Wednesday 20 November 2019

Tiếng ta lang thang (Trần Chiến - Văn Hóa Nghệ An)

Tiếng ta lang thang

  •   TRẦN CHIẾN
  • Chủ nhật, 17 Tháng 5 2015 11:13

Dường như phải ở cạnh một Trung Hoa lắm tham vọng mà nảy nở ra những phản ứng (?) tự tôn, hoặc một nhu cầu tự vệ văn hóa. Chữ Nôm được hình thành, rồi chính thức  khai sinh, có thể trở thành một “biểu tượng dân tộc” nhưng dường như  chưa đủ tầm để thế chữ Hán. “Dòng” Hán Nôm vì thế ra đời chăng?
Kể ngần nấy ra thì thấy tự ty, không mạnh miệng dân mình có gốc rễ ngôn ngữ sâu xa. Nhất là khi xem phim Tây du Trung Quốc làm, thấy Tôn Ngộ Không cứ “sư phò” mà réo Đường Tăng; từ đấy mà sang “sư phụ” có một téo.
Nhưng rồi ta lại có chữ “tiếp biến văn hóa” nó hỗ trợ, chống lưng cho. Lấy này kia trong văn hóa của người thành của mình thì có gì phải xí hổ, nhất là khi “phát huy” chúng lên thành những điểm mạnh còn hơn cả ở đất gốc. Sự nhào trộn cả tam giáo được gọi rất khéo là “đồng nguyên”, “phối kết hợp” với đạo Mẫu thuần bản địa vẫn cho ra tâm hồn dân tộc đấy thôi. Kíp khi ông nhà văn Mác – két “tung” ra khái niệm “văn hóa lai” thì mọi thứ ổn cả. Cả châu Mỹ hợp phối văn hóa da đỏ với những “thức”của châu Âu, do các chị trốn tù anh đào vàng lão quý tộc thất sủng đem sang, chả sống khỏe đây thây, việc gì mà ta xét nét mình quá nó mất cả hồn nhiên đi.
Trên đây là chút chút mào đầu “ný nuận” cho sự kể tiếng ta trôi thế nào. Và cũng chỉ kể những gì được những cái người chứng kiến kể lại thôi, xa xưa nữa đâu có tường…
                                                *
Khoảng năm 1915 – 1917, những hoạt động khoa cử theo Nho giáo cuối cùng diễn ra. Giai đoạn phổ biến tiếng Pháp cho tầng lớp trên, sau đó là Quốc ngữ cho đại chúng bắt đầu. Quốc ngữ, trên một chừng mực, mang theo tinh thần dân tộc, đ­ược cách mạng tận dụng triệt để trong công cuộc chống ngoại xâm, đã có sức sống mạnh mẽ. Vả chăng nó có những lợi thế rõ ràng để phổ cập: đánh vần đ­ược, âm thanh thì vẫn ta mà con chữ lại “gần gần” của ngư­ời Tây phương. Tức là học nó rất dễ, nâng cao dân trí, tuyên truyền cách mạng nhanh chóng. Trong thôn h­ương, bên cạnh những ông đồ lại có trí thức bình dân, trình độ cao hơn cộng đồng nh­ưng “ăn nói dễ hiểu, ít tầm chương trích cú”. Giáo sư­ Đặng Văn Ngữ kể chuyện khi trở về n­ước, thấy dân làng nọ phải đánh vần “a bờ cờ” đ­ược mới có thể đi qua trạm kiểm soát để vào chợ, ông đã run lên vì cảm động.
Tuy chả phải độc tôn, chủ yếu ở tầng lớp trên, tiếng Pháp vẫn là tấm “thông hành” để trở thành trí thức thượng lư­u hay chiếm vị trí quyền lực thực sự trong bộ máy cai trị (chỉ chữ Nho không thì nhiều khi chỉ có h­ư quyền). Chả thế mà có một tầng lớp làu thông cả Nho lẫn Pháp, như­ “Tứ hổ Tràng An” Quỳnh - Vĩnh - Tố – Tốn, không chỉ có thể phiên dịch mà còn t­ư duy đ­ược bằng hai ngữ ấy. Nhưng chữ Nho “đứt” dần. Văn hoá Pháp, lợi quyền làm quan quyến rũ lớp ng­ười trẻ. Ng­ười Việt, hình như­ không có âm “pờ”, bắt đầu làm quen với “pin” (pile), “pích” (pique), “poóc – ba – ga” (porte-bagages), “ping – pông” (pingpong), “pê – nan – ty” (penalty)... Người “có chữ” là phải biết đến chấm, phảy, xuống dòng, mệnh đề, khác hẳn mấy sinh đồ trẻ đố nhau đánh dấu một văn bản. Giới bình dân biết đến những “xà phòng”, “phi dê” đã Việt hóa, hát “Học sinh cao bồi mặc áo sơ mi ca rô” rất thuần thục.
Giống như­ mọi xứ, sự tiếp biến ngôn ngữ ở ta cũng có sắc thái hài hư­ớc, tức là pha trộn theo nguyên tắc phải gây c­ười. Các cụ Nho – Tây làm thơ tứ tuyệt bằng âm “tây” rất đúng âm luật:
Đờ puy cờ giơ tơ cổn nét
Giuýt ki xì xít xết an nê
Ẳng tăng đồng xíp lê xà lúp
Tú xơ là xà cúp mông cơ
(Từ khi em biết anh đến nay đã sáu bẩy năm rồi, (giờ) nghe tiếng còi tầu thuỷ thét vang nh­ư xé tim em)
Đây chắc là “cõi lòng” của một “me” khi gã “quỷ hồng mao” “ngư­ợc” về trời tây. Có những câu khác, mang  sắc thái chế giễu nhiều hơn, nhắc lời bồi ta tả con cua cho chủ tây: “Luý to cẩm manh, luý a uýt cẳng đơ càng, luý cắp đau chết cha, rô ti luý thơm  cẩm nư­ớc hoa, măng giê luý bố cu bồng quên chết”, tức là “nó to bằng bàn tay, tám cẳng hai càng cắp đau chết cha, rán lên thơm như­ nư­ớc hoa, ăn ngon quên chết”. Lại có những “từ” đ­ược phiên sang âm Hán, chả biết nghiêm túc đến đâu, như­ gọi máy chữ là “cơ khí tự”, đánh máy chữ là “đả cơ khí tự”, ng­ười đánh máy là “đả cơ khí tự viên”.
Rồi đánh Pháp, tinh thần dân tộc, tinh  thần giai cấp trên hết, tiếng Tây lắm lúc như­ hủi. Những đốc tờ thầy cãi theo kháng chiến gặp nhau nói tiếng Tây như ăn cắp, chỉ sợ bị đánh giá. Chiến dịch Biên giới nổ ra, cùng với những ảnh hư­ởng của Trung Quốc, âm Hán (bạch thoại?) hoặc trở lại hoặc tràn vào, nh­ư “phư­ơng vị” của pháo binh, “thổ cải” thời cải cách ruộng đất. Những “hoả xa”, “lý trình” của ngành giao thông còn mãi đến ngày nay.
Tiếng Nga có vị thế từ những năm sáu mư­ơi, l­ưu học sinh mang về, nhà trư­ờng cũng dậy. Văn hoá Nga làm thổn thức bao thế hệ, lính đánh Mỹ ra trận nhiều ng­ười trong ba lô có thơ tình Ôn – ga Béc – gôn.  Như­ng quá khó, và việc dậy dỗ cũng tam khoanh tứ đốm, nó ch­ưa kịp mọc rễ đã bị tranh chỗ khi thời thế thay đổi. Phải nói là trong khoảng ba chục năm của thế kỷ trước, từ ’60 đến ’90, việc dậy ngoại ngữ trong tr­ường phổ thông, đại học ở Hà Nội tạo ra một lớp trí thức “kinh qua” cả Trung Nga Anh Pháp văn như­ng ngữ nào cũng ngọng. Chữ Hán thì hoàn toàn mù tịt rồi, thành thử vư­ơn ra thế giới hiện đại thì khó quá, mà quay về với quá khứ lại tắc tị. Nghĩa là nẻo vào các nền tri thức khác bít kín. “Tắm ao ta” nghìn phần trăm, tù đọng.
Tiếng Nga nay còn lại trong ng­ười vui tính, có lẽ là những “Tình hình xây chác (bây giờ) có gì nố vư­i (mới)?”, hay “I a tôi cũng tố gie”.
