Monday 29 April 2013

ĐÔI NÉT VỀ TỪ CỔ TRONG TƯ LIỆU VĂN BIA CHỮ NÔM - Nguyễn Thị Hường

Nguyễn Thị Hường 42. Đôi nét về từ cổ trong tư liệu văn bia chữ Nôm (TBHNH 2009)
Cập nhật lúc 20h00, ngày 04/11/2011
NGUYỄN THỊ HƯỜNG
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Văn bia chữ Nôm hiện còn có niên đại từ thế kỷ XV đến thế kỷ XX. Nó phản ánh sự phát triển của tiếng Việt ở một giai đoạn lịch sử khá dài. Khi tìm hiểu về văn bia chữ Nôm, chúng tôi thấy xuất hiện khá nhiều từ cổ trong đó. Việc khảo sát từ cổ sẽ cho chúng ta một cách hình dung cụ thể về kho từ vựng được sử dụng trên văn bia chữ Nôm từ thế kỷ XV đến thế kỷ XX, đồng thời cung cấp thêm cho các nhà nghiên cứu ngôn ngữ những cứ liệu về từ cổ trên loại hình văn bản văn bia. Bài viết dưới đây xin trình bày một số kết quả khảo sát ban đầu về từ cổ trong văn bia chữ Nôm.
Trước tiên, chúng tôi muốn bàn đến khái niệm từ cổ. Theo GS. Hoàng Xuân Hãn: “Từ ngữ cổ là những từ ngày nay không dùng nữa hoặc còn dùng trong một địa phương, hoặc còn sót lại trong một thành ngữ nào đó, hoặc còn dùng với nghĩa khác nhưng có liên can...” [40, tr.1091]. GS. Vương Lộc thì định nghĩa: “Từ ngữ cổ là những từ ngữ: 1. Chỉ còn gặp trong các tác phẩm cổ chứ không tồn tại trong tiếng Việt hiện đại, như bợ là “vay”, khứng là “chịu”, mắng là “nghe”, v.v.; 2. Gặp trong tiếng Việt hiện đại nhưng đã thay đổi ít nhiều về mặt ngữ âm, như khách thứa thành khách khứa, bàn nàn thành phàn nàn, đam thành đem, v.v.; 3. Còn gặp trong tiếng Việt hiện đại nhưng ý nghĩa đã bị lu mờ do chúng không còn được dùng độc lập nữa, như han trong hỏi han, tác trong tuổi tác, le trong song le, v.v. hoặc đã thay đổi hoàn toàn về ý nghĩa như đăm chiêu không phải là “bên phải, bên trái, các phía”, lịch sự không phải là “từng trải”, vốn là nghĩa cổ của từ này; 4. Còn gặp trong tiếng Việt hiện đại nhưng khả năng kết hợp có khác so với ngày trước như ban trong các tổ hợp ban già, ban muộn, ban nghèo, ban tà, v.v.; cái trong cái rắn, cái ve, cái vẹt,v.v.; con trong con gậy, con lều, con sách, v.v.” [42, Lời nói đầu].
Với những tiêu chí như vậy thì văn bia chữ Nôm mà chúng tôi sưu tầm được còn lưu giữ rất nhiều từ cổ. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy trong văn bản văn bia chữ Nôm, ngoài những từ cổ theo các tiêu chí mà GS. Hoàng Xuân Hãn và GS. Vương Lộc (Từ Việt cổ) nêu ra, còn có những từ gốc Hán được sử dụng như một yếu tố trong ngôn ngữ thuần Việt như: chất trong "Làng Nhân họp mặt chất hưng công" [7], y quốc trong "Lảng vui há lảng niềm y quốc" [12], vong trong "Cho biết cơ màu vẫn chẳng vong" [1]. Hiện tượng này xảy ra do ảnh hưởng của từ ngôn ngữ Hán trong tiếng Việt, đồng thời cũng do sự phát triển chưa đầy đủ của ngôn ngữ văn Nôm tại thời điểm đó. Theo chúng tôi, có thể coi những từ như trên là những từ cổ, vì nó được sử dụng nhuần nhuyễn trong văn thơ Nôm như một yếu tố của tiếng Việt; cách dùng của nó đặc trưng cho ngôn ngữ văn Nôm tại thời điểm ra đời văn bản và hiện nay không được dùng nữa. Do đặc điểm riêng của văn bản như vậy, ở đây chúng tôi chia từ cổ thành 2 loại theo nguồn gốc ngôn ngữ: 1. Các từ Việt cổ; 2. Các từ Hán được sử dụng trong văn bản như một yếu tố của tiếng Việt. Trong đó, loại 1 (loại có nguồn gốc thuần Việt) vẫn là loại phổ biến, loại 2 (loại có nguồn gốc liên quan đến Hán văn) xuất hiện ít, tính phổ biến không cao. Những từ cổ này tập trung chủ yếu ở những bia có niên đại từ thế kỷ XVIII trở về trước.
1. Những từ Việt cổ
Trong văn bản văn bia chữ Nôm, từ Việt cổ bao gồm những từ:
1/Mất cả âm lẫn nghĩa trong tiếng Việt hiện đại: cóc, chỉn, giột, liễn liễn, mảng, phỉ, rẽ rẽ, toa rập, tua (xin xem bảng 1 dưới đây).
2/Còn nghĩa nhưng âm đọc trong tiếng Việt hiện đại đã biến đổi: bờ ngợ, chính chện, đà, đành rành, kíp, lạt lẽo, mấy, nhẽ, rành rãnh, rỡ ràng, rờ rỡ (xin xem bảng 1 dưới đây).
3/Còn âm, nghĩa cũ đã mờ, hiện nay ít dùng: duềnh, cúng dàng, dắng dỏi, dặc dặc, dắng, đàn việt, há, hồ dễ, hay, khá, làu làu, luống, nọ, những, nhặt, phương chi, rày, sá (xin xem bảng 1 dưới đây).
4/Còn âm trong tiếng Việt hiện đại, nghĩa cũ đã mờ, khả năng kết hợp khác với hiện nay: âu, bề, giãi, cơn, đôi, khuây, lắng, lảng, leo lẻo, lịch thiệp, ngọn, quyến, rẽ, suốt, tay, vả, xôn (xin xem bảng 1 dưới đây). Trong số này có 5 từ là loại từ, có cách kết hợp khác với hiện nay là: cơn, đôi, ngọn, sự, tay. Các từ còn lại là những từ đứng độc lập trong văn bản, hiện nay chỉ còn nét nghĩa mờ trong các song tiết như: bề trong bộn bề, lắng trong lắng nghe, quyến trong quyến luyến, xôn trong xôn xao, giãi trong giãi bày, vả trong vả lại. Các từ âu, chịu, khuây, lảng, leo lẻo, lịch thiệp, rẽ, suốt trong tiếng Việt hiện đại có thể được dùng độc lập nhưng cách dùng đã khác cách dùng trong văn bản.
Bảng 1. Từ Việt cổ
TT
Từ cổ
Văn cảnh
Nghĩa
Số lần xuất hiện
(bia)
1. 
Âu
Ngoạn thưởng âu đây thích tính tình. [5]
có lẽ, hẳn là, xem ra
5
2. 
Bờ ngợ
Bờ ngợ hồ thiên cảnh tú thanh. [6]
từ cổ của bỡ ngỡ không biết, xa lạ
2
3. 
Bề
Miếu đường chầu chực bề nanh vuốt. [35]
nhiều
1
4. 
Cơn
Cơn đó ai hay bạn thuở nào. [34]
khi, lúc
1
5. 
Cóc
Cóc được dương cơ giột tướng khanh. [10]
biết
1
6. 
Chỉn
Cầu mở quy mô chỉn lạ lùng. [7]
quả thực
1
7. 
Chỉn(1)
Chỉn e nhất đán vô thường. [28]
chỉ
1
8. 
Chĩnh chện
Ba tòa chĩnh chện tiên hay Phật. [19]
ngay ngắn
1
9. 
Chịu
Chịu hậu hoặc chịu ký kị. [25]
được
1
10. 
Cúng dàng
Có khi cúng dàng tốn năm bảy chục. [26]
đem đồ lễ vào chùa cúng
2
11. 
Dặc dặc
Lửa hương dặc dặc rõ ba thân. [9]
dài, lâu lắm
1
12. 
Dắng
Đăng lâm trong thuở lần ca dắng. [16]
vang lên tiếng
1
13. 
Dắng dỏi
Dắng dỏi chào ai tiếng pháp chung. [1]
tiếng vang xa liên tục
1
14. 
Duềnh
Duềnh thua biếc hải duềnh quanh quất. [4]
dòng nước, dòng sông
2
15. 
Đà
Thành toại nay đà phỉ sở nguyền. [12]
đã
3
16. 
Đành rành
Trải xem sự cổ hãy đành rành. [8]
hết sức rõ ràng
1
17. 
Đôi
Sự đê đốt thời mặc đôi làng chúng tôi chẳng biết. [2]
hai
1
18. 
Giãi
Dưới tòa lòng giãi người trình hậu. [10]
bày tỏ
1
19. 
Giột
Cóc được dương cơ giột tướng khanh. [10]
chê bai
1
20. 
Lảng vui há lảng niềm y quốc. [12]
có đâu thế, có lẽ nào lại thế
5
21. 
Hồ dễ
Chủ trương hồ dễ mấy dăm người. [20]
đâu có dễ
2
22. 
Hay
Tuệ quang hay được khí chung tình. [6]
biết
1
23. 
Khá
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng. [31]
đáng, nên
1
24. 
Khuây
Nghìn dặm chẳng khuây niềm ái quốc. [13]
quên
1
25. 
Kíp
Kíp mấy trần gian mấy thế thường. [4]
gấp
2
26. 
Làu làu
Gác thắm làu làu ngọc giá đông. [1]
hoàn toàn, trọn vẹn
2
27. 
Lảng
Lảng vui há lảng niềm y quốc. [12]
chểnh mảng
3
28. 
Lắng
Động thẳm rồng oanh lắng ngọc kinh. [15]
chú ý để lắng nghe
1
29. 
Lạt lẽo
Trên chùa lạt lẽo khách ăn xôi. [19]
lơ là, hững hờ
1
30. 
Lẻo lẻo
Lẻo lẻo trần ai chẳng chút gieo. [14]
trong suốt
1
31. 
Liễn liễn
Liễn liễn hãy ghi câu ích tráng. [12]
luôn luôn
1
32. 
Lịch thiệp
Sư chùa Am là một tay thiền gia lịch thiệp. [21]
từng trải, hiểu biết
1
33. 
Luống ��
Mấy cuộc tang thương luống não nùng. [20]
chỉ mức độ nhiều: luôn luôn, thường xuyên, những
3
34. 
Mảng
Mảng vui thiên phúc cảnh thiên thành. [5]
mải
1
35. 
Mấy
Hẳn hoi mấy mẹ cha. [22]
với
2
36. 
Mấy
Cảnh có thanh tao cảnh mấy vui. [24]
mới
1
37. 
Mẽ mẽ
Thanh quang mẽ mẽ chốn dao quang. [4]
tươi sáng, đẹp đẽ
1
38. 
Nọ
Hỏi đá trơ trơ nọ trả lời. [19]
chẳng
1
39. 
Ngay lành ��
Nhà tôi phải ở ngay lành. [3]
lương thiện
1
40. 
Ngọn
Ngọn chùa nay đã cải quan. [21]
(loại từ) thường dùng chỉ những vật nhọn, hiện nay không dùng cho chùa
1
41. 
Những
Tôi những hội bàn hội đồng kỳ hào. [21]
phó từ đứng trước động từ, thường có nghĩa là ‘chỉ’
3
42. 
Nhặt
Trân cam càng nhặt ý đinh ninh. [8]
chặt chẽ, ken dày, nhiều
1
43. 
Nhẽ
Đặt hậu nhẽ là làm sao? [26]
từ biểu thị nghi vấn về lí do
4
44. 
Phỉ
Thành toại nay đà phỉ sở nguyền. [12]
thỏa mãn
1
45. 
Phương chi 方之
Phương chi tôi tủi phận liễu bồ. [26]
(hư từ) hơn nữa, nữa là
1
46. 
Quyến
Cầm thông gió quyến khi tuyên pháp. [6], Quyến được xe loan biết mấy phen. [17]
dụ dỗ, rủ rê, lôi kéo
2
47. 
Rành rãnh
Đành thay rành rãnh dấu đăng hương. [4]
rõ ràng
1
48. 
Rày
Đến rày toa rập im liền. [2]
lúc đó, bây giờ
7
49. 
Rẽ
Rẽ thú vui người anh hùng muốn sửa sang lại [33]
gạt sang một bên
1
50. 
Rỡ ràng
Sắc ánh từ dương sắc rỡ ràng. [4]
rực rỡ
1
51. 
Rỡ rỡ
����
Rộng chứa văn chương hằng rỡ rỡ. [32]
rực rỡ
1
52. 
Rẽ rẽ
Trừng thanh rẽ rẽ trần hiêu cách. [1]
xa lánh
1
53. 
Am thông trước ấy bao xa sá. [14]
kể (dùng với nghĩa phủ định)
1
54. 
Suốt (2)
Suốt cả họ ai cũng...[27]
Tất, hết
2
55. 
Tay
Sư chùa Am là một tay thiền gia lịch thiệp. [21]
người thành thạo, giỏi giang (nay dùng với nghĩa khác)
1
56. 
Toa rập 唆習
Kẻ Tiên Lữ lại lên Sơn Lộ toa rập. [2]
hùa nhau
2
57. 
Tua
Ơn cả côn bằng tua chớ lảng. [13]
nên, phải
2
58. 
Vả
Vả mộ đá bà Ngọc Uyển. [25]
vả chăng, vả lại
1
59. 
Xôn
Dòng oanh nổi nhụy xôn chèo khách. [14]
tấp nập, ồn ào
1
2. Các từ gốc Hán được dùng như một yếu tố của tiếng Việt
Đây là những từ gốc Hán gia nhập vào trong văn Nôm và thường xuyên xuất hiện trong văn bản Nôm như một yếu tố nội tại của ngôn ngữ.
Bảng 2. Các từ gốc Hán được dùng như một yếu tố của tiếng Việt

