãng là đổi âm nhưng vẫn giữ được nghĩa cử Minh: “Về cấu tạo chữ, người ta cũng cố giữ nguyên chữ “nguyệt”, chỉ thay đổi một phần, đổi chữ “nhật” bằng chữ “lang”(3). Các địa danh Hoa đổi Hương, sau đổi Phương cũng theo nguyên tắc này: Hoa Đường - Hương Đường - Phương Đường; Hoa Đôi - Hương Đôi - Phương Đôi (Kiến Thụy); v.v… Ví dụ: thôn Hương (An Lão) đổi thành Phương từ đời Minh Mạng, cũng có nghĩa là “thơm”, tuy nét nghĩa có khác: “Phương” là mùi thơm của “cỏ chi”, chứ không phải mùi thơm của hoa nói chung.
Ngoài ra, tên làng có thể đổi vì tránh tên hèm, ví dụ An Hải có các làng Kiều Trung, Kiều Hạ… sau đổi thành Điều có thể vì vùng này thờ Kiều Nương công chúa.
Chú thích:
1. Sự biến đổi của địa danh cư trú - hành chính thời phong kiến. Vài ví dụ về lớp địa danh cư trú - hành chính có nguồn gốc Hán - Việt ở Hải Phòng.
2, 3. Theo tư liệu điền dã
3. Theo tư liệu điền dã.
PT Nguyễn Kiên Trường - Trung tâm Quốc gia biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (ĐT. 8546367).
Thông báo Hán Nôm học 1996 ( tr.447-454 )

Sunday 21 April 2013

Thiếu gia hay thiếu da?

 Bạn đọc : Xin ông An Chi cho hỏi : Thiếu gia có phải là con của đại gia không?     
An Chi : Nhiều người vẫn mặc nhiên hiểu như thế. Chẳng thế mà chúng ta có thể thấy những cách nói kéo theo những cách viết như : “thiếu gia Hà Thành”, “thiếu gia vùng Tây Quan”, “phim thiếu gia”, “thiếu gia chơi”, “bạn gái của thiếu gia”, v.v.. Còn câu văn thì đầy rẫy :
–“Mua một chú chó đắt tiền rồi đưa vào trung tâm huấn luyện thành chó nghiệp vụ đang là một thú chơi mới của các “thiếu gia” Hà thành.” (Dân trí, lấy theo Nguyễn Dũng, VTC).
– “Cảnh sát cho biết, thiếu gia lái xế hộp kéo lê viên thiếu úy cảnh sát quận Hai Bà Trưng (Hà Nội) rạng sáng 13/3 đã ra trình diện.” (Thu Hà, Người đưa tin, 18-03-2012).
–“Chiều tối 29/2, một đám cưới "siêu khủng" đã diễn ra tại phố núi Hương Sơn, Hà Tĩnh với sự góp mặt của hàng nghìn người, dàn xe rước dâu khủng giá hàng triệu USD. Cô dâu là Lê Thu Loan, sinh năm 1992, con của một đại gia ở Hà Nội và chú rể là Nguyễn Huy Hoàng, sinh năm 1987, một thiếu gia ở phố núi Hương Sơn, Hà Tĩnh.” (Nguyên Khoa – Dũng Bắc, Ngôi sao, 1-3-2012).
–“Vũ Đức Hoàng chính là Phó Giám đốc điều hành Doanh nghiệp vận tải Hoàng Long, đồng thời là con trai của vị Chủ tịch HĐQT doanh nghiệp này, được coi là một “thiếu gia” của đất Cảng.”(Nhà báo và Công luận, 16-2-2012, lấy từ VTC News).
V.v. và v.v.. Cả một rừng “thiếu gia” ở trên mạng …, bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết về ngôn ngữ và văn hoá. Người ta mặc nhiên hiểu rằng “thiếu gia” là con của “đại gia” mà không ngờ rằng hai danh ngữ này chẳng có dây mơ rễ má gì với nhau. Đại gia 大家  là một danh ngữ tiếng Hán, vốn có nghĩa là chuyên gia danh tiếng hoặc thế gia vọng tộc, đã được tiếng Việt hiện đại dùng theo một cái nghĩa rộng hơn : “nhà sản xuất, nhà kinh doanh lớn hoặc người tài giỏi, có tên tuổi trong một lĩnh vực nào đó” ( Từ điển tiếng Việt của Vietlex do Hoàng Phê chủ biên). Cũng xin nói thêm rằng nhiều năm trở lại đây, nó đã bắt đầu mang tính xấu nghĩa.
Vì không có liên quan gì với “đại gia” về mặt tạo nghĩa nên hai chữ mà bạn hỏi không thể viết thành “thiếu gia”. Tuy tiếng Hán cũng có danh ngữ lão gia 老家 dùng để  chỉ cha, mẹ hoặc bậc trưởng bối trong phương ngữ của tiếng Hán nhưng hai tiếng mà bạn hỏi thì lại liên quan đến danh ngữ lão da 老爺nên phải được viết thành thiếu da 爺 (với d- chứ không phải gi-). Lão da 老爺, là một danh ngữ thời xưa dùng để gọi quan lại, chủ nhà (đối với người làm) hoặc kẻ có quyền thế. Đối với lão da là thiếu da, mà thời xưa, tôi tớ dùng để gọi con nhà chủ,  như có thể nghe, thấy trong nhiều bộ phim Tàu, nhất là phim cổ trang. Liên quan đến chữ da  , ta còn có danh ngữ đại da 大爺 , nghĩa là ông lớn, cụ lớn; cũng dùng để chỉ vai bác (anh của cha) hoặc người đàn ông lớn tuổi hơn mình.
Trở lên, chúng tôi đã nói về từ nguyên của hai tiếng thiếu da mà vì không biết gốc gác của nó trong tiếng Hán, lại thêm cảm nhận chủ quan nên hầu như mọi người đều viết thành “thiếu gia”. Tuy nhiên, có một thực tế đáng chú ý là hiện nay, cả trong Nam lẫn ngoài Bắc thì hai từ gia và da đều đồng âm. Trong Nam đọc cả hai thành [ja] còn ngoài Bắc thì đọc cả hai thành [za]. Tính đồng âm này trở thành một chỗ dựa thuận lơi cho cách viết sai thành “thiếu gia”, mà chắc là từ nay trở đi, ta không còn hy vọng là có thể sửa chữa được nữa.

Quân đội đứng ngoài chính trị-Khẩu hiệu “giả nhân giả nghĩa” (Nguyễn Mạnh Hưởng - Quân Đội Nhân Dân)


QĐND - Chủ nhật, 21/04/2013 | 18:21 GMT+7
V.I.Lê-nin. Ảnh tư liệu
QĐND - Cách ngày nay 143 năm, ngày 22 tháng 4 năm 1870, V.I.Lê-nin - lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và những người bị áp bức trên thế giới, người "khổng lồ” của thế kỷ XX - đã được sinh ra. Hoạt động lý luận và thực tiễn sôi nổi, đầy sáng tạo của V.I.Lê-nin đã để lại di sản vô cùng quý báu đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Phát triển sáng tạo và hiện thực hoá những tư tưởng cơ bản của C.Mác, Ph.Ăng-ghen trong điều kiện lịch sử mới; thúc đẩy sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; lãnh đạo và tổ chức thắng lợi cuộc cách mạng vô sản đầu tiên, Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại - cuộc cách mạng vạch thời địa - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, là những đóng góp to lớn của V.I.Lê-nin đối với giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ, tạo ra tầm vóc "khổng lồ” của Người.
Tư tưởng của V.I.Lê-nin về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân là một tư tưởng quan trọng trong học thuyết Mác - Lê-nin về chiến tranh và quân đội, có ý nghĩa lý luận, thực tiễn to lớn và vẫn nóng hổi tính thời sự. Cống hiến to lớn của V.I.Lê-nin trong vấn đề này là ở chỗ, Người không chỉ phát triển một cách toàn diện và có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về xây dựng quân đội kiểu mới, mà còn trực tiếp lãnh đạo và tổ chức xây dựng Hồng quân công nông vững mạnh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.
Theo V.I.Lê-nin, sự nghiệp cách mạng “Cần có một quân đội cách mạng vì những vấn đề lịch sử vĩ đại chỉ có thể được giải quyết bằng vũ lực mà trong cuộc đấu tranh hiện đại thì tổ chức vũ lực có nghĩa là tổ chức quân sự”[1]. Sau Cách mạng Tháng Mười, trước sự đòi hỏi cấp thiết của tình hình, V.I.Lê-nin đã ký sắc lệnh thành lập Hồng quân công nông: “Để bảo vệ chủ quyền toàn vẹn cho quần chúng lao động và trừ bỏ mọi khả năng phục hồi chính quyền của bọn bóc lột”[2]. Người coi quân đội cách mạng là “trụ cột của chính phủ cách mạng”, là công cụ để quần chúng nhân dân sử dụng giải quyết những cuộc xung đột vĩ đại trong lịch sử.
Trong thực tiễn, V.I.Lê-nin luôn quan tâm xây dựng Hồng quân vững mạnh, đặt biệt là về chính trị. Người vạch rõ bản chất phản động của luận điệu “quân đội đứng ngoài chính trị”, coi đó là “cái giáo lý tầm thường”, “giả nhân, giả nghĩa và dối trá”. V.I.Lê-nin khẳng định một cách dứt khoát không có quân đội trung lập về chính trị: “Quân đội không thể và không nên trung lập. Không lôi kéo quân đội vào chính trị - đó là khẩu hiệu của bọn tôi tớ giả nhân giả nghĩa của giai cấp tư sản và của chế độ Nga hoàng, bọn này trong thực tế bao giờ cũng đã lôi kéo quân đội vào chính trị phản động”[3].
Để Hồng quân thực sự là quân đội cách mạng, tuyệt đối trung thành với nhân dân, với chế độ xã hội chủ nghĩa, V.I.Lê-nin yêu cầu, Hồng quân phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phải “thành lập các chi bộ cộng sản trong mỗi một đơn vị quân đội”[4]. V.I.Lê-nin và Đảng Bônsêvich Nga đã thành lập các tổ chức đảng, xây dựng và thực hiện chế độ chính ủy, coi đó là một nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Hồng quân.
Trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận của V.I.Lê-nin về xây dựng quân đội kiểu mới vào điều kiện cụ thể Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện quân đội ta, một quân đội mang đầy đủ bản chất, tính chất, đặc điểm của quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân. Gần 7 thập kỷ qua, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội ta đã anh dũng chiến đấu, hy sinh viết nên truyền thống tốt đẹp "Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội; nhiệm vụ nào cũng hoàn thành; khó khăn nào cũng vượt qua; kẻ thù nào cũng đánh thắng", làm rạng rỡ hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, thật sự là công cụ bạo lực sắc bén, là lực lượng chính trị tin cậy, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin cậy, yêu mến.
Mới đây, trong góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, có người đưa ra kiến nghị: Quân đội phải đứng ngoài chính trị, “chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân”; quân đội “không phải trung thành với bất kỳ tổ chức nào, đảng phái nào”; họ yêu sách từ bỏ quy định quân đội phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam v.v..
Đó là những luận điểm vô căn cứ, không đúng với thực tiễn lịch sử, phản khoa học và có dụng ý xấu về chính trị. Thực chất đó là khẩu hiệu "giả nhân giả nghĩa" của các thế lực phản động chống đối, điều mà V.I.Lê-nin đã từng vạch rõ từ đầu thế kỷ XX. Tính chất "giả nhân giả nghĩa" của những kẻ đưa ra quan điểm trên biểu hiện ở chỗ: Thứ nhất, nhằm để đánh lừa người khác, chứ bản thân chúng thừa hiểu quân đội không thể "đứng ngoài chính trị", quân đội phải mang bản chất chính trị và phải phục vụ cho ai; thứ hai, trên cơ sở đó, chúng nhằm "lôi kéo quân đội vào chính trị phản động” chống lại Tổ quốc, chống lại Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Những người đưa ra các quan điểm trên thông qua việc góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp để thực hiện âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội ta, đi đến loại bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với quân đội, xóa nhòa bản chất chính trị - giai cấp, tiến tới làm biến chất, lái chính trị của quân đội ta theo chiều hướng chính trị khác, làm cho quân đội ngả theo các thế lực phản cách mạng, chống lại Đảng và chế độ.
Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Quân đội ta không thể đứng ngoài chính trị, đứng ngoài cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta. Đúng là nhiệm vụ của quân đội là để “bảo vệ người lao động”, là bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân, nhưng chỉ có Quân đội nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mới có thể làm tròn phận sự trung thành với Tổ quốc Việt Nam, với nhân dân Việt Nam theo đúng nghĩa của nó; mới có thể làm cho sự trung thành với Đảng, Nhà nước, chế độ và với Tổ quốc, với nhân dân gắn bó chặt chẽ với nhau trong một chỉnh thể thống nhất, không thể tách rời.    
Chính trị của quân đội ta, quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, là thực hiện chính trị của Đảng và Nhà nước Việt Nam, phục vụ Đảng, Tổ quốc, phục vụ nhân dân, biểu hiện tập trung ở nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Không thể "giả nhân giả nghĩa" nói bừa rằng quân đội đứng ngoài chính trị, không cần đặt dưới sự lãnh đạo của lực lượng chính trị, đảng phái nào. Lời nhắc nhở của V.I.Lê-nin: Quân đội không thể đứng ngoài chính trị, “không thể và không nên trung lập" vẫn luôn nóng hổi tính thời sự, chúng ta phải luôn ghi lòng, tạc dạ.
PGS, TS NGUYỄN MẠNH HƯỞNG, Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự-Bộ Quốc phòng
[1] V.I.Lênin, Toàn tập, tập 10, Nxb Tiến Bộ, M. 1979, tr. 376.
 [2] V.I.Lênin, Toàn tập, tập 35, Nxb Tiến Bộ, M.1978, tr. 264.  
 [3] V.I.Lênin, Toàn tập, tập 12, Nxb Tiến Bộ, M. 1979, tr. 136.
 [4] V.I.Lênin, Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến Bộ, M. 1977, tr. 250.