Monday 27 May 2013

LỜI KÊU GỌI CỦA ĐẢNG NGÀY 4/3/1979


LỜI KÊU GỌI CỦA ĐẢNG NGÀY 4/3/1979

LỜI KÊU GỌI
Hỡi đồng bào và chiến sĩ cả nước!
Từ ngày 17 tháng 2 năm 1979, bọn cầm quyền phản động Trung Quốc đã huy động nhiều quân đoàn với 50 vạn quân, nhiều xe tăng và máy bay, ồ ạt đánh sang nước ta trên toàn tuyến biên giới, từ tỉnh Quảng Ninh đến tỉnh Lai Châu. Chúng đã bắn phá bừa bãi, cướp của, giết hại đồng bào ta, cả phụ nữ và trẻ em, gây nhiều tội ác rất dã man.
Quân và dân ta chiến đấu vô cùng anh dũng, chặn đánh các cánh quân xâm lược, tiêu diệt hàng vạn tên, bắn cháy hàng trăm xe tăng, phá hủy nhiều vũ khí của địch. Mặc dù bị tổn thất nặng nề, quân địch vẫn hung hăng mở rộng chiến tranh. Chiến sự đang tiếp diễn quyết liệt. Quân và dân ta quyết giữ từng tấc đất của Tổ quốc. Đồng bào và chiến sĩ ta trong cả nước sôi sục khí thế chiến đấu, quyết đánh thắng  bọn bành trướng Trung Quốc.
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, các Đảng Cộng sản và Công nhân, nhân dân tiến bộ trên thế giới đều căm phẫn, cực lực tố cáo tội ác của bọn xâm lược, nhiệt tình ủng hộ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Từ lâu, bọn cầm quyền phản động Bắc Kinh cấu kết với đế quốc Mỹ, mưu toan thôn tính nước ta, thực hiện chính sách bành trướng đại dân tộc. Năm 1974, chúng ngang nhiên chiếm đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Mấy năm gần đây, chúng đưa nhiều quân áp sát biên giới phía Bắc Việt Nam, hằng ngày khiêu khích, lấn chiếm đất đai, ráo riết chuẩn bị chiến tranh trên quy mô lớn. Chúng dùng bọn phản động phát xít diệt chủng Pôn Pốt – Iêng Xary gây chiến tranh lấn chiếm biên giới tây nam Tổ quốc ta hòng bao vây ta từ hai phía. Chúng ra sức kích động, lôi kéo người Hoa gây rối bên trong nước ta.
Sự thất bại nhục nhã của chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc ở Căm-pu-chia làm cho chúng càng điên cuồng phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Sự thật đã rõ là bọn cầm quyền phản động Bắc Kinh đang thực hiện âm mưu độc ác thôn tính nước ta, từng bước thực hiện chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn ở bán đảo Đông Dương và khu Đông – Nam châu Á.
Hiện nay, bọn cầm quyền phản động Bắc Kinh là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm của nhân dân ta.
Xâm lược Việt Nam, chúng vứt bỏ hoàn toàn mặt nạ cách mạng giả hiệu, nhục nhã câu kết với bè lũ đế quốc và các thế lực phản động nhất ngày nay. Chính sách hiếu chiến và xâm lược của chúng đã xâm phạm hết sức trắng trợn quyền độc lập, tự do thiêng liêng của dân tộc Việt Nam, phá hoại tình hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Trung Quốc, phản bội hoàn toàn sự nghiệp cách mạng, lợi ích và lương tri của nhân dân Trung Quốc. Chúng đã trở thành kẻ thù nguy hiểm của toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình ở châu Á và trên thế giới.
Lương tri loài người một lần nữa lại bị thách thức. Tinh thần cảnh giác của loài người một lần nữa được báo động. Bằng những thủ đoạn đê hèn, bọn xâm lược đang cố đánh lừa dư luận thế giới nhằm che đậy mưu mô đen tối và những tội ác xâm lược dã man của chúng, nhưng cả thế giới đang kịch liệt lên án chúng và nhiệt liệt tỏ tình đoàn kết, ủng hộ nhân dân Việt Nam anh hùng chống bọn phản động Trung Quốc xâm lược.
Hỡi đồng bào và chiến sĩ yêu quý!
Quân thù đang giày xéo non sông, đất nước ta. Độc lập, tự do, chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta đang bị xâm phạm. Hòa bình và ổn định ở Đông – Nam châu Á đang bị đe dọa.
Dân tộc Việt Nam ta phải ra sức chiến đấu để tự vệ. Cuộc kháng chiến chống bọn phản động Trung Quốc xâm lược đã diễn ra!
Toàn thể đồng bào các dân tộc anh em trong cả nước, các tôn giáo, các đảng phái, già, trẻ, gái, trai hãy phát huy truyền thống Diên Hồng, triệu người như một, nhất tề đứng lên bảo vệ Tổ quốc!
Quân và dân ta ở vùng biên giới từ tỉnh Quảng Nam đến tỉnh Lai Châu đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chiến đấu rất dũng cảm. Hãy thừa thắng xông lên, đoàn kết một lòng diệt giặc lập công, phối hợp ba thứ quân, tiến công mạnh, bao vây chặt, tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch! Hãy tích cực bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân; giữ vững an ninh ở mọi địa bàn. Nhiệm vụ vẻ vang của quân và dân ta trên tuyến đầu Tổ quốc lúc này là quét sạch bọn xâm lược ra khỏi bờ cõi, giữ vững biên cương của Tổ quốc.
Đồng bào và chiến sĩ cả nước hãy phát huy khí thế cách mạng, hăng hái thi đua lao động sản xuất với kỷ luật chặt chẽ và năng suất cao, chi viện nhiều nhất cho tiền tuyến, hăng hái luyện tập quân sự, nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của địch trong mọi tình huống! Trước mỗi lần thử thách của lịch sử, cả dân tộc Việt Nam đều lớn mạnh lên, phát huy cao độ lòng dũng cảm, trí thông minh và tài năng sáng tạo trong sản xuất và chiến đấu: tăng cường lực lượng vật chất và tinh thần để chiến thắng quân thù.
Mỗi bản làng, xí nghiệp, hợp tác xã, thị xã, quận, huyện là một pháo đài kiên cường chống giặc. Mỗi tỉnh, thành là một chiến trường, cả nước là một chiến trường. Bất cứ nơi nào trên đất nước ta là những Chi Lăng, Đống Đa: sông biển ta đều là những Bạch Đằng, Hàm Tử.
Kiều bào ở nước người hãy phát huy lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết, phát triển tình hữu nghị với nhân dân các nước, góp phần vào cuộc kháng chiến thiêng liêng của dân tộc!
Chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của Bắc Kinh không những gây tai họa cho nhân dân Việt Nam, mà còn nguy hại cho hòa bình, độc lập tự do và tiến bộ xã hội của các nước Đông – Nam Á châu và cả thế giới. Đảng Cộng sản Việt Nam khẩn thiết kêu gọi các Đảng cộng sản và Công nhân trên thế giới, các phong trào cách mạng và các tổ chức dân chủ quốc tế, nhân dân và chính phủ các nước, hãy vì hòa bình và công lý, kiên quyết lên án bọn phản động Trung Quốc xâm lược, hành động kịp thời, chặn đứng chính sách phiêu lưu chiến tranh cực kỳ nguy hiểm và đầy tội ác của bọn cầm quyền phản động Bắc Kinh, không cho phép chúng lừa dối và chà đạp dư luận thế giới hòng che đậy tội ác xâm lược dã man của chúng đối với nhân dân Việt Nam!
Vì hòa bình và tình hữu nghị truyền thống Việt Nam - Trung Quốc, chúng tôi khẩn thiết kêu gọi những người cộng sản chân chính và nhân dân Trung Quốc kịch liệt phản đối, ngăn chặn kịp thời chính sách phản động và cuộc chiến tranh phi nghĩa của giới cầm quyền phản động Trung Quốc!
Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam chân thành cảm ơn anh em, bầu bạn khắp nơi đã ủng hộ kiên quyết, kịp thời và mạnh mẽ cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Nhân dân Việt Nam nhận thức rõ: kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn vì độc lập, tự do của Tổ quốc mình, cũng là chiến đấu vì sự nghiệp hòa bình của tất cả các dân tộc.
Đánh thắng bọn phản động Trung Quốc xâm lược lần này, là nghĩa vụ ân tộc vẻ vang, đồng thời là nghĩa vụ quốc tế cao cả của nhân dân Việt Nam.
Hỡi đồng bào và chiến sĩ cả nước!
Một lần nữa, cả dân tộc ta lại nhất tề đứng lên chống giặc ngoại xâm. Tổ tiên anh hùng của chúng ta đã từng đánh thắng quân xâm lược Tần, Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã đánh thắng oanh liệt các đế quốc xâm lược Pháp, Mỹ. Ngày nay, chúng ta có sức mạnh vĩ đại hơn bao giờ hết, sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc và của ba dòng thác cách mạng của thời đại.
Bọn phản động Trung Quốc xâm lược càng mở rộng và kéo dài chiến tranh thì quân và dân cả nước ta càng đánh càng mạnh và nhất định sẽ giành được thắng lợi hoàn toàn.
Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại luôn luôn cổ vũ nhân dân ta: Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do!
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, anh dũng tiến lên, quyết chiến và quyết thắng!
Bọn phản động Trung Quốc xâm lược nhất định thất bại!
Nhân dân Việt Nam nhất định thắng lợi!
Hà Nội ngày 4 tháng 3 năm 1979
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Nguồn: Tạp chí Dân tộc học số 1 năm 1979

Sunday 26 May 2013

Một số người là những ai?




Bản in lần thứ 9 của cuốn Đại cương lịch sử Việt Nam dành cho sinh viên khoa sử các trường đại học sư phạm và đại học khoa học xã hội nhân văn viết như sau về xung đột Việt Trung sau năm 1975:
Trung Quốc là nước láng giềng của Việt Nam, trong quá trình đấu tranh cách mạng, nhân dân  hai nước đã từng gắn bó mật thiết, đoàn kết giúp đỡ nhau, nhưng trong việc tập đoàn Pôn Pốt có hành động thù địch chống Việt Nam, một số người trong giới lãnh đạo Trung Quốc lúc đó lại đồng tình ủng hộ, thậm chí có những hành động làm tổn hại đến tình cảm giữa nhân dân hai nước (như cho quân khiêu khích quân sự dọc biên giới phía bắc nước ta, cắt viện trợ, rút chuyên gia, vận động Liên Hợp Quốc và các nước trên thế giới cũng làm như vậy), nhằm gây khó khăn cho Việt Nam.
(LêMậu Hãn et al., 2006:307)
Viết như vậy được thì nên trình bày cuộc xung đột Việt Trung như là việc riêng giữa một số người trong giới lãnh đạo Trung Quốc và một số người trong giới lãnh đạo Việt Nam: có ít nhất một nhà lãnh đạo Việt Nam là Hoàng Văn Hoan đã trở cờ, nối giáo cho (một số) giặc.
Sử dụng từ phiếm chỉ là một thủ thuật mà nhà chính trị rất ưa thích để tránh các khẳng định mạnh. Nhà khoa học không nên nói năng bâng quơ như thế. Sách vở đại học không nên tập cho sinh viên quen với cách phát biểu mập mờ, vô trách nhiệm.

Saturday 25 May 2013

Viện trợ của Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Nam (Nguyễn Phương Hoa)