TT
Từ cổ
Ngữ cảnh

Nghĩa

Tần số xuất hiện (bia)
1. 
Sương bá sờn non cây điểm phấn. [14]
gieo
1
2. 
Bạch phát
Phơ phơ bạch phát mà chửa khuây. [8]
tóc bạc
1
3. 
Bồi thực
Ngài rất hay lưu tâm bồi thực những nơi danh thắng. [21]
vun trồng, chăm lo sửa sang
1
4. 
Cải
Huyện Hoàn Long được cải sáp về tỉnh Hà Đông [21]
chuyển đổi
1
5. 
Cấu
Khí linh càng cấu cấu càng linh. [10]
gây dựng
1
6. 
Chư tôn vị
Nguyện cho chư tôn vị đánh tôi cho tôi chết. [3]
các ngài
1
7. 
Chư vị
Miếu thờ chư vị. [21]
các bậc
1
8. 
Chất
Làng nhân họp mặt chất hưng công. [7]
bàn việc
2
9. 
Chu truân
Ngài chu truân về cảnh chùa chiền. [21]
chăm lo
1
10. 
Di
Thanh sa dấu cũ còn di để. [17]
để lại
1
11. 
Duyên
Duyên cha mẹ tôi sinh được một mình tôi". [36]
nguyên cớ
1
12. 
Đăng lâm
Đăng lâm trong thuở lần ca dắng. [16]
lên rừng
1
13. 
Đạo ngạn
Dồn dồn đạo ngạn bước thênh thênh. [5]
con đường theo đạo
1
14. 
Đệ cúng
Hễ sóc vọng nhật thì tự tăng oản quả đệ cúng từ đường. [18]
dâng lên cúng
1
15. 
Đoán
Bảo dân lễ mười lạng bạc cho ông sứ đoán cho đấy. [2]
xét xử
1
16. 
Đồi tệ
Chùa trong đồi tệ. [18]
hỏng nát
1
17. 
Giá
Giá chồng ông Đinh Xuân Huyến. [22]
lấy chồng
1
18. 
Già lam
Công nhóm già lam bện chữ nhân. [9]
chùa
1
19. 
Hằng
Rộng chứa văn chương hằng rỡ rỡ.[32]
thường
2
20. 
Hòa
Có phận thôi thì hòa hóa thương bi. [26]
và, cùng
1
21. 
Khiển quyển
Kỷ trượng đã nhiều bề khiển quyển. [8]
quyến luyến
1
22. 
Kỳ nhưng
Kỳ nhưng nhật phủ quan nha môn tham tài quá vậy. [2]
thế nhưng
1
23. 
Lị
Đương khi lị huyện Hoàn Long. [21]
trị nhậm
1
24. 
Lí tài
Khéo đường lí tài. [33]
sắp đặt công việc
1
25. 
Miên miên 綿綿
Lộc trời tước nước dõi miên miên. [12]
lâu dài mãi mãi
1
26. 
Mỗi
Đương lúc việc quan thư hạ, ra ngoạn cảnh chùa, mỗi than tiếc rằng...[21]
mỗi lần đều
1
27. 
Nhân cơ
Thản thản nhân cơ trông vời vợi. [5]
nền nhân
1
28. 
Nhược
Nhược ai có long riêng đổi. [23]
nếu
2
29. 
Phúc tâm
Phúc tâm chẳng khác sức can thành. [11]
tấm lòng
1
30. 
Sở nguyền
Thành toại nay đà phỉ sở nguyền. [12]
ước nguyện
1
31. 
Sự
Trải xem sự cổ hãy đành rành. [4] Nhược ngày sau ai không tuân thì phải chịu lấy sự tội rối. [29]
loại từ
1
32. 
Thản thản
Thản thản nhân cơ trông vời vợi. [5]
bằng phẳng
1
33. 
Thanh quang
Thanh quang mẽ mẽ chốn dao quang. [4]
sáng trong
1
34. 
Từ
Hội kỳ hào có từ thỉnh bà sư Am...[21]
lời
4
35. 
Trừng thanh
Trừng thanh rẽ rẽ trần hiêu cách. [1]
bỏ sạch được người gian, tục xấu
1
36. 
Truy mộ
Ai là không động lòng truy mộ. [30]
hâm mộ và đi theo
1
37. 
Tu tập
Thiện nam tín nữ cùng lòng tu tập. [18]
sửa sang
1
38. 
Y quốc
Lảng vui há lảng niềm y quốc. [12]
trị nước
1

Số lượng từ cổ trong văn bản là 97 từ/ 2372 đơn vị từ được thống kê, chiếm 4,1%. Từ Việt cổ có số lượng là 59 từ/ 2372 đơn vị từ được thống kê, chiếm 2,5%. Như vậy, so với các văn bản như Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh (14,2%), Quốc âm thi tập (8,75%), Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca (6,9%)(3), tỉ lệ từ cổ trong văn bia chữ Nôm thấp hơn rất nhiều. Điều này là do từ cổ tập trung chủ yếu ở văn bia thế kỷ XVIII trở về trước (88 từ cổ/ tổng số 130 lượt từ cổ được thống kê, chiếm 67,7% ), mà số lượng văn bia này lại rất hạn chế; đến văn bia thế kỷ XX thì số lượng từ cổ còn rất ít vì lúc này ngôn ngữ tiếng Việt đã bắt đầu quá trình đào thải những yếu tố cũ trong kho từ vựng để thay thế bằng những yếu tố mới.
Sự xuất hiện của từ cổ trong văn bản văn bia chữ Nôm có ý nghĩa bổ sung tư liệu cho nghiên cứu và chỉnh lý các từ điển từ cổ. Mặc dù số lượng từ cổ trong văn bản văn bia chữ Nôm không nhiều nhưng nó phản ánh sự tồn tại và mất đi của một số từ cổ trong các thời đại khác nhau một cách chân thực. Bài viết trên đây chỉ mới là những trình bày sơ lược từ kết quả nghiên cứu văn bia chữ Nôm của chúng tôi. Điều này, một phần cũng do số lượng tư liệu hiện còn chưa đủ để đưa ra những nhận xét hay kết luận mang tính khái quát. Chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý, và hy vọng có thể bổ sung vào một dịp khác.

Chú thích:
(1)Chữ này chúng tôi theo bản phiên âm của TS. Trương Đức Quả, hiện chưa tiếp cận được bản gốc nên chưa biết tự dạng thế nào.
(2)Như chú thích trên.
(3)Theo số liệu thống kê của ThS. Trần Trọng Dương, Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Tài liệu tham khảo

I. Các tư liệu văn bia Nôm (số thứ tự văn bia Nôm theo danh mục xếp theo niên đại)

TT

Tên bia

Năm tạo
Địa điểm
Kí hiệu
1. 
Ngù ®Ò御題
1486
Dưỡng Mông, Kinh Môn, Hải Dương.
11765
2. 
T©n t¹o bi ký c¸c bøc ®¼ng tõ 新造碑記各幅等詞
1657
Tiên Lữ, Quốc Oai, Hà Tây
1938-39
3. 
B¶n x· t¹o lËp lÖ tÞch kho¸n ­íc c¸c ®iÒu bi v¨n
1693
Tam Đa, Yên Phong, Bắc Ninh
3961-62
4. 
V« ®Ò
1698
Gia Phúc, Thường Tín, Hà Tây
7881
5. 
Ngù ®Ò Nh¹c L©m tù thi
1717
Sơn Lộ, Quốc Oai, Hà Tây
1959
6. 
Ngù ®Ò Ph¸p Vò tù thi
1718
Gia Phúc, Thường Tín, Hà Tây
7880
7. 
TËp phóc h­ng c«ng cÊu t¹o kiÒu §«ng lËp bi ký
1718
Thụ ích, Yên Lạc, Vĩnh Phúc
5911-14
8. 
Ngù chÕ
1730
Thụy Hương, Chương Mỹ, Hà Tây
24388-89
9. 
HËu PhËt bi ký
1731
Lạc Đạo, Văn Lâm, Hưng Yên
5252-53
10. 
HËu PhËt bi
1732
Lạc Đạo, Văn Lâm, Hưng Yên
5249-51
11. 
HiÓn Linh tù trung bi ®×nh ®Ö nhÊt bi 顯靈寺中碑亭第一碑
1740
Lại Yên, Hoài Đức, Hà Tây
1460-61
12. 
Th­ bót ®Æc tø
1748
Thiện Mỹ, Hiệp Hòa, Bắc Giang
9213 -14
13. 
ChÝ mü bi ký
1767
Phú Đa, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc
14527
14. 
§¨ng TuyÕt S¬n h÷u høng
1770
Hương Sơn, Mỹ Đức, Hà Tây
34471
15. 
VÞnh TuyÕt S¬n c¶nh
1770
Hương Sơn, Mỹ Đức, Hà Tây
34478
16. 
V« ®Ò
1770
Hương Sơn, Mỹ Đức, Hà Tây
34482
17. 
V« ®Ò
1770
Hương Sơn, Mỹ Đức, Hà Tây

18. 
HËu thÇn bi ký
1780
Hữu Hòa, Thanh Trì, Hà Nội
2140
19. 
V« ®Ò
1914
Phụng Châu, Chương Mỹ, Hà Tây
31510
20. 
V« ®Ò
1914
Phụng Châu, Chương Mỹ, Hà Tây
31509
21. 
§ång Quang tù bi ký
1916
Quang Trung, Đống Đa, Hà Nội
21096
22. 
Kh¶i §Þnh b¸t niªn nhÞ nguyÖt thËp nhËt lËp bi ký
1923
Bồ Đình, Gia Viễn, Ninh Bình
19457
23. 
Danh ph­¬ng thiªn t¶i
1925
Vân Phương, Tiên Lữ, Hưng Yên
18485
24. 
V« ®Ò
1925
Phụng Châu, Chương Mỹ, Hà Tây
31517
25. 
Di chóc bi v¨n
1927
Phạm Lâm, Thanh Miện, Hải Dương
19736
26. 
Lª ThÞ Quyªn Th­ bi ký
1928
Kiến Hưng, Hà Đông, Hà Tây
24084
27. 
Ký kþ bi ký
1931
Cổ Nhuế, Từ Liêm, Hà Nội

28. 
V« ®Ò
1933
Tây Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội
Trương Đức Quả
29. 
§¹i Bi tù ®iÒu lÖ chÝ
1939
Cát Quế, Hoài Đức, Hà Tây
40323
30. 
Bia truyÒn ®¨ng chïa Linh ng
1944
Trung Hưng, Sơn Tây, Hà Tây
36067
31. 
V« ®Ò
Quý Mùi
Chân Lý, Nam Xương, Hà Nam
28455
32. 
V« ®Ò
ất Hợi
Văn miếu - Quốc tử giám, Đống Đa, Hà Nội
21405
33. 
C«ng ®øc bi ký

Phụng Châu, Chương Mỹ, Hà Tây
31502
34. 
V« ®Ò

Phụng Châu, Chương Mỹ, Hà Tây
31521
35. 
Xu©n thiªn bót th¶o

Đông Sơn, Thanh Hóa
16652
36. 
HËu kÞ bi kÝ

Vĩnh Quỳnh, Thanh Trì, Hà Nội
Phật Giáo 22

II. Các sách và chuyên luận có liên quan

37.An Nam dịch ngữ, Vương Lộc (dịch và chú giải), Nxb, Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng, 1997.
38.Nguyễn Thạch Giang: Từ ngữ văn Nôm, Nxb. KHXH, 1963.
39.Nguyễn Thạch Giang: Tiếng Việt trong thư tịch cổ Việt Nam, Nxb. KHXH, H.2003.
40.Hoàng Xuân Hãn: Văn Nôm và chữ Nôm thời Trần Lê, trong "La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn", Nxb. Giáo dục, 1998.
41.Nguyễn Thị Lâm: Nghiên cứu chữ Nôm và tiếng Việt qua văn bản "Thiên Nam ngữ lục", Luận án Tiến sĩ ngữ văn, H. 2002.
42.Vương Lộc: Từ điển từ cổ, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng, 2002.
43.Nguyễn Ngọc San: Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử, Nxb. Đại học Sư phạm, H. 2003.
44.Nguyễn Ngọc San - Đinh Văn Thiện: Từ điển từ Việt cổ, Nxb. VH-TT, H. 2001.
45.Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, Nxb. KHXH, H. 1988.
46.Trần Xuân Ngọc Lan: "Một số từ cổ trong cuốn Chỉ nam ngọc âm", Ngôn ngữ, số 3 - 1978./.
(Thông báo Hán Nôm học 2009, tr.507-522

Sunday 28 April 2013

Tản mạn về “chuẩn mực chính tả thống nhất…” (Nguyễn Đức Dân)


                                 (nhân Hội thảo quốc gia Xây dựng chuẩn mực chính tả thống nhất
                                  trong nhà trường và trên các phương tiện truyền thông đại chúng)  
                                                                   
                                                                                                   GS TS Nguyễn Đức Dân
                                                                       
Không thể có quy tắc chính tả nào đúng tuyệt đối
Những quy tắc cho một chuẩn lý tưởng, ở mức độ thứ nhất là những quy tắc tuyệt đối đúng. Ở mức độ thứ hai, nếu không tuyệt đối đúng thì những quy tắc được mọi người chấp nhận cũng là chuẩn lý tưởng. 
Những quy tắc cho một chuẩn thực tế là những quy tắc đúng cho hầu hết các trường hợp, trừ một số ít ngoại lệ, và được rất nhiều người chấp nhận. Chuẩn thực tế là chuẩn chấp nhận những biến thể. Một từ thuần Việt, một tên riêng, một từ vay mượn đều có thể có những biến thể và đều có thể được coi là chuẩn. Cái sai quen dùng thì được coi là chuẩn trên thực tế. 
Quy tắc chính tả do con người đặt ra. Ngôn ngữ luôn luôn biến đổi, không có cách viết nào là cố định, bất di bất dịch. Bởi vậy, dù có những nguyên tắc chính tả tuân theo một hệ thống khoa học chặt chẽ nào chăng nữa thì với thời gian sẽ luôn luôn tồn tại những hiện tượng chính tả ngoại lệ  không theo một lô gích nào cả. Đều không phải con ruột, đã viết con rể tại sao lại còn viết con dâu? Cùng là hàng cây bao bọc, che chắn quanh nhà đã viết bờ rào sao lại còn viết bờ giậu? Lô gích nào biện hộ cho những cách viết khác nhau trên đây về phụ âm đầud~/gi~/r~?
Vậy thì liệu có một hệ thống chính tả tuyệt đối đúng làm chuẩn mực được không?
            Có nhiều quy luật chi phối cách chữ viết. Đôi khi, theo luật này lại mâu thuẫn với luật kia.Thế là sinh ra những ngoại lệ, những “vượt rào” khỏi quy tắc.
Quy tắc bỏ dấu thanh điệu xưa nay căn cứ vào ngữ âm: “dấu thanh bỏ ở âm chính của vần”. Gặp vần có nguyên âm đôi“kìa tiếng chuông chùa  bữa trước”, không có chữ nào mang âm chính nên lại thêm một quy tắc cảm tính “dấu thanh điệu bỏ ở vị trí “cân xứng”, “hài hoà”. Thực ra, đây này là luật thẩm mĩ –   một quy tắc bất thành văn – trong nhận thức về chữ viết của người Việt: “hình chữ phải đẹp”.
Có những trường hợp, tôn trọng quy tắc này lại vi phạm quy tắc kia. Bỏ dấu theo quy tắc ngữ âm chúng ta viết hoà bình, loá mắt, trắng xoá, sức khoẻ, huỷ hoại, cổ suý, Thuý Kiều, … Ấy vậynhưng trong thâm tâm, nhiều người thích hình chữ phải đẹp nên vẫn viết  hòa bình, lóa mắt, trắng xóa, sức khỏe, hủy hoại, cổ súy, Thúy Kiều,…Vậy là trong những trường hợp trên không thể có một chuẩn duy nhất, chúng ta chấp nhận có hai biến thể thực tế đều được coi là chuẩn.  
 Viết hay cũng liên quan tới luật thẩm mĩ hình chữ phải đẹp.
Theo quy định của Bộ Giáo Dục, phải viết kì lạ, lí luận, vật lí, mĩ vị, Nam Kì. Quy định này trái với cách viết trên báo chí thời xưa: Trong Gia Định Báo năm 1881, 1882 hay trong Nông Cổ Mín Đàm năm 1902chúng ta gặp: ký tên;thơ ký; trong kỳ 15 ngày; xem kỹ; Nam-Kỳ; kỳ nhứt; anh lấy làm kỳ; Lý văn Ngọc; chánh lýchưởng lý; mạng lýcó lý lắmlàng Bình-hy,…
 “Hình chữ phải đẹp” trong thâm tâm người Việt là cần cân đối về độ cao giữa các con chữ trong một từ. Đại để là trong một từ nếu con chữ một phụ âm đứng cạnh /i/ nhô cao lên thì ta viết  nhằm tạo ra sự hài hòatrên dưới. Nhiều người thường ‘phá rào’ ở quy định viết này. Viết lý thì phần trên và phần dưới chữ này cân đối với nhau, còn viết lí  thì phần dưới chữ này hơi bị hẫng. Và người ta viết quản lý, lý luận, lý lịch, môn vật lý, kỹ thuật, … Cách viết Hoa Kỳ cũng theo cái lý này. Những phụ âm nào cùng độ cao đứng trước với /i/ thì có khuynh hướng dùng isi mê; mị dân; chim ri; rên rỉ ; xanh rì; vi phạm; vì sao; vị trí;… 
Điều thú vị là viết nước Mỹ vẫn theo đúng luật thẩm mĩ. Chữ M (viết hoa) nhô cao hơn chữ i nên mới viết Mỹ chứ không viết nước Mĩ.
Viết tên riêng nước ngoài thế nào?
Mỗi dân tộc ghi tên riêng theo hệ chữ viết của mình. Một tên riêng có nhiều biến thể, những biến thể lịch sử và những biến thể do quy luật tiết kiệm nội tại của ngôn ngữ. Nghĩa là không có một tên riêng duy nhất chuẩn.
            Tên riêng nước ngoài nhập vào tiếng Việt trước hết qua tiếng Trung Quốc và được viết có dấu nối:  Anh-Cát-Lợi, Ba-Lê, Luân-Đôn, Hoa-Thịnh-Đốn, … Sau đó những dấu nối được bỏ đi.
Chịu ảnh hưởng của tiếng Pháp, tiếp đến là tiếng Anh nhiều tên được chuyển lại theo cách đọc Pháp, rồi cách đọc Anh hoặc trở lại nguyên gốc: Pari; Oa sinh tơn. Nhưng vẫn gọi Luân Đôn vì âm khá gần với âm gốc London.
Do nguyên lý tiết kiệm trong ngôn ngữ, nhiều tên riêng tự động được rút gọn thành những tên một âm tiết nghe rất Việt Nam: Anh, Úc, Ý, Áo, Mỹ, Báo chí thường viết ‘HLV người Bồ Calisto’ chứ ít viết ‘HLV người Bồ Đào Nha Calisto’.
Nên phiên âm hay giữ nguyên dạng tên riêng nước ngoài?
Theo quan điểm phiên âm sẽ gặp nhiều trở ngại.
Có những từ nước ngoài phiên âm thế nào cũng dẫn tới những cách đọc không đúng như từ gốc. Nên phiên âm từ Genève[1] thế nào? Giơ-ne ; Giơ-ne-vơ; hay Giơ-neo? Theo cách nào thì người Việt bình thường cũng cứ đọc không chuẩn như nguyên ngữ, sẽ nhấn mạnh tới âm tiết đứng cuối ne, vơ, neo. Nghe rất kỳ. Tiếng Việt thiếu nhiều vần có trong các thứ tiếng khác nên rất nhiều từ không thể có phiên âm chuẩn.
Nhiều tên riêng chứa đựng ý nghĩa, nếu phiên âm sẽ xóa đi nghĩa có trong nguyên ngữ. Ví dụ: “Khi còn cầm quyền, tổng thống Pháp Sarkozy và bà Merkel đã hình thành liên minh “Merkozy” (báo, 08.5.2012). Phiên âm thế nào cái tên Merkozy (lấy phần đầu tên nữ thủ tướng Đức Merkel nhập vào phần cuối tên ông Sarkozy) trong câu trên để nói được rằng đây là liên minh của hai chính khách trên?
 Nguyên tắc cơ bản của việc viết tên riêng nước ngoài theo hệ chữ Latinh là phải viết đúng tới mức tối đa có thể theo mặt chữ như nó vốn có
 Đầu óc tôn ty của người Việt dẫn tới những mâu thuẫn khi viếttên riêng Trung Quốc.
Trước đây bất kể tốt xấu, cao thấp, cứ tên riêng Trung Quốc là được phiên âm theo cách đọc Hán Việt:Bắc Kinh, Khổng Tử, Tôn Trung Sơn, “cầu thủ bóng bàn có quái chiêu Trương Nhiếp Lâm”,… Trong sâu thẳm tâm thức người Việt cảm nhận sự gần gũi thân thuộc khi đọc một tên Hán – Việt. Trong vòng mươi lăm năm gần đây, theo thông lệ quốc tế tên riêng của những người Trung Quốc hạng “bình dân” dần dần được viết bằng chữ Latinh và phiên theo âm Bắc Kinh. Tên của những nhà vô địch bóng bàn thế giới đã được viết là Kum Pu Ru, Wang Haochứ không còn mấy ai viết là Khổng Lệnh Huy hay Quang Hạo. Đó là sự hội nhập quốc tế tích cực. Tuy nhiên, với đầu óc tôn ty người Việt vẫn gọi những người đứng đầu nhà nước Trung Quốc theo tên Hán-Việt: Hồ Cẩm Đào, Tập Cận Bình… Vậy là thiếu nhất quán. Tôi đồng ý với PGS Đoàn Lê Giang, từ nay trở đi tên riêng Trung Quốc cần viết theo phiên âm Bắc Kinh: hai tên này nên phiên là   Hú Jǐntāo, Xí Jìnpíng.

Saturday 27 April 2013

LÝ THUYẾT LÀN SÓNG TRONG NGHIÊN CỨU NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA THĂNG LONG - HÀ HỘI (Trịnh Cẩm Lan)


                      LÝ THUYẾT LÀN SÓNG TRONG NGHIÊN CỨU NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA THĂNG LONG - HÀ HỘI                                                                                 
                                                                                              
TS. Trịnh Cẩm Lan *

1. Lý thuyết làn sóng là gì?
            Lý thuyết làn sóng (Wave theory) hay Mô hình làn sóng (Wave model) là một lý thuyết về sự biến đổi ngôn ngữ, trong đó, những hình thức mới của một ngôn ngữ lan truyền từ một điểm trung tâm ra các vùng ngoại vi trong trạng thái sôi động ở trung tâm và yếu dần ở ngoại vi. Mô hình này thường được so sánh với hình ảnh được tạo ra khi ta ném một hòn đá xuống mặt nước.
            Lý thuyết làn sóng được xem là do các nhà nghiên cứu thuộc trường phái Truyền bá luận (diffussionism) châu Âu nêu ra từ cuối thế kỷ XIX. Những người đầu tiên đề cập đến lý thuyết này là hai nhà nghiên cứu người Đức Johannes Schmidt và Hugo Schuchardt vào năm 1872 [1]. Các nhà truyền bá luận cũng như hai nhà nghiên cứu là tác giả của lý thuyết làn sóng đều chủ trương rằng, mọi sự biến đổi và cách tân ngôn ngữ (cũng như trong văn hóa) bao giờ cũng xuất phát từ một nơi rồi lan truyền ra các vùng khác và chính sự lan truyền ấy đã tạo nên một động lực của sự phát triển ngôn ngữ (hay văn hóa).
            Liên quan đến lý thuyết làn sóng là một số các khái niệm, các mô hình lý thuyết khác, không chỉ trong nghiên cứu ngôn ngữ, mà rộng hơn, cả trong và trước hết là trong nghiên cứu văn hóa. Các nhà nghiên cứu văn hóa nhân chủng học phương Tây cuối thế kỷ XIX đầu XX nhắc đến các khái niệm như sự thiên di, sự lan tỏa, sự loang ra… của văn hóa. Đó là sự truyền bá các hiện tượng văn hóa thông qua những cuộc tiếp xúc giữa các dân tộc, các bộ lạc bằng buôn bán, di dân và thậm chí… bằng xâm lược. Cũng có một số học giả gọi lý thuyết truyền bá luận trong nghiên cứu văn hóa là lý thuyết về các vùng văn hóa hay các khu vực văn hóa[2]. Tương tự như vậy, trong nghiên cứu ngôn ngữ, các nhà ngôn ngữ học cũng nhắc đến hàng loạt các khái niệm phát sinh trên cơ sở lý thuyết này như sự truyền bá, sự lan tỏa, sự khuyếch tán… của các yếu tố ngôn ngữ chủ yếu thông qua tiếp xúc và di dân. Một trong những hệ luận nổi tiếng của Truyền bá luận là lý thuyết Trung tâm và ngoại vi trong nghiên cứu văn hóa (và không loại trừ cả trong ngôn ngữ) do các nhà nhân học Xô Viết đưa ra qua công trình “Trung tâm và ngoại vi trong nghiên cứu văn hóa từ sau các phát kiến địa lý” vào cuối thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX. Từ thực tế hình thành và phát triển của các nền văn minh lớn trên thế giới như văn minh Đông Á mà Trung Hoa là trung tâm, văn minh Nam Á mà Ấn Độ là trung tâm… các tác giả Nga Xô Viết đã phát hiện ra quy luật về sự lan truyền các yếu tố văn hóa từ trung tâm theo mô hình làn sóng, cũng như sự tác động qua lại giữa trung tâm và ngoại vi trong các khu vực văn hóa [3]. Kết quả đó đã mở ra nhiều khả năng ứng dụng để giải thích không chỉ các quy luật văn hóa mà cả các quy luật ngôn ngữ trong các nghiên cứu văn hóa và ngôn ngữ học hiện đại sau này. Liên quan trực tiếp đến lý thuyết làn sóng, lý thuyết trung tâm và ngoại vi trong nghiên cứu ngôn ngữ là một khái niệm tương ứng trong ngôn ngữ học, đó là khái niệm và lý thuyết về các khu vực ngôn ngữ, những khu vực được tạo ra do những làn sóng ngôn ngữ với trung tâm và ngoại vi của nó. Các khu vực ngôn ngữ thường được nhắc đến nhiều là khu vực ngôn ngữ Đông Á, khu vực ngôn ngữ Ấn Độ, khu vực ngôn ngữ Ban Căng…
                                  
Hình 1: Mô hình làn sóng của Johannes Schmidt, 1872
Nguồn: Asher  R. E., The Encyclopedia of Languages and Linguistics, Pergamon Press, 1994.
Từ khi ra đời năm 1872 đến nay, lý thuyết làn sóng đã có những bước phát triển mới. Từ lý thuyết ban đầu mà Johannes Schmidt và Hugo Schuchardt đưa ra theo mô hình được minh họa ở hình 1, đến năm 1973, Charler Bailey trong nghiên cứu “Những phương pháp mới để phân tích biến thể trong tiếng Anh” (New ways of Analyzing Variation in English)[4] đã đưa ra một mô hình làn sóng mới (Hình 2 và Hình 3) trên cơ sở nghiên cứu, kiểm chứng quy luật lan truyền của những làn sóng ngôn ngữ trong ngôn ngữ học xã hội hiện đại.
Hình 2: Mô hình làn sóng mới theo không gian và thời gian
của Charler Bailey, 1973
Nguồn: Walt W, Ralph W. Fasold, The study of Social Dialects in American English, Newbury House Publishers & Rowley, Massachusetts, 1974, tr. 76.
Hình 3: Mô hình làn sóng mới theo một hướng
của Charler Bailey, 1973
Nguồn: Walt W, Ralph W. Fasold, The study of Social Dialects in American English, Newbury House Publishers & Rowley, Massachusetts, 1974, tr. 77.
Trên đây là mô hình làn sóng mới của Charler Bailey được biểu diễn bằng sự lan tỏa trong không gian và thời gian. Yếu tố không gian được thể hiện qua những vòng sóng. Yếu tố thời gian được thể hiện quan các thời điểm khác nhau, từ thời điểm đầu tiên (Time i) đến thời điểm cuối cùng (Time vii). Theo mô hình này, các vòng sóng đều khởi phát từ một điểm rồi lan truyền đều đặn ra xung quanh (Hình 2) hoặc lan truyền theo một hướng (Hình 3) và tạo nên những khu vực ngôn ngữ (hay phương ngữ) gồm trung tâm và ngoại vi cùng có chung những đặc trưng ngôn ngữ nhất định. Về nguyên lý, đặc trưng cơ bản của khu vực trung tâm (focal areas), theo Walt W và Ralph W. Fasold, là sự thu hút, tích hợp hay hội tụ (convergence), định hình rồi lan tỏa (spreading). Do vị thế chính trị, văn hóa, xã hội… mà trung tâm bao giờ cũng có sức thu hút cao những yếu tố từ ngoại vi. Người ta gọi đó là chức năng “tụ nhân, tụ tài” của trung tâm. Sau quá trình thu hút và tích hợp vào trung tâm, các yếu tố đó sẽ được nhào nặn và định hình. Với tính năng động và sôi động của trung tâm, các sản phẩm đã được định hình lại lan tỏa, truyền bá ra ngoại vi, dần dần tạo nên sự thống nhất diện mạo của một khu vực ngôn ngữ hay phương ngữ. Trung tâm còn có một đặc trưng nữa, nó không chỉ là đầu mối giao lưu, tiếp xúc trong khu vực mà còn cả ngoài khu vực. Với đặc trưng này, trung tâm trở thành trạm trung chuyển những tiếp xúc từ các trung tâm bên ngoài vào khu vực. Còn các khu vực ngoại vi, chúng không chỉ chịu lực hút từ trung tâm mà còn tiếp nhận sự lan toả của trung tâm. Ngoại vi bao giờ cũng ít sôi động hơn trung tâm, những làn sóng ngôn ngữ ra ngoại vi thường thưa hơn, yếu hơn và có phần tĩnh lặng làm cho ngôn ngữ ở ngoại vi thường lưu giữ được những dạng thức cổ hơn so với trung tâm. Các nhà ngôn ngữ gọi đây là những khu vực di tích (relic areas)[5] hay các hóa thạch ngôn ngữ.
Mặc dù đều dựa trên một nguyên lý chung là sự lan truyền của những vòng sóng từ một điểm nào đó trong không gian rồi lan tỏa ra những khu vực lân cận (theo Schmidt) và ngoại vi (theo Bailey) nhưng những mô hình minh họa được đưa ra trước và sau một thế kỷ đã có những khác biệt đáng kể. Mô hình làn sóng của Schmidt, về bản chất, hình như vẫn chưa phản ánh được những quy luật lan truyền thực sự của “làn sóng”. Trong khi đó, mô hình làn sóng mới (new wave model) của Bailey theo cách gọi của Walt W và Ralph W. Fasold, thực sự mô hình hóa được quy luật lan truyền của sóng (hình 2). Tất nhiên, tác giả của nó cũng ý thức được rằng đó chỉ là một mô hình lý tưởng. Sự phức tạp sẽ nảy sinh khi xuất hiện một vật cản nào đó - một yếu tố tự nhiên hay xã hội[6] - làm chặn đứng sự lan truyền của sóng ở một điểm, tạo ra mô hình làn sóng lan truyền theo một hướng (hình 3). Đó là bằng chứng về bước phát triển và sự cơ động trong mô hình của Bailey mà chúng tôi muốn nhấn mạnh.
            Từ khi ra đời, lý thuyết làn sóng đã mang lại nhiều hiệu lực giải thích trong nghiên cứu sự biến đổi ngôn ngữ, một trong những tâm điểm nghiên cứu của ngôn ngữ học xã hội và phương ngữ học. Tiếp thu những quy luật lan truyền của làn sóng ngôn ngữ, các nhà ngôn ngữ học xã hội đã vận dụng trong nghiên cứu hàng loạt các vấn đề của ngôn ngữ học hiện đại như vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ giữa các cộng đồng ngôn từ khác nhau, vấn đề song ngữ, đa ngữ… Đặc biệt, sự truyền bá và khuyếch tán ngôn ngữ trở thành một trong những chủ đề xuyên suốt trong ngôn ngữ học xã hội từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX cho đến tận bây giờ. Công trình gần đây nhất của W. Labov “Sự truyền bá và khuyếch tán” (Transmission and Diffusion) đăng trên “Language” số 83, tháng 6 năm 2007 đã tổng kết tới mấy chục công trình nghiên cứu sự lan truyền của các yếu tố ngôn ngữ ở nhiều khu vực ngôn ngữ khác nhau trên thế giới [7].
2. Lý thuyết làn sóng trong nghiên cứu ngôn ngữ, văn hóa Thăng Long - Hà Nội
2.1. Trường hợp 1: tích hợp và lan tỏa trong tiếng Việt ở Hà Nội thời dựng nước
        Theo sử sách, vua Hùng lập quốc rồi định đô ở Bạch Hạc (Việt Trì), đỉnh chóp cao nhất của tam giác châu thổ sông Hồng, vì đó là vùng giáp ranh giữa miền núi và miền xuôi [8]. Gần hai nghìn năm sau, vua Thục dời đô xuống Cổ Loa, trung tâm kinh tế - văn hóa của đất nước đã bị hút về xuôi, đỉnh chóp thứ hai của tam giác châu thổ sông Hồng ở ngã ba sông Đuống đã được định vị. Nhiều nguồn sử liệu đã cho biết rằng tam giác châu thổ sông Hồng này chính là cái nôi của người Việt cổ. Nhưng tính chất Việt cổ nơi đây lại là kết quả của một sự hòa trộn của nhiều tộc người khác nhau trong một cộng đồng chung thống nhất. Theo Trần Quốc Vượng, đó là sự hòa trộn của “những nhân tố cư dân - ngôn ngữ - văn hóa: Môn Khme cổ, Tày Thái cổ, Mã Lai cổ và thậm chí cả Tạng Miến cổ trong sự hình thành phức hệ cư dân - ngôn ngữ - văn hóa Việt cổ” [9].
Trên cơ sở thu thập và phân tích những cứ liệu về quá trình hội tụ và phân hóa tộc người - ngôn ngữ - văn hóa dẫn đến sự hình thành những phức hợp văn hóa mới kiểu Đông Sơn và những nhóm ngôn ngữ mới kiểu nhóm Việt - Mường, nhóm Chàm, nhóm Mèo - Dao…, các nhà khảo cổ học và ngôn ngữ học cho rằng nhóm Việt - Mường là kết quả của sự hội tụ và tiếp xúc của một bộ phận cư dân Môn Khme với một bộ phận cư dân Tày Thái[10]. Kết quả nghiên cứu đó cho phép các học giả như Hà Văn Tấn, Phạm Đức Dương… đưa ra giả thiết về những con đường thiên di trong lịch sử, được xác định là vào khoảng thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên. Giả thiết cho rằng vào thời gian này, hàng loạt các cộng đồng tộc người mà chủ yếu những cư dân Môn Khme vùng Bắc Đông Dương (vùng Thượng Lào) - những người nói tiếng tiền Việt Mường và sống bằng nghề săn bắt hái lượm và làm nương trên các triền núi cao, do sức hấp dẫn của năng suất  lúa nước và cuộc sống ổn định dưới đồng bằng, đã di cư ào ạt xuống các vùng trũng xung quanh vịnh Hà Nội[11], thuộc tam giác châu thổ sông Hồng, cộng cư rồi hòa huyết với các cộng đồng nói tiếng Tày Thái cổ ở đây. Trong quá trình khai khẩn đồng bằng sông Hồng, cộng đồng cộng cư đó đã phát triển thành một cộng đồng mới: cộng đồng cư dân Việt Mường, những người nói tiếng Việt - Mường chung. Vì lý do đó, các nhà nghiên cứu lịch sử tiếng Việt đã khẳng định tiếng tiền Việt Mường, tiếng nói của tổ tiên người Việt thời dựng nước - những người đã cư trú trên địa bàn xung quanh vùng vịnh Hà Nội thời đó - có cơ tầng Môn Khme và cơ chế Tày Thái.
Những dấu tích ngôn ngữ trong quá trình phát triển lịch sử của tiếng Việt phản ánh rất rõ sự hội tụ này.
Về mặt ngữ âm, tiêu biểu hơn cả là hiện tượng đơn tiết hóa do ảnh hưởng của cơ chế Tày Thái là những ngôn ngữ đơn tiết. Đó là việc mất hẳn phương thức phụ tố, cấu trúc từ chuyển từ dạng CCVC thành CVC làm nên đại đa số trường hợp âm tiết trùng với từ, trùng với hình vị. Hệ quả là tiếng Việt Mường chung có cấu trúc âm tiết kiểu CVC, nhóm phụ âm đầu bị rụng hoàn toàn, chỉ còn rải rác vài yếu tố phụ đi theo phụ âm đầu như bl, tl, ml… Dấu tích của những phụ âm này đến thời gian gần đây vẫn còn ở một số đảo ngữ thuộc khu 4 cũ, vùng phương ngữ Nghệ Tĩnh[12]. Trong quá trình phát triển của lịch sử tiếng Việt, đặc biệt là giai đoạn từ tiền Việt Mường chuyển sang Việt Mường chung, vai trò của sự hội tụ và hòa trộn với các ngôn ngữ Tày Thái là quan trọng nhất. Thưc tế, tiếng Chứt ở miền Tây Quảng Bình, tiếng Poọng ở miền Tây Nghệ Tĩnh là dấu vết còn lại của tiếng tiền Việt Mường mà chủ nhân của nó là những cư dân tiền Việt Mường không di cư xuống vùng vịnh Hà Nội. Có thể quan sát sơ đồ sau đây của Hà Văn Tấn để hình dung rõ hơn về điều đó:

        

Hình 4: Sơ đồ quá trình chuyển biến của các ngôn ngữ Việt Mường,
Hà Văn Tấn. 1977.
Nguồn: Phan Ngọc và Phạm Đức Dương, Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á, Viện Đông Nam Á, Hà Nội, 1983, tr. 123.                       
Về mặt từ vựng, khác với các ngôn ngữ tiền Việt Mường còn bảo lưu trong tiếng Chứt, tiếng Poọng, do tiếp xúc và hội tụ với các ngôn ngữ Tày Thái, tiếng Việt Mường chung đã có một sự pha trộn đáng kể về vốn từ do một số lượng lớn các từ vựng gốc Thái du nhập vào. Tiếng Việt hiện nay còn bảo lưu rất nhiều yếu tố gốc Thái trong các kết cấu hỗn hợp kiểu:
- cá bống , lược , mặt nạ, mưa phùn…(yếu tố Tày Thái in nghiêng, cùng nghĩa nhưng làm định ngữ cho yếu tố Việt)
- chó , cỏ giả, tre pheo, áo xống, kiêng khem… …(yếu tố Tày Thái cùng nghĩa nhưng bị mất nghĩa làm cho từ mang nét nghĩa khái quát)
- trắng nõn, xanh , thơm phức… (yếu tố Tày Thái bị mất nghĩa làm cho từ sắc thái và nét nghĩa hạn định)
Hàng loạt các từ thuộc lớp từ vựng cơ bản chỉ những con vật quen thuộc trong đời sống như gà, vịt… trong tiếng Việt cũng là những từ gốc Thái.
Còn rất nhiều những cứ liệu ngôn ngữ khác mà Phạm Đức Dương đã đưa ra trong công trình của ông về vấn đề này mà chúng tôi không thể dẫn ra hết (Xin tham khảo Phan Ngọc và Phạm Đức Dương, đã dẫn)
Không chỉ thế, ngoài hai yếu tố chính là Môn Khme và Tày Thái, tiếng Việt Mường còn được cho là hình thành bởi cả những yếu tố thuộc dòng Mã Lai, Tạng Miến… Thực tế, những dấu tích để lại về mặt địa danh mà Trần Trí Dõi sau này đã tìm ra bằng phương pháp phục nguyên nguồn gốc ngôn ngữ như sông “Cà Lồ”, làng “Cán Khê” (địa danh thuộc huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội) với nguồn gốc Nam Đảo[13] là một trong những cứ liệu ngôn ngữ xác đáng chứng minh cho sự hội tụ trên đây từ trong lịch sử. Những số đếm đơn giản như một, hai, cho đến mười, rồi trăm, ngàn… lại có cội nguồn Nam Á[14] được mượn vào tiếng Việt từ thời kỳ đầu và tồn tại đến tận ngày nay. Sự tiếp nhận từ khu vực bên ngoài đó, qua một trạm trung chuyển là Hà Nội cổ, rồi trở thành những làn sóng ngôn ngữ lan tỏa ra khắp xung quanh và các vùng phụ cận. Kết quả, chẳng ai còn nhớ chính xác là từ khi nào những đơn vị từ vựng đó đã trở thành phương tiện giao tiếp chung của tất cả người Việt.
2.2. Trường hợp 2: tích hợp và lan tỏa sự tiếp xúc Việt Hán
 Lịch sử cho thấy, vào khoảng đầu Công nguyên, người Việt ở đất Giao Chỉ, đặc biệt là ở vùng Long Biên - Hà Nội, đã bắt đầu tiếp xúc với tiếng Hán do việc các quan thái thú bắt đầu mở trường dạy chữ Hán ở Long Biên. Khi Trung Hoa loạn lạc, rất nhiều người thuộc tầng lớp quan lại Trung Hoa đã chạy sang đất Giao Chỉ sinh sống và họ cư trú chủ yếu ở vùng Long Biên - Hà Nội. Đây là một bộ phận cư dân quan trọng góp phần thúc đẩy sự tiếp xúc ngôn ngữ và văn hóa Việt - Hán và tạo nên diện mạo lịch sử của tiếng Việt giai đoạn này. Có thể nêu một cách khái quát diện mạo đó như sau:
- Sự tiếp xúc với tiếng Hán ảnh hưởng mạnh đến sự phát triển nội bộ của tiếng Việt. Những từ gốc Hán được tiếng Việt vay mượn vào thời kỳ này được giới Việt ngữ học gọi là các từ Hán - Việt cổ. Thời kỳ này, tiếng Việt Mường chung, qua tiếp xúc, đã mượn một số từ Hán lẻ tẻ vào để làm phong phú thêm cho cách diễn đạt của mình. Những từ được mượn thời đó là những từ Hán Cổ và được đọc mô phỏng theo âm Hán cổ, không giống với cách đọc Hán Việt của thời kỳ sau (từ đời Đường trở đi). Đối chiếu một số từ được mượn thời kỳ này và đọc theo âm Hán cổ với chính nó được mượn vào thời kỳ sau và đọc theo âm Hán Việt có thể thấy điều đó:
Hán cổHán ViệtHán cổHán Việt
bụaphụChémtrảm
buồmphàmChéntrản
buồnphiềnĐũatrợ
buồngphòngmạngmệnh
Trong quá trình này, Long Biên - Hà Nội là địa bàn diễn ra mạnh mẽ nhất rồi mới lan tỏa ra các vùng phụ cận. Việc ăn cơm bằng đũa, bằng thìa, bằng bát (ảnh hưởng của văn hóa Hán) được thấy ở vùng xung quanh Long Biên thời gian này đưa đến sự vay mượn các từ như đũa, thìa, bát… trong khi cư dân các vùng núi phía Bắc - mặc dù gần Trung Hoa hơn - vẫn ăn bốc (bằng tay), đựng thức ăn bằng lá và hầu như chưa biết đến các từ chỉ các sự vật nói trên. Và, trong khi người Việt ở vùng Long Biên đã đi lại bằng thuyền buồm trên sông Nhị Hà (sông Hồng) thì ở những vùng khác, người ta vẫn chỉ di chuyển bằng bè, một phương tiện di chuyển phổ biến của các cư dân vùng đồng bằng, sông nước phía nam. Như vậy, theo nguyên lý của làn sóng ngôn ngữ, các sản phẩm ngôn ngữ bao giờ cũng định hình ở vùng xuôi và các trung tâm đô thị cổ, nơi thuận lợi cho giao lưu, tiếp xúc và hội tụ cư dân, rồi mới lan tỏa ra các vùng phụ cận và những miền khác xa xôi hơn. Kết quả là, những sản phẩm ngôn ngữ nói trên, sau một thời gian, đã lan tỏa ra khắp cả nước, trở thành phương tiện dùng chung của tất cả những ai sử dụng tiếng Việt.
- Sự xuất hiện 3 tuyến điệu do ảnh hưởng mạnh của tiếng Hán cũng là một điểm nhấn trong lịch sử phát triển của tiếng Việt. Theo Haudricourt, sự xuất hiện 3 tuyến điệu này xảy ra trong khoảng từ đầu Công nguyên đến thế kỷ thứ VI [15]. Vào thời kỳ sau, do sự nhích lại gần cơ chế ngữ âm Việt của các từ mượn gốc Hán mà ba tuyến điệu của thời kỳ trước đã được nhân đôi thành sáu thanh điệu như ngày nay. Quá trình thanh điệu hóa tiếng cũng diễn ra một cách hoàn hảo nhất ở Hà Nội. Thật vậy, hệ thống thanh điệu 6 thanh rõ rệt của vùng Hà Nội được cho là đã xác lập hoàn chỉnh từ cuối giai đoạn Việt Mường chung và tồn tại đến tận bây giờ là cứ liệu ngôn ngữ xác thực chứng minh rằng những cư dân Hà Nội thời bấy giờ đã đi trọn vẹn quá trình thanh điệu hóa trong khi các vùng lân cận như Cổ Nhuế, Sơn Tây (không phân biệt được thanh ngang và thanh huyền), và xa hơn một chút như Thanh Hóa (không phân biệt được thanh ngã và thanh hỏi), rồi xa nữa đến Nghệ Tĩnh (không phân biệt được thanh ngã và thanh nặng, thanh nặng và thanh huyền)… đã không thực hiện được triệt để quá trình này.
           - Sự hình thành cách đọc Hán Việt cũng là một trường hợp nổi bật của sự hội tụ và lan tỏa trong tiếng xúc ngôn ngữ Việt - Hán. Qua vài thế kỷ tiếp xúc và vay mượn từ Hán Việt, tiếng Hán, ban đầu được đọc bằng âm Hán, đã dần dần được người Việt chuyển sang đọc bằng âm Việt dẫn đến sự hình thành cách đọc Hán Việt như chúng ta vẫn biết ngày nay. Trong quá trình này, những bộ phận cư dân nói tiếng Việt cổ và tiếng Việt trung cổ sống ở vùng đô thị Thăng Long - Hà Nội là những bộ phận chịu ảnh hưởng của tiếng Hán, đặc biệt là văn ngôn Hán mạnh mẽ nhất. Vì điều này mà các học giả nghiên cứu lịch sử tiếng Việt đều có xu hướng cho rằng địa bàn Thăng Long - Hà Nội là nơi tạo ra một cách đọc Hán Việt chính xác nhất. Thật vậy, trải suốt mấy thế kỷ, các văn sĩ, trí thức ở mọi miền đất nước khi sáng tác thơ văn, biên soạn thư tịch... bao giờ cũng dùng cách đọc Hán Việt của vùng Hà Nội và coi đó như một chuẩn mực. Cách đọc Hán Việt được hình thành ở Hà Nội, theo sự phát triển và khuyếch tán của tiếng Việt, đã trở thành những làn sóng lan ra những vùng ngoại vi, và xa hơn, ra tất cả vùng khác trong cả nước. Giờ đây, có thể nói, tất cả những ai sử dụng tiếng Việt trên lãnh thổ Việt Nam đều dùng cách đọc này đối với tất cả các từ Hán Việt mà cho đến hiện tại đã trở thành một bộ phận cơ hữu trong kho từ vựng tiếng Việt, chịu sự tác động của tất cả các quy luật ngôn ngữ trong tiếng Việt.
            Thay lời kết
            Giới nghiên cứu lịch sử Hà Nội vẫn cho rằng, dưới cặp mắt của các nhà địa lý, Hà Nội là vùng đất mà các con sông đều dồn nước về để rồi lại từ đó tỏa mãi ra biển khơi, các mạch núi cũng hướng về Hà Nội. Điều đó làm cho vùng đất này quy tụ được các mạch máu giao thông thủy và bộ, rồi cũng từ đó tỏa rộng ra khắp bốn phương. Lợi thế trời phú cho Hà Nội về điều kiện tự nhiên trở thành cơ sở đầu tiên tạo cho Hà Nội dần dần có được vị thế như bây giờ. Vị thế đó được thể hiện trên mọi phương diện, và chắc chắn không loại trừ cả văn hóa và ngôn ngữ. Vị thế đó ngày nay đang trở thành một trọng trách. Hà Nội, với trọng trách là trung tâm của cả nước, vừa hội tụ, tích hợp, vừa lan tỏa, truyền bá những giá trị Việt Nam. Và như vậy, lý thuyết làn sóng vẫn sẽ là một cơ sở để nhìn nhận, lý giải các vấn đề ngôn ngữ và văn hóa của Thủ đô thời hiện đại. Hơn thế nữa, nó còn có thể giúp chúng ta nhìn xa hơn quy luật lan truyền của văn hóa, giúp chúng ta gạn đục khơi trong những dòng chảy văn hóa, để khi nó vào Hà Nội, nó sẽ trở thành những làn sóng tốt lành, mang theo những giá trị văn hóa lan tỏa đi khắp các vùng trên lãnh thổ Việt Nam.

                       CHÚ THÍCH
*    ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐH Quốc gia Hà Nội
[1] Asher  R. E., The Encyclopedia of Languages and Linguistics, Pergamon Press, 1994.
[2] Belik A.A., Văn hóa học - những lý thuyết nhân học văn hóa, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, 2000.[3] Dẫn theo Ngô Đức Thịnh, Lý thuyết “trung tâm và ngoại vi” trong nghiên cứu không gian văn hóa, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc tế “Khu vực học: cơ sở lý thuyết, thực tiến và phương pháp nghiên cứu”, Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Tokyo, 2006.[4] Dẫn theo Walt W, Ralph W. Fasold, The study of Social Dialects in American English, Newbury House Publishers & Rowley, Massachusetts, 1974.[5] Walt W, Ralph W. Fasold, The study of Social Dialects in American English, Newbury House Publishers & Rowley, Massachusetts, 1974.[6] Một rặng núi hiểm trở, một con sông sâu… có thể trở thành vật cản tự nhiên, một cuộc chính biến, một làn sóng di dân, … có thể trở thành một vật cản xã hội của những vòng sóng.
[7]  Labov W, Transmission and Diffusion, Language 83, June 2007.[8] Theo sử sách, các bậc Vương gia của quốc gia cổ đại nào cũng có xu hướng đóng đô ở vùng đất giáp ranh, nơi có nhiều đầu mối giao thông xuôi ngược và vì đồng bằng khi đó vẫn còn hoang vu hay vẫn là rừng rậm, đầm lầy…  [9] Trần Quốc Vượng (chủ biên), “Văn hóa học đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam”, NXB KHXH, Hà Nội, 1996.[10] Phan Ngọc và Phạm Đức Dương, Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á, Viện Đông Nam Á, Hà Nội, 1983, tr. 85.[11] Vùng đất Hà Nội hình thành gắn liền với sự hình thành vùng châu thổ Bắc Bộ. Theo các nhà địa chất học, sự hình thành châu thổ là cả một quá trình lâu dài, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, ban đầu là vịnh biển, rồi trở thành vùng trũng đầm lầy rồi mới trở thành đồng bằng châu thổ. Vào khoảng gần 2000 năm trước Công nguyên, vùng đất Hà Nội bây giờ còn là một vịnh biển, chuẩn bị chuyển thành một khu vực đầm lầy.[12] Cho đến hiện tại, chúng tôi vẫn quan sát thấy một số nhân chứng (hiện đang còn sống) của hiện tượng này, khi phát âm các âm tiết có phụ âm đầu /l/ vẫn bắt đầu bằng động tác bật hơi do ảnh hưởng của tiền phụ âm /m/ chưa triệt tiêu hoàn toàn (Cách phát âm của ông Nguyễn Ngọc Thành, cán bộ trường Đại học KHXH&NV, một người quê Nghệ Tĩnh).[13] Trần Trí Dõi, Về một vài địa danh, tên riêng gốc Nam Đảo trong vùng Hà Nội xưa, Hà Nội - những vấn đề ngôn ngữ và văn hóa 990 năm Thăng Long, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2001.[14] Phan Ngọc và Phạm Đức Dương, Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á, Viện Đông Nam Á, Hà Nội, 1983, tr. 138.
[15] Haudrricourt, V ngun gc các thanh ca tiếng Vit, Ngôn ng, s 1, 1991, tr. 19-22.


                                           
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Asher  R. E. (1994), The Encyclopedia of Languages and Linguistics, Pergamon Press.
2.Belik A.A. (2000), Văn hóa học - những lý thuyết nhân học văn hóa, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
3.Trần Trí Dõi (2001), Về một vài địa danh, tên riêng gốc Nam Đảo trong vùng Hà Nội xưa, Hà Nội - những vấn đề ngôn ngữ và văn hóa 990 năm Thăng Long, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
4.Phạm Văn Hảo (2000), Thử xem xét các phương ngữ Việt theo lý thuyết “làn sóng ngôn ngữ”, Ngữ học trẻ 99, Nhà xuất bản Nghệ An, Nghệ An.
5.Haudrricourt, Về nguồn gốc các thanh của tiếng Việt, Ngôn ngữ, số 1, 1991, tr. 19-22.
6.Labov W (2007), Transmission and Diffusion, Language 83, June.
7.Trịnh Cẩm Lan (2007), Sự biến đổi ngôn từ của các cộng đồng chuyển cư đến Thủ đô, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
8.Phan Ngọc và Phạm Đức Dương (1983), Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á, Viện Đông Nam Á, Hà Nội.
9.Ralph W. Fasold, Walt W (1974), The study of Social Dialects in American English, Newbury House Publishers & Rowley, Massachusetts.
10.Trudgill. P (1974), Sociolinguistics - An introduction to language and Society, New Edition, Penguin Books, England.
11.Ngô Đức Thịnh (2006), Lý thuyết “trung tâm và ngoại vi” trong nghiên cứu không gian văn hóa, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc tế “Khu vực học: cơ sở lý thuyết, thực tiến và phương pháp nghiên cứu”, Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Tokyo.
12.Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1996), Văn hóa học đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

  (*) Nguồn:  Kỉ yếu Hội thảo khoa học” Những vấn đề ngôn ngữ học: Ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh - Tiếng Hà Nội với ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam”, Hà Nội 12/2007.

Friday 26 April 2013

Tí, Tị và Tý, Tỵ (An Chi / Huệ Thiên)


Tí, Tị và Tý, Tỵ

(Petrotimes) - Bạn đọc: Xin ông An Chi cho biết tên của chi thứ nhất và chi thứ sáu trong 12 địa chi nên viết thành “Tí, Tị” hay “Tý, Tỵ”. Xin cảm ơn. Xuân Hoàng (Cần Thơ)
Học giả An Chi: Vấn đề I hay Y cho đến nay đã có nhiều ý kiến thảo luận khá sôi nổi. So với một số vấn đề khác của tiếng Việt thì đây không hẳn là chuyện “thật sự đại sự”, nhưng vì nó liên quan trực tiếp đến mọi người Việt Nam về mặt thực tiễn nên nó lại trở thành vấn đề quan trọng, đặc biệt là trong giới chuyên môn. Nhiều người đã phát biểu và gần đây đáng chú ý là bài “Vấn đề phân biệt viết i (ngắn) và y (dài)” của Đào Tiến Thi, trình bày tại Hội thảo Ngôn ngữ học toàn quốc ngày 18-4-2010. Nhưng vì câu trả lời chỉ liên quan đên thắc mắc cụ thể của bạn về cách viết tên của chi thứ nhất và chi thứ sáu trong 12 địa chi nên chúng tôi cũng chỉ xin giới hạn phạm vi trao đổi của mình vào chủ trương “thuần Việt và Hán Việt” mà tác giả Đào Tiến Thi đã đưa ra trong câu sau đây:
“Trường hợp đứng sau 6 phụ âm /h, k, l, m, s, t/ về cơ bản, cũng đã hình thành một thói quen: viết i ngắn khi là từ thuần Việt; viết y dài khi là từ Hán Việt”.
Một số tác giả khác cũng chủ trương như trên nhưng riêng chúng tôi thì thấy sự “kỳ thị” đó không hợp lý. Lý do của chúng tôi rất đơn giản: Từ thuần Việt chỉ là những từ không phải gốc Hán mà ta không biết được từ nguyên. Huống chi, thực ra, khi một từ đã đi vào tiếng Việt, chịu áp lực từ hệ thống ngữ âm của nó, chịu sự chi phối về mặt ngữ dụng của người Việt, thì dù có thuộc gốc Hán, gốc Pháp hay gốc Phạn, v.v…, nó cũng đã là một từ của tiếng Việt. Một từ có cái âm rất “Tây” như “pô”, ngay cả khi phụ âm đầu của nó được phát với “pê phở” [p] - người bình dân thì vẫn phát âm với “bê bò” [b] - vẫn là một từ của tiếng Việt.
Người Việt chỉ dùng cái “pô” để hứng, đựng chất bài tiết chứ không dùng nó để chưng hoa (đã có lọ, bình) hoặc trồng cây cảnh (đã có chậu) như người Pháp. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội, không phải là một cơ thể sinh vật. Huỳnh Kesley là một trong những tiền đạo được săn đón nhiều nhất ở V-League nhưng không hề được đưa vào tuyển quốc gia môn bóng đá. Anh ta chỉ có lợi cho câu lạc bộ trong việc quy định số lượng cầu thủ nội, cầu thủ ngoại trong một trận đấu mà thôi. Ngôn ngữ không “chơi” kiểu đó. Tuy không “xả láng” nhưng nó rất dân chủ. Đã vào tiếng Việt thì là Việt. Dĩ nhiên là trừ những trường hợp để nguyên “quốc tịch”, nghĩa là nguyên dạng chính tả của ngôn ngữ gốc, thí dụ: Chơi game, V-League, tôi xin add bạn (trên facebook), v.v... Còn từ Hán Việt của ta thì, nếu không học tiếng Việt, chẳng có anh Tàu nào biết.
Sau khi đọc bài của Đào Tiến Thi, Thành Trần Văn đã thắc mắc trong phần “Thảo luận”:
“Trường hợp đứng sau 6 phụ âm /h, k, l, m, s, t/ về cơ bản, cũng đã hình thành một thói quen: Viết i ngắn khi là từ thuần Việt; Viết y dài khi là từ Hán Việt”.
“Tôi rất tò mò về cơ sở lập luận và những chứng cớ để tác giả đi đến nhận định về “thói quen” này. Hy vọng tác giả hoặc ai đó có thể chỉ dẫn giúp”.
“Ngoài ra, đề xuất “chuẩn hóa thói quen” này sẽ dẫn đến việc phải dạy cho mọi người về phân biệt “thuần Việt và Hán Việt”. Tôi ngờ vực tính khả thi của đề xuất này”.
Thắc mắc này đã được tác giả Đào Tiến Thi giải đáp:
“Bạn đọc kĩ (sic) bài viết đi, cái “cơ sở” bạn muốn biết đã được trình bày trong bài […] Việc nhận ra Hán Việt/Thuần Việt nhìn chung chỉ liên quan đến số ít người làm công tác “chuẩn hóa”, ví dụ những người làm từ điển, còn đại đa số không cần biết”.
Thật ra, ngay cả nhà chuyên môn có khi cũng chẳng biết, mà điển hình là ngay ông Đào Tiến Thi cũng chẳng biết “kỹ” trong “kỹ tính”, “kỹ càng” cũng là một từ Hán Việt nên mới viết nó thành “kĩ” trong lời giải đáp cho độc giả Thành Trần Văn. Trong khi đó thì đa số vẫn viết nó theo thói quen với “y”, vì thực ra nó cũng chỉ là một với chữ “kỹ” [技] trong “kỹ thuật” và “tạp kỹ” mà chính ông đã nêu làm thí dụ. Nếu ông bảo rằng, nó đã được Việt hóa cao độ vì có thể hành chức một cách hoàn toàn tự do trong lời nói thì chẳng lẽ những “bản”, “bảng”, “điện”, “phấn”, “sương”, “tuyết”, v.v..., chẳng đạt được “độ cao” Việt hóa như nó nhưng vẫn là những từ Hán Việt chính tông?
Thành ra, trước mắt, chúng tôi chủ trương theo thói quen - có lẽ cũng là của số đông - mà viết tên của chi thứ nhất và chi thứ sáu trong 12 địa chi thành TÝ và TỴ để phân biệt với TÍ trong “tí hon”, “tí tách”, v.v... và TỊ trong “ghen tị”, “tị nạn”, v.v… (mà chữ TỊ [避ð] này thực ra cũng là Hán Việt, có nghĩa gốc là xa lánh). Nghĩa là chúng tôi không tán thành chuyện hễ cứ là Hán Việt thì viết với Y.
A.C