Tuesday 4 March 2014

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA TRANH THỦ SỰ ỦNG HỘ, VIỆN TRỢ CỦA TRUNG QUỐC, LIÊN XÔ TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP [1950 - 1954] (Nguyễn Văn Trí - Nghệ An)



Xuyên suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954), cùng với việc tự lực cánh sinh, VNDCCH cũng nỗ lực không mệt mỏi để tranh thủ sự ủng hộ quốc tế và sự ủng hộ từ bên ngoài có được thực tế đã là một nhân tố đảm bảo sự thành công cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Góp phần tìm hiểu những nỗ lực đó, chúng tôi tập trung tìm hiểu quá trình VNDCCH tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của Trung Quốc và Liên Xô từ năm 1950 đến năm 1954.
Trước năm 1950, VNDCCH đã quan tâm giành sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô và những người cộng sản Trung Quốc. Đối với Liên Xô, ngay sau khi nước VNDCCH ra đời, Chính phủ Hồ Chí Minh đã nhiều lần kêu gọi sự ủng hộ về vật chất và tinh thần đồng thời kín đáo khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương trong cuộc kháng chiến của mình. Đối với những người cộng sản Trung Quốc, trước thực tế lực lượng này đang tiến hành cuộc nội chiến chống chính quyền Quốc Dân đảng, VNDCCH đã hỗ trợ họ nơi trú quân cùng một số nhu yếu phẩm[1]. Thậm chí, vào giữa năm 1949, VNDCCH còn điều quân phối hợp với Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc mở rộng khu giải phóng ở vùng biên giới Trung- Việt.
Nỗ lực của VNDCCH đã được Liên Xô và những người cộng sản Trung Quốc quan tâm và bí mật ủng hộ. Năm 1947, theo Phrăng xoa Goayô, những người cộng sản Trung Quốc đã giúp VNDCCH mua vũ khí ở Thái Lan[2]. Về phía Liên Xô, năm 1948, nước này giúp VNDCCH chuẩn bị mở các cơ sở thông tin ở Ba Lan và Tiệp Khắc. Vào giữa năm 1949, khi nước CHND Trung Hoa sắp ra đời, các lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Liên Xô đã thống nhất chủ trương cùng giúp nhân dân Việt Nam kháng chiến chống thực dân Pháp. Đến tháng 11 năm 1949, tại Đại hội công đoàn thế giới tổ chức ở Bắc Kinh, CHND Trung Hoa đã công khai ý định đó khi tuyên bố sẽ tích cực trợ giúp phong trào cách mạng Đông Dương[3].
Trong hoàn cảnh đó, vào đầu năm 1950, hoạt động tăng cường vận động sự ủng hộ từ Liên xô, Trung Quốc của VNDCCH nhanh chóng thu được kết quả to lớn. Thật vậy, tháng 1 năm 1950, Chính phủ VNDCCH cử một đoàn đại biểu do Hồ Chí Minh dẫn đầu bí mật đến Trung Quốc và Liên Xô trực tiếp vận động sự ủng hộ đồng thời gửi công hàm đề nghị hai nước này công nhận và lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ. Đáp lại, ngay trong tháng này, Chính phủ nước CHND Trung Hoa và Chính phủ Liên bang Cộng hòa XHCN Xô Viết lần lượt tuyên bố công nhận và thiết lập ngoại giao cấp đại sứ với VNDCCH. Sang tháng 2 năm 1950, các lãnh đạo Nhà nước Liên Xô và Trung Quốc cùng cam kết viện trợ, nhất là viện trợ quân sự, cho VNDCCH. Về viện trợ quân sự, Liên Xô cam kết giúp Việt Nam xây dựng 1 trung đoàn pháo phòng không 37 ly, 5 tấn thuốc ký ninh và một số xe ô tô vận tải Môlôtôva; Trung Quốc nhận trang bị cho Việt Nam 6 đại đoàn và 1 đơn vị pháo binh, đồng thời Trung Quốc cử cố vấn quân sự giúp Việt Nam về tham mưu và huấn luyện[4]. Như vậy, nước VNDCCH đã giành được sự ủng hộ thực tế và to lớn từ bên ngoài, chấm dứt thời kỳ “chiến đấu trong vòng vây”.
Thế nhưng, việc Liên Xô và Trung Quốc ủng hộ cách mạng Việt Nam không có nghĩa họ không có cái nhìn tiêu cực về VNDCCH. Đối với Liên Xô, việc Đảng Cộng sản Đông Dương tự giải tán (1945), việc VNDCCH chưa tiến hành cải cách ruộng đất và tỏ ra “trung lập” trong quan hệ Đông- Tây[5] đã khiến các nhà lãnh đạo nước này nghi ngờ những người cộng sản Việt Nam mang tư tưởng “quốc gia”[6]. Tại Matxcơva, tháng 2 năm 1950, dù Hồ Chí Minh đã cố gắng giải thích về những vấn đề trên nhưng, theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, “quan điểm của Bác Hồ (về việc Đảng tuyên bố tự giải tán- NVT) chưa nhận được sự ủng hộ, thường là không thuận lợi”[7]; về vấn đề ruộng đất, Xtalin phê bình VNDCCH “trì hoãn quá lâu cuộc cải cách ruộng đất”[8]. Đối với Trung Quốc, tuy không chỉ trích việc Đảng Cộng sản Đông Dương tự giải tán, nhưng trong vấn đề ruộng đất, nước này biểu thị sự nhất trí với quan điểm của Liên Xô khi hứa giúp VNDCCH “kinh nghiệm về phát động quần chúng tiến hành cải cách ruộng đất”[9].
Với thái độ đó, Liên Xô và Trung Quốc dành cho VNDCCH sự ủng hộ hạn chếVề ngoại giao, quan hệ ngoại giao giữa VNDCCH với Trung Quốc và Liên Xô chưa ở mức cao nhất: Với Trung Quốc, VNDCCH được đặt đoàn đại biểu thay vì đặt đại sứ; với Liên Xô, VNDCCH phải quan hệ qua trung gian Trung Quốc- Đại sứ Trung Quốc ở Liên Xô đại diện cho lợi ích của VNDCCH. Về viện trợ quân sự, đến cuối năm 1950, tuy hai nước cấp cho VNDCCH số lượng đáng kể vũ khí, trang bị quân sự- 3983 tấn, nhưng trong số đó không có những vũ khí hạng nặng như đã cam kết- pháo cao xạ 37 ly, pháo lựu 105 ly[10].
Để giành thêm sự ủng hộ từ Liên Xô, Trung Quốc, VNDCCH tăng cường mối quan hệ với hai nước này như lập các tổ chức hữu nghị Việt- Xô, Việt- Trung, tiến hành các cuộc thăm hỏi…, đồng thời, khẳng định lập trưởng giai cấp vô sản của mình: Đảng Cộng sản Đông Dương ra hoạt động công khai với tên mới là Đảng Lao động Việt Nam; VNDCCH tích cực tuyên truyền đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội.
Nỗ lực của VNDCCH đã thúc đẩy mối quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc lên một bước: Quan hệ giữa VNDCCH với Liên Xô, Trung Quốc lần lượt lên cấp đại sứ- với Trung Quốc vào tháng 4 năm 1951, với Liên Xô vào tháng 4 năm 1952. Bên cạnh đó, từ năm 1951, VNDCCH được Liên Xô và Trung Quốc giúp xây dựng chính sách kinh tế, tài chính, đào tạo nhận lực. Về viện trợ quân sự, VNDCCH được Trung Quốc giúp xây dựng một trung đoàn lựu pháo 105 ly (7/1951), tiếp nhận một số pháo cao xạ 37 ly (1951), súng cối 120 ly (1952). Mặc dù vậy, những cố gắng đó chưa thực sự giải tỏa được những hoài nghi trong các nhà lãnh đạo Liên Xô và Trung Quốc về những người cộng sản Việt Nam. Những vũ khí hạng nặng mà phía VNDCCH tiếp nhận có số lượng không nhiều: Súng cối 120 ly có 24 khẩu, pháo cao xạ 37 ly có 4 khẩu[11]. Cho đến cuối năm 1952, phía Trung Quốc chưa hoàn thành xây dựng trung đoàn lựu pháo 105 ly (nêu trên), phía Liên Xô chưa thực hiện cam kết giúp VNDCCH xây dựng một trung đoàn pháo cao xạ 37 ly. Trong điều kiện đó, QĐNDVN vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc chế ngự hỏa lực pháo binh, không quân của quân Pháp[12].
Trong lúc cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn như vậy, từ giữa năm 1951, với việc hai bên tham chiến ở Triều Tiên ngồi vào bàn thương lượng để đình chiến theo sáng kiến của Liên Xô, một xu thế hòa hoãn quốc tế đã được nhen nhóm. Bước sang năm 1952, xu thế này có chiều hướng gia tăng khi Trung Quốc chủ trương thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất từ năm 1953- một kế hoạch mà Trung Quốc cần dồn lực để tập trung phát triển kinh tế trong nước hơn là ủng hộ những cuộc chiến tranh bên ngoài. Ứng phó một cách chủ động với chuyển biến này, VNDCCH chủ trương tăng cường xây dựng thực lực mạnh mẽ về mọi mặt. Tháng 4 năm 1952, tại Hội nghị Trung ương lần thứ ba, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chúng ta cần phải hiểu rõ, vô luận cuộc kháng chiến Triều Tiên sẽ phát triển thế nào, kết quả thế nào, chúng ta vẫn phải ra sức chuẩn bị lực lượng của ta cho đầy đủ, lấy tự lực cánh sinh làm gốc, để ứng phó với mọi phát triển của tình hình, dù tình hình ấy thuận lợi hay gay go thì ta vẫn chủ động”[13].
Thực hiện chủ trương trên, VNDCCH đẩy mạnh vận động sự ủng hộ của Liên Xô và Trung Quốc bằng việc nhấn mạnh hơn vị trí của giai cấp công nhân và nông dân trong sự nghiệp kháng chiến. Theo đó, từ giữa năm 1952, các cuộc chỉnh Đảng, chỉnh quân được triển khai thực hiện. Về chỉnh Đảng, tính từ tháng 5 năm 1952 đến tháng 6 năm 1953, đã có 12.200 cán bộ thuộc các cơ quan của Trung ương, liên khu và tỉnh được học tập về nhiệm vụ cách mạng Việt Nam, quan điểm trường kỳ kháng chiến tự lực cánh sinh, chính sách ruộng đất của Đảng. Về chỉnh quân, từ tháng 5 năm 1952, các đơn vị quân đội từ Liên khu 5 trở ra học tập tài liệu “Mấy vấn đề về cách mạng Việt Nam”, “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi”, “Quân đội nhân dân Việt Nam”. Cuộc chỉnh quân này được coi là cuộc học tập chính trị lớn nhất kể từ ngày QĐNDVN ra đời (12/1944)[14]. Tiếp đó, tháng 9 năm 1952, trong chuyến thăm Liên Xô (bí mật), Hồ Chí Minh đã cam kết thực hiện cải cách ruộng đất trong thời gian kháng chiến[15]. Thực hiện cam kết này, tháng 1 năm 1953, tại Hội nghị Trung ương lần thứ tư, Đảng Lao động Việt Nam thống nhất chủ trương tiến hành cải cách vào năm 1954[16].
Những bước đi trên của VNDCCH, nhất là chủ trương mới về cải cách ruộng đất được Liên Xô và Trung Quốc hưởng ứng tích cực. Năm 1953, hai nước tăng cường cam kết viện trợ vũ khí nói chung và vũ khí hạng nặng nói riêng cho VNDCCH[17]. Nửa đầu năm 1953, phần lớn những cam kết trên đây được thực hiện, trong đó, phía Liên Xô thực hiện cam kết giúp VNDCCH xây dựng một trung đoàn pháo cao xạ 37 ly. Cùng thời gian này, Trung Quốc cũng hoàn thành huấn luyện, trang bị cho trung đoàn lựu pháo 105 ly của VNDCCH. Kết quả là, cho đến cuối năm 1953, sức mạnh phòng không và pháo binh của QĐNDVN tăng lên đáng kể khi có thêm 5 tiểu đoàn phòng không 12,7 ly[18], 1 trung đoàn pháo cao xạ 37 ly và 1 trung đoàn lựu pháo 105 ly. Tuy nhiên, vào lúc này, Pháp cũng gia tăng nỗ lực chiến tranh. Họ đặt kế hoạch giành thắng lợi trong vòng 18 tháng và tăng cường hỏa lực hải, lục không quân[19]. Hơn thế, Pháp còn được Mỹ tăng cường trợ giúp. Số tiền Mỹ viện trợ cho cuộc tái chiến Đông Dương của Pháp năm 1953 đạt 785 triệu đô la, thậm chí, 28 nhân viên kỹ thuật hàng không Mỹ đã được điều đến Việt Nam để giúp bảo trì máy bay cho quân Pháp[20].  Như thế, dù QĐNDVN được tăng cường sức mạnh, ưu thế hỏa lực trên chiến trường vẫn thuộc về đối phương.[21]
Như đã trình bày, xu hướng hòa hoãn quốc tế khởi phát từ giữa năm 1951. Đến giữa năm 1953 xu hướng này trở nên mạnh mẽ khi các bên tham chiến ở Triều Tiên ký hiệp định dình chiến ở Bàn Môn Điếm (7/1953). Theo chiều hướng đó, tháng 8 năm 1953, Liên Xô và Trung Quốc cùng khởi xướng một cuộc hòa đàm để giải quyết vấn đề Đông Dương. Một cuộc thương lượng về vấn đề Đông Dương khi đối phương chưa hẳn bị suy sụp ý chí chiến đấu và vẫn chiếm ưu thế hỏa lực trên chiến trường hẳn không thuận lợi cho VNDCCH. Vì vậy, ban đầu, VNDCCH không hoan nghênh ý tưởng hòa bình đó của Liên Xô và Trung Quốc. Cuối tháng 8 năm 1953, trong Lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm cách mạng tháng Tám và ngày độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta bao giờ cũng chủ trương hòa bình. Nhưng chúng ta biết rằng cuộc kháng chiến trường kỳ và gian khổ có thắng lợi mới tranh được hòa bình. Chỉ có thống nhất và độc lập thực sự mới có hòa bình”[22]. Song, để tiếp tục giành sự ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của mình, ngày 26 tháng 11 năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố với một nhà báo Thụy Điển: “Nếu Chính phủ Pháp đã rút ra được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó”[23].
Tán thành thương lượng nhưng quan điểm đàm phán của VNDCCH khác biệt với quan điểm đàm phán của Liên Xô và Trung Quốc. Trong khi hai nước này chủ trương chia cắt Việt Nam để đi đến hòa bình[24] thì VNDCCH khẳng định “hòa bình không thể tách rời độc lập dân tộc”[25]. Tại cuộc hội đàm với Đại sứ Liên Xô tại Trung Quốc ngày 5 tháng 3 năm 1954, Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Hoàng Văn Hoan tỏ ý không đồng tình với việc chia cắt Việt Nam khi đưa ra lí lẽ ở Việt Nam không có đường phân tuyến rõ ràng và có đến 80% dân Việt sống trong vùng VNDCCH kiểm soát[26]. Chính bởi thế, quyết định mở mặt trận ngoại giao của VNDCCH chỉ giành được sự ủng hộ chừng mực từ Liên Xô và Trung Quốc. Thật vậy, dù hai nước chuẩn y phần lớn đề nghị viện trợ năm 1954 của VNDCCH nhưng họ lại trì hoãn chuyển giao một bộ phận số hàng cam kết đó. Cho đến cuối tháng 4 năm 1954, hàng viện trợ quân sự năm 1954 giao cho VNDCCH  chủ yếu là đạn dược, hàng hậu cần và phương tiện cơ giới. Số súng, pháo được giao trong thời gian này chỉ có 19 khẩu DKZ 75 và 14 dàn hỏa tiễn H6[27]. Và, để thuyết phục VNDCCH xích gần quan điểm của mình, theo sáng kiến của Trung Quốc, giữa tháng 3 năm 1954, các lãnh đạo Trung Quốc và Liên Xô mời Hồ Chí Minh tới Bắc Kinh và Matxcơva để bàn về cuộc đàm phán dự định ở Geneva[28].
Thực tế tiếp nhận viện trợ quân sự nêu trên và việc ấn định tổ chức Hội nghị Geneva về Đông Dương của các nước lớn khiến việc tăng cường vận động sự ủng hộ của Liên Xô và Trung Quốc trở nên cấp thiết đối với VNDCCH. Vì vậy, nhận lời mời của các lãnh đạo Trung Quốc, Liên Xô, cuối tháng 3 năm 1954, Hồ Chí Minh lại bí mật đến Bắc Kinh và Maxtcơva. Nội dung của những cuộc hội đàm giữa Hồ Chí Minh với các lãnh đạo cao cấp Trung Quốc và Liên Xô cho đến nay chưa được tiết lộ nhiều, nhưng chúng ta được biết: Phía Trung Quốc đã khuyến nghị phía VNDCCH có quan điểm thực tế khi đàm phán[29], đồng thời, cho biết họ không tăng cường trợ giúp VNDCCH nếu chiến tranh mở rộng với sự can thiệp trực tiếp của Mỹ[30]. Trong hoàn cảnh đó, VNDCCH chủ trươngnhượng bộ ở mức độ nhất định tại cuộc đàm phán ở Geneva. Ngày 1 tháng 5 năm 1954, trong một hướng dẫn nội bộ về Hội nghị Geneva, Đảng Lao động Việt Nam chủ trương: “Ta không đánh giá quá cao Hội nghị Geneva nhưng không nên bỏ lỡ cơ hội, phải tranh thủ làm cho Hội nghị Geneva có thể bắt đầu để đi đến các cuộc gặp gỡ khác”[31].
Theo tinh thần hướng dẫn trên, tại Hội nghị Geneva về Đông Dương (Hội nghị khai mạc ngày 8 tháng 5 năm 1954), đoàn VNDCCH đã thể hiện thái độ đàm phán mềm dẻo. Ngày 17 tháng 5, đoàn VNDCCH chấp nhận đề nghị (của đoàn Liên Xô) xem xét vấn đề quân sự trước thay cho đề nghị (của mình trước đó) xét đồng thời vấn đề quân sự và chính trị khi giải quyết vấn đề Đông Dương. Hơn thế, ngày 25 tháng 5, đoàn VNDCCH còn đề nghị: Tập kết quân của hai bên vào những vùng (N.V.T nhấn mạnh) do Hội nghị quyết định, đường phân tuyến theo điều kiện tự nhiên, thuận tiện cho giao thông và để mỗi bên có sự kiểm soát hoàn toàn về hành chính, kinh tế, quân sự ở trong mỗi vùng đó[32]. Trên cơ sở đó, ngày 29 tháng 5, Hội nghị nhất trí: “Đại diện quân sự hai bên cần gặp nhau ở Geneva và trên chiến trường bàn về việc tập kết quân, bắt đầu từ vấn đề Việt Nam. Đại diện quân sự Việt Nam và Pháp gặp nhau ở Geneva bắt đầu từ ngày 1 tháng 6”[33]. Chính bởi thái độ nhượng bộ trên của VNDCCH, từ cuối tháng 5 năm 1954, Liên Xô và Trung Quốc “hào phóng” chuyển cho VNDCCH không chỉ những hạng mục vũ khí đã chuẩn y mà còn cả những loại vũ khí mà họ vốn không cam kết hoặc VNDCCH chưa yêu cầu. Sau ngày 20 tháng 5 năm 1954, trong danh mục hàng VNDCCH tiếp nhận từ Liên Xô và Trung Quốc có 38 khẩu pháo 105 ly, 32 khẩu pháo cao xạ 37 ly ( pháo cao xạ 37 ly là những hàng không có trong danh mục đề nghị viện trợ năm 1954 của VNDCCH)[34]
Như vậy, bước vào Hội nghị Geneva về Đông Dương, quan điểm đàm phán của ba đoàn VNDCCH, Liên Xô và Trung Quốc đã có sự đồng thuận đáng kể. Tuy nhiên, giữa các đoàn vẫn còn bất đồng lớn. Tại một cuộc họp của ba đoàn vào cuối tháng 5, hai đoàn Liên Xô và Trung Quốc thống nhất đề nghị giải pháp chia cắt theo giới tuyến cho vấn đề Việt Nam. Ngược lại, đoàn Việt Nam không coi việc chia cắt đất nước là giải pháp thứ nhất nên đề nghị: Trước hết, đòi tuyển cử tự do, đình chiến tại chỗ và điều chỉnh nhỏ (Hà Nội và Hải Phòng có thể không điều chỉnh); nếu không thực hiện được phương án trên thì mới “tán thành chia cắt”. Thuyết phục VNDCCH có quan điểm đàm phán gần với quan điểm đàm phán của mình hơn, ngày 30 tháng 5 năm 1954, Chu Ân Lai thông báo cho Đảng Lao động Việt Nam về những khác biệt quan điểm trên, đồng thời khuyến nghị phía VNDCCH cần phải “giải quyết sớn” những khác biệt và có một phương án rõ ràng thích hợp với “tình hình trước mắt” (N.V.T nhấn mạnh) cho việc giải quyết vấn đề Đông Dương nói chung và vấn đề Việt Nam nói riêng[35].
Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trên chiến trường đã làm Pháp nhụt ý chí chiến đấu nhưng lại làm cho Mỹ “tỉnh dậy”[36]. Quả vậy, dù thất bại trong nỗ lực tổ chức can thiệp tập thể vào Đông Dương hồi tháng 4 năm 1954, nhưng Mỹ vẫn không từ bỏ âm mưu kiểm soát Đông Dương bằng vũ lực. Họ chủ trương tiếp tục lập một khối phòng thủ ở Đông Nam Á để bảo vệ khu vực này trong đó có cả Đông Dương[37]. Trước mắt, nhằm ngăn Pháp “bán tháo” Đông Dương khi khối phòng thủ khu vực dự định chưa ra đời, từ nửa sau tháng 5 năm 1954, Mỹ bàn với Pháp về những điều kiện cụ thể cho một cuộc can thiệp quân sự vào Đông Dương. Có thể nói, Đông Dương đang đứng trước một quyết tâm kéo dài và mở rộng chiến tranh của Mỹ.
Trong hoàn cảnh đó, để giành thêm sự ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc trong việc ngăn chặn Mỹ âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh ở Đông Dương, VNDCCH đã quyết định thay đổi quan điểm đàm phán theo hướng tiến sát đến quan điểm đàm phán của hai nước này. Ngày 4 tháng 6, trong điện trả lời phía Trung Quốc, phía VNDCCH nhất trí giải pháp chia cắt Việt Nam thành hai khu vực theo giới tuyến. Nhưng, với quan điểm đấu tranh kiên quyết, phía VNDCCH chủ trương: “Cố tranh thủ giới tuyến ấy vào vĩ tuyến 16 (ở phía Nam Đà Nẵng một chút)” và “Nếu đối phương không chịu thì ta có thể dịch giới tuyến đó lên đường số 9 (đường Quảng Trị đi Trung Lào) là cùng”. Hơn thế, tạo cơ sở pháp lí cho việc giành thống nhất, độc lập quốc gia sau này, phía VNDCCH nhấn mạnh: “Dù phân tuyến hay điều chỉnh nhỏ cũng chỉ là tạm thời, phải đòi địch tuyển cử tự do để thống nhất quốc gia”; buộc định phải “thừa nhận độc lập và chủ quyền của Việt Nam trên toàn cõi Việt Nam”[38]. Nhằm đạt được những mục tiêu trên, trên bàn đàm phán ở Geneva, đoàn VNDCCH không vội hiện thực hóa sự thay đổi của mình, đến ngày 10 tháng 6, đoàn VNDCCH mới biểu lộ với phía Pháp ý định áp dụng giải pháp chia Việt Nam làm hai phần để tập kết chuyển quân[39].
Đến giữa tháng 6 năm 1954, cuộc đàm phán về vấn đề Đông Dương không thêm được thỏa thuận đáng kể nào và lâm vào bế tắc. Bên cạnh đó, cuộc đàm phán về vấn đề Triều Tiên cũng không tìm được tiếng nói chung và đổ vỡ (15/6). Tình hình này khiến phía Trung Quốc và Liên Xô lo lắng về sự tiếp tục của Hội nghị về vấn đề Đông Dương. Tránh cuộc đàm phán này bị đổ vỡ, ngày 15 tháng 6, Trung Quốc và Liên Xô cùng đề nghị phía VNDCCH rút quân khỏi Lào và Campuchia theo yêu cầu của đối phương. Tiếp đó, trước việc Mendes France- một người ủng hộ đàm phán với VNDCCH, lên làm Thủ tướng Pháp, Trung Quốc (với sự nhất trí của Liên Xô) chủ trương tranh thủ sự kiện này để thúc đẩy VNDCCH tích cực hơn trong đàm phán bằng việc tổ chức một cuộc gặp lãnh đạo cấp cao Trung- Việt[40]. Tăng sức thuyết phục cho cuộc gặp dự định ấy, cuối tháng 6, Trung Quốc cùng Ấn Độ và Mianma ra các tuyên bố ủng hộ cùng tồn tại hòa bình.
Cuộc gặp giữa lãnh đạo VNDCCH và Trung Quốc được tổ chức ở Liễu Châu (Trung Quốc) từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 7 năm 1954. Qua đây, phía VNDCCH thấy phải hiện thực hóa chủ trương nhượng bộ đề ra từ ngày 4 tháng 6 năm 1954 nhưng vẫn không bỏ quan điểm đấu tranh kiên quyết trong đàm phán- nhượng bộ có điều kiện. Theo đó, ngày 7 tháng 7, VNDCCH điện cho phía Trung Quốc và nêu chủ trương nhượng cho đối phương dùng Đà Nẵng và đường số 9, đổi lại, phía VNDCCH giữ Liên khu V. Quan điểm này không được Liên Xô, Trung Quốc đồng tình. Ngày 10 tháng 7, (sau khi trao đổi với phía Liên Xô) phía Trung Quốc điện khuyến nghị phía VNDCCH nêu điều kiện đàm phán “đơn giản, rõ ràng”, “công bằng hợp lý mà Chính phủ Pháp có thể nhận được để (…) mau đi đến đình chiến trong hạn 10 ngày”. (Ngày 17 tháng 6, Mendes France tuyên bố sẽ từ chức nếu không đạt được hiệp nghị vào ngày 20 tháng 7) [41]. Trong điều kiện đó, quan điểm đàm phán của VNDCCH thêm một lần điều chỉnh theo hướng nhượng bộ hơn. Ngày 13 tháng 7, trưởng đoàn VNDCCH Phạm Văn Đồng nêu đề nghị đặt đường giới tuyến chia cắt Việt Nam đặt ở vĩ tuyến 16 mà không nêu yêu cầu kiểm soát Liên khu V. Đến ngày 20 tháng 7, sau khi nhiều cuộc trao đổi, VNDCCH chấp nhận giải pháp chia cắt Việt Nam ở vĩ tuyến 17, thời hạn tổng tuyển cử sau ngừng bắn là 2 năm. Ngày 21 tháng 7, Hội nghị đi đến ký kết các hiệp định đình chiến về Việt Nam, Lào, Campuchia và ra Tuyên bố cuối cùng, kết thúc cuộc thương lượng về vấn đề Đông Dương.
Nhìn chung lại, từ năm 1950 đến năm 1954, VNDCCH đã nỗ lực tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của Trung Quốc và Liên Xô. Trong quá trình đó, phía VNDCCH đã nhiều lần phải có những điều chỉnh cần thiết cả về chính sách đối nội và chính sách đối ngoại để có được sự đồng tình, ủng hộ của Trung Quốc và Liên xô. Dù sao, sự ủng hộ, giúp đỡ đó cũng là một trong những nhân tố góp phần đảm bảo thắng lợi cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam.



[1]Qiang Zhai, China and the Vietnam war, 1950- 1975, The University of North Caronila Press, chapel Hill and London 2000, p 11- 12.
[2]Phrăng xoa Gioayô, Trung Quốc và việc giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội 1981, tr 73.
[3]William J. Duiker, Ho Chi Minh, A life, Hyperion, New York 2000, p 418.
[4]Dẫn theo, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây, sđd, tr 412- 413.
[5]Ngày 14 tháng 1 năm 1950, Bộ Ngoại giao Liên Xô cho rằng: “Có sự không rõ ràng trong thái độ của Chính phủ VNDCCH về Mỹ. Hồ Chí Minh tránh nói về sự bành trướng của Mỹ ở Việt Nam và cho đến lúc này, Hồ Chí Minh vẫn tránh nói về bản chất đế quốc của khối NATO và nỗ lực lập khối phòng thủ Thái Bình Dương của Mỹ”. Dẫn theo Christopher E. Goscha, Courting diplomatic disaster? The difficlt integration of Vieetnam into the Internationalist Communist movement (1945- 1950), Journal of Vietnamese studies, Vol 1, number 1-2, the Regents of the University of California 2006, p 84.http://www.er.uqam.ca/nobel/r26645/articles.php
[6]Benoit de Tréglodé, Những cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa Việt Nam và Liên Xô (1947- 1948), tlđd, tr 11.
[7]Alain Ruscio, Võ Nguyên Giáp- Một cuộc đời, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011, tr 61.
[8]Alain Ruscio, Võ Nguyên Giáp- Một cuộc đời, sđd, tr 92.
[9]Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây, sđd, tr 412
[10]Trung Tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, Thống kê Tổng hợp tình hình tiếp nhận viện trợ từ năm 1950 đến ngày 20 tháng 5 năm 1954, Tập báo cáo nhu cầu viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam từ 1952- 1954, Hồ sơ 651, Phông Bộ Quốc phòng, tờ số 102.
[11]Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, đề tài Quan hệ Việt Nam- Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, 1945- 1954, phần thứ ba: Viện trợ vật chất của Trung Quốc cho Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tài liệu lưu tại Thư viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam số K-78, Hà Nội 2007, tr 42- 44; Bộ Quốc Phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử kỹ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954), Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2002, tr 367.
[12]Trong trận Tu Vũ, cuối năm 1951, phía VNDCCH dùng một trung đoàn với trang bị súng cối để kiềm chế pháo binh đối phương nhưng địch vẫn bắn được 5000 viên đạn chi viện cho quân đồn trú, nhiều mũi tiến công của QĐNDVN bị đẩy lùi. Dẫn theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ, Hồi ức, Hữu Mai thể hiện, Nxb QĐND, Hà Nội 2001, tr 259, 260, 269.
[13]Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 13, 1952, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001, tr 151.
[14]Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, 1945- 1954, tập II, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1995, tr 198.
[15]Ilya V. Gaiduk, Confronting Vietnam- Soviet policy toward the Indochina conflict, 1954- 1963, Stanford University Press, Stanford, California 2003, p 10.
[16]Tuy nhiên, chủ trương cải cách ruộng đất chỉ được phổ biến xuống cấp khu ủy, tỉnh ủy. Có thể nói, dù phải thay đổi chính sách ruộng đất nhưng Đảng vẫn rất quan tâm đến vấn đề đoàn kết dân tộc, muốn giảm thiểu sự ảnh hưởng của vấn đề ruộng đất đến khối đoàn kết dân tộc.
[17]Năm 1953, VNDCCH được cam kết viện trợ thêm một trung đoàn pháo cao xạ 37 ly, 1 trung đoan cối 107 ly, 100 khẩu trọng liên 12.7 ly. Dẫn theo Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng, Báo cáo về việc làm viện trợ quân sự năm 1953, Phông Tổng cục hậu cần, Hồ Sơ 490: Báo cáo về nhu cầu làm viện trợ quân sự năm 1953, tờ số 39.
[18]Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Bộ Quốc phòng 1945- 2000, Biên niên sự kiện, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 2003, tr 143.
[19]So với năm 1952, năm 1953, số pháo mặt đất của quân Pháp tăng từ 522 khẩu lên 546 khẩu, số máy bay tăng từ 348 chiếc lên 460 chiếc, đơn vị xe tăng từ 8 trung đoàn, 3 tiểu đoàn, 9 đại đội lên 9 trung đoàn, 3tiểu đoàn, 7 đại đội. Dẫn theo, Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Tổng kết chiến dịch trong hai cuộc kháng  chiến chống thực dân Pháp vầ đế quốc Mỹ (1945- 1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 2003, tr 493.
[20]William Conrad Gibbons, The US government and the Vietnam war- Executive and Legislative roles and relationships, part I, 1945- 1954, Princeton University Press, Princeton, New Jersey 1986, p 135, 158.
[21]Xem thêm Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, Hồi ức, Hữu Mai thể hiện, Nxb QĐND, Hà Nội 2000, tr 15- 16.
[22]Hồ Chí Minh, Toàn tập, xuất bản lần thứ ba, tập 8, 1953- 1954, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2011, tr 228.
[23]Hồ Chí Minh, Toàn tập, xuất bản lần thứ ba, tập 8, 1953- 1954, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2011, tr 340.
[24]Đầu năm 1954, Liên Xô thăm dò phản ứng của các nước phương Tây và cả VNDCCH về “sáng kiến” chia cắt Việt Nam tại vĩ tuyến 16. Dẫn theo Ilya V. Gaiduk, Confronting Vietnam- Soviet policy toward the Indochina conflict, 1954- 1963, Ibid, p 18-19; về phía Trung Quốc, ngày 6 tháng 3 tại Matxcơva, hội đàm với Ngoại trưởng Liên Xô, Molotov, Đại sứ Trung Quốc tại Liên Xô, Trương Văn Thiên cho rằng: Chia cắt Việt Nam ở vĩ tuyến 16 thuận lợi cho VNDCCH. Dẫn theo Woodrow Wilson International Center for Scholars, Cold war international history project, bulletin: Inside china’s cold war, Issue 16, Fall 2007/ Winter 2008, p 86, http://www.Wilsoncenter.org/topics/pubs/CWIHP Bulletin16.
[25]Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 14, 1953, sđd, tr 554.
[26]Record of a conversation between P. F. Yudin, soviet ambassador to the PRC, with Hoang Van Hoan, Vietnamese Ambassador to the PRC, Secret copy No 2 from the journal of P.F. Yudin 31 March 1954 No 283, AVP RF. F. 079, Op.9,Por.15,Pap.7,Inv.7[6]0,II.6466,http://www.wilsoncenter.org/topics/docs/Reconsidering%20the%201954%20Geneva%20Conference.pdf.
[27]Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, đề tài Quan hệ Việt Nam- Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, 1945- 1954, phần thứ ba: Viện trợ vật chất của Trung Quốc cho Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tlđd, tr 75- 76.
[28]Ngày 18 tháng 2 năm 1954, Ngoại trưởng bốn nước Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô họp ở Berlin, Đức, ra thông cáo chung sẽ tổ chức Hội nghị Geneva về Triều Tiên vào ngày 26 tháng 4 năm 1954, tại đó, nhất trí sẽ thảo luận vấn đề vãn hồi hòa bình ở Đông Đương.
[29]Chen Jian, Mao’s China and the Cold war, Ibid, p 140.
[30]Ilya V. Gaiduk, Confronting Vietnam- Soviet policy toward the Indochina conflict, 1954- 1963, Ibid, p 17.
[31]Nguyễn Đình Bin (chủ biên), Ngoại giao Việt Nam, 1945- 2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005, tr 141.
[32]U.S. Department of Defense, Office of the Secretary of Defense, Vietnam task force, United States- Vietnam relations 1945- 1967, Washingto, D.C 1967,  The Geneva Accords, B 9; U.S. Department of State, Foreign Relation of the United States 1952- 1954, Vol XVI, The Geneva Conference, Ibid, p 909.
[33]U.S. Department of State, Foreign Relation of the United States 1952- 1954, Vol XVI, The Geneva Conference, Ibid, p 976.
[34]Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, đề tài Quan hệ Việt Nam- Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, 1945- 1954, phần thứ ba: Viện trợ vật chất của Trung Quốc cho Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tlđd,  tr 76.
[35]Dẫn theo Bộ Ngoại giao, Tổ Tổng kết, Hồ sơ số 185, Thái độ của Trung Quốc trong Hội nghị Geneva, Điện của Chu Ân Lai ngày 30 tháng 5 năm 1954, từ tờ số 2 đến tờ số 7.
[36]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 15, 1954, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001, tr 165.
[37]U.S. Department of State, Foreign Relation of the United States 1952- 1954, Vol XIII, Indochina, Part 2, United States Government printing Office, Washington 1982, p 1445.
[38]Dẫn theo Bộ Ngoại giao, Tổ Tổng kết, Hồ sơ số 185, Thái độ của Trung Quốc trong Hội nghị Geneva, Điện số 20 (của VNDCCH gửi Trung Quốc), ngày 4 tháng 6 năm 1954, tờ số 1-2.
[39]U.S. Department of State, Foreign Relation of the United States 1952- 1954, Vol XVI, The Geneva Conference, Ibid, p 1126.
[40]WoodrowWilson International Centerfor Scholars, Cold war international history project, bulletin: Inside china’s cold war, Issue 16, Fall 2007/ Winter 2008, p 48, http://www.Wilsoncenter.org/topics/pubs/CWIHP Bulletin16.
[41]Bộ Ngoại giao, Tổ Tổng kết, Hồ sơ số 182, Điện của đồng chí Chu Ân Lai, số 1 ngày 10 tháng 7 năm 1954.
Abstract: DRV’s mobilizing support from USSR and PRC, 1950- 1954
The years from 1950 to 1954 saw tireless efforts made by DRV to rally support from USSR and PRC- that is, DRV had to make some considerable revisions in both domestic and foreign policies to meet demands from its own war and Soviet and PRC. As a result, DRV conducted the war with all kind of aid from these two major allies and, in fact, it is impossible to say that Soviet and PRC’s support to DRV played an unimportant role in Vietnam’s war against French colonist during the years mentioned.
  

Monday 3 March 2014

Vì sao nhà nuôi dạy trẻ dưới 6 tuổi được gọi là vườn trẻ?



Sách Từ vựng học tiếng Việt của Nguyễn Thiện Giáp (2013:253) trong lần tái bản thứ 9 cho rằng vườn trẻ sao phỏng của từ Nga tương ứng. Thật ra ngay từ đầu thế kỷ 20 người Việt đã có ấu trĩ viên rồi:
Thật thế, năm bảy năm nay, ở Hà Nội không nghe ai hề bàn tới ấu trĩ viên nữa. Cho đến ông chủ phát khởi ra cái sự nghiệp từ thiện ấy là hội Khai trí tiến đức, hình như cũng chẳng còn nhắc tới. Khác với lúc bấy giờ, mười năm trước, cái cảnh tượng tấp nập biết bao: Từ các quan địa phương cho đến các hào lý trong làng, ai nấy chạy sấp chạy ngửa, lo việc ấu trĩ viên; các báo thì cổ động.
Phan Khôi, Phụ nữ thời đàm, s. 6 (22. 10. 1933), tr. 1-2
Ấu trĩ viên là phiên âm Hán Việt của 幼稚, dùng để dịch jardin d’enfants của tiếng Pháp (Đào Duy Anh, 2005:33). Đào Đăng Vỹ (1960:699) dịch jardin d’enfantsấu trĩ viên, vườn trẻ chơi.

Sunday 2 March 2014

Gốc Nga hay gốc Tàu?



Sách Từ vựng học tiếng Việt của Nguyễn Thiện Giáp (2013:253) trong lần tái bản thứ 9 vẫn giữ quan điểm cho rằng kế hoạch năm nămsao phỏng của từ Nga tương ứng. Thật ra ngay từ đầu thế kỷ 20 người Việt đã mượn 五年計劃 của người Trung Quốc, phiên âm Hán Việt là ngũ niên kế hoạch để dịch cụm từ plan quinquennal của tiếng Pháp (Đào Duy Anh, 1950:1420). Thanh Nghị (1967b:980) đảo lại thành kế hoạch ngũ niên. Trong khi đó ở miền Bắc ngũ niên kế hoạch nhường chỗ cho kế hoạch 5 năm:
 QUỐC HỘI NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
KHÓA II, KỲ HỌP THỨ 6
 Sau khi nghe báo cáo của Chính phủ về kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) và kế hoạch nhà nước năm 1963,
Sau khi nghe thuyết trình của Uỷ ban kế hoạch và ngân sách của Quốc hội và tham luận của các đại biểu Quốc hội,
QUYẾT NGHỊ:
1- Thông qua kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) do Chính phủ trình trước Quốc hội.

Saturday 1 March 2014

Kỷ niệm 60 năm chiến thắng La Ngà (1-3-1948 * 1-3-2008) (Bùi Thuận - Đồng Nai)


Kỷ niệm 60 năm chiến thắng La Ngà (1-3-1948 * 1-3-2008)
... Thắng lợi về chính trị còn lớn hơn!

Cập nhật lúc 22:17, Thứ Hai, 03/03/2008 (GMT+7)
Chiến thắng La Ngà 1-3-1948.

Nhằm giữ bí mật tuyệt đối cho trận đánh, việc tập kết 1.100 quân gồm 3 đại đội A,B,C đang hoạt động ở các huyện Tân Uyên, Châu Thành, Xuân Lộc và Long Thành cùng với liên quân 17 gồm 3 trung đội tân binh đang được huấn luyện đều chấp hành nghiêm việc hướng dẫn của liên lạc chi đội. Trừ đại đội trưởng, không một cán bộ, chiến sĩ nào được phổ biến địa điểm trận đánh. Ngày 26-2-1948 các đơn vị hành quân bí mật về hướng Tây quốc lộ 20. Mãi đến chiều 29-2, toàn bộ lực lượng đã chiếm lĩnh trận địa, bộ đội mới được phổ biến kế hoạch trận đánh nhưng vẫn giữ bí mật địa điểm. Sở chỉ huy trận đánh đặt trên đồi 100 ở km 107 (nay là nơi đặt tượng đài Chiến thắng La Ngà). Giám đốc binh công xưởng Bùi Cát Vũ cùng các chiến sĩ quân giới tiến hành việc chôn địa lôi trên đường nhựa và dùng phân voi ngụy trang bên trên để đánh lừa lái xe và trinh sát địch thường đi qua quãng đường hay có đàn voi sinh sống này.
Sáng 1-3-1948 trên toàn tuyến trận địa La Ngà - Định Quán, hàng ngàn chiến sĩ chi đội 10 đã sẵn sàng nổ súng.
Trung úy Jeffrey - chỉ huy trưởng đại đội bảo vệ đoàn công-Voa, kể lại: "6 giờ sáng ngày 1-3-1948 từ Sài Gòn, đoàn xe 69 chiếc, trong đó có mấy chiếc Jeep chở các sĩ quan cao cấp Pháp và 5 xe ca chở những ông bà chủ Pháp, Việt có máu mặt ở Sài Gòn lên Đà Lạt nghỉ mát. Khi đoàn xe đến Hố Nai thì có chuyện rắc rối, chỗ thì du kích phá đường, chỗ thì cây bị chặt ngã xuống đường. Tệ hại hơn, thỉnh thoảng du kích bắn mấy loạt rồi biến mất. Binh lính bắt đầu có người bị thương, chết. Quá 12 giờ, đoàn xe mới rẽ được sang quốc lộ 20. Và mãi 14 giờ 20 phút, đoàn xe mới tới được La Ngà. Tôi cho dừng đoàn xe lại, báo cáo là tình hình không có gì lạ. Tôi gọi điện cho Đại tá Talès - chỉ huy trưởng khu vực Đồng Nai Thượng đề nghị cho thêm quân hộ tống hoặc đoàn xe nghỉ lại La Ngà, sáng mai đi tiếp. Đại tá Talès trả lời dứt khoát: "Khu vực này đã được bình định rồi! Không có gì đâu! Cứ đi đi. Chỉ có đám du kích quấy phá như hồi sáng thôi! Vừa đi vừa bắn mạnh vào hai bên đường". Tôi vẫn thấy chưa yên tâm nên ráng nói thêm là: "Xin đại tá cho quân ở Lâm Đồng xuống đón đoàn xe", thì Talès gắt ầm lên: "Đi ngay đi! Cứ vừa đi vừa bắn xua đuổi đám du kích...".
Thế là cả đoàn công-voa lại lăn bánh với tiếng súng nổ liên tục về phía hai bên đường. Trong lúc đó, cán bộ, chiến sĩ chi đoàn 10 và liên quân 17 trên khắp mặt trận vẫn giữ bí mật đến cùng, không được tự động nổ súng. Vào lúc 15 giờ 2 phút, chiếc thiết giáp đi đầu vào trận địa A bị trúng mìn tung bổng lên khỏi mặt đất và lao thêm đến cả 10 mét mới bốc cháy, nằm bẹp dí trên đường. Đoàn xe phía sau vẫn tiến lên... 15 giờ 17 phút, mìn ở trận địa C lại nổ khóa đuôi đoàn xe. Cả đoàn công-voa bị cắt làm 3 khúc. Bộ đội từ các điểm cao dọc lộ xung phong mãnh liệt. Đại liên, trung liên, lựu đạn tập trung vào các xe quân sự làm ngay những phút đầu làm hàng chục xe bốc cháy. Đoàn công-Voa như con rồng uốn khúc, oằn oại bốc cháy trên quốc lộ 20. Quân ta hò reo vang dậy, ồ ạt xung phong. Xác giặc ngổn ngang trên xe, dưới đường.
Trận đánh diễn ra quyết liệt trong vòng 55 phút. 150 lính Lê dương bỏ mạng, 25 sĩ quân Pháp chết tại trận; trong đó có đại tá De Sérigné - chỉ huy trưởng bán Lữ đoàn Lê dương thứ 13, Đại tá Patrius - Phó tham mưu trưởng quân Pháp ở Nam Đông Dương, đại úy Jean Couvreur trưởng phòng quân xa...

* Ban phước lành cho... "kẻ dữ"

Chi đội phó Nguyễn Văn Lung -người trực tiếp chỉ huy trận đánh La Ngà nhớ lại: "15 giờ 57 phút, trận đánh kết thúc. Quãng đường ngót chục km khói lửa ngất trời, chốc chốc lại gầm lên tiếng nổ dữ dội. Đạn, phuy xăng nổ, bánh xe nổ... Quân ta hoàn toàn làm chủ trận địa. Do bên ta ít người bị thương, tôi lệnh cho quân y các mặt trận đến băng bó, chăm sóc số hành khách đi theo. Đối với binh lính địch bị thương và những hành khách lớn tuổi, trẻ em không đi xa được (khoảng 50 người), ta giải thích chính sách của kháng chiến và phóng thích ngay tại chỗ, nhắn họ về báo cho bà con Sài Gòn biết rằng còn 220 người gồm hành khách và binh lính bị bắt cũng sẽ được trở về hết. Qua thái độ của chiến sĩ ta và được tin cho về, họ hết sức mừng vui và khi chia tay thật cảm động. Một "bà Phước" (Ma Soeur - nữ tu), khi chiến trường còn vang tiếng súng, đã hốt hoảng chạy ngã túi bụi, rúc đầu xuống đất kêu: "Xin Chúa cứu vớt con khỏi tay kẻ dữ". Lúc chị cứu thương của ta đến an ủi, cho uống nước và dắt đến chỗ ẩn nấp, bà còn nhắm nghiền hai mắt, không nhìn... Thế mà sắp chia tay, bà tháo chuỗi dây đeo Thánh giá choàng lên cổ trung đội trưởng Lê Ngọc Sinh rồi chấp tay lẩm nhẩm: "Xin chúa ban phước lành cho chiến sĩ ViệtNam".
Trong số "khách" này có hai nhân vật khá đặc biệt là một vị giáo sư có con trai là trung úy trưởng phòng nhì phân khu Xuân Lộc và nhà báo Raoul Michel - cựu chủ bút tờ Ami du Peuple (Bạn Dân). Họ trầm ngâm suốt ngày, trước khi rời chiến khu, vị giáo sư Pháp bộc bạch với đồng chí Nguyễn Văn Lung và Võ Cương: "Những điều tai nghe mắt thấy đưa chúng tôi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, hoàn toàn trái ngược với những gì tôi biết trước đây qua tuyên truyền chính thức của Chính phủ Pháp. Là giáo sư sử học, tôi hiểu chính nghĩa thuộc về các bạn. Các bạn nhất định thắng lợi. Từ thâm tâm, chúc các bạn sớm thành công".
Nhà báo Raoul Michel về đến Sài Gòn bị đồng nghiệp bám theo moi tin, đã nói: "Cần viết đúng sự thật, mà sự thật khác hẳn những gì chúng ta đã từng viết".
Dân chúng và ngay trong chính giới Việt - Pháp ở Sài Gòn cứ xôn xao bàn tán về... chiến sĩ Việt Minh, bộ đội Cụ Hồ.

* Những chuyện kỳ thú... "hậu La Ngà"

Trong hồi ký có tên "Chiến khu Đ của tôi", cố nhà văn Nguyên Hùng cho biết: "Trong 9 năm kháng chiến đánh Tây, tôi có 6 năm ở Chiến khu Đ". Mà con đường dẫn anh phóng viên dân gốc miền Tây mới ra lò khóa báo chí đầu tiên của Nam bộ này đến Chiến khu Đ là do: "Tôi đọc bài bút ký "Khách đô thành viếng Chiến khu xanh" (đăng trên báo Tiền Đạo của Khu 7 số đặc biệt: Chiến thắng La Ngà) rồi phát mê miền Đông". Và ông đã xin về Ty Thông tin Biên Hòa. Cũng theo Nguyên Hùng, hạnh phúc lớn nhất của nhà báo, nhà văn như ông là gặp được nhiều nhân vật mà ông quý mến và ngưỡng mộ như: Huỳnh Văn Nghệ, Nguyễn Bình, Võ Cương, Bùi Cát Vũ... Trong đó có một nhân vật mà ông kính phục tôn là... "Nữ kiệt miền Đông": Đó là chị Lương Ngọc Tương,  Trưởng ty y tế Biên Hòa kiêm Trưởng trạm dân y tỉnh. Trong số mấy nữ sinh học trường Tây ở Đà Lạt (đi chung đoàn công-voa với quan thầy Pháp) được làm cuộc "du ngoạn tình cờ" vào chiến khu nhân chi đội 10 phục kích trận La Ngà, chị Tương đã hiểu ra chính nghĩa Việt Minh và xin ở lại tham gia kháng chiến. Chị học trường Đầm rồi tốt nghiệp y tá quốc gia cũng do Pháp đào tạo. Cùng với bác sĩ Võ Cương, chị Tương trực tiếp chữa trị cho trung úy Jeffrey - chỉ huy trưởng đại đội bảo vệ đoàn xe bị thương gãy chân. Được trạm quân y chi đội 10 kết hợp Đông Tây y bó cho liền xương và chữa trị đi lại được, viên Trung úy an ninh Pháp vô cùng xúc động nói với bác sĩ Võ Cương: "Trường hợp như tôi thì ở Quân y viện của Pháp, bác sĩ thường cắt bỏ để điều trị được nhanh...".
Trước đó, mặc dù bọn chỉ huy quân đội Pháp ở Sài Gòn cố tìm mọi cách để che đậy sự thật, giảm bớt tiếng vang của trận La Ngà. Nhưng trong số sĩ quan và các nhà tư sản bị chết và mất tích có đến mười mấy tên thuộc dòng giống quý tộc "họ De" (Đờ) nên "tai tiếng" vang tận Paris. Tướng De Latour chỉ huy quân Pháp ở Nam bộ tức tốc cho quân truy kích chi đội 10 và càn quét Chiến khu Đ. Không ngờ, Việt Minh đã dự đoán trước tình hình, cuộc truy kích lại thất bại. Túng cùng De Latour xuống nước viết thư gởi Bộ tư lệnh Khu 7 xin được chuộc những người Pháp có họ De. Đại tá De Sérigné được làm lễ truy điệu theo nghi thức quốc tang, nhưng vợ ông ta quyết làm lớn chuyện và kiện đại tá Talès trước Tòa án quân sự. Quốc hội Pháp lại vào cuộc cật vấn Talès về kết quả thắng lợi của công cuộc bình định đã dẫn đến: "đại họa La Ngà". Talès bị giáng chức và ức quá đã uống thuốc độc tự tử. Tính ra, chỉ trận La Ngà đã có đến 3 đại tá thực dân Pháp bỏ mạng...
Bùi Thuận

Friday 28 February 2014

KỶ NIỆM SÂU SẮC VỀ NHỮNG LỜI DẠY CỦA BÁC HỒ (Thiều Quang Toa - Văn Nghệ Xứ Thanh)


 KỶ NIỆM SÂU SẮC VỀ  NHỮNG LỜI DẠY               CỦA BÁC HỒ        
                                 Thiều Quang Toa


      Năm 1959, ngành văn hóa có một loạt trường nghệ thuật được thành lập. Trong đó có trường Múa Việt Nam.
 Bộ trưởng Bộ Văn hóa, ông Hoàng Minh Giám, vào Phủ Chủ tịch báo cáo hoạt động của bộ với Bác Hồ và trình bày dự kiến của bộ sẽ thành lập một số trường nghệ thuật, trong đó có trường dạy múa. Bác hỏi ông Giám: Thế các chú định đặt tên trường là gì? Ông Giám trả lời: Thưa Bác Vụ Nghệ thuật đã họp và trình lên Bộ lấy tên là trường Vũ Việt Nam ạ.
Suy nghĩ một lát Bác xua tay vẻ không đồng tình, Bác nói: Vũ là từ mượn từ tiếng Trung Quốc, vũ tức là múa. Muốn nói theo Trung Quốc thì phải nói là: Việt Nam vũ đạo học hiệu mới đúng. Vũ đạo là nhảy múa. Chẳng nhẽ lại đặt tên là trường nhảy múa Việt Nam? Nên phải đặt tên làm sao cho người Việt Nam, đọc lên ai cũng hiểu, vậy nên đặt tên trường là trường múa Việt Nam. Lời dạy của Bác rất giản dị và đầy ý nghĩa. Tháng 10 năm 1959 trường khai giảng khóa học đầu tiên với tên trường là trường Múa Việt Nam. Năm 1961 tức là sau một năm học đầu tiên trường Múa xây dựng một chương trình cho học sinh thực hành và cũng là báo cáo kết quả sau một năm trường phấn đấu gồm các tiết mục:
Vũ kịch chúc thọ Bác Hồ. Kịch bản nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Biên đạo Thái Ly, Âm nhạc Vĩnh Cát.
Vũ kịch dân tộc được mùa. Biên đạo Thái Ly, Âm nhạc Xuân Hòa
Trích đoạn vũ kịch Nga: Suralie. Biên đạo là chuyên gia Nga bà Bờ- ru-nắc.
Âm nhạc cả hai chương trình do dàn nhạc giao hưởng Việt Nam, thể hiện dưới sự chỉ huy của nhạc sĩ Vũ Lương. Nhân thành tích này trường được vinh dự đón Bác về thăm. Buổi sáng hôm Bác đến thăm, mọi việc vẫn diễn ra bình thường, nhưng sau tiết học đầu tiên ban giám hiệu cho người xuống từng lớp thông báo. Tất cả ăn mặc nguyên quần áo tập lên nhà tập một (nhà tập lớn kiêm hội trường) tập trung, Bác Hồ đến thăm trường. Nghe được tin này từ thầy đến trò đều cuống cả lên vội vàng lên nhà tập một đón Bác. Cánh cửa ô tô mở ra từ sân trường Bác thoăn thoắt bước về nhà tập, mọi người đều hô vang Bác Hồ muôn năm! Bác Hồ muôn năm! Niềm vui đến quá bất ngờ trong lòng ai cũng dâng trào một niềm sung sướng trào nước mắt. Vào đến hội trường Bác giơ tay ra hiệu và nói: Các cháu ngồi cả xuống sàn. Chúng tôi ngoan ngoãn vâng lời. Bắt tay Ban giám hiệu xong, Bác niềm nở hỏi thăm chuyện học hành, ăn ở những thuận lợi và khó khăn của trường, Bác khuyên các cháu phải học tập giỏi để xứng đáng là chủ nhân của đất nước sau này, xứng đáng là lớp học sinh nghệ thuật múa đầu tiên được đào tạo chính quy dưới mái trường xã hội chủ nghĩa. Một học sinh tốt là phải vừa hồng vừa chuyên.
Bác giải thích chuyên là chuyên môn. Hồng là đạo đức mà muốn có đạo đức tốt sau này xây dựng đất nước phải chịu khó không chỉ học chuyên môn mà phải học chính trị nữa. Vậy trường ta có học chính trị không? Bác quay sang chú Hoàng Châu như ý hỏi. Cả hội trường đồng thanh: Thưa Bác có ạ!
Bác lại hỏi: Vậy cháu nào biết chính trị là gì nào? Cả hội trường hướng về Bác mà im phăng phắc, bỗng chú Kỳ Thanh giơ tay xin nói (chú là trưởng phòng giáo vụ của trường).
Bác chỉ vào chú Kỳ Thanh gật đầu: Cháu nói đi.
Chú Kỳ Thanh trả lời: Thưa Bác chính trị là thống soái ạ!
Bác mỉm cười vui vẻ và chậm rãi nhắc lại chính trị... là thống soái. Cháu nào giải thích nữa? Đứng cạnh Bác, chú Hoàng Châu vội trả lời. Thưa Bác chính trị là chìa khóa vàng ạ.
Vẫn nụ cười đôn hậu Bác nhắc lại. Chính trị là thống soái, chính trị là chìa khóa vàng.
Thấy không khí có phần căng, Bác nói.
- Thôi bây giờ đến Bác. Chính trị là chủ trương chính sách, đường lối của Đảng và chính phủ. Học chính trị là các cháu học chủ trương đường lối, chính sách của Đảng và chính phủ. Giải thích như vậy thì ai cũng nghe lọt và dễ hiểu phải không nào?
Thầy trò không ai bảo ai đều đồng thanh: Phải ạ! Rồi cũng vỗ tay theo Bác.
Bốn năm học tập kết thúc. Năm 1963 ra trường, tôi được Bộ phân về Đoàn Ca múa Trung ương (nay là Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam). Về đoàn tôi lại có dịp nhiều lần được gặp Bác qua các lần vào Phủ Chủ tịch biểu diễn cho khách Chính phủ. Những năm đó, năm nào Nhà nước ta cũng có nhiều đoàn khách nước ngoài sang làm việc, đoàn nào sang cuối cùng cũng có văn công phục vụ.
Trong các đoàn nghệ thuật trung ương thì Đoàn ca múa trung ương và Đoàn ca múa Tổng cục Chính trị là thường xuyên được thay nhau vào phục vụ khách. Biểu diễn nhỏ tính chất xalông thì trong Phủ Chủ tịch, lớn thì sân khấu hội trường Ba Đình. Thường một tháng chúng tôi được vào Phủ Chủ tịch một lần đi theo lối cổng sau đường Bách Thảo vào thẳng nhà lớn. Đột xuất có khi một tháng hai lần. Tiết mục do đó không thay kịp, theo như dân gian nói "Cũ ta mới người". Theo thông lệ ngoại giao, mỗi khi nhận được công văn điều đi biểu diễn, công văn ghi rõ tên đoàn khách do vậy tùy thuộc từng nước chương trình có một phần ba tiết mục của nước đó, gọi là phần giao lưu hữu nghị. Bài vở do các đại sứ quán, bộ phận tùy viên văn hóa cung cấp đoàn tập trước đến việc là lắp vào.
Thời kỳ này khách chủ yếu là 12 nước xã hội chủ nghĩa anh em, còn tư bản và trung lập thì hạn hữu, cũng do tiết mục của chương trình biểu diễn quá quen nên mỗi khi đoàn chúng tôi đến (đoàn ca múa nhân dân trung ương) Bác thường gọi vui là Đoàn Nón - Bầu - Ô - Lục - Sạp. Buổi lễ mở màn bao giờ cũng là múa Nón Thái (Hoa ban nở) của biên đạo   Minh Tiến. Tiếp theo là đàn Bầu do nghệ sĩ Nguyễn Văn Chương người quê Thọ Xuân, Thanh Hóa khi đó được coi là số 1 Việt Nam. Tiếp theo là múa Ô (múa nữ Mèo cầm ô), biên đạo Minh Hiến , rồi tốp nữ hát đánh đàn thập lục (gọi tắt là tốp nữ Thập Lục) với bài "Quê em" phát triển dân ca của phó giáo sư nhạc sĩ kéo ác cooc đê ông Xuân Tứ. Sau này tốp có bài thứ hai là bài "Quảng Bình quê ta ơi" của nhạc sĩ Hoàng Vân. Tốp nữ thập lục được vinh dự nhận danh hiệu thi đua là tổ lao động XHCN đầu tiên của đoàn - Cuối chương trình biểu diễn bao giờ cũng kết bằng điệu múa Sạp đông người nhất. Điệu múa do tập thể sáng tác sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Do vậy Bác rất dí dỏm và vui vẻ tặng cho đoàn là Đoàn Nón - Bầu - Ô - Lục - Sạp.
Thời đó. Biểu diễn xong về nhà ăn bồi dưỡng toàn đoàn do anh nuôi nấu (khá ngon) hôm phở, hôm cháo gà tiêu chuẩn chung là 3 hào trừ vào tiền bồi dưỡng, còn tiền bồi dưỡng tính đồng loạt không kể sô lô đơn ca hay tốp tập thể. Cứ ba tiết mục là được bồi dưỡng 1 đồng 2 hào, có biểu diễn 4, 5 tiết mục cũng chỉ có thế, ấy vậy mà không hề thắc mắc ganh tỵ nhau. Đối với cánh nam trẻ chúng tôi nếu hôm nào có hai tiết mục thì phụ trách chuyên môn phân cho một công việc trong đêm diễn hoặc chiếu đèn than hoặc bê vác...  thì  cũng được coi là một tiết mục và cũng được 1đồng 2. Thời đó Hà Nội phở ngon nhất là phở gánh Phan Bội Châu cũng chỉ 4 hào còn là 3 hào một bát.
Mỗi khi vào Phủ Chủ tịch biểu diễn ngoài tiền bồi dưỡng của đoàn, Bác còn cho mỗi người phục vụ một xuất bồi dưỡng là 4 hào trị giá bằng một cân gạo được quy ra vật chất là một gói kẹo vừng do hậu cần của phủ chế biến. Mỗi lần biểu diễn khách về hết còn lại là diễn viên, phục vụ và Bác. Theo thông lệ chúng tôi xếp hàng ngang ngồi xuống để Bác phát quà. Ông Vũ Kỳ thư ký của Bác bê một chiếc thúng trong đựng các gói kẹo vừng đi theo sau Bác, Bác quay lại lấy từng gói kẹo chia đến tận tay từng người một, có lẽ Bác rất hiểu tâm lý chúng tôi, cháu nào cũng muốn nhận được quà từ tay Bác. Một lần chia hết người ngồi mà kẹo trong thúng vẫn còn, Bác biết ngay còn người vắng mặt (vì danh sách gửi vào bao nhiêu thì phục vụ chuẩn bị bấy nhiêu xuất) Bác vội hỏi? Còn cháu nào chưa có mặt. Ông Nguyễn Quang Giáp phó đoàn kiêm bí thư vội thưa.
- Còn mấy đồng chí làm hậu đài
Bác gặng hỏi: Cái gì? Tưởng mình thưa còn thiếu, ông Quang Giáp thưa: Thưa Bác còn mấy đồng chí hậu đài đương dọn đồ. Bác vẫn nghiêng tai hỏi như chưa rõ. Cái gì? Chợt hiểu ra ông Giáp vội cải chính: Thưa Bác còn mấy đồng chí đương dọn dẹp sau sân khấu ạ.
Bác à... một tiếng thật thoải mái rồi Bác nói tiếp làm sau sân khấu. Vậy là chúng ta có cách nói của chúng ta việc gì lại phải mượn tiếng nước ngoài. Hậu đài là chỉ sau sân khấu của tiếng Trung Quốc dịch ra. Từ nay các cháu cứ dùng từ nước mình có ai cũng hiểu. Tiện tay Bác vỗ vào vai ông Giáp lúc đó tai đương đỏ bừng. Bác nở nụ cười đôn hậu. Ra về Bác tươi cười vẫy tay như truyền cho chúng tôi hơi ấm của một tình thương bao la.
Một lần khác sau khi được Bác chia quà và chụp ảnh chung với Bác, trước khi chia tay Bác hỏi chuyện chúng tôi: ở đơn vị các cháu có đoàn kết không. Thưa Bác có ạ. Đúng! Bác nói đoàn kết là sức mạnh nhưng muốn giữ vững đoàn kết phải liên tục phê bình và tự phê để mình để bạn biết sửa lỗi nhỏ, không để thành khuyết điểm lớn, nhưng phê bình cũng phải có phương pháp mới có hiệu quả. Nếu bạn có mắc ba khuyết điểm, mình phê bình hai bạn sửa được một là tốt chứ hăng hái quá nói cả ba khuyết điểm bạn tự ti thấy mình xấu quá hoặc vì quá tự ái mà không sửa chữa điểm nào thì phê bình không có kết quả.
Bác ân cần dạy phê bình và được phê bình cũng như mình có kẹo cho bạn ăn kẹo, cho bạn từng cái một thì thấy kẹo ngọt nhưng cầm cả nắm kẹo đưa vào đầy miệng bạn cho hóc, bạn từ chối thì từ điều làm tốt thành không tốt. Bác hỏi có phải thế không nào? Chúng tôi đồng thanh: Thưa Bác đúng ạ.
Kỷ niệm về những lời dạy của Bác, mãi ấm áp trong mỗi chúng tôi, để suốt đời chúng tôi học tập, sửa mình.                   T.Q.T

Thursday 27 February 2014

Về một số thuật ngữ triết học, chính trị - xã hội có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài (Nguyễn Tấn Hùng - Tạp Chí Triết Học)

Về một số thuật ngữ triết học, chính trị - xã hội có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài

Nguyễn Tấn Hùng - Phó giáo sư, tiến sĩ, Đại học Đà Nẵng.10:20' AM-Thứ ba, 27/08/2013
Trao đổi về một số thuật ngữ triết học, chính trị - xã hội có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài, trong bài viết này, tác giả đã khẳng định cách phiên âm tên địa phương và tên người ra tiếng Việt tuy đã có nhiều đổi mới, nhưng vẫn còn chưa thống nhất; việc phiên dịch các thuật ngữ thì một số thiếu chính xác, một số sai cơ bản, một số khác tuy không sai nhưng cũng cần phải tìm hiểu mới có thể sử dụng đúng được.
Các thuật ngữ triết học, chính trị - xã hội trong tiếng Việt tuyệt đại đa số có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài, chủ yếu được dịch trực tiếp từ các thứ tiếng: Hy Lạp (H), Latinh (L), Anh (A), Pháp (P), Đức (Đ), Nga (N), hoặc gián tiếp thông qua tiếng Trung Quốc (TQ). Tuy nhiên, việc dịch các thuật ngữ này nhiều khi không chính xác, cách phiên âm không thống nhất, do đó dẫn đến những hiểu lầm hoặc giải thích không đúng. Mặt khác, đa số cán bộ nghiên cứu và giảng dạy các môn lý luận triết học, chính trị, xã hội của chúng ta, do ít am hiểu ngoại ngữ nên không thấy có vấn đề gì trong việc sử dụng các thuật ngữ chuyên môn của mình và cũng không có thói quen tìm hiểu kỹ nguồn gốc của chúng trước khi sử dụng. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ chỉ ra một số trường hợp không thống nhất và bất cập về cách phiên âm, dịch nghĩa các thuật ngữ.
1. Cách phiên âm tên địa phương và tên người ra tiếng Việt tuy đã có nhiều đổi mới, nhưng vẫn còn chưa thống nhất
Tên các quốc gia, địa phương trên thế giới mà chúng ta hiện đang sử dụng được phiên âm bằng hai cách: 1) đọc theo phiên âm Hán - Việt từ cách phiên âm của người Trung Quốc; và 2) phiên âm trực tiếp từ tiếng nước ngoài. Nhiều thuật ngữ trước đây được phiên âm theo cách thứ nhất nay đã chuyển sang cách thứ hai. Thí dụ: Mã Khắc Tư nay là Các Mác (Karl Marx), Mã Lai - Malayxia (Malaysia), Phi Luật Tân - Philippin (Philippines), Gia Nã Đại - Canađa (Canada:), Mễ Tây Cơ - Mêhicô (Mexico), v.v.. Tuy nhiên, cũng còn nhiều thuật ngữ đã dùng quen nên khó thay đổi, chẳng hạn: nước Anh (A: England) (thật ra, tên gọi chính thức của quốc gia này là United Kingdom (Vương quốc thống nhất) gồm 4 nước, trong đó có nước Anh) ; Luân Đôn (L: London); Đức (Đ: Deutschland); Tây Ban Nha (TBN: Espana); Bồ Đào Nha (B: Portuguesa), v.v.. Cách gọi này tuy quen thuộc nhưng lại gây không ít khó khăn cho những người đi học tập, tham quan ở những nơi nói trên.
Có một số tên người có nguồn gốc từ hai cách phiên âm khác nhau. Thí dụ “Bụt” và “Phật” trong tiếng Việt tuy cùng một nghĩa nhưng có hai nguồn gốc phiên âm khác nhau. “Bụt” được phiêm âm trực tiếp từ tiếng Ấn Độ “Buddha”; còn “Phật” cũng từ “Buddha” nhưng được phiên âm sang tiếng Trung Quốc và đọc theo ngữ âm Hán - Việt là “Phật Đà” rồi sau đó được rút gọn thành “Phật”. Các từ “Kitô” và “Cơ Đốc” cũng có nguồn gốc tương tự như vậy. “Kitô” được phiên âm trực tiếp từ tiếng Hy Lạp "Χριστός” (đọc là Khristós, tiếng Latinh là Christus, tiếng Pháp, Anh là Christ). Kitô là tước hiệu, không phải là họ, Giêxu (Jesus) mới là tên. “Cơ Đốc” cũng từ nguồn gốc đó, nhưng được phiên âm sang tiếng TQ rồi được đọc theo âm Hán - Việt. Rất tiếc là nhiều người đã nghĩ Cơ Đốc giáo và Kitô giáo là hai tôn giáo khác nhau. Ngoài ra, “Thiên Chúa giáo”, “Hồi giáo” là những cách gọi sai của chúng ta. Kitô giáo, Cơ Đốc giáo là tên gọi chung (có thể là Công giáo hay Tin Lành); còn Công giáo, Tin Lành, Chính thống giáo là tên những giáo phái của Kitô giáo, sau đã tách ra thành những tôn giáo độc lập. “Hồi giáo” (tôn giáo của người Hồi) là cách gọi của người Trung Quốc, gọi theo tên một bộ tộc theo tôn giáo này; thật ra, tôn giáo này có tên là Islam.
Cũng do việc phiên âm từ các thứ tiếng khác nhau, nên đã xảy ra trường hợp nhầm lẫn, một tác giả được biên soạn thành hai mục từ khác nhau, với hai tên khác nhau. Chẳng hạn, Tômát Aquin trong “Từ điển Triết học” của Cung Kim Tiến. Để hiểu nguồn gốc của sai lầm này, chúng ta hãy trở lại với cách gọi tên các danh nhân phương Tây. Từ Hy Lạp Cổ đại đến thời Trung cổ, các danh nhân chỉ được gọi trực tiếp bằng tên (không có họ), để tránh sự nhầm lẫn giữa nhiều người có cùng tên, người ta thêm địa danh quê hương, chẳng hạn Talet ở Milê (Thales of Miletus), Hêraclit ở Êphesơ (Heraclitus of Ephesus), Zênôn ở Elê (Zeno of Elea) để phân biệt với Zênôn ở Xiti (Zeno of Citium), Điôgien ở Laect (Diogenes Laertius) để phân biệt với Điôgien ở Xinôp (Diogenes of Sinope). Tômát - nhà triết học kinh viện Kitô giáo Trung cổ, sinh ở Aquino, Italia nên gọi là Tômat Aquin hay Tômat Aquinô; trong tiếng Anh, tên nhà thần học này là Thomas Aquinas (hayThomas of Aquin, Thomas of Aquino). Trong phần lớn các tài liệu tiếng Việt hiện nay, tên của nhà thần học này được phiên âm từ tiếng Pháp: Thomas d'Aquin (cũng có nghĩa là Tômat ở Aquin) đọc là Tôma Đacanh. Trong tiếng Nga, nhà triết học này được phiên âm là Фома Акви́нский (đọc là Phôma Akvinski, cũng có nghĩa là Tômát ở Aquin), có lẽ vì thế mà Từ điển Triết học Cung Kim Tiến đã nhầm và biên soạn thành hai tác giả (hai mục từ) khác nhau là “Tôma ở Ácvinô” (từ tiếng Nga Фома Акви́нский) và “Tômat Đacanh” (từ tiếng Pháp Thomas d'Aquin) (1).
2. Về việc phiên dịch các thuật ngữ: một số thiếu chính xác, một số sai cơ bản, một số khác tuy không sai nhưng cũng cần phải tìm hiểu thì mới sử dụng đúng được.
- Một số thuật ngữ dịch tuy phản ánh được nội hàm của khái niệm gốc, nhưng không sát với thuật ngữ gốc của nó. Nguyên nhân của tình trạng này là do khi dịch một khái niệm, người ta chỉ cố gắng đảm bảo nội hàm, còn về tên thuật ngữ thì lại đi tìm một tên khác, miễn là diễn đạt được nội hàm đó. Thí dụ:
Thuyết “Tam quyền phân lập” là một học thuyết chính trị do nhà triết học chính trị Pháp Saclơ Môngtexkiơ (Charles Montesquieu, 1689 - 1755) đưa ra. Trong tiếng Pháp, thuyết này có tên “Séparation des pouvoirs” (A: Separation of powers), nếu dịch sát về thuật ngữ thì phải là “sự chia tách các quyền lực” chứ không phải là “tam quyền phân lập”. Tuy từ dịch này không sai so với nội hàm của khái niệm, nhưng người sử dụng cũng cần phải biết xuất xứ của nó.
“Chủ nghĩa thực dụng” (Pragmatism) là một trào lưu triết học đã và đang thịnh hành ở Mỹ. Thuật ngữ “pragmatism” (A) hay “pragmatisme (P) xuất phát từ “pragma” (số nhiều: pragmat) trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “hành động”. Từ “pragma” là nguồn gốc của các từ practice (A), pratique (P), практика (N) dịch ra tiếng Việt là “thực hành” hay “thực tiễn”. Như vậy, “pragmatism” nếu dịch sát nghĩa phải là “chủ nghĩa hành động”, “triết học thực tiễn” chứ không phải là “chủ nghĩa thực dụng” như cách nói hiện nay. Thuật ngữ “chủ nghĩa thực dụng” trong tiếng Việt tuy cách dịch không sai so với thực chất của trào lưu triết học này (lấy công dụng, lợi ích, hiệu quả thực tế làm thước đo cho tất cả), nhưng nó lại được hiểu lệch theo một nghĩa xấu vốn không có trong thuật ngữ gốc của nó.
- Một số thuật ngữ dịch sai cả về tên và nội hàm của khái niệm.
Không chỉ có thuật ngữ “chủ nghĩa duy tâm”, “chủ nghĩa duy vật”, mà có nhiều thuật ngữ khác cũng được thêm từ “duy” vốn không có trong tiếng nước ngoài, thí dụ “chủ nghĩa duy thực”, “chủ nghĩa duy danh”, “chủ nghĩa duy năng”, “chủ nghĩa duy linh”, “chủ nghĩa duy ý chí”,… Chữ “duy” ở đây làm cho người ta hiểu sai là “chỉ có”, thí dụ, hiểu nhầm chủ nghĩa duy vật cho rằng “chỉ có vật chất”, chủ nghĩa duy tâm cho rằng “chỉ có ý thức”… Thực ra, các trào lưu này không tuyệt đối hóa sự tồn tại của một trong hai nhân tố, mà chỉ nhấn mạnh vai trò quyết định của một trong hai nhân tố đó mà thôi.
Thuật ngữ “chủ nghĩa duy tâm” còn sai cả từ và nghĩa nữa. Các từ idealism (A), idéalisme (P), idealismus (Đ) xuất phát từ tiếng Hy Lạp “ιδεα” được dịch sang tiếng Anh là “idea”, “form”; tiếng Việt là “ý niệm”. Platôn - nhà triết học duy tâm khách quan cho rằng “ý niệm” là một thực thể tinh thần có trước, độc lập với sự vật cảm tính. Hêghen cũng kế thừa tư tưởng đó. Còn những nhà duy tâm chủ quan, như Đêvit Hium (David Hume, 1711 - 1776), thì lại cho rằng sự vật chỉ là “tập hợp các cảm giác” hay “tập hợp các ý niệm” (collection of ideas) của con người. Đáng lẽ “idealism” phải được dịch là “chủ nghĩa ý niệm”. Thuật ngữ Hán - Việt, “tâm” tuy cũng có nghĩa là ý thức, tư duy, nhưng chỉ nói về tư duy của con người mà thôi (chỉ có thể áp dụng cho chủ nghĩa duy tâm chủ quan); trái lại, thuật ngữ “ý niệm” (idea) trong từ “idealism” theo quan niệm của các nhà triết học duy tâm khách quan thì lại tồn tại độc lập, ngoài con người.
“Chủ nghĩa kinh nghiệm” (empiricism) là khuynh hướng triết học thịnh hành ở nước Anh với Francis Bacon, John Locke, George Berkeley, David Hume trong thế kỷ XVII đến các nhà triết học thuộc chủ nghĩa thực chứng trong các thế kỷ XIX và XX. Thuật ngữ này tuy rất quen thuộc, song thế nào là “kinh nghiệm” thì ít người hiểu đúng, vì từ “kinh nghiệm” trong tiếng Việt và tiếng nước ngoài (εμπειρισμός (H) experientia (L), experience (A, P) không đồng nghĩa với nhau. “Kinh nghiệm” trong tiếng Việt thường được hiểu là những tri thức thu được trong hoạt động thực tiễn. Do đó, chủ nghĩa kinh nghiệm được người Việt hiểu như là khuynh hướng tư tưởng coi kinh nghiệm thực tiễn là tất cả, coi thường lý luận. Tuy nhiên, trong triết học phương Tây, “εμπειρισμός”, “experience” trước hết được hiểu là tất cả những tri thức cảm tính, tức tất cả những gì do quan sát được bằng giác quan đem lại. Như vậy, “chủ nghĩa kinh nghiệm” ở phương Tây là trào lưu triết học chỉ thừa nhận những tri thức có nguồn gốc từ cảm tính hoặc có liên hệ trực tiếp với cảm tính; nó phủ nhận những tri thức do suy lý gián tiếp, phản đối phương pháp tư duy tư biện. Chủ nghĩa kinh nghiệm có thể là duy vật hoặc duy tâm. Đối với các nhà triết học duy tâm chủ quan, các nhà triết học thực chứng và thực dụng thì kinh nghiệm là tất cả, không phân biệt khách quan, chủ quan. Theo họ, vũ trụ, mặt trời, mặt trăng… đều nằm trong kinh nghiệm.
“Chủ nghĩa duy lý” (rationalism có gốc từ tiếng Latinh ratio - lý trí, lý tính, reason (A), raison (P)) là trào lưu triết học đối lập với chủ nghĩa kinh nghiệm. Chủ nghĩa duy lý là khuynh hướng triết học coi lý trí là cơ sở của tồn tại, nguồn gốc và tiêu chuẩn kiểm tra chủ yếu của tri thức; đồng thời cho rằng, bằng lý trí và phương pháp suy luận diễn dịch, con người có thể nhận thức được tất cả, không cần đến kinh nghiệm. Đối lập với trào lưu chủ nghĩa duy lý còn có trào lưu “chủ nghĩa phi lý” (phi lý tính hay phi duy lý - irrationalism) phủ nhận vai trò của lý trí, lý tính. Chủ nghĩa hiện sinh là một điển hình. Nó cho rằng tất cả đều là phi lý. Cái phi lý là cái không có bản chất, quy luật, nguyên nhân, quan hệ… và do vậy, không thể dùng lý trí để nhận thức, mà chỉ có thể cảm nhận bằng cảm giác, cảm xúc mà thôi. Đừng nhầm lẫn “phi lý” (absurd) với “vô lý” (illogical). Cái vô lý là cái không hợp lôgíc, nghĩa là có thể nhận thức được bằng lý trí, nên mới biết được nó không hợp với lôgíc khách quan. Còn cái phi lý là cái không thể nhận thức được bằng lý trí, nên không thể nói gì về nó cả. Theo nhà triết học hiện sinh Pháp - Albert Camus, hạnh phúc, ý nghĩa cuộc sống… là những cái phi lý, chúng ta chỉ có thể cảm nhận chúng mà không thể giải thích được chúng.
“Chủ nghĩa thực chứng” là gì? Nó là trào lưu triết học thịnh hành ở các nước, như Anh, Mỹ trong thời kỳ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Thuật ngữ “chủ nghĩa thực chứng” (Positivsm, Positivisme trong tiếng Anh, Pháp) xuất phát từ positivus (L) (positivepositif trong tiếng A,P) có nghĩa là xác thực, rõ ràng.Positive - negative là một cặp từ được dùng ở nhiều nghĩa khác nhau, chẳng hạn như dương - âm (cực dương hay cực âm của một nguồn điện). Cặp từ này cũng có nghĩa là khẳng định (nói có) - phủ định (nói không) trong các phán đoán. Thí dụ, trong kết quả xét nghiệm một loại vi rút nếu được ghi là negative (dịch là âm tính) có nghĩa là không có virút đó. Cặp từ này còn có nghĩa là tích cực - tiêu cực. Riêng từ “positive” trong khoa học, triết học, thí dụ “positive knowledge”, “positive thinking”, có nghĩa là xác thực, rõ ràng. Positivism được dịch là “chủ nghĩa thực chứng” vì đây là một trào lưu triết học không thừa nhận lối tư duy tư biện và những tư tưởng tư biện; nó chỉ thừa nhận những tri thức thực chứng, tức là những tri thức xác thực, đã được chứng thực. Tuy nhiên, hạn chế của trào lưu này là chỉ giới hạn việc chứng thực các mệnh đề lý luận bằng kinh nghiệm cảm tính (quan sát, thực nghiệm).
“Chủ nghĩa hiện sinh” là gì? Thuật ngữ này rất quen thuộc nhưng ít người hiểu đúng thực chất của nó, ngay cả những người nghiên cứu và giảng dạy triết học, vì thuật ngữ này trong tiếng Việt không đồng nhất với thuật ngữ gốc. “Hiện sinh” trong tiếng Việt có nghĩa là “đang sống”, nhưng thuật ngữ gốc của nó không có nghĩa như vậy. Thuật ngữ “chủ nghĩa hiện sinh” (Existentialism (A), Existentialisme (P) xuất phát từ gốc từ Latinh “existentia”, nghĩa thông thường là “tồn tại”. Đây là trào lưu triết học phi lý tính, phát triển mạnh ở Đức và Pháp từ những năm 20 của thế kỷ XX. Thật ra, trong ngôn ngữ thường ngày, being và existence (A) hayêtre và existence (P) đều có chung một nghĩa là “tồn tại”, chẳng hạn, “being and thinking” (tồn tại và tư duy) “the existence of God” (sự tồn tại của Thượng đế). Tuy nhiên, các nhà triết học hiện sinh lại phân biệt hai khái niệm này. Theo họ, être (P); being (A); Sein (Đ) (dịch ra tiếng Việt là “tồn tại”) chỉ đơn giản là “có mặt ở đó”, nhưng không có ý thức nên vô nghĩa, không đáng quan tâm. Chỉ có existence (A&P); Dasein (Đ) (được dịch ra tiếng Việt là “hiện sinh” hay “hiện hữu”) là một thứ tồn tại đặc biệt - tồn tại có ý thức, mới là cái đáng quan tâm. Tuy nhiên, ý thức mà họ nói ở đây không phải là lý trí hay ý thức khoa học, mà là một thứxúc cảm chủ quan (sự lo âu, trăn trở, đau khổ, tự do, nổi loạn…) ở cá nhân riêng lẻ của con người “hiện sinh” và cảm nhận chủ quan mà con người hiện sinh gán cho đồ vật mà thôi. Nhà hiện sinh Pháp - Jean Paul Sartre (1905 - 1980) đưa ra luận điểm nổi tiếng “L'existence précède l'essence” (“hiện sinh có trước bản chất”, nhưng nhiều tài liệu nhầm là “tồn tại có trước bản chất”) nghĩa là con người sinh ra không có một bản chất vốn có nào cả; chỉ khi nào con người “hiện sinh”, tức là có ý thức về bản thân mình, tự do lựa chọn cho mình trở thành một cái gì thì anh ta mới có được một bản chất nào đó. Đồ vật chỉ đơn giản là tồn tại, nó chỉ “hiện sinh” khi con người hiện sinh đem lại cho nó một ý nghĩa nào đó. Nhà hiện sinh Pháp - Simone de Beauvoir (1908 - 1986) có câu nói nổi tiếng “On ne nait pas femme, on le devient” (Người ta không sinh ra là phụ nữ, mà trở thành phụ nữ) cũng được hiểu theo cách tương tự như vậy. Như vậy, chủ nghĩa hiện sinh là trào lưu triết học chỉ quan tâm đến sự “hiện sinh”, một thứ tồn tại đặc biệt, chứ không phải là tồn tại nói chung.
Thuật ngữ “chủ nghĩa cộng sản” được dịch từ các thứ tiếng phương Tây (communism (A), communisme (P), Kommunismus (Đ), коммунизм (N). Các thuật ngữ này không hề có từ “sản” mà chỉ gần gũi với từ “chung” (common), “cộng đồng” (community). Không phải ngẫu nhiên mà một tác giả đã giải thích: “communism = common + ism”. Việc dịch thuật ngữ này thành “chủ nghĩa cộng sản” là sai cả về ngữ nghĩa và thực chất của khái niệm. Communism nếu dịch chính xác phải là “chủ nghĩa cộng đồng”, chứ không thể là “chủ nghĩa cộng sản” được. Từ “chủ nghĩa cộng sản” tạo ra một ấn tượng sai lầm rằng xã hội tương lai mà chúng ta phấn đấu xây dựng phải là một xã hội mà mọi tài sản đều là của chung. Mặc dù, sau này, người ta đã cải chính rằng không phải mọi tài sản mà chỉ có tư liệu sản xuất là của chung, nhưng như vậy cũng không phản ánh được thực chất của chủ nghĩa cộng sản. Khái niệm “communism” phản ánh mục đích phấn đấu là cộng đồng xã hội, ưu tiên của cộng đồng xã hội so với cá nhân; còn tư liệu sản xuất chung chỉ là con đường để thực hiện mục đích, chứ không phải là mục đích.
Các thuật ngữ “conservatism”, “conservative party” được dịch sang tiếng Việt là “chủ nghĩa bảo thủ”, “đảng bảo thủ”. Các thuật ngữ này xuất phát từ động từ “conserve” (A) hay conserver (P) có nghĩa là giữ gìn, bảo tồn, bảo toàn. Cách dịch này sang tiếng Việt tuy không sai (“bảo thủ” có nghĩa là “bảo vệ, giữ gìn”), nhưng vì trong tiếng Việt, từ “bảo thủ” thường được dùng với một nghĩa xấu, do đó người ta thường hiểu sai khuynh hướng chính trị này. Thực ra, đây là một khuynh hướng triết học chính trị chủ trương giữ gìn, bảo tồn những giá trị, những thể chế (chính trị, văn hóa, đạo đức, tôn giáo, v.v.) đã qua thử thách trong lịch sử. Khi sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa bảo thủ”, vì không hiểu nguồn gốc của nó, nên nhiều người thắc mắc tại sao trong nhiều nước tiên tiến, đảng “bảo thủ” lại có thể được quần chúng ủng hộ, như Đảng Bảo thủ Anh đã nhiều lần nắm được ghế thủ tướng; Đảng Bảo thủ Canađa hiện nay đang nắm chính quyền ở nước này từ năm 2006 đến nay.
Không chỉ các thuật ngữ được dịch từ các tiếng phương Tây, mà ngay cả một số thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Nga, tiếng Trung Quốc cũng không phải đã được hiểu đúng.
Tác phẩm của V.I.Lênin “Империализм, как высшая стадия капитализма” được dịch ra tiếng Việt là: “Chủ nghĩa đế quốc - giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản”. Đúng ra phải dịch là: “Chủ nghĩa đế quốc - giai đoạn cao nhất của chủ nghĩa tư bản”. Cần lưu ý, hai thuật ngữ “tột cùng” và “cao nhất” không hoàn toàn trùng khớp với nhau về ngữ nghĩa. “Tột cùng” còn có nghĩa là cuối cùng; còn “cao nhất” chưa hẳn là cuối cùng (vì còn có quá trình đi xuống, suy vong nữa rồi mới chấm dứt). Thuật ngữ “умирающий капитализм” được dịch ra tiếng Việt là “chủ nghĩa tư bản giẫy chết” cũng không hoàn toàn sát nghĩa. умирающий (động tính từ của động từ умирать) có nghĩa là đang chết. “Đang chết” diễn đạt một quá trình lâu dài, chết dần dần; còn “giẫy chết” cho ta ý niệm về một cái chết diễn ra rất nhanh chóng.
Câu nói của Khổng Tử: “Tính tương cận, tập tương viễn” thường được giải thích là: Tính người vốn sinh ra là gần nhau nhưng do nhiễm những thói quen, tập quán xấu ngoài xã hội, nên vì thế mà tính người trở nên xa nhau. Ta thử đối chiếu với cách dịch câu nói này trong một giáo trình triết học ở Mỹ: “By nature, men are nearly alike; by practice, they get to be wide apart" (Về bản tính, con người gần giống nhau; bằng sự rèn luyện mà họ trở nên xa nhau) (2). Tính người (human nature) phải được hiểu là bản tính tự nhiên của con người, chứ không phải là ý thức hay nhân cách, vì khi mới sinh ra, con người chưa có được những yếu tố này. “Nature” là tự nhiên khác với “culture” (văn hóa, giáo dục). Bản tính tự nhiên của con người xuất phát từ bản năng động vật, tức yếu tố “con” ở trong con người (bản năng ăn uống, tự vệ, sinh dục …) đòi hỏi phải được thỏa mãn cho cá nhân một cách tối đa, bất chấp lợi ích của người khác (từ đó sinh ra tính tham lam, ích kỷ, lánh nặng tìm nhẹ, v.v.). Tuy nhiên, nhờ lớn lên và rèn luyện trong môi trường văn hóa mà con người kìm chế được những bản năng này và phát triển những phẩm chất xã hội. Nhưng, những phẩm chất xã hội ở mỗi người là không giống nhau vì việc rèn luyện của mỗi người là khác nhau.
Bài thơ “Dạ bán” (Nửa đêm) trong “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh có hai câu: “Thiện, ác nguyên lai vô định tính, Đa do giáo dục đích nguyên nhân”,được Nam Trân giải thích: “Thiện, ác vốn chẳng phải là bản tính cố hữu, phần lớn đều do giáo dục mà nên”. Cách giải thích này đúng, nhưng khi dịch ra thơ, để đảm bảo vần điệu, Nam Trân dịch: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, Phần nhiều do giáo dục mà nên” (3). Thật ra, thiện, ác dịch là hiền, dữ thì không chuẩn. Vì thiện, ác là thuộc về đạo đức; còn hiền, dữ là thuộc về cá tính; “hiền” chưa hẳn là “thiện”, “dữ” chưa hẳn là ác.
Qua một số ví dụ nêu trên, chúng tôi cho rằng, để hiểu được thực chất và vận dụng đúng các thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài, chúng ta không có cách nào khác là phải truy tìm ngôn ngữ gốc của chúng. Mặt khác, chúng tôi đề nghị Nhà nước nên có những quy định thống nhất về cách phiên âm tên người, tên địa phương và cách dịch các thuật ngữ triết học, chính trị, xã hội tương đối thông dụng.
--------------------------------------------------------------------------------
(1) Cung Kim Tiến. Từ điển triết học. Nxb Thông tin, Hà Nội, 2002, tr.1200 -1201.
(2) Douglas J. Soccio, Archetypes of Wisdom: An Introduction to Philosophy, Wadsworth Publishing, Ohio, 2006. Giáo trình này cũng được Trường Đại học Towson sử dụng trong chương trình đào tạo quốc tế ở Việt Nam.
(3) Xem: Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.283.

Wednesday 26 February 2014

Đơ Bê là gì?



Tiểu thuyết viết về cuộc kháng chiến chín năm hay nhắc đến đơ bê:
Orion cầm máy điện thoại và gọi sang văn phòng của viên sĩ quan Đơ bê Giô dép Mai:
(Tô Đức Chiêu, 2008:78)
Từ đó Thanh Tùng gia nhập làng báo, hắn bộ hắn bộ quân phục, không lái xe Jeep, không dùng cái tên nhà binh Đại úy “Đơ Bê” hắn lấy bút hiệu Mão Đen. 
(Nhị Hồ - Điệp viên giữa sa mạc lửa – chương 13)
Đơ Bê là cách phát âm tiếng Pháp của 2B, tức deuxième bureau, nghĩa là phòng hai hay phòng nhì, bộ phận chuyên trách quân báo trong cơ quan tham mưu Pháp


Với thằng Thiêm, bọn “Đơ-bê Zốt” đã nhẵn mặt, nhưng khi nghe được tin báo thì đã muộn, không xoay chuyển được tình thế nữa, chúng liền cho câu pháo lên để trả thù.
Đơ-bê Zốt (2B/ZOT) là phòng nhì khu chiến Bắc Kỳ (Zone Opérationnelle du Tonkin).