Tóm tắt: Từ năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nước ta đã nhận được viện trợ từ các nước XHCN, trong đó có Trung Quốc. Trung Quốc là nước viện trợ cho Việt Nam tích cực nhất, nhiều nhất lúc đó. Trong bối cảnh thực dân Pháp được Mỹ giúp sức muốn nhanh chóng giành thắng lợi, kết thúc chiến tranh còn thế và lực của quân ta chưa thực sự lớn mạnh, viện trợ này có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bài viết tập trung trình bày viện trợ của Trung Quốc cho cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Nam từ năm 1950-1954.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược nước ta lần thứ 2 bắt đầu từ năm 1946, khi đó nước CHND Trung Hoa chưa ra đời và hai nước Việt-Trung chưa thiết lập quan hệ ngoại giao. Vì vậy, Trung Quốc chưa có điều kiện giúp đỡ, viện trợ cho Việt Nam. Ngược lại, trong những năm 1948-1949, nước ta đã giúp lương thực, thực phẩm và súng đạn cho biên khu Điền Quế (Vân Nam – Quảng Tây), phối hợp với Quân giải phóng Trung Quốc mở rộng khu giải phóng biên khu Việt Quế (Quảng Đông – Quảng Tây), giúp in tiền. Viện trợ của Trung Quốc cho cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Nam thực sự bắt đầu sau khi nước CHDC Trung Hoa ra đời và hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao. Trong bài viết này, chúng tôi tập trung trình bày viện trợ trực tiếp của Trung Quốc phục vụ cho các chiến dịch kháng chiến chống thực dân Pháp của Việt Nam từ năm 1950, khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao đến năm 1954.
1. Bối cảnh lịch sử
Trên thế giới: Đây là thời kỳ cuộc chiến tranh lạnh giữa hai hệ thống xã hội TBCN và XHCN đã triển khai toàn diện thông qua mạng lưới các liên minh quân sự và căn cứ quân sự của mình ở châu Âu và châu Á. Với việc Liên Xô thử thách công bom nguyên tử năm 1949 khiến Mỹ mất độc quyền về hạt nhân và nước CHND Trung Hoa do ĐCS lãnh đạo ra đời, Mỹ mở rộng chiến lược ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản từ châu Âu sang châu Á. Ở châu Á, Mỹ tập trung vào Đông Nam Á vì ở đây phong trào cách mạng phát triển mạnh và đây cũng là nơi chịu ảnh hưởng sâu rộng của cạch mạng Trung Quốc. Đầu thập kỷ 50, Mỹ đã xây dựng tuyến bao vây quân sự thông qua các hiệp ước với hầu hết các đồng minh ở châu Á như “Hiệp định viện trợ quân sự Thái Lan – Mỹ” (17-10-1950), “Hiệp ước phòng thủ chung Mỹ Philippin” (30-8-1951), “Hiệp ước phòng thủ chung Hàn – Mỹ” (1-10-1953), “Hiệp định viện trợ phòng thủ chung Mỹ –Nhật” (8-3-1954), “Hiệp ước phòng thủ chung Mỹ – Đài” (2-12-1954). Cùng với sự có mặt của thực dân Pháp ở Việt Nam, những hiệp ước này uy hiếp an ninh quốc gia của các nước XHCN, đặc biệt là Trung Quốc.
Hệ thống XHCN thế giới hình thành từ châu Âu sang châu Á và phát triển ngày càng mạnh mẽ bất chấp chính sách ngăn chặn của Mỹ. Nếu như trong 30 năm từ 1917 đến năm 1945 chỉ có Liên Xô là nước XHCN duy nhất trên thế giới, thì từ năm 1945 đến năm 1950 có hàng loạt nước XHCN dưới sự lãnh đạo của ĐCS ra đời như Việt Nam, các nước Đông Âu, Triều Tiên và Trung Quốc. Sau khi kết thúc chiến tranh chống phát xít, chỉ trong mấy năm, Liên Xô đã nhanh chóng khôi phục nền kinh tế quốc dân. Hệ thống XHCN, đứng đầu là Liên Xô, đã trở thành chỗ dựa vững chắc của phong trào cách mạng trên thế giới, là lực lượng đối trọng lớn nhất đối với các nước đế quốc trong sự nghiệp chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình.
Ở Việt Nam: Trải qua 4 năm kháng chiến trong điều kiện bị cô lập hoàn toàn, tương quan lực lượng giữa quân ta và địch thây đổi theo hướng có lợi cho quân ta. Quân ta đã chuyển dần từ bị động sang chủ động, từ cầm cự sang chuẩn bị tổng phản công. Trong hai năm cầm cự 1948, 1949, quân ta liên tiếp mở nhiều chiến dịch và giành chủ động trong từng chiến dịch.
Sau thất bại ở Việt Bắc năm 1947, thực dân Pháp thực hiện nhiều kế hoạch nhằm củng cố lực lượng. Một mặt, Pháp chủ trương khóa chặt biên giới Việt – Trung để tiếp tục cô lập lực lượng kháng chiến, mặt khác tập trung quân lực chiếm đóng vùng trung du và củng cố hành lang Đông – Tây, càn quét, đánh chiếm thêm các vùng đồng bằng để vơ vét người và của. Để thực hiện kế hoạch trên, quân số Pháp đã tăng lên 10 lần so với khi bắt đầu cuộc chiến. Điều này cho thấy mức độ khốc liệt của chiến tranh cũng như khó khăn của chúng ta tăng gấp bội.
Về chính sách đối ngoại, Đảng ta nhấn mạnh nhiệm vụ giúp đỡ và đoàn kết với cuộc kháng chiến của nhân dân hai nước Miên, Lào, đồng thời phải củng cố tình thân thiện giữa nước ta và các nước bạn, giữa nhân dân ta và nhân dân các nước trên thế giới. Chính sách đối ngoại đúng đắn này đã góp phần phá thế cô lập nước ta của Pháp.
Ngày 18-1-1950, Trung Quốc chính thức công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với nước ta. Trung Quốc trở thành nước đầu tiên trên thế giới công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, tiếp sau đó là Liên Xô và các nước Đông Âu. Đây là một thắng lợi chính trị to lớn và “Sẽ là cái đà cho những thắng lợi quân sự sau này”(1). Chỉ thị về việc tuyên truyền chính sách ngoại giao của Chính phủ ngày 18-1-1950 đã khẳng định: “Từ nay, chúng ta công nhiên đứng trong hàng ngũ dân chủ thế giới do Liên Xô lãnh đạo, chống phe đế quốc chủ nghĩa do Mỹ cầm đầu. Sự giúp đỡ của các nước bạn đối với ta, về tinh thần cũng như về vật chất sẽ thiết thực hơn. Trước hết là Trung Quốc, rồi đến các nước bạn khác…(2) Cùng với chiến thắng Biên giới cuối năm 1950, cuộc kháng chiến của nhân dân ta đã thoát khỏi thế bị bao vây, cô lập.
Sau khi Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân trong hệ thống XHCN công nhận, đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta và Pháp bị suy yếu ở Đông Dương, đế quốc Mỹ đã ráo riết can thiệp nhằm đẩy dần ảnh hưởng của Pháp, muốn biến Việt Nam thành một “vành đai an toàn” chống cộng sản. Mỹ tích cực viện trợ quân sự, kính tế cho Pháp và coi cuộc chiến của Pháp ở Đông Dương nằm trong chiến lược chống cộng của mình. Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta đã trở thành nơi tập trung thể hiện của cuộc đối đầu giữa hai hệ thống xã hội. Việt Nam đã trở thành tiền đồn của mặt trận quốc tế chống chủ nghĩa đế quốc ở khu vực. Thắng lợi hay thất bại của cuộc chiến không chỉ có ý nghĩa đối với dân tộc ta mà còn có ý nghĩa đối với cả phe XHCN, đối với hòa bình thế giới. Vì vậy, trách nhiệm của Đảng, quân và dân ta cũng nặng nề hơn, khó khăn cũng lớn hơn.
Ở Trung Quốc, sau khi trải qua nhiều năm chiến tranh, nền kinh tế Trung Quốc bị đình trệ, lạc hậu, đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Vì vậy, sau khi nước CHND Trung Hoa ra đời, Chính phủ Trung Quốc đã coi công cuộc khôi phục kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm của đất nước. Chính phủ Trung Quốc đã tiên hành khối phục kinh tế (1950-1952) nhằm khắc phục tình trạng lạm phát, ổn định giá cả, khôi phục sản xuất nông nghiệp, điều chỉnh công thương nghiệp tư bản một cách hợp lý. Năm 1953, Trung Quốc bắt đầu thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất với hai nhiệm vụ chủ yếu là cải tạo XHCN đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, công thương nghiệp TBCN.
Trong thời kỳ này, Trung Quốc thực hiện chính sách ngoại giao “nhất biên đảo”, ngả về phe XHCN do Liên Xô đứng đầu, trực tiếp đối đầu với Mỹ, coi Mỹ là kẻ thù nguy hiểm nhất, cần phải đoàn kết với Liên Xô, với các nước trong phe XHCN để chống lại sự uy hiếp của Mỹ. Vì vậy, mặc dù trong điều kiện còn rất nhiều khó khăn nhưng Trung Quốc đã tích cực ủng hộ và đưa quân tình nguyện tham chiến ở Triều Tiên chống Mỹ, giúp đỡ Việt Nam kháng chiến chống thực dân Pháp.
2. Viện trợ của Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Nam
Sau khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, mặc dù còn khó khăn về mọi mặt nhưng Trung Quốc đã dành cho cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta viện trợ thiết thực. Cuối tháng 1-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh bí mật sang Trung Quốc qua đường biên giới Cao Bằng. Người đi Bắc Kinh gặp gỡ lãnh đạo Trung Quốc để bàn về vấn đề viện trợ Việt Nam kháng chiến chống Pháp, sau đó đi Matxcova gặp gỡ Stalin và Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai đang ở thăm Liên Xô. Trong buổi làm việc với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nguyên soái Stalin, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã khẳng định viện trợ cho Việt Nam: “Việt Nam cần trang bị 10 đại đoàn để đánh thắng Pháp, trước mắt hãy trang bị cho 6 đại đoàn có mặt ở miền Bắc. Việt Nam có thể đưa ngay một số đơn vị sang nhận vũ khí trên đất Trung Quốc. Tỉnh Quảng Tây sẽ là hậu phương trực tiếp của Việt Nam”. Qua hội đàm giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với lãnh đạo Trung Quốc sau khi từ Matxcova trở lại Bắc Kinh, Trung Quốc đồng ý để Quảng Tây là nơi tiếp nhận viện trợ, chữa trị thương binh và mở trường đào tạo cho Việt Nam. Từ đó, viện trợ của Trung Quốc đã một góp phần không nhỏ trong việc làm thay đổi cục diện chiến tranh ở nước ta. Archimedes Patti, một nhà quan sát Mỹ, trong hồi ký viết: “Đến năm 1950, Mao đã ở trong thế có thể giúp đỡ ông Hồ qua đường biên giới phía Bắc Việt Nam. Ông Hồ không còn bị cô lập như trước, ông đã có rất nhiều đồng minh, trước hết là Trung Quốc và sau đó là Liên Xô, một sân bóng mới đã bắt đầu”.
Theo thỏa thuận trên, ngay tháng 4-1950, hai Trung đoàn của Đại đoàn 308 sang Mông Tự, Vân Nam, tiếp đó một Trung đoàn của Đại đoàn 312 sang Hoa Đồng, Quảng Tây nhận vũ khí. Trung Quốc cũng nhanh chóng chở vũ khí sang Cao Bằng để trang bị tiếp cho hai trung đoàn khác đang phải đối phó với quân địch trên chiến trường. Để giải quyết đảm bảo hậu cần của bộ đội Việt Nam trên đất Trung Quốc và tăng cường công tác vận chuyển vật tư viện trợ Việt Nam, ngày 6-8-1950, Tổng cục Hậu cần Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã thành lập văn phòng ở Nam Ninh. Ngoài ra, còn có hai Tiểu đoàn công binh và trường sĩ quan lục quân sang học tập, huấn luyện tại Trung Quốc. Những đơn vị sang Trung Quốc ngoài việc trang bị lại vũ khí còn được huấn luyện thêm về chiến thuật, đặc biệt là kỹ thuật đánh bộc phá. Theo hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, các chiến sĩ đã luyện tập ở Trung Quốc ba tháng, được bắn đạn thật nên tiến bộ rất nhanh.
Nhờ có sự giúp đỡ của Trung Quốc, trang bị vũ khí của quân đội ta được cải thiện đáng kể. “Những năm qua, mỗi chiến sĩ chỉ mơ ước có một khẩu súng trong tay. Bây giờ không chỉ có súng mà đạn được cũng khá dồi dào. Sức mạnh hỏa lực của trung đoàn bộ binh ta đã hoàn toàn thay đổi so với trước”. Tính đến tháng 6-1950, số cán bộ sang Trung Quốc học tập là 3.100 người (trong đó 650 cán bộ học bổ túc trung và sơ cấp, 1.200 học đào tạo, chỉ huy bộ binh sơ cấp, còn lại học về binh chủng như pháo binh, công binh...
Theo thống kê của Việt Nam, cho đến hết năm 1950, chúng ta đã tiếp nhận của Trung Quốc 3.983 tấn hàng viện trợ, trong đó có 1.020 tấn súng đạn (kể cả số súng đạn các đơn vị bộ đội Việt Nam sang Trung Quốc huấn luyện rồi đem về nước), 161 tấn quân trang, 20 tấn thuốc và dụng cụ quân y, 71 tấn hàng quân giới, 30 xe vận tải Mô lô tô va, 2.634 tấn gạo. Số hàng viện trợ này tuy chỉ chiếm 18,5% tổng số vật chất mà quân ta sử dụng trong năm 1950 nhưng đã góp phần trang bị và làm tăng sức mạnh chiến đấu của một số đơn vị chủ lực trên chiến trường chính Bắc Bộ. Tuy nhiên, viện trợ vũ khí cho ta gặp nhiều khó khăn do Trung Quốc đã đưa quân tình nguyện sang chiến đấu ở Triều Tiên. Nguồn vũ khí của quân ta lúc này một phần dựa vào Trung Quốc nhưng phần chủ yếu vẫn là lấy của địch và trong nước tự sản xuất.
Trong hai năm 1951-1952, viện trợ của các nước XHCN, trong đó có Trung Quốc cho Việt Nam được duy trì thường xuyên và tương đối đều đặn. Từ tháng 7-1952 đến tháng 1-1953, Trung đoàn 45, Trung đoàn pháo binh hạng nặng đầu tiên của quân đội ta được huấn luyện ở Mông Tự (Vân Nam, Trung Quốc); Trung đoàn pháo cao xạ 367 thành lập ngày 1-4-1953, sau 6 tháng huấn luyện ở Tân Dương (Quảng Tây, Trung Quốc), cuối năm 1953 được điều tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Liên Xô giúp trang bị vũ khí, Quân Giải phóng Trung Quốc đảm nhiệm về đào tạo cán bộ, nhân viên kỹ thuật, huấn luyện cho hai trung đoàn này.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta cũng nhận được sự giúp đỡ quý báu của Trung Quốc. Trung Quốc đã chi viện cho chiến dịch 3.600 viên đạn pháo 105 ly, đó là số đạn đi theo 24 khẩu pháo viện trợ đưa về Việt Nam từ cuối năm 1953, chiếm 18% tổng số đạn pháo sử dụng trong chiến dịch. Sau chiến tranh Triều Tiên, đạn pháo 105mm của Trung Quốc cũng khan hiếm song trước yêu cầu cấp bách của chiến dịch, Trung Quốc đã chuyển thêm cho quân ta 7.400 viên đạn 105mm, vì điều kiện vận chuyển khó khăn, số đạn này không kịp đưa vào phục vụ chiến dịch. Trong những ngày cuối chiến dịch Điện Biên Phủ, Trung Quốc còn giúp thêm một tiểu đoàn DKZ 75mm và 12 dàn hỏa tiễn (cachiusa) 6 nòng. Đây là hỏa lực mạnh nhất mà ta có được lúc bấy giờ và kịp thời tham gia đợt tổng công kích cuối cùng diễn ra chiều ngày 6-5-1954, phát huy tác dụng rất lớn.
Viện trợ lương thực của Trung Quốc cũng góp phần giải quyết khó khăn về lương thực cho các chiến dịch của ta. Trong những năm 1949, 1950 khi nhân dân Trung Quốc ở vùng Hoa Nam còn đói kém, Đảng và Chính phủ Trung Quốc đã nuôi dưỡng hàng chục ngàn cán bộ, chiến sĩ Việt Nam trên đất nước mình, viện trợ cho Việt Nam 2.634 tấn gạo. Tuy nhiên, từ năm 1951 trở đi, nước ta đã cố gắng huy động lương thực trong nước để giảm dần lượng gạo viện trợ. Từ cuối năm 1950 đến giữa năm 1953, Trung Quốc phải dốc sức tham gia kháng Mỹ viện Triều. Vì vậy, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, lương thực chủ yếu được huy động từ trong nước, chúng ta chỉ còn nhờ Trung Quốc giải quyết 1.700 tấn gạo, chiếm 6,52% tổng nhu cầu.
Ngoài trang bị vũ khí, giúp đỡ huấn luyện, viện trợ lương thực, Trung Quốc còn cử đoàn cố vấn quân sự và chính trị sang Việt Nam. Để giữ bí mật, đoàn cố vấn quân sự lấy tên là Đoàn công tác Hoa Nam gồm 79 người do đồng chí Vi Quốc Thanh làm trưởng đoàn. Ngày 9-8-1950 đoàn khởi hành từ Nam Ninh, ngày 12-8 đến Quảng Uyên, Cao Bằng. Đây là lần đầu tiên ĐCS Trung Quốc cử một đoàn cố vấn quân sự ra nước ngoài. Trước khi đoàn lên đường, các đồng chí lãnh đạo như Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức đã gặp gỡ, đưa ra chỉ thị, tư tưởng chỉ đạo đối với đoàn là phải phát huy tinh thần chủ nghĩa quốc tế, phải đoàn kết với các đồng chí Việt Nam, phải xuất phát từ thực tế của Việt Nam, phải giúp Việt Nam theo con đường tự lực cánh sinh, phải phát huy tính thần gian khổ phấn đấu. Đảng Cộng sản Trung Quốc giao cho đoàn 2 nhiệm vụ: Một là, giúp đỡ Việt Nam đánh thắng trận, đuổi thực dân Pháp xâm lược; hai là, giúp đỡ Việt Nam xây dựng quân đội chính quy. Chủ tịch Mao Trạch Đông nhấn mạnh: “Toàn thể các đồng chí trong đoàn cố vấn phải coi sự nghiệp giải phóng của nhân dân Việt Nam là sự nghiệp của chính mình”... Ngoài đoàn cố vấn quân sự, Trung Quốc còn cử động chí Trần Canh (nguyên Phó Tư lệnh cánh quân Tây Nam, Tư lệnh quân khu Vân Nam) cùng một số cán bộ quân sự, trực tiếp làm cố vấn trong chiến dịch Biên giới Thu Đông năm 1950.
Thực hiện nhiệm vụ của Đảng, Chính phủ Trung Quốc giao phó, các cố vấn quân sự Trung Quốc đã sát cánh cùng quân ta trong suốt cuộc kháng chiến. Trong khoảng giữa năm 1953-1954, khi Bộ Chính trị BCH Trung ương Đảng ta chọn Tây Bắc, theo sát chiến trường, kịp thời cố vấn trong các vấn đề chuẩn bị hậu cần, chuẩn bị chiến trường. Cố vấn quân sự Trung Quốc đã giúp quân đội ta về công tác chỉ huy tham mưu, về huấn luyện quân sự và truyền đạt những kinh nghiệm của Quân giải phóng Trung Quốc. Trên cơ sở những kinh nghiệm này, vận dụng và phát triển sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của chiến trường nước ta, quân đội ta đã thực hiện một cách thành công chiến thuật “đánh điểm diệt viện” mà tiêu biểu là trong chiến dịch Biên giới 1950, các giải pháp đảm bảo hậu cần...
Mặc dù có lúc, có công việc chưa giải quyết phù hợp với thực tế, vận dụng một số kinh nghiệm của cách mạng Trung Quốc chưa linh hoạt do chưa nắm hết tình hình Việt Nam, nhưng đoàn cố vấn Trung Quốc đã đóng góp không nhỏ vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp. Ghi nhận công lao này, ngày 2-9-1953, Hồ Chủ tịch dẫn đầu đoàn lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước ta đến nơi ở của đoàn cố vấn Trung Quốc để trao Huân chương Hồ Chí Minh cho các đồng chí Vi Quốc Thanh, La Quý Ba, biểu dương tinh thần quốc tế vô sản của các đồng chí trong đoàn cố vấn, cảm ơn sự giúp đỡ mà Đảng Cộng sản, Chính phủ Trung Quốc đã dành cho Việt Nam.
3. Một vài nhận xét
Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta từ năm 1950 trở đi đã nhận được sự giúp đỡ, ủng hộ trực tiếp từ Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em. Tổng số viện trợ (súng đạn, lương thực, hàng quân y, quân trang…) từ tháng 5 năm 1950 đến tháng 6 năm 1954 là 21.517 tấn, trị giá 34 triệu rúp. Trong đó ngoài ô tô vận tải, pháo cao xạ, hỏa tiễn sáu nòng, tiểu liên K50 là của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, còn các vũ khí bộ binh, pháo 105 ly, 75 ly và lương thực là do Trung Quốc giúp đỡ. Số viện trợ nói trên chiếm khoảng 20% tổng số vật chất quân ta sử dụng trên chiến trường Bắc Bộ trong thời gian này (13).
Theo thống kê sơ bộ của Trung Quốc, từ tháng 4 đến tháng 9-1950, Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam 14.000 súng trường và súng lục, 1.700 súng máy và tiểu liên, 150 súng cối, 60 khẩu pháo, 300 bazooka, cùng đạn dược, thuốc, quần áo và 2.800 tấn lương thực (14). Riêng chiến dịch Điện Biên Phủ, Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam tổng cộng hơn 200 ô tô, hơn 10.000 thùng dầu, hơn 3.000 khẩu súng các loại, 2.400.000 viên đạn, hơn 100 khẩu pháo các loại, hơn 60.000 viên đạn pháo và đạn hỏa tiễn, 1.700 tấn lương thực, ngoài ra còn một lượng lớn thuốc men, khí tài, thuốc nổ (15). Cũng theo cuốn sách này, Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp là 155.000 khẩu súng các loại, 57.850.000 viên đạn, 3.692 khẩu pháo, hơn 1.080.000 quả đạn pháo, hơn 840.000 quả lựu đạn, 1.231 ô tô, hơn 1.400.000 bộ quân phục, hơn 140.000 tấn lương thực và thực phẩm phụ, hơn 26.000 tấn dầu và một lượng lớn thuốc men và vật tư quân dụng khác (16). Tuy có sự khác biệt khá lớn giữa số liệu thống kê của Trung Quốc và của Việt Nam nhưng chúng ta vẫn có thể khẳng định, viện trợ này có ý nghĩa to lớn trong hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam cũng như của Trung Quốc lúc đó. Nó đã góp phần làm mạnh thêm thế và lực của quân ta trong cuộc chiến với thực dân Pháp được Mỹ giúp sức, để chúng ta có điều kiện liên tiếp mở những chiến dịch lớn trên chiến trường chính Bắc Bộ và đi tới thắng lợi cuối cùng.
Trong hoàn cảnh đất nước còn rất nhiều khó khăn, lại đang viện trợ Triều Tiên chống Mỹ, Trung Quốc vẫn tích cực viện trợ cho cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta. Viện trợ này vừa xuất phát từ lợi ích quốc gia nhằm đảm bảo an ninh ở phía Nam, tạo điều kiện để Trung Quốc phát triển kinh tế, nâng cao vị thế của Trung Quốc trên trường quốc tế. Ngay trong cuộc gặp gỡ và nói chuyện với đoàn cố vấn quân sự chuẩn bị sang Việt Nam, Lưu Thiếu Kỳ đã nói rõ: “Trung Quốc và Việt Nam là láng giềng đều là thân thích của nhau. Trước những khó khăn của họ liệu chúng ta có thể phủi tay đứng ngoài nhìn? Liệu có ngồi nhìn mà không cứu? Giả dụ Việt Nam bị Pháp đánh chiếm, biên giới của chúng ta liệu có yên ổn được không? Họ bị chinh phục, chúng ta sẽ bị uy hiếp trực tiếp. Bởi vậy, viện trợ cho Việt Nam vừa là nghĩa vụ quốc tế, cũng là để củng cố thắng lợi của chúng ta” (17)… “Nếu chúng ta không giúp ViệtNam để cho địch đóng ở đó, khó khăn của chúng ta sẽ lớn hơn, rắc rối cũng lớn hơn” (18). Sự thống nhất giữa lợi ích quốc gia và chủ nghĩa quốc tế hay sự gặp gỡ về lợi ích của hai dân tộc cũng được Mao Trạch Đông khẳng định: “Thực dân Pháp xâm lược là kẻ thù của nhân dân Việt Nam, cũng là kẻ thù chung của nhân dân Trung Quốc, là kẻ thù chung của nhân dân Trung Quốc, là kẻ thù chung của nhân dân hai nước Trung-Việt; Trung Quốc giúp Việt Nam đánh bại thực dân Pháp, khôi phục hòa bịnh ở Việt Nam. Còn Việt Nam đánh bại, đuổi thực dân Pháp ra khỏi Việt Nam, biên giới phía Nam của Trung Quốc cũng loại bỏ được uy hiếp của thực dân Pháp, đây lại là Việt Nam giúp đỡ Trung Quốc. Không thể nói Trung Quốc đã giúp đỡ Việt Nam, nên nói là Việt Nam đã giúp đỡ lẫn nhau (19). Quan hệ hữu nghị tốt đẹp giữa hai nước trong giai đoạn này đã được xây dựng trên nền tảng của sự thống nhất đó.
Trong bối cảnh chiến tranh lạnh, viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam cũng một phần sự phân công quốc tế của phe XHCN, đứng đầu là Liên Xô. Vì vậy, sự viện trợ này vừa thể hiện tinh thần quốc tế vô sản, vừa mang màu sắc đối kháng giữa hai hệ thống chính trị. Trước khi nước CHND Trung Hoa ra đời, tháng 7-1949, Lưu Thiếu Kỳ thăm Liên Xô, trong buổi nói chuyện với Stalin, Stalin đã có sự phân công: “Mong rằng Trung Quốc từ nay về sau nên gánh vác thêm sự giúp đỡ về phương diện phong trao cách mạng dân tộc dân chủ ở địa bàn thuộc địa và các quốc gia phụ thuộc. Bởi vì, bản thân cách mạng và kinh nghiệm cách mạng của Trung Quốc có thể có những ảnh hưởng tương đối lớn với họ, có thể tham khảo và hấp thụ. Về phương diện này, Liên Xô sẽ không có tác dụng và ảnh hưởng bằng Trung Quốc. Điều này thật rõ ràng, cũng như Trung Quốc khó có thể có ảnh hưởng ở châu Âu giống như Liên Xô được… Các đồng chí phải làm việc ở phương Đông và các quốc gia thuộc địa và nửa thuộc địa… Chúng tôi sẽ gánh vác nhiều nghĩa vụ đối với phương Tây, làm nhiều nghĩa vụ đối với phương Tây, làm nhiều việc hơn nữa. Nói tóm lại, đây là nghĩa vụ quốc tế mà chúng ta không được phép chối từ (20). Đúng như sự phân công ấy, Trung Quốc đã tích cực thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối với ViệtNam, một tiền đồn chống chủ nghĩa đế quốc trong khu vực. Vì vậy, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Nam không chỉ là thắng lợi của riêng dân tộc ta mà còn là thắng lợi của cả phe XHVN. Thắng lợi này đã góp phần làm tăng sức mạnh của phe XHCN, nâng cao vị trí và uy tín của Trung Quốc trên đường quốc tế.
Có thể nói, viện trợ, giúp đỡ Việt Nam kháng chiến chống Pháp của Trung Quốc diễn ra trong bối cảnh Liên Xô, Trung Quốc và các nước trong phe XHCN đoàn kết chống lại những âm mưu của Mỹ, lợi ích quốc gia hài hòa với tinh thần quốc tế vô sản. Điều này khiến mối quan hệ Việt-Trung giai đoạn 1950-1954 đi vào lịch sử hiện đại của quan hệ hai nước với nét đặc thù“vừa là đồng chí, vừa là anh em”.
Theo tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc (THS. NGUYỄN PHƯƠNG HOA, Viện Nghiên cứu Trung Quốc)

Chuyện ít biết về quan hệ Việt - Trung thời chống Mỹ (Dương Danh Dy)


29.09.2009 06:33
Xem hình
Hồ Chủ tịch và Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông
Nhân 60 năm nước CHND Trung Hoa, ông Dương Danh Dy, nguyên Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu bàn về quan hệ Việt - Trung thời kì chống Mỹ.
Tổng kết sao cho đúng thực chất quan hệ Việt Trung trong 60 năm qua, để từ đó rút ra những bài học bổ ích nhằm thúc đẩy quan hệ hai nước tiến tới là một vấn đề rất trọng đại, đòi hỏi công sức, trí tuệ của nhiều bậc tài cao đức trọng nhiều thế hệ. Đó là một công việc vô cùng khó khăn, động chạm tới nhiều vấn đề tế nhị, nhạy cảm của tầng lớp lãnh đạo hai nước, tới những người đã khuất và còn sống... chưa biết chừng còn có thể bị “vạ lây” (vì bị cho là không đúng ý ai đó).
Biết sức mình có hạn, tôi chọn “Quan hệ Việt - Trung thời kỳ chống Mỹ” để mở đầu cho loạt bài viết về quan hệ hai nước trong 60 năm qua, vì đây là giai đoạn tôi đã có chút trưởng thành, được may mắn chứng kiến nhiều sự kiện lớn trong mối quan hệ đó cũng như được gặp gỡ trực tiếp một số nhà lãnh đạo hai nước, hoặc được nghe truyền đạt ý kiến cấp trên, hay của người trong cuộc kể lại.
Tôi biết đây là một việc làm quá sức mình. Hơn nữa, lúc này tôi chỉ có thể bằng vào trí nhớ để viết nên chắc chắn sẽ có nhiều thiếu sót…, rất mong được bạn đọc rộng lòng tha thứ. 
Khác biệt nhưng vẫn được ủng hộ
Quan hệ Việt Trung có vấn đề từ khi quan hệ Xô -Trung "có chuyện", là điều đã được phía Trung Quốc công khai thừa nhận trong cuốn “Lịch sử ngoại giao Trung Quốc”, nhưng theo tôi, một số bất đồng trong quan hệ hai nước đã xảy ra sớm hơn (sẽ đề cập tới trong bài viết về quan hệ Việt Trung trong thời kỳ trước đó).
Chúng ta đều biết giữa Đảng CS và chính phủ Trung Quốc với Đảng CS và chính phủ Liên Xô đã tồn tại từ lâu nhiều mâu thuẫn trong quan hệ hai đảng, hai nước và nhiều bất đồng lớn trong đánh giá tình hình quốc tế. Vì nhiều lý do, lúc đầu những mâu thuẫn, bất đồng đó chỉ âm ỉ tồn tại, nhưng đến đầu năm 1960 của thế kỷ trước chúng đã bùng nổ và dần dần trở nên gay gắt tới mức hai đảng, hai nước coi nhau là kẻ thù: từ luận chiến đến “rút chuyên gia, xé hợp đồng” tới xung đột quân sự tại biên giới (năm 1969).

Cả hai bên đều đổ lỗi cho nhau nhưng có một điều có thể khẳng định, việc ban lãnh đạo Trung Quốc không chịu làm “đàn em” của Liên Xô nữa, quyết tâm phá vỡ thế hai cực hình thành từ Yalta và đầu óc nước lớn của một số nhà lãnh đạo Liên Xô đã làm cho mâu thuẫn giữa hai bên không thể điều hoà, dù cả hai đều tự nhận mình là những người trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin.

Trong “cuộc chiến” đó, ban lãnh đạo Trung Quốc muốn và không ngừng gây sức ép để chúng ta đứng về phía họ.

Một ví dụ, năm 1964, ông Đặng Tiểu Bình với tư cách là Tổng Bí thư Đảng CS Trung Quốc, Phó Thủ tướng Quốc Vụ viện Trung Quốc đã bí mật sang thăm Việt Nam với lời cam kết “sẽ bao toàn bộ viện trợ” của Liên Xô cho Việt Nam, nếu Việt Nam đứng về phía Trung Quốc, nhưng lời đề nghị đó đã bị Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Lãnh đạo Việt Nam khôn khéo nhưng cương quyết từ chối.
Tháng 8 năm 1966 cái gọi là “cách mạng văn hoá” của Trung Quốc công khai bùng nổ. Đây là cuộc “nội chiến đẫm máu” kéo dài trong mười năm, gây cho nhân dân Trung Quốc nhiều tổn thất to lớn về người và của. Mặc dù bị “thúc giục ủng hộ” nhưng Đảng ta dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch đã lựa chọn cách làm “không ủng hộ nhưng cũng không phản đối” như những nước xã hội chủ nghĩa khác lúc đó
Như vậy là hai vấn đề đối nội và đối ngoại lớn của Trung Quốc trong thời kỳ này đều không được sự đồng tình của Việt Nam
Sau mấy năm thi hành hiệp định Geneve, chúng ta biết không thể thống nhất nước nhà bằng con đường tuyển cử tự do. Đảng và chính phủ Việt Nam quyết định chọn con đường đấu tranh vũ trang tại miền Nam Việt Nam.

Chủ trương này lúc đầu không được ban lãnh đạo Trung Quốc tán thành. Bằng sức mạnh của dân tộc, chúng ta tự lực tiến hành. Sau khi thấy triển vọng của cuộc đấu tranh và thấy có thể dựa vào đó để “phất cao ngọn cờ chống chủ nghĩa đế quốc “… , ban lãnh đạo Trung Quốc mới từng bước từng bước tích cực ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa này.
Sau mấy năm tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam, trước phong trào đấu tranh cách mạng tại miền Nam Việt Nam ngày càng phát triển và thu được những thành tựu to lớn và ngày càng được dư luận rộng rãi trên thế giới kể cả một bộ phận nhân dân Mỹ đồng tình v.v., chính quyền Mỹ lúc đó thấy phải thương lượng với ta. Hai bên đã có những cuộc tiếp xúc.

Lúc đầu (năm 1967), ban lãnh đạo Trung Quốc phản ứng khá mạnh (ngoài những thể hiện trong nội bộ, Chu Ân Lai công khai phê phán ý định đúng đắn này khi tiếp một số đoàn đại biểu miền Nam tới thăm Trung Quốc,..) Tuy nhiên trước thái độ kiên quyết, đúng mức của Đảng và Bác Hồ, phía Trung Quốc đành phải thay đổi thái độ, chuyển sang ủng hộ chủ trương đàm phán với Mỹ của ta khi họ thấy Việt Nam làm như vậy là đúng và họ cũng có thể có “thu hoạch” trong vấn đề này,
Như vậy là hai chủ trương lớn của Đảng và chính phủ ta lúc đầu cũng đều không được ban lãnh đạo Trung Quốc tán đồng và bị gây khó dễ.

Nhắc lại mấy việc lớn trên để thấy rõ một điều: dù quan điểm lập trường, đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại…, của hai bên Việt Nam và Trung Quốc có những lúc hoàn toàn khác biệt, trái ngược nhau trong một thời gian khá dài, nhưng nhìn chung phía Việt Nam vẫn tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ rất lớn về nhiều mặt của Trung Quốc (và nhiều nước bạn khác nhất là của Liên Xô) để thực hiện mục tiêu chiến lược cao cả của dân tộc.
Những người ở lứa tuổi tôi (và trẻ hơn hai mưoi, hai nhăm tuổi) hiện nay đều không quên những viện trợ to lớn của nhân dân Trung Quốc anh em cho chúng ta trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Từ vũ khí đạn dược đến gạo ăn vải mặc, từ ô tô, tầu thuỷ, máy bay đến chiếc xe đạp, máy khâu, từ gói mì chính đến cái kim sợi chỉ…, không sao kể hết.
Tôi còn nhớ, từ chiếc mũ cối và đôi dép cao su Việt Nam đưa mẫu sang, các kỹ sư và công nhân Trung Quốc đã chế tạo cho quân đội ta và nhân dân ta những chiếc mũ cối và đôi dép lốp nổi tiếng một thời (mũ cối có thể làm ghế ngồi nghỉ sau một trạm hành quân và dùng làm gầu múc nước tắm, còn dép lốp thì bền tới mức chông sắt đâm không thủng, đi mãi không đứt quai).

Nhiều người Việt Nam thời đó từng được ăn nếm những phong lương khô rất ngon của Trung Quốc, nhưng ít ai biết rằng để đảm bảo sức khoẻ  cho các chiến sĩ ta, một số cán bộ kỹ thuật của nhà máy Ích Dân Thượng Hải đã trực tiếp thử nghiệm trong hơn hai mươi ngày liền chỉ ăn những phong lương khô đó trên đường hành quân mang nặng như các chiến sĩ ta. (Tôi may mắn được đến thăm nhà máy này ba lần và nếm thủ lương khô tại chỗ).

Ít người Việt Nam được biết những con tầu Giải phóng tải trọng chỉ có 50 tấn nhưng dùng động cơ mạnh tới 800 mã lực(nghĩa là có tốc độ rất nhanh) để có thể từ một cảng miền Bắc chở vũ khí, lương thực... vào cập bến tại một nơi ở vùng giải phóng miền Nam rồi trở lại ngay miền Bắc trong đêm đã được các kỹ sư và công nhân một nhà máy đóng tầu Trung Quốc thiết kế và chế tạo xong trong một thời gian ngắn kỷ lục theo yêu cầu của chúng ta.
Tôi cũng không thể nào quên những ngày nhiều công dân Trung Quốc sôi nổi gửi tiền ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ đến Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc kinh và vẫn còn nhớ nhiều vở kịch lấy đề tài từ cuốn “Những lá thư miền Nam” được các nghệ sĩ Trung Quốc chuyển thể thành các vở diễn mang tên “Những bức thư tiền tuyến” công diễn tại nhiều nơi ở Trung Quốc.
Không bao giờ chúng ta quên sự giúp đỡ to lớn, nhiệt tình đó của nhân dân Trung Quốc.
(Nói như vậy không phải là xem nhẹ sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô và các nước anh em khác.Một ví dụ: tên lửa SAM và Mig-21 đã góp phần không nhỏ trong chiến thắng Điện Biên Phủ trên không).

Độc lập mà không chống
Một câu hỏi được đặt ra là: vì sao có những bất đồng về nhiều mặt lớn như vậy mà ban lãnh đạo Trung Quốc vẫn viện trợ cho chúng ta?

Có thể đưa ra một số nguyên nhân, nhưng trong bài viết ngắn này tôi chỉ muốn nhấn mạnh một ý, đó là: "Đảng ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cho Ban lãnh đạo Trung Quốc tin chắc là trong bất kỳ tình huống nào Việt Nam cũng không bao giờ chống hoặc đi với ai để chống Trung Quốc, chống những lợi ích chính đáng của họ dù chủ trương lớn của hai bên có khi khác biệt.”
Điều này đã được thể hiện rất rõ trong cuộc họp các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới nhân dịp kỷ niệm 40 năm Cách mạng tháng mười (1957) và một số hội nghị quốc tế, khi đại biểu Trung Quốc bị công kích thì đại biểu Việt Nam đã khôn khéo kiên cường bảo vệ bạn.

Nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh
Ngoài ra cần nhấn mạnh thêm, trong thời gian đó, chúng ta may mắn có được sự lãnh đạo, dìu dắt chỉ bảo của trí tuệ sáng ngời, bản lĩnh vững chắc và nghệ thuật tài tình Hồ Chí Minh. Có thể đưa ra rất nhiều ví dụ để chứng minh. Ở đây tôi xin phép nêu một vài.
Tôi được một vị trong cuộc, nói cho biết, khi Trung Quốc phát động cái gọi là “cách mạng văn hoá”, trong Trung ương đảng ta đã có một số đồng chí tỏ ý đồng tình và một số đồng chí tỏ ý phản đối. Cả hai phía đều muốn đảng ta tỏ thái độ.

Với sự hiểu biết sâu sắc về Trung Quốc, Bác Hồ đã có chủ kiến: đây là cuộc đấu tranh quyền lực trong nội bộ, sẽ mang lại tai hoạ cho nhân dân Trung Quốc, chúng ta không thể ủng hộ, nhưng cũng không thể khuyên can vì dù có khuyên can họ cũng không nghe. Bác chỉ hỏi: "Ở đây có đồng chí nào hiểu Trung Quốc bằng Bác không?” Tất nhiên chẳng vị nào dám nói mình hiểu Trung Quốc hơn Bác.

Thấy mọi người im lặng, Bác nói tiếp: “Hiện giờ Bác cũng chưa biết “cách mạng văn hoá” là cái gì? Đã chưa biết, chưa hiểu thì chưa nên bầy tỏ thái độ!”

Câu nói ngắn gọn đó đã trở thành chủ trương của Đảng và nhân dân ta trong suốt thời gian Trung Quốc tiến hành công việc trên.
Thế là chỉ bằng vào trí tuệ siêu phàm của Hồ Chí Minh, Đảng ta đã tránh sa vào “những rắc rối” và những hậu quả sau này của cuộc “nội chiến đẫm máu” đó, đã chứng tỏ rằng việc chúng ta không ủng hộ “cách mạng văn hoá” nhưng cũng không phản đối là vô cùng chính xác.
Sau khi thuyết phục và gây sức ép yêu cầu Đảng ta từ bỏ Liên Xô đi theo Trung Quốc không được, Đặng Tiểu Bình rất bực bội. Buổi ông ta rời Hà Nội, Bác và mấy đồng chí đến tiễn tại nhà khách. Lúc Bác tới ông Đặng đang ngồi trên ghế, nhưng khi thấy Bác vào ông ta không đứng dậy theo phép lịch sự. Mấy đồng chí đi theo Bác không ngờ lại có chuyện đó, trong khi chưa biết xử trí ra sao thì thấy Bác nhanh nhẹn bước tới chỗ ông Đặng ngồi, một tay chìa ra bắt tay ông Đặng, một tay vỗ nhẹ mấy cái vào vai ông ta rồi từ từ kéo ông ta đứng đậy. Tất nhiên là ông Đặng phải đứng lên theo.

Cần phải nói thêm kẻo một số bạn trẻ không rõ, đối với người Việt Nam (và Trung Quốc), chỉ có những bậc bề trên, hoặc nhiều tuổi hơn mới được quyền vỗ nhẹ vào vai người được coi như bậc dưới hoặc ít tuổi hơn. Hành động nhỏ này thể hiện rõ bản lĩnh, nghệ thuật ứng xử tuyệt vời của Hồ Chí Minh.
Mặc dù ngay từ đầu chúng ta đã tỏ rõ thái độ là “không ủng hộ nhưng cũng không phê phán "cách mạng văn hóa” nhưng ban lãnh đạo Trung Quốc(chủ yếu là phái tạo phản) vẫn không ngừng yêu cầu chúng ta chí ít cũng phải có sự ủng hộ về dư luận. Để giải toả vấn đề, Bác Hồ đã có một cử chỉ tuyệt vời nữa.

Ngày 26 tháng 12 là sinh nhật của Chủ tịch Mao Trạch Đông. Đúng ngày 26/12/1967 trên trang đầu và ở vào vị trí trang trọng của Nhân dân nhật báo Trung Quốc đã đăng mấy dòng chữ viết tay bằng chữ Hán của Bác chiếm chỗ khoảng bằng một danh thiếp: “Kính chúc Mao Chủ tịch vạn thọ vô cương”. 26/12/1967. Hồ Chí Minh”.
“Vạn thọ vô cương” là mấy từ mà các tiểu tướng Hồng vệ binh Trung Quốc hồi đó thường xuyên hô lớn tại bất kỳ cuộc họp nào, nhất là trong dịp được Chủ tịch Mao tiếp kiến, nay Hồ Chí Minh cũng dùng nó để chúc thọ "người cầm lái vĩ đại" thì còn có sự ủng hộ nào bằng. Sức ép hầu như không còn!
...

Nhân dịp này tôi muốn nói thêm: người Việt Nam luôn luôn tôn trọng vai trò nước lớn của Trung Quốc và mong sống bình yên hoà thuận với người láng giềng khổng lồ này. Trong quá trình xây dựng bảo vệ và phát triển đất nước, chúng tôi đã đang và sẽ không bao giờ gây cản trở cho các bạn hoặc đi với người khác để làm phiền các bạn. Chúng tôi chỉ có một yêu cầu, xin các bạn hãy để cho chúng tôi được yên, đừng ép buộc chúng tôi phải theo ý các bạn.
Trong quan hệ hai nước hiện nay đang nổi lên vấn đề biển, đảo. Giải quyết vấn đề này rất khó nhưng không phải là không có biện pháp. Rất khó là nếu cả hai cứ khăng khăng ý mình, còn chìa khoá để giải quyết vấn đề là cả hai đều phải tỉnh táo kiềm chế và có sự nhân nhượng lẫn nhau đúng mức.
Phương châm là “không thể để Biển Đông nổi sóng” .

Friday 24 May 2013

Nước ngoài là nước nào?



Bản in lần thứ 9 của cuốn Đại cương lịch sử Việt Nam dành cho sinh viên khoa sử các trường đại học sư phạm và đại học khoa học xã hội nhân văn viết như sau về nguyên nhân sai lầm trong cải cách ruộngđất:
Nguyên nhân sâu xa của những sai lầm trên là không nắm vững vấn đề dân tộc và giai cấp ở nước ta,  không thấy được những biến đổi to lớn của nông thôn miền Bắc sau Cách mạng tháng Tám, áp dụng máy móc kinh nghiệm nước ngoài vào Việt Nam một cách đơn giản...
(LêMậu Hãn et al., 2006:139)
Nước ngoài trong câu trên là Trung Quốc. Cái khó của sử quan đời nay là không thể chỉ mặt gọi tên kể tội Trung Quốc nếu không muốn mất đầu. Cám ơn đích danh Trung Quốc thì được:
Cùng với sự lớn mạnh của chế độ dân chủ cộng hòa và thắng lợi trên mặt trận quân sự ngày càng lớn, nhân dân ta đã nhận được sự chi viện về tinh thần và vật chất của quốc tế, đặc biệt là của Trung Quốc và Liên Xô (Trung Quốc đã cử cố vấn sang giúp ta và viện trợ cho ta về vũ khí, lương thực...)
(Lê Mậu Hãn et al., 2006:103)
Cả câu rất dài về nguyên nhân sai lầm trong cải cách ruộng đất có thể viết gọn lại thành Nguyên nhân sâu xa của những sai lầm trên là áp dụng máy móc kinh nghiệm Trung Quốc vào Việt Nam một cách đơn giản... bởi mù quáng nghe lời Trung Quốc dạy bảo nên mới không không nắm vững vấn đề dân tộc và giai cấp ở nước ta,  không thấy được những biến đổi to lớn của nông thôn miền Bắc sau Cách mạng tháng Tám. Không nắm vững và không thấy được gì cả là hậu quả, không phải là nguyên nhân của nguyên nhân, không thể là nguyên nhân sâu xa. Lê Mậu Hãn et al. (2006:139) liệt kê cả đống nguyên nhân như thế không ngoài mục đích tung hỏa mù che giấu nguyên nhân sâu xa đích thực.

Thursday 23 May 2013

AI ĐÃ GIẾT PHẠM QUỲNH, NGƯỜI NẶNG LÒNG VỚI NƯỚC. (Phạm Tôn)


AI ĐÃ GIẾT PHẠM QUỲNH,
NGƯỜI NẶNG LÒNG VỚI NƯỚC.
Phạm Tôn

Tháng Chín 18, 2009
Chuyên mục: Ý kiến — phamquynh @ 4:07 sáng
Blog PhamTon, tuần thứ 3 tháng 9 năm 2009

Lời dẫn của Phạm Tôn: Các bạn đọc bài này có thể sẽ thắc mắc vì sao năm 2006, tháng 8, trong số 140 tạp chí hằng tháng Công giáo và Dân tộc có đăng bài Phạm Quỳnh, người nặng lòng với nước, rồi tháng 9, trong số 267 tạp chí Xưa và Nay lại đăng bài Người nặng lòng với nước đều của tác giả Phạm Tôn, mà sao hai bài không hoàn toàn giống hệt nhau và cũng chẳng có bài nào giống hệt bài chúng tôi đăng dưới đây. Lý do là như sau…
Năm 2006 ấy, với khí thế đổi mới sôi nổi khắp cả nước đón chào Đại họi lần thứ X của Đảng Cộng Sản Việt Nam, chúng tôi quyết tâm với tràn đầy lòng tin tưởng ở sự nghiệp đổi mới, hoàn chỉnh bài viết sơ thảo từ năm 2001. Bản đầu tiên tới tay GS. TSKH Trần Văn Chánh, là người tôi cho là có ”con mắt xanh”. Anh nhận ra ngay đây là bài có thể ra đời trong thời cơ này. Trong khi là người viết, chúng tôi còn do dự, chỉ mong hai bài Người nặng lòng với tiếng ta (viết năm 1999) và Người nặng lòng với nhà (viết năm 2000) ra đời trót lọt mới tính đến chuyện cho bài này ra đời. Nhưng anh Trần Văn Chánh đã đưa tạp chí Công giáo và Dân tộc, lại được nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu đọc và viết cho hai trang ”bảo lãnh”, nên mới ra đời suôn sẻ như vậy, trước sự ngỡ ngàng của tác giả và không ít người hiểu biết,
Sau đó do có thêm tư liệu mới, tôi đã viết thêm một hai đoạn. Cho nên bài đăng trên Công giáo và Dân tộc là đăng nguyên văn, không thêm không bớt một chữ nào, nhưng vẫn không có các đoạn mới thêm đó. Bài sau này đến tạp chí Xưa và Nay, lại có sự biên tập thêm bớt nữa, cho nên đã khác lại càng khác với bài trên Công giáo và Dân tộc.
Đến bản trên blog lần này, do có thêm tư liệu, xác định được chính xác hơn một số lời nói, tình tiết, chúng tôi lại sửa chút ít, để đảm bảo sự chính xác tối đa về tư liệu lịch sử, trước khi đưa đến bạn đọc, nên lại khác đi một chút nữa.
Có điều, nội dung cơ bản ba bài vẫn như nhau, cho nên chúng tôi để nguyên ở cuối bài ngày tháng hoàn thành.
Hơn nữa, như các bạn đã đọc blog chúng tôi thì biết, chúng tôi luôn đăng theo đúng bản thảo của tác giả mà không lấy những bản đã bị cắt xén, sửa chữa…
Vài hàng mạo muội trình bày để bạn đọc thông cảm sao một bài của một tác giả mà lại có đến ba bản khác nhau.
۞

Cứ nghĩ đến trường hợp Phạm Quỳnh là ta lại không khỏi nhớ đến mấy dòng Lỗ Tấn viết trong phần kết thiên kiệt tác A.Q chính truyện : “Còn như về dư luận, thì cả làng Mùi đều nhất trí công nhận rằng: A.Q. không phải là người lương thiện, chứng cớ là y đã bị bắn. Vì rằng: nếu là người lương thiện thì sao lại bị bắn kia chứ!” [1]
Hơn 60 năm qua, người ta đã viết về ông trong sách báo biết bao nhiêu với giọng điệu như thế: lấy cái chết của ông vì bị bắn làm điểm xuất phát để đánh giá cả cuộc đời và sự nghiệp của ông. Suốt từ năm 1945 đến 1975 ở miền Bắc nước ta và sau năm 1975 là trong cả nước, hầu như đều một giọng như thế…
Trong Đời viết văn của tôi, do nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội, xuất bản năm 1971, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã chân tình, ưu ái viết về Phạm Quỳnh như sau:
“Tôi nhìn thấy cảnh bề ngoài cười nụ bề trong khóc thầm này thì sực nghĩ đến Phạm Quỳnh. Tôi cho rằng Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh là những người có chính kiến. Thấy ở nước ta, ba kỳ có ba chế độ chính trị khác nhau, Nguyễn Văn Vĩnh mới chủ trương thuyết trực trị. Người Pháp trực tiếp cai trị người Nam, như ở Nam Kỳ, không phải qua vua quan người Nam, thì dân được hưởng nhiều chế độ rộng rãi hơn. Phạm Quỳnh, trái lại, chủ trương thuyết lập hiến. Người Pháp nên thi hành đúng Hiệp ước 1884, chỉ đóng vai trò bảo hộ, còn công việc trong nước thì vua quan người Nam tự đảm nhiệm lấy. Bây giờ Phạm Quỳnh vào Huế làm quan, tôi cho không phải vì danh. Quốc dân biết Phạm Quỳnh hơn biết mấy Thượng thư Nam triều. Cũng không phải vì lợi. Làm báo Nam Phong Phạm Quỳnh cũng được phụ cấp 600 đồng một tháng, món này to hơn lương Thượng thư. Phạm Quỳnh ra làm quan, chỉ là để rồi lấy danh nghĩa Chính phủ Nam triều, đòi Pháp phải trở lại Hiệp ước 1884. Vậy một người yêu nước như Phạm Quỳnh, sở dĩ phải có mặt trên sân khấu chính trị chẳng qua chỉ là làm một việc miễn cưỡng, trái với ý muốn, để khuyến khích bạn đồng nghiệp làm việc cho tốt hơn, chứ thực lòng, là một người dân mất nước, ai không đau đớn, ai không khóc thầm. Thế là tôi nghĩ được ra truyện Kép Tư Bền, tả một anh kép hát nổi tiếng về bông lơn, đã phải vì giữ tín nhiệm với khán giả mà ra sân khấu nhà hát làm trò cười, ngay cái tối cha anh đương hấp hối.”
Nhưng, ngay sau đó, như một phản ứng của bản năng tự vệ, ông lại vội vã bác bỏ ngay điều mình vừa khẳng định, bằng cách viết: “Có lạ gì trình độ chính trị của tôi thời này. Nếu tôi tinh khôn thì tôi đã hiểu hai thuyết trực trị và lập hiến chẳng qua chỉ là thủ đoạn của bọn cướp nước bảo hai tên tay sai bày ra để loè bịp, để ru ngủ người ta đương được chủ nghĩa cộng sản thức tỉnh.”
Đến năm 1998, trong Tác giả văn học Thăng Long – Hà Nội, nhà xuất bản Hội nhà văn xuất bản, Tô Hoài vẫn còn dè dặt viết: “Đến Cách mạng Tháng Tám 1945, chính quyền nhân dân khép án tử hình.
“Cuộc đời Phạm Quỳnh có hai mặt: Con người chính trị và con người văn hoá. Về những đóng góp của ông đối với việc xây dựng nền văn học quốc ngữ là không thể phủ nhận.”
Xem ra, vẫn nặng hơi hướng “dư luận làng Mùi”. Chỉ có trong quyển Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam do Tôn Nữ Quỳnh Trân chủ biên, nhà xuất bản Văn Hoá-Thông Tin xuất bản năm 1993, là ghi giản dị: “Phạm Quỳnh mất năm 1945.”
Hơn 60 năm đã trôi qua. Nếu Phạm Quỳnh có tội ác nào với dân tộc, có nợ máu gì với nhân dân, chắc chắn đã có người phát hiện và tố cáo rồi. Nhất là những người suy nghĩ như “dân làng Mùi”, luôn cố tìm cách biện minh cho cái kết cục là đã bị tử hình của Phạm Quỳnh. Nhưng, tựu trung, tội của Phạm Quỳnh vẫn không ngoài hai tội “bán nước” và “tay sai đắc lực cho thực dân Pháp”
Về tội “bán nước”, ngay lúc sinh thời, ông đã có lần đau đớn thốt lên: “người ta bảo tôi bán Nước. Khi tôi ra đời, nước đã mất rồi, còn đâu mà tôi bán.”
Còn tội “tay sai đắc lực cho thực dân Pháp” thì ta hãy xem chính thực dân Pháp nói gì về “tay sai đắc lực” của mình.
Đến hôm nay, thì ngay cả trong nước ta, nhiều người đã biết đến Bản phúc trình (tối mật) đề ngày 8/1/1945 của Khâm sứ Trung Kỳ Haelewyn gửi cho Toàn quyền Đông Pháp Jean Decoux và Tư lệnh Đại tướng Mordant. Nhất là sau khi giáo sư Nguyễn Phước Bửu Tập đã công bố bản dịch tiếng Việt trong Ngày Phạm Quỳnh tổ chức ở California, nước Mỹ tháng 5-1999. Bản dịch như sau:
“Thêm một lần nữa, Thượng thư Nội vụ (Phạm Quỳnh) lại cực lực phiền trách chúng ta về việc trưng dụng lúa gạo để cung cấp cho Nhật.
“Phạm Quỳnh lặp lại điệp khúc yêu cầu chúng ta hoàn trả Bắc Kỳ về cho Hoàng Triều như Pháp quốc đã hứa. Tôi đã lưu ý Hoàng đế Bảo Đại về thái độ bướng bỉnh vượt quá thẩm quyền ông ta đòi nới rộng quyền hạn của Viện Cơ Mật. Hiện tôi đang chờ đợi một phản ứng khác bùng nổ từ ông ta nếu như chúng ta không chịu nhận sự bổ nhiệm một Khâm sai Hoàng Triều trên cõi Bắc Kỳ. Chủ quyền bảo hộ của chúng ta lại một lần nữa bị xúc phạm. Phạm Quỳnh đòi hỏi chúng ta trong một thời hạn ngắn nhất, cụ thể nhất, phải hợp thức hoá việc phục hồi chủ quyền của Vương triều trên lãnh thổ Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Phạm Quỳnh còn hăm he sẽ thúc đẩy các phong trào chống đối, nổi dậy nếu như chúng ta không đặt vấn đề thương thảo với Hoàng đế Bảo Đại trong những tháng trước mắt về một quy chế mới nhằm cải biến chế độ bảo hộ sang quốc gia liên hiệp như thể chế Commonwealth, mà trong đó những địa vị quan trọng phải nằm trong tay người bản xứ.
“Những yêu sách của Phạm Quỳnh cứ là thiết lập một nền tự trị toàn diện cho Bắc Kỳ và Trung Kỳ, đồng thời chấm dứt chế độ thuộc địa Nam Kỳ, tiến tới việc hình thành một quốc gia Việt Nam.
“Tôi xin lưu ý quý ngài về sự kiện này, bề ngoài Phạm Quỳnh tuy nhã nhặn, hoà hoãn, nhưng ông ta là một phần tử bất khả phân trong chủ trương giành độc lập cho Việt Nam và chúng ta đừng mong làm gì với lòng ái quốc chí thành, bất di bất dịch nơi ông ta, dù qua việc chúng ta đã dành cho ông một chức vị tối danh dự đã có.
“Cho đến hiện thời, ông ta là một đối thủ thận trọng, chừng mực nhưng kiên quyết trước vấn đề bảo hộ của Pháp quốc, do đó Phạm Quỳnh sẽ có thể trở thành kẻ đối địch bất khả quy của chúng ta, nếu như một khi ông ta bị lôi cuốn bởi lời hứa hẹn của Nhật Bản cho một chủ thuyết Đại Đông Á.
“Tôi xin chờ chỉ thị của quý ngài…” [2]
Tưởng chẳng còn gì phải bình luận thêm về tấm lòng son của Phạm Quỳnh, một con người nặng lòng với nước.
Qua nửa năm làm Thương thư kiêm Ngự tiền văn phòng, chín năm làm Thượng thư Bộ Học và gần ba năm làm Thượng thư Bộ Lại, sau đảo chính Nhật 9/3/1945, Phạm Quỳnh thanh thản từ nhiệm, về sống ẩn dật tại biệt thự Hoa Đường bên bờ con sông nhỏ An Cựu. Tháng 6-1945, trả lời phỏng vấn của nhà báo Nguyễn Vạn An, ông đã bộc bạch: “Tôi đã lỡ lầm mà ra làm quan, vì trước khi dấn thân vào hoạn lộ tôi vẫn tưởng tôi sẽ làm được rất nhiều việc mà trước kia tôi chỉ phụng sự được trong mực đen, giấy trắng.” [3]. Và trong bài viết Lão Hoa Đường, Thiếu Hoa Đường cũng vào những ngày ấy, ông tự trách mình: “khờ dại đem mình ra lăn lộn giữa phong trào hỗn độn, trong thời buổi nhá nhem, không biết cái thân “nho quèn” đương nổi sao được thời thế, và ở giữa cái xã hội xu thời mị chúng này, ai còn thiết đến kẻ văn nhân nho sĩ, chỉ biết đem một thái độ ôn hoà nho nhã mà đối với cái cuồng phong bác tạp, hỗn hào.” [4]. FÔng lặng lẽ chuẩn bị trở lại với hoạt động văn học, dịch và chú giải 51 bài thơ Đỗ Phủ, bắt đầu viết tập Kiến văn cảm tưởng: Hoa Đường tuỳ bút. Và tất nhiên là đọc, đọc rất nhiều sách báo…
Thấy tình hình trong nước có nhiều biến động mà ông anh rể vẫn bình tĩnh vùi đầu vào văn chương như thế, ông Lê Văn Tốn (còn có tên là Xuân), em vợ Phạm Quỳnh, có gợi ý là: “Trong lúc này, anh nên lánh đi xa một thời gian, sang Lào chẳng hạn, vì nhà vua Lào có vẻ mến mộ anh lắm, để tránh những nguy hiểm có thể xảy ra”. Thì Phạm Quỳnh cười và nói rằng: “Chính lúc này mới càng cần ở trong nước, để còn có cơ giúp nước.” Và ông không đi đâu hết, cứ ở lại, đọc, dịch và viết. Ông đã viết non 50 trang giấy trong một cuốn vở học trò, được khoảng chục bài. Bài cuối cùng còn dang dở là Cô Kiều với tôi, một đề tài ông ấp ủ đã lâu. Trong bài có đoạn: “Năm 1924, lần đầu làm lễ kỉ niệm cụ Tiên Điền, trước hai ngàn người họp ở sân Hội Khai Trí, tôi trịnh trọng tuyên bố một câu: Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, có điều chi nữa mà ngờ… Câu ấy người mình có người không hiểu, có người hiểu lầm.” Cây bút máy Waterman còn chặn ngang trên trang giấy, gia đình vô tình tìm thấy trên bàn viết sau khi ông được chính quyền Cách mạng “mời đi họp”.
Thành ra nhà văn hoá lão thành Vương Hồng Sển ở tuổi chín mươi đã có lí khi nêu câu hỏi trong tham luận gửi hội thảo về Phạm Quỳnh do Viện Văn Học tổ chức vào cuối năm 1992 tại Hà Nội: “Tại sao Cách mạng lại giết Phạm Quỳnh? Cứ để cụ ấy sống có phải còn có nhiều cái mà học không?” Và rõ ràng là không phải chỉ có một người băn khoăn như vậy. Đó là câu hỏi của nhiều thế hệ người Việt Nam cho đến nay vẫn chưa có lời giải đáp thoả đáng.
Vậy ai đã xét xử, kết án, và thi hành án tử hình Phạm Quỳnh?
Chúng ta hãy bắt đầu từ khi ông được chính quyền cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế “mời đi họp” trưa 23/8/1945.
Một học sinh trường Thanh niên Tiền tuyến (Huế) được chỉ định làm chủ tịch Thanh niên Tiền tuyến là Phan Hàm, nhận lệnh đi bắt Phạm Quỳnh từ cấp trên là Lê Tự Đồng, Việt Minh Thuận Hoá. Phan Hàm cùng vài đồng đội đến biệt thự Hoa Đường đưa giấy của Việt Minh “mời” Phạm Quỳnh “đi họp.” [5]. Ông ra đi, mặc áo lương đen, đầu không đội khăn. Khi sắp lên xe hơi, con gái là Phạm Thị Hoàn lo ông lên cơn đau dạ dày định chạy lên lầu lấy thuốc magnésie bismurée để ông đem đi, thì ông dịu dàng nói: ”Thầy không cần, chiều thầy sẽ về” [6] Hành động này, chắc chắn không thoát khỏi cặp mắt cảnh giác cao của Phan Hàm. Ông cùng lên xe hơi với con rể là Nguyễn Tiến Lãng.
Khi nghe tin Phạm Quỳnh bị bắt, các bà Phạm Thị Giá, Phạm Thị Thức là hai con gái lớn của ông, đến văn phòng Bộ Nội vụ tìm gặp người quen là ông Hoàng Hữu Nam, tức Phan Bôi, [7] bấy giờ là Thứ trưởng và Chánh văn phòng Phủ Chủ tịch, xin cho vào Huế đón mẹ và các em ra Hà Nội. Ông Nam khuyên không nên vào trong lúc này, vì nhân dân đang nổi dậy, vào có khi lại bị bắt giữ lôi thôi, không có lợi. Muốn đón cụ bà và gia đình ra thì để ông “tư” vào trong ấy. (Sau đó, gia đình đã được đưa ra Hà Nội an toàn.) [8] Còn nếu muốn gửi thuốc men cho cụ ông thì cứ gói lại và đề ở ngoài là gửi cho “Thầy tôi”, tự ông sẽ cho chuyển đến tận tay. Hai chị em cũng được ông Nam giải thích rõ là: “Vì nay bọn Pháp đang tìm cụ để lợi dụng, nên chúng tôi giữ cụ lại nơi yên ổn thôi.” Hai chị em còn ngỏ ý xin được gặp cụ Hồ. Ông Nam nhận lời sẽ bố trí một hôm nào đó cho được gặp “ít phút thôi, trình bày ngắn gọn, kẻo Cụ ít thời giờ lắm.” Thái độ thân ái chân tình của ông Nam khiến hai bà cảm động và yên lòng, tin tưởng ở cách mạng.
Sau đó ít ngày, có giấy của Bộ Nội vụ báo Cụ Hồ nhận tiếp hai chị em vào 11 giờ ngày thứ sáu, tại Bắc Bộ Phủ. Hai bà được đưa đến chờ ở một phòng rộng, lòng hồi hộp, lo lắng và sợ hãi nữa. Một lát sau thì Cụ ra, mặc áo kaki, đi dép lốp, đi đứng nhanh nhẹn; có ông Vũ Đình Huỳnh theo sau. Hai chị em đứng lên chào Cụ, Cụ bắt tay và mời ngồi. Cụ hỏi thăm thì hai chị em trình bày việc cha bị bắt và trình lên Cụ một phong thư kể rõ sự việc. Cụ Hồ nói: “Trong lúc khởi nghĩa, cũng không sao tránh được sự nhầm lẫn. Rất tiếc khi ấy tôi còn đang ở trên Việt Bắc.” (Chiều 26/8/1945, Hồ Chủ tịch mới về đến Hà Nội, nhà số 48 phố Hàng Ngang) [9]. Cụ còn hỏi thăm gia đình được bao nhiêu anh chị em. Rồi cầm phong thư đưa cho ông Vũ Đình Huỳnh và nói: “Tôi sẽ chuyển qua Bộ Nội vụ.” Lúc đó, có người báo có đoàn đến xin gặp Cụ. Hai chị em đứng lên chào Cụ thì Cụ lại bắt tay một lần nữa rồi mới đi… Chuyện xảy ra đã lâu, mà đến năm 1988, đã 75 tuổi, cụ Phạm Thị Giá còn nhớ rõ từng chi tiết như vậy. Lòng nhân ái của cán bộ cách mạng và chính Cụ Hồ đã khiến hai chị em ngày ấy cảm động, quý mến vô cùng. Sau này lại càng khiến hai bà không sao hiểu nổi những sự việc đau lòng xảy ra sau đó {10]
Bà Phạm Thị Thức, em bà Giá, là vợ cố giáo sư Đặng Vũ Hỷ, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1. Trong một lần cùng đi máy bay sang Béc-lin (Cộng hòa dân chủ Đức), ông Tôn Quang Phiệt, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Cách mạng Thừa Thiên-Huế hồi Cách mạng Tháng 8, đã cố tìm gặp giáo sư Đặng Vũ Hỷ chỉ để nói một điều là: “Tôi đã nhiều lần muốn gặp anh để nói với anh về chuyện cụ nhà (Phạm Quỳnh). Hồi ấy, tôi ở Huế thật, nhưng hoàn toàn không biết gì hết, chỉ biết khi chuyện đã xảy ra rồi.” Ta không thể không tin lời của một trí thức cỡ lớn nói với một trí thức cỡ lớn như vậy.
Trong hồi kí của mình Nhớ lại một thời, do nhà xuất bản Hội Nhà văn xuất bản tháng 8/2000, tại Hà Nội, nhà thơ Tố Hữu, Chủ tịch Uỷ ban Khởi nghĩa Thừa Thiên-Huế ngày ấy, đã nêu rõ: chính ông đã đề nghị tỉnh uỷ, ngay từ khi về đến Huế, là rút khẩu hiệu “Đánh đuổi giặc Nhật, tiễu trừ Việt gian” đã nêu trước đó trong cả nước. Và trong ngày khởi nghĩa tại Huế 23/8/1945, chính ông đã tuyên bố “bảo đảm tính mạng và tài sản cho toàn thể đồng bào” trước đông đảo nhân dân tập trung ở sân vận động Huế. Trong những năm 90 thế kỉ trước, ở chỗ riêng tư, ông còn thổ lộ là: “Mấy chục năm qua, tôi vẫn áy náy, day dứt về việc cụ Phạm Quỳnh.”
Thế là cả Chủ tịch Uỷ ban Khởi nghĩa và Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Cách mạnh Thừa Thiên-Huế đều không biết gì về việc “xử tử hình Phạm Quỳnh”, nói gì đến xét xử, kết án…
Nhân hội thảo về Phạm Quỳnh do Viện Văn Học dự định tổ chức tại Hà Nội cuối năm 1992, đã có gần 20 tham luận gửi tới tham gia với những tên tuổi như: Hoàng Đạo Thuý, Hoàng Tùng, Vũ Khiêu, Hoàng Tuệ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Vinh Phúc, Nguyễn Đắc Xuân, Vương Trí Nhàn,v.v…Nhà văn Sơn Tùng chuyên nghiên cứu và viết về Hồ Chủ tịch đã đòi được dự để “công bố một tư liệu độc đáo: Hồ Chủ tịch phản đối việc xử tử Phạm Quỳnh”. Tư liệu ấy như sau:
“Sau khi ông Tôn Quang Phiệt từ Huế ra gặp Cụ Hồ và báo: “Phạm Quỳnh đã bị xử mất rồi.”, thì Cụ Hồ ngồi lặng người một lúc lâu rồi nói: “Giết một học giả như vậy thì nhân dân được gì? Cách mạng được lợi ích gì?…Tôi đã từng gặp cụ Phạm ở Pháp…Đó không phải là người xấu” [11]
Đúng là Nguyễn Ái Quốc “đã từng gặp cụ Phạm ở Pháp” không phải chỉ một lần. Năm 1922, Phạm Quỳnh đi Pháp dự hội Đấu xảo thuộc địa tổ chức tại Marseille, có mang theo một cuốn nhật kí tuỳ thân nhỏ bằng bốn ngón tay. Trong đó có ghi: “Juillet, 13, Jeudi: Ăn cơm An Nam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 Rue des Gobelins)” Và “Juillet, 16, Dimanche: Ở nhà. Trường, Ái Quốc và Chuyền đến chơi.” Còn trên tạp chí Nam Phong khi đăng Pháp du hành trình nhật kí, ông cũng viết công khai: “Thứ năm, 13 tháng 7 năm 1922 : (…) Chiều hôm nay, ăn cơm với mấy ông đồng bang ở bên này. Mấy ông này là tay chí sĩ, vào hạng bị hiềm nghi, nên bọn mình đến chơi không khỏi có trinh tử dò thám. Lúc ăn cơm trong nhà, chắc lũ đó đứng ngoài như rươi! Nhưng, họ cứ việc họ, mình cứ việc mình, có hề chi! Đã lâu không được ăn cơm ta, ăn ngon quá. Ăn cơm ta, nói tiếng ta, bàn chuyện ta, thật là vui vẻ, thoả thích. Ăn no, uống say, cười cười nói nói…Mai là ngày hội kỉ niệm dân quốc…Anh em đi dạo chơi một lượt các phố đông cho biết cái cảnh ngày hội ở Paris thế nào.” Và “Chủ nhật, 16 tháng 7 năm 1922: Hôm nay, không đi đâu, ngồi hầm trong buồng viết mấy cái thư về nhà.
“Trưa, mấy ông chí sĩ cùng ăn cơm bữa trước lại chơi ở trọ, nói chuyện giờ lâu. Nghe nói các ông đi đâu cũng có bọn trinh tử theo sau, chắc bọn đó đã đứng ngoài cửa cả. Người đồng bang ở nơi khách địa, không thể không gặp nhau, gặp nhau không thể không nói chuyện nước nhà, lòng người ai chẳng thế, tưởng cũng chẳng là sự phi phạm gì. [12] ” Không phải chỉ có hai lần gặp gỡ như vậy, mà còn có một lần gặp gỡ nữa, quan trọng hơn. Đó là lần họp mặt do các ông Lê Thanh Cảnh và Trần Đức tổ chức vào một buổi chiều, dùng cơm tại khách sạn Montparnasse, Paris, gồm 11 người; trong đó có: Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh và Cao Văn Sến. Sau này, Lê Thanh Cảnh đã thuật lại cuộc họp mặt của “Năm nhân vật phi thường ngồi chung lại một bàn” trong hồi kí Rời mái tranh trường Quốc Học, bản thảo gửi đăng Đặc san số 5 của Hội Ái hữu Cựu học sinh Quốc Học.
Trong bài có dẫn lời phát biểu của Nguyễn Ái Quốc như sau: “Sở dĩ tôi chủ trương cách mệnh triệt để là vì xưa nay, muốn giành độc lập cho Tổ quốc và dân tộc thì không thể nào ngả tay xin ai được, mà phải dùng sức mạnh, như cụ Trần Cao Vân đã nói là phải dùng búa rìu.” Và lời của Pham Quỳnh: “Có lẽ ngay giữa tiệc này, tôi đã thấy có rất nhiều lập trường tranh đấu chống lại chủ thuyết mà tôi vẫn hoài bão: Quân chủ lập hiến. Nói đến nền quân chủ thì phần đông tỏ vẻ lo sợ chế độ chuyên chế. Nhưng xin đồng bào trương mắt nhìn hai nước Anh và Nhật. Với nền quân chủ, họ đã văn minh tột mức và dân chủ còn hơn các nền dân chủ cộng hoà khác nhiều lắm. Họ có thể đứng vào hàng đàn anh trên hoàn cầu. Đây tôi chủ trương là quân chủ lập hiến. Vua chẳng còn quyền hành gì trong tay mà chuyên chế được. Vua chỉ là người đứng lên “thừa hành” bản hiến pháp mà chính nhân dân toàn quốc được triệu tập dự thảo và quyết định. Như thế, chúng ta có được một chế độ trường cửu do ý dân tự tạo cho mình…Tôi có nhiều dịp đi đó đây, tiếp xúc rất đông đồng bào ba kì thì phần đông – mà xin quả quyết là đại đa số- đều nhiệt liệt tán thành chế độ quân chủ lập hiến. Người Nam cũng niềm nở hưởng ứng vì họ thấy đó là đường lối duy nhất để thống nhất lãnh thổ và dân tộc từ mũi Cà Mau đến ải Nam Quan.” Phan Chu Trinh, Nguyễn Văn Vĩnh và Cao Văn Sến cũng trình bày chủ trương của mình. Thành ra đây là một cuộc họp mặt bàn việc nước, thẳng thắn, sôi nổi, có khi gay gắt, nhưng ai cũng một lòng vì nước dù cho quan điểm có khác nhau, thậm chí chống đối nhau.
Có lẽ qua ít nhất là ba lần gặp mặt mà nay chúng ta còn biết đó (có lần đã chụp ảnh kỉ niệm) và mười mấy năm đọc tạp chí Nam Phong mà Hồ Chủ tịch đã có nhận xét “Đó không phải là người xấu” để phản đối cái án tử hình mà Phạm Quỳnh đã phải chịu.
Nhà thơ lão thành Huy Cận, nhân hai lần tình cờ gặp nhau trong cuộc họp văn học nghệ thuật, đã kéo Phạm Tuyên ra riêng một chỗ để rủ rỉ kể lại một chuyện xưa.
Lần thứ hai, năm 2001, được Phạm Tuyên biếu cuốn Mười ngày ở Huế của Phạm Quỳnh mới được nhà xuất bản Văn Học phát hành, ông thức suốt đêm đọc một mạch hết cuốn sách. Sáng hôm sau, găp lại, ông nói: “Càng đọc kĩ những dòng chữ cụ viết mới càng thấy rõ hơn tấm lòng nhiệt thành yêu nước của cụ.” Rồi ông chân tình kể lại một lần nữa chuyện xưa: “Năm 1945, cuối tháng tám, tôi là Bộ trưởng Bộ Canh nông của chính phủ cách mạng lâm thời, được tham gia phái đoàn chính phủ vào nhận sự thoái vị của Bảo Đại, có nghe dân chúng xì xào nhiều về chuyện cụ Phạm bị xử tử hình. Khi về tới Hà Nội, được gặp Bác, tôi có kể lại chuyện đó, thì Bác thở dài, nắm tay tôi và nói: “Đã lỡ mất rồi” [13]. Trong bài Phạm Quỳnh – Chủ bút báo Nam Phong, giáo sư Văn Tạo cũng xác nhận là nhà thơ Huy Cận đã thuật lại với ông câu “Đã lỡ mất rồi” của Hồ Chủ tịch [14]
Sau này, nhân dịp lên chúc Hồ Chủ tịch vào ngày mồng 1 Tết Bính Tuất năm 1946, nhà thơ nữ Hằng Phương có được Người hỏi han về tình hình giới văn học nghệ thuật. Nhân nhắc tới Phạm Quỳnh, Người tỏ ý rất tiếc về những gì đã xảy ra và nói đại ý: Nếu còn sống, ông ấy sẽ nghiên cứu dịch thuật có ích cho văn hoá và văn học nước nhà. [15]
Như vậy là đến cả Hồ Chủ tịch cũng phản đối việc tử hình Phạm Quỳnh. Vậy sự việc đã diễn ra như thế nào mà dẫn đến hậu quả thảm khốc như vậy?
Nhân chuyến từ Pháp về thăm Hà Nội, bà Phạm Thị Hoàn, con gái thứ năm của Phạm Quỳnh may mắn được tiếp xúc với cụ Nguyễn Văn Tấn, nguyên Thứ trưởng Bộ Lương thực, đã nghỉ hưu. Cụ Tấn quê ở xã Đức Trường, huyện Đức Thọ – Hà Tĩnh, vào Huế làm công chức từ đầu thập niên 40. Cụ tham gia cách mạng, hoạt động bí mật, tham gia lãnh đạo khởi nghĩa cướp chính quyền ở Huế. Ngay sau khi cách mạng Tháng 8-1945 thành công cụ được bổ nhiệm Giám đốc Tài chính Trung Bộ. Cụ là người biết khá rõ về những ngày cuối của Phạm Quỳnh. Theo bản lược ghi lời kể của cụ Tấn từ 9 giờ 15 đến 10 giờ ngày 7 tháng 12 năm 1997, tại nhà riêng số 30 đường Trần Quốc Toản, Hà Nội, thì sự việc bi thảm đã xảy ra như sau:
“Cái chết của ông là chuyện bất ngờ. Tôi đảm bảo với chị là ông cụ không bị một tí hành hạ, bạc đãi nào. Tôi thấy tận mắt, không có một hành động bạc đãi nào, hoàn toàn không có đánh đập. Ông thường mặc một cái áo lương đen.
“Lúc đầu giam ở Thừa Phủ, trong đó có Ngô Đình Khôi và con trai. Có cả Nguyễn Tiến Lãng nữa. Sau khi được tin là tình hình không ổn, nên rời ông ra Hiền Sĩ, nơi có phong trào cách mạng tốt. Định di chuyển cả Nguyễn Tiến Lãng, nhưng vì ô tô nhỏ, xe chật, nên chỉ chở hai cha con Ngô Đình Khôi và ông thôi. Để ông Lãng lại, định hôm sau chở đi. Lúc di chuyển, anh em quá mệt, nhưng nghe tin Pháp cho nhảy dù, phải đưa ông nhà và cha con Ngô Đình Khôi ra Hiền Sĩ để giao cho tỉnh. Đây là cơ sở cách mạng rất nghiêm, chỉ thị của trên là không được bạc đãi, hành hạ”
Sáu mươi năm sau buổi sáng ông bị giết hại, qua bài báo của nhà văn Thái Vũ, học sinh Phan Hàm ngày nào nay là thiếu tướng quân đội Nhân dân Việt Nam, vì sự công minh của lịch sử, đã kể lại tường tận, chi tiết, cụ thể diễn biến từ khi ông đến nhà bắt Phạm Quỳnh cho đến khi biết tin Phạm Quỳnh bị giết và khẳng định đó là “hành động manh động” của người dân “chỉ mới hưởng một ngày đầu chính quyền cách mạng”, không phải của học sinh trường Thanh niên Tiền tuyến, cũng chẳng theo lệnh của ai, dù là cấp thấp nhất của chính quyền cách mạng Thừa Thiên-Huế. Bài báo viết:
“Tối đó (23-8-1945 – PT ghi chú) anh Phan Hàm bảo với anh Nguyễn Thế Lâm là ngay đêm phải “giải” hai cụ ra khỏi thành phố, nghĩa là cả Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi (có Ngô Đình Huân). Anh Nguyễn Trung Lập đi theo xe. Anh Lập lúc đó không phải trong nhóm Việt Minh trường Thanh niên Tiền tuyến…Xe ra đến Hiền Sĩ, cách Huế chừng 20km, cũng không xa giáp ranh tỉnh Quảng Trị… “giam tạm” mấy người trong một gian nhà bỏ trống, nhờ mấy “dân quân tự vệ” cũng mới vào đoàn (Chúng tôi nhấn mạnh. PT) trông coi rồi…theo xe về Huế ngay…Hôm sau, mấy tên biệt kích Pháp nhảy dù xuống Hiền Sĩ…bị dân quân chặn lại, bắt giam để báo về Huế, với đầy đủ vũ khí hiện đại, thức ăn nước uống, lại nhốt sát bên cạnh nhà giam Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi. Dân quân địa phương không biết gì đã đành, báo cáo về Huế, mấy vị lãnh đạo mới nắm chính quyền sốt dẻo lại không chú ý gì vì đang bận chúi mũi bao việc tày trời mới được đảm nhận.
“Việc “bỏ quên” đó thật tai hại, vì nơi giam các cụ và sáu tên biệt kích dù chỉ cách có…một hàng rào!
“Anh em Thanh niên Tiền tuyến đã “hốt” thực sự…Ba Thanh niên Tiền tuyến được Phan Hàm phái theo, trong đó có anh Lê Thiệu Huy… giỏi cả tiếng Pháp và tiếng Anh. Đến nơi, bí mật tiếp cận hàng rào…Lê Thiệu Huy gọi và ra hiệu nói chuyện…Tên Castella, thiếu tá chỉ huy…hỏi ngay “Phạm Quỳnh ở đâu?” Rõ ràng là chúng nhảy dù có chủ đích nhưng không biết là Phạm Quỳnh ở ngay nhà bên cạnh…
“Bọn Pháp sợ vì lúc ấy dân quanh đó và dân quân vài người đến, thấy đông, chúng xin hàng ngay. Tịch thu súng, mọi thứ tịch thu hết. Lúc anh em về lại Huế, báo cáo cấp trên là tuỳ lãnh đạo, ngoài ra không biết gì (Chúng tôi nhấn mạnh –PT)
“Vì vậy, sau đó anh em Thanh niên Tiền tuyến cách li bọn biệt kích Pháp, đưa xuống Sỵa, còn đám hai cụ thì giao cho dân quân địa phương xử lý, chứ không phải Việt Minh Trung bộ (tức chính quyền mới thành lập)” (Chúng tôi nhấn mạnh – PT) [16]
Cụ Tấn còn kể tiếp:
“Lúc đó, ta muốn hoà hoãn với Nhật nên cho lính Nhật đi mua bán trong phạm vi nhất định, và phải đóng yên một chỗ. Nhưng, một hôm, Nhật chở một thuyền có bảy tên, anh em tự vệ đánh để lấy súng, giết được sáu tên, một tên trốn được, chạy về Kim Luông. Đồn Nhật đưa một đại đội ra đánh. Anh em tự vệ chiến đấu đánh lại hơn 2 giờ. Tụi Nhật tiến vào được hơn 3km, xông vào, anh em sợ Nhật đánh tháo, nên thủ tiêu ba ông.
“Tôi ở Huế, cách 25 km, nên không thấy lúc giải quyết thế nào. Chỉ biết là sự việc xảy ra ở xã.”
Tháng 2 năm 1956, nhân gia đình Ngô Đình Diệm cho người đi tìm và cải táng cha con Ngô Đình Khôi, ông Phạm Tuân, con út và bà chị là Phạm Thị Hảo đi theo để nhận di hài cha, đã biết thêm nhiều điều, do gặp nhiều nhân chứng còn sống. Nơi giam giữ cuối cùng là xưởng ép dầu tràm của bác sĩ Viên Đệ ở Cổ Bi cách làng Văn Xá 5km về phía Tây. Làng này lại cách thành phố Huế 15km, về phía Bắc trên đường Huế đi Quảng Trị. Đó là một nơi xa xôi, khó đi lại. Để tìm kiếm hài cốt, chính quyền Sài Gòn phải huy động công binh phát quang, san ủi đất làm đường, bắc cầu…trên hơn 15 km cho xe hơi đi và điều động binh sĩ giữ an ninh quanh vùng. Người canh gác xưởng kể: một đêm đầu tháng tám ta, trăng lưỡi liềm, khoảng mười một giờ, có người xưng là cấp trên đến bảo đưa ba người bị giam ra, cho ăn cơm. Khó ăn, ba người xin ít nước mưa chan cho dễ nuốt. Sau đó, họ bị trói và đưa xuống đò. Người chèo đò kể: đi quanh đi quất trên sông Bồ, gần một giờ sáng thì táp vào bờ, đến gần hai bụi tre thì giết ba người. Người chèo đò không được lên bờ, chỉ nghe thấy tiếng thét lớn bằng giọng Bắc “Quân sát nhân!” sau đó là ba phát súng. (Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Huân đều nói đặc giọng Huế). Rõ ràng, cho đến trước khi bị giết, Phạm Quỳnh vẫn không hề nghĩ là những người đã hi sinh xương máu đồng chí đồng bào để giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc lại đi giết hại một người suốt đời nặng lòng với nước như ông. Chúng chỉ là những “quân sát nhân” mà thôi.
Một người nấp trong bụi cây gần đấy thấy Phạm Quỳnh bị đánh vào đầu bằng xẻng, cuốc rồi mới bị bắn ba phát. Ngô Đình Khôi không bị đánh chỉ bị bắn ba phát. Ngô Đình Huân hoảng sợ vùng chạy, bị bắt lại, rồi bị bắn ngay vào đầu [17]. Cả ba bị xô xuống mương rồi vội vàng lấp đất”. Phạm Quỳnh ở dưới cùng, đầu hướng về phía núi, Khôi và Huân nằm đè lên, đầu hướng về phía sông. Khi cải táng, ông Phạm Tuân thấy sọ của thân phụ có một vết nứt ngang như vết cuốc, xẻng đánh mạnh vào, “ba bộ hài cốt nằm chồng chất lên nhau…Hài cốt của Thầy tôi rất dễ nhận vì dài và ngay cạnh tôi nhận ra được đôi mắt kính cận” [18]
Theo các nhân chứng chứng kiến vụ sát hại thì sự việc diễn ra vào đêm trăng non mồng một tháng tám năm Ất Dậu, tức ngày 6/9/1945, chỉ sau ngày nước ta tuyên bố độc lập có bốn ngày.
Di hài Phạm Quỳnh được gia đình cải táng ngày 9/2/1956. Hôm sau đưa về Huế, đặt trong khuôn viên chùa Vạn Phước, nơi sinh thời ông thường đến di dưỡng tinh thần những khi có điều phiền muộn. Mộ chí ghi bằng chữ Hán, thật giản dị: Nam Phong chủ bút Phạm Quỳnh Thượng Chi. Từ 1975 đến nay (2006) khu mộ vẫn được giữ gìn nguyên vẹn. Lại còn có người khắc trên đá hàng chữ Quốc ngữ Tiếng ta còn, nước ta còn, câu nói bất hủ ngày nào của Phạm Quỳnh.
Đến đây, tưởng đã có thể hiểu đựơc vì sao lại có sự trớ trêu: các cấp lãnh đạo cách mạng từ tỉnh Thừa Thiên-Huế đến cấp cao nhất nước hồi ấy đều không hay biết, hoặc phản đối mạnh mẽ, vậy mà vụ sát hại vẫn cứ xảy ra. Tuy vậy, dù là do tình hình cấp bách, nhưng như cụ Tấn đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần là kỉ luật rất nghiêm, không có chủ trương trả thù, vậy mà tại sao lại đã xảy ra sự việc động trời này? Và ai là người đầu tiên đã vu cáo Phạm Quỳnh bị “chính quyền nhân dân khép án tử hình”?
Sự thật lịch sử đã chứng tỏ chính quyền nhân dân từ tỉnh Thừa Thiên-Huế là nơi xảy ra sự việc, đến Bộ Nội vụ và cả chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đều chưa hề bao giờ “khép án tử hình” Phạm Quỳnh. Vậy mà cái án bịa đặt trên giấy trắng mực đen ấy, hơn sáu mươi năm qua, đã đè nặng lên cuộc sống của con cháu Phạm Quỳnh, làm đau lòng mọi người Việt Nam có lương tri và còn bóp méo cả một giai đoạn trong lịch sử văn học nước nhà, chỉ vì tin vào “dư luận làng Mùi: Nếu là người lương thiện thì sao lại bị bắn kia chứ”.
Đất nước ta đang phấn đấu thực hiện một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thiết tưởng đã đến lúc cần có một cách nhìn khác, đánh giá lại đúng đắn mọi sự kiện, con người đã từng bị đối xử không công bằng, cũng chẳng dân chủ, càng không văn minh trong suốt những năm qua. Trong số đó, không thể không kể đến trường hợp Phạm Quỳnh mà đến nay mọi sự liên quan đến cái chết bí ẩn của ông đã được làm sáng tỏ. Ông là một người cho đến phút cuối đời mình vẫn nặng lòng với nước, mong mỏi được cống hiến cho nhân dân, đất nước tất cả những gì mình có. Chỉ có điều, ông yêu nước theo cách riêng của ông và chỉ làm được những việc mà ông có thể làm và tưởng rằng đó là cách tốt nhất để thực hiện lý tưởng phục vụ đất nước của mình.
Nhà thơ lớn Đan Mạch Erik Stilnus đã ba lần đến Việt Nam dự hội thảo; lần đầu nhân kỉ niệm sáu trăm năm Nguyễn Trãi. Ông đã gặp một số nhà văn và học giả Việt Nam, lại được đọc bản dịch bài tựa và bài giới thiệu Truyện Kiều của Phạm Quỳnh nên đã cảm thương sâu sắc số phận học giả Phạm Quỳnh. Về nước, ông bắt đầu sáng tác trường ca Phạm Quỳnh và câu chuyện tiếp tục dài 367 câu. Cuối bài thơ ghi Copenhagen 17/9/1979-TP.Hồ Chí Minh 11/10/1980. Tháng 7/1997, nhà thơ Phạm Tiến Duật sang thăm Đan Mạch được ông tặng một bản, cẩn thận cho dịch sang tiếng Anh để nhiều người đọc được. Sau đó, ông còn gửi tặng bà Phạm Thị Hoàn, con gái Phạm Quỳnh cả bản tiếng Đan Mạch lẫn bản tiếng Anh có thủ bút đề tặng của ông [19]
Chương I mở đầu bằng hai câu:
Chúng ta phải thừa nhận
Chúng ta đã đối xử sai lầm với Phạm Quỳnh
Chương VII lại mở đầu bằng câu:
Chúng ta đã đối xử sai lầm với Phạm Quỳnh
Còn trong chương VI, có những câu:
Chúng ta không nên gọi ông là một tên phản bội
Chúng ta cần kiên nhẫn giải thích…
rằng Phạm Quỳnh đã không thể hoàn toàn bỏ qua người dân trong những quyển sách ông viết
….Những đêm dài đọc sách,
không thể biến Phạm Quỳnh
thành một cận thần thân Pháp hơn,
mà có thể thành người giúp chúng ta
trong quá trình thời đại
Và thực ra thì ông ta có phần đúng [20]
Tháng 9-2001 – 26-3-2006
* Bài đã đăng trên Nguyệt san Công giáo và Dân tộc số 140 tháng 8-2006 dưới nhan đề Phạm Quỳnh, người nặng lòng với nước
* Còn đăng trên Tạp chí Xưa và Nay số 267, tháng 9-2006


TƯ LIỆU THAM KHẢO
Tố Hữu: Nhớ lại một thời nhà xuất bản Hội Nhà văn, 8/2000
(*)Băng ghi lời cụ Nguyễn Văn Bồng,tháng 7/1993
Nguyễn Công Hoan: Đời viết văn của tôi, nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội, 1971
Tô Hoài: ….Tác gia văn học Thăng Long Hà Nội nhà xuất bản Hội Nhà văn, 1998
Tôn Nữ Quỳnh Trân chủ biên: Những nhân vậy nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, nhà xuất bản Văn hoá- Thông tin, 1993
Lê Thanh Cảnh: Rời mái tranh trường Quốc Học, bản thảo gửi đăng Đặc San số 5 của Hội Ái hữu Cựu học sinh Quốc Học
Tiểu sử Phạm Quỳnh, Tạp chí Thế Kỷ 21, số 122, 6-1999, Mỹ
Và lời kể của ông Phạm Tuân, con trai Phạm Quỳnh; bà Lê Thị Trung, ông Lê Đức Vượng, cháu gọi Phạm Quỳnh bằng bác và một số con cháu khác của Phạm Quỳnh.
1 Lỗ Tấn: Gào thét, nhà xuất bản Văn hoá Viện Văn học, Hà Nội, 1961, bản dịch của Trương Chính
2 Nguyễn Phước Bửu Tập: Chiến sĩ ái quốc Phạm Quỳnh, tạp chí Văn Hoá, Mỹ
3 Nguyễn Vạn An: Khi danh vọng về chiều: tôi đã gặp Phạm Quỳnh ở biệt thự Hoa Đường, báo Tin Điển, ngày 23/3/1952
4 Phạm Quỳnh: Tuyển tập và di cảo, nhà xuất bản An Tiêm, Paris 1992
5 Theo Thái Vũ, Về cái chết của ông chủ bút tạp chí Nam Phong, Tiền Phong chủ nhật số 51, 18/12/2005
6 Theo Phạm Thị Hoàn, bài Thầy Tôi , phát biểu tại lễ kỉ niệm 100 năm ngày sinh Phạm Quỳnh tại Paris, Pháp, báo Ái Hữu, số 115, tháng 6/1992, Paris
7 Hoàng Trình: Phan Bôi (Hoàng Hữu Nam) ngươi chiến sĩ giúp việc đắc lực cho bác Hồ, báo Sài Gòn Giải Phóng, ngày 11/2/2001
8 Những người trong gia đình Phạm Quỳnh từ Huế ra Hà Nội đến ở nhà số 5 phố Hàng Da hồi đó gồm có: vợ Phạm Quỳnh, con cả Phạm Giao và bà vợ hai cùng ba người con là Quý (5 tuổi), Kim (3 tuổi), Loan (2 tuổi), Phạm Bích, Phạm Khuê, Phạm Tuyên (15 tuổi), Phạm Thị Hoàn, Phạm Thị Giễm, Phạm Thị Lệ, Phạm Tuân (9 tuổi), Phạm Thị Viên (7 tuổi). Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, giao thông còn khó khăn, tình hình xã hội chưa ổn định mà đưa được một số người đông như thế (trong đó có năm trẻ em dưới mười tuổi) vượt nửa đất nước ra đến Hà Nội an toàn, mạnh khỏe, đồ đạc mang theo nguyên vẹn, chính là nhờ sự giúp đỡ của chính quyền cách mạng non trẻ, do chính ông Hoàng Hữu Nam (Phan Bôi) đã thực hiện lời hứa “tư” vào trong ấy giải quyết.
9 Vũ Kỳ: Nhớ mùa thu năm ấy, báo Nhân Dân, ngày 2/9/2000
10 Phạm Thị Giá: Thư gửi con trai, tháng 4/1988
11 Bài bà Lê Thị Kinh tức Phan Thị Minh viết tại Paris ngày 20/1/1994
12 Phạm Quỳnh: Hành trình nhật ký, nhà xuất bản Ý Việt, Paris, 1997
13 Theo lời kể của nhạc sĩ Phạm Tuyên, con trai Phạm Quỳnh, với người viểt bài này tại Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2001
14 Giáo sư Văn Tạo: Phạm Quỳnh – Chủ bút báo Nam Phong, báo Khoa học và Ứng dụng, số 2-2005
15 Viện sĩ Vũ Tuyên Hoàng: Kẹo Tết của bác Hồ, tạp chí Thế Giới Mới, số Xuân Canh Thìn, 2000
16 Thái Vũ: Về cái chết ông chủ bút tạp chí Nam Phong, Tiền Phong Chủ Nhật, số 51, 18/12/2005
17 Việc Phạm Quỳnh bị xử đầu tiên và chỉ có Phạm Quỳnh bị đánh trước khi bắn cho thấy đây là một vụ trả thù, không phải là “xử lý do tình hình cấp bách” như với hai cha con Ngô Đình Khôi.
Trong bài Phạm Quỳnh-Chủ bút báo Nam Phong, báo Khoa học và ứng dụng, số 2, 2005, Giáo sư Văn Tạo, nguyên Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam có ghi chú như sau: “Có người cho rằng, trong số người đi áp tải đó có thân nhân gia đình Thượng thư Nguyễn Hữu Bài – người có mối hiềm từ lâu với Phạm Quỳnh, nên đã lợi dụng việc này mà giải quyết ân oán”.
“Chính con cháu cụ Nguyễn Hữu Bài đã tìm được cơ hội khử Phạm Quỳnh để trả thù cho cha, ông về vụ Năm cụ khi không rớt cái ình / Đất bằng sấm dậy giữa Thần Kinh / Bài không đeo nữa, xin dâng lại….” Đó là lời khẳng định của cụ Nguyễn Văn Bồng, một người thân thiết như con cháu trong nhà Thượng thư Nguyễn Hữu Bài và là một nhân vật nổi tiếng của Đà Lạt, từng là cố vấn văn hoá Hội Chấn Hưng Quốc Gia Việt Nam dưới chế độ Sài Gòn, nói với con trai Phạm Quỳnh tháng 7/1993, tại ấp Hà Đông, Đà Lạt, Lâm Đồng. (*)
18 Theo Phạm Tuân: Sống lại với kí ức thuở ngày xưa (báo Ngày Nay, số 385, ngày 30/6/2005, tiểu bang Minesota và tạp chí Việt Học Tạp Chí Phổ Thông số 2, tháng 6/2005, Nam California, Mỹ)
19 Xuân Ba: Những uẩn khúc trong cuộc đời ông chủ bút báo Nam Phong, Tiền Phong Chủ nhật số 46, 13/11/2005
20 Erik Stilnus: Phạm Quỳnh và câu chuỵên tiếp tục. Viết về Việt Nam (trường ca). Bản dịch của Nghệ sĩ ưu tú Trịnh Thị Ngọ