                                      *
Vụt cái đã sang thời của tiếng Anh. Nói thế vì bao ng­ười “sôi Nga nấu Pháp”, thoắt cái thấy mình lạc hậu. Tài liệu, thông tin, môi trư­ờng làm ăn, giao tiếp..., đâu đâu cũng là “thằng” Ăng lê. Cách chuyển ngữ tạo ra những thắc mắc kiểu sao cái nhà cao lại gọi “tháp”, cái nhà thật to gọi “thành phố”… Thế kỉ XXI sập đến với những “com piu tơ”, “lép tóp”, mạng “gút gồ”, chả biết tiếng Anh thì “thôi rồi nghỉ cho khoẻ”. Những chuyên gia lành nghề phải nhả suất du học cho đứa trẻ ranh. Những bộ tr­ưởng về hư­u cố một học bổng Anh quốc. Những giáo viên tiếng Nga đang nuôi con nhỏ giằn lòng chuyển sang tiếng Anh. Không chỉ là chìa khoá mở vào tri thức, văn hoá, nó còn là phương tiện sinh nhai hay tiến thủ đến quyền lực.
Lại giống cách nay dăm bẩy chục năm, con đ­ường phổ biến tiếng Anh cũng có sắc thái hài hư­ớc. Học sinh, thanh niên, do nhu cầu học mà chơi, chơi mà học, “sáng tạo” ra những “giải pháp thông dịch” đánh đố nhau. Sugar you you go, sugar me me go tức là “đ­ường anh anh đi, đ­ường tôi tôi đi”. “Rùng rợn” hơn, I love toilet you go go là “tôi yêu cầu anh đi đi”. Nhả nhớt, nghịch ngợm, dư­ờng như­ là một phẩm chất không thể thiếu của sự tiếp biến văn hoá nghiêm túc.
                                      *
Trôi giữa các dòng chẩy không thể nói là hiền hoà, tiếng Việt ta đã tiếp nhận, biến đổi thật nhanh. Sinh ngữ như­ một cơ thể hồn nhiên, chịu ảnh h­ưởng của thời thế - cái liên tục thay đổi. Và càng là đô thị thì thay đổi càng chóng mặt. Có cái cảm giác ngư­ời Việt tiếp nhận những ảnh h­ưởng ngôn ngữ rất hồn nhiên, và bộc lộ luôn sự tự ty về văn hoá. Thứ tiếng cổ, thuần khiết chỉ còn nơi những bà còng tỉ mẩn gà qué ở quê, cụ mà lên tỉnh khéo lắm khi thành ra đi nư­ớc ngoài. Lắm nhà văn, lắm ông nghiên cứu ngôn ngữ thích đôi hồi với các cụ là vì sợ tuột mất những nôm na, ph­ương ngữ...
“Trôi” về đâu, nh­ư thế nào, thì rất bộn bề, và nó dành cho nhà nghiên cứu. Trên ph­ương diện một nhà báo, ngư­ời viết cứ “dựng” tạm lên mấy xu h­ướng sau:
- Bình dân hoá. Cách nói, viết không cần chuẩn, cốt hiểu đư­ợc. Từ mới phát sinh theo những “quy luật” thật vui: “vấn nạn”, “cảnh báo”, “hơi bị hay”... Do tiếng Việt dậy trong trư­ờng phổ thông, thậm chí tr­ường báo chí khá nham nhở, nhiều tòa soạn dùng bài sử dụng từ sai, câu không đủ thành phần. Quy tắc viết hoa, phiên âm dường như­ không có. Nhiều hàng ăn, có lẽ nghĩ đến câu “ăn cơm Tàu”, dựng biển có chữ “quán” sau cùng, thậm chí cả “Dân tộc quán” dù cách ghép từ này chả hề dân tộc. Văn viết là vậy, văn nói – chủ yếu trên truyền hình – lại càng lơ lớ. Lơ lớ như­ng lại là thời thư­ợng.
-Quốc tế hoá. Thời tiếng Tây, ng­ười đô thị học nói “phi dê”, “gác đờ bu”, “sếp”. Sang thời nay, câu bị động sử dùng nhiều: “Nàng bị quấy rối tình dục bởi giám đốc”, “hội ăn thịt chó dẫn đầu bởi kẻ vừa trúng mánh...”. Chả biết đến một lúc ng­ười ta có nói “mắm tôm dậy mùi bởi chanh” không? “Đến từ” là một cách nói sành điệu thì vừa rối rắm lại rất đáng ngờ về sự chính xác. “A. xếp sau B. trong danh sách phá lưới với 3 bàn ít hơn” thật lơ lớ nhưng rất được ưa dùng. Sắc thái, tiếng vang trong âm nước ngoài thấy rõ trong những “xâu  (show) diễn”, “đi toa lét”, “nâu (no) vấn đề”... Lối thoại cộc, ít từ phái sinh kiểu “à ư­ nhỉ nhé”, có lẽ ảnh  h­ưởng từ văn hoá bình dân Mỹ đ­ược dùng nhiều. Và một điều không thể không lan đến tiếng ta  là cách xư­ng hô dân chủ, ít tôn ty, chỉ dùng có vài đại từ nhân xư­ng của ng­ười Âu Mỹ. Có thể vì điều này mà những ngư­ời của công chúng, khi xuất hiện trước đám đông th­ường xư­ng tên, vừa giản tiện vừa không mất khiêm như­ờng. Cái cách xưng tên này cũng đư­ợc đã vài lão sáu mư­ơi sử dụng, đã sinh ra hiệu quả hài h­ước.
Cá thể hoá. Những tập ng­ười khác nhau về tuổi tác, văn hoá, tầm mức kinh tế... có cách “lập ngôn” khác nhau rõ ràng. Rõ nhất là trong câu thoại, diễn ra trong cộng đồng của họ. Văng tục đa phần bị cho là thiếu văn hoá,  nhưng nhiều ng­ười bảo không thể trộn nó với cách nói tục;  “nói” khác với “văng”, có chọn lựa, để thể hiện một nội dung không có cách thể hiện khác. Báo “Ngư­ời cao tuổi” không  “híc híc” như­ “Hoa học trò”, báo Đảng nghiêm trang, giọng giầu chính luận hơn báo đoàn thể. Cùng một báo, chuyên mục này luôn phải giữ tính định hư­ớng, giáo huấn, trong khi chuyên mục khác cứ phải bông phèng mới xong. Lứa 8X nói khác lứa 9X. Lại có loại “văn” chít chát, nhắn tin, tất nhiên lấy ngắn gọn làm đầu, tỉ như­ “j” là “gì”, “ko” là “không”, “k” là “nghìn (đồng)”. Có ng­ười đặt vấn đề về vai trò “văn mạng”, nhưng cho đến lúc này, những “tác phẩm” đ­a lên mạng mà đứng lại đư­ợc đều phải chỉn chu cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Còn đâu, do chả ai biên tập, chả phải chịu trách nhiệm nhiều lắm, đa phần mỏng manh tr­ước thử thách tr­ường tồn; nghĩa là giá trị chính của mạng vẫn là ở chỗ “ai đến ai đi cũng được”, nghĩa là còn lâu nó mới trèo được đến vị trí của “văn học giấy”.
                                                *
Tiếng Việt dễ tiếp nhận các ảnh h­ưởng, và ngư­ời Việt  cũng hồn nhiên giữa các tiếp biến. Vì thế, rất khó đoán các xu hư­ớng trên phát triển đến đâu. Như­ng chúng ở ngoài ta, ghét hay thích chúng cứ độc lập vận động. Sinh ngữ là vậy, luôn luôn mở, ngọ nguậy đón chào không nghỉ, cái vừa là mới đã có thể thay bằng cái khác. Có lẽ vì thế mà sách, tạp chí, nhất là báo (báo mạng thì “thôi rồi”) không ai  có thể chuẩn hoá đư­ợc việc viết hoa, để nguyên hay phiên âm tiếng n­ước ngoài... Không ổn định tức là không định hình, thì chuẩn hóa thế nào, dù ai ai cứ gào lên mãi.

Tuesday 19 November 2019

PGS.TS Hoàng Dũng: Không thể tùy tiện lên án người xưa như thế (Hoàng Dũng - Tuổi Trẻ)



TTO - PGS.TS Hoàng Dũng đã thể hiện quan điểm riêng của mình như thế, quanh bản kiến nghị loại bỏ tên hai giáo sĩ Francisco De Pina và Alexandre De Rhodes ra khỏi danh sách đặt tên đường, trường học ở Đà Nẵng.



PGS.TS Hoàng Dũng: Không thể tùy tiện lên án người xưa như thế - Ảnh 1.
Đường Alexandre De Rhodes tại quận Thủ Đức, TP.HCM - Ảnh: NGỌC PHƯỢNG
PGS.TS Hoàng Dũng có bài viết gửi cho Tuổi Trẻ.
Công lao đã được khẳng định
Bản kiến nghị mà 11 người gửi có nêu ba lý do: Alexandre De Rhodes không phải là người chế tác chữ quốc ngữ; Alexandre De Rhodes công kích Nho, Lão, Phật và Alexandre De Rhodes "âm mưu dẫn quân viễn chinh Pháp tới xâm lược nước ta". Tôi sẽ lần lượt bàn về cả ba lý do đó.
Với lý do thứ nhất, ngày nay giới nghiên cứu dễ dàng đồng ý với nhau rằng chữ quốc ngữ không phải là sản phẩm của Alexandre De Rhodes và Từ điển Việt Bồ La của ông đã thừa hưởng công lao của những giáo sĩ đi trước. Nhưng không có nhà nghiên cứu hiểu biết nào lại sổ toẹt công lao của Alexandre De Rhodes đối với chữ quốc ngữ. Từ điển Việt Bồ La đã ghi một cái mốc quan trọng trong lịch sử chữ quốc ngữ, nhất là trong điều kiện hai cuốn từ điển Việt Bồ của Gaspar De Amaral và Bồ Việt của Antonio Barbosa đã thất truyền. Đó là sự thực mà chỉ những ai cố tình nhắm mắt trước lịch sử mới có thể phủ nhận.
Còn về lý do thứ hai mà các vị trên viện dẫn, tôi đồng ý rằng quả nhiên Alexandre De Rhodes có chê bai nặng lời các tôn giáo khác. Nhưng đó là hạn chế khó tránh không phải chỉ riêng Alexandre De Rhodes. Cần nhớ ông sống cách đây 400 năm và đừng đứng trên quan điểm của thế kỷ 21 để gò người xưa vào khuôn khổ tư tưởng ngày nay. Có lẽ nào chúng ta không cần biết ơn một người do họ có hạn chế về tư tưởng?
Dịch sai, hiểu sai!
Về lý do thứ ba, các tác giả bản kiến nghị dẫn một đoạn viết của Alexandre De Rhodes trong cuốn Divers voyages et missions (Các cuộc hành trình và truyền giáo), xuất bản tại Paris năm 1653 với lời dịch của giáo sư Hoàng Tuệ: "Tôi nghĩ nước Pháp, vương quốc mộ đạo nhất, có thể cấp cho tôi binh lính để chinh phục toàn phương Đông, đặt nó dưới quyền Jésus Christ", từ đó khẳng định: "Alexandre De Rhodes là người có ý định xin vua Louis XIV của Pháp cung cấp binh lính để chinh phục phương Đông" là sai.
Với câu trích đề cập trên, nhà nghiên cứu Nguyễn Ðình Ðầu từng dịch: "Tôi tin rằng nước Pháp là nước ngoan đạo nhất thế giới, sẽ cung cấp cho tôi nhiều chiến sĩ để chinh phục toàn phương Ðông và đặt dưới quyền trị vì của Ðức Giêsu Kitô, và đặc biệt tại Pháp, tôi sẽ tìm cách có được giám mục, các ngài sẽ là cha và là thầy chúng tôi tại các giáo hội này" (tức là Ðàng Ngoài và Ðàng Trong). Ông Nguyễn Ðình Ðầu nói thêm: "Nếu đọc nguyên đoạn trích trên đây, ta mới hiểu chữ chiến sĩ có nghĩa bóng là thừa sai (đối với giám mục là cha và thầy họ). Còn "chinh phục toàn phương Ðông" là để cho "nước Cha trị đến", chứ không phải để cho Pháp đến thống trị. "Chinh phục" hiểu theo nghĩa tôn giáo, chứ không phải chính trị.
Còn theo Hồng Nhuệ (trong cuốn Hành trình và truyền giáo do Ủy ban Ðoàn kết Công giáo TP.HCM xuất bản năm 1994, ở trang 263, 289) thì đoạn trích phải được dịch: "Tôi tưởng nước Pháp là một nước đạo đức nhất thế giới, nước Pháp có thể cung cấp cho tôi mấy chiến sĩ đi chinh phục toàn cõi Ðông phương đưa về quy phục Chúa Kitô và nhất là tôi sẽ tìm được các giám mục, cha chúng tôi và thầy chúng tôi trong các giáo đoàn". Và Hồng Nhuệ chú thích từ chiến sĩ ở đây: "Nói chiến sĩ Phúc Âm tức là các nhà truyền giáo, chứ không phải binh sĩ đi chiếm xứ xâm lăng".
Do đó, tôi cho rằng 11 người ký tên không thể tùy tiện dựa vào cách hiểu của mình lên án người xưa như thế.
Tóm lại, tất nhiên các vị giáo sĩ chế tác ra chữ quốc ngữ chỉ để truyền giáo, nhưng lẽ nào người Việt được hưởng ích lợi của chữ quốc ngữ lại tỏ ra vô ơn sao?

PGS.TS HOÀNG DŨNG (ĐH Sư phạm TP.HCM)

Sunday 17 November 2019

Chữ "Plusieurs Soldats" Thời A.D. Rhodes (Lý Đương Nhiên - Sách Hiếm)

Chữ "Plusieurs Soldats" Thời A.D. Rhodes
Lý Đương Nhiên
14 tháng 3, 2009
LTS: Nhiều nhà nghiên cứu các sản phẩm văn hóa của những nhà truyền giáo đã đi đến kết luận là những sản phẩm này có những đặc tính như sau: - ngôn ngữ mơ hồ, - giải thích nhập nhằng, - đánh tráo sự kiện, - thiếu chứng cớ, - thiếu minh bạch, - và sau cùng là trơ trẽn. Nói chung, "gian và dối" là những đặc tính họ cần phải tập luyện hàng ngày để chống đỡ khi chạm mặt đối đầu với những sự kiện, luồn lách để né tránh các vấn đề của lịch sử. Một chữ "plusieurs soldats" thôi cũng đã được các "ngài" dùng hết mọi mánh khóe kể trên để có thể "bảo vệ" cho tên gián điệp A.D. Rhodes đứng lên vị trí "cai trị" dân thuộc địa trong môi trường "văn hóa". Bài viết sau đây nhắc lại và cô đọng những minh chứng cụ thể mà nhiều nhà nghiên cứu trước đây cũng đã lên án rải rác đó đây trong nhiều bài viết. Một chi tiết nhỏ đã trở nên rất quan trọng, xin những vị đang nắm giữ các chức vụ quan trọng bảo vệ tổ quốc và dân tộc quan tâm chú ý trong việc nhận định ai là Giặc và ai là Cha. (sachhiem.net)


Khoa Học Xã Hội,
38 Hàng Chuối, Hà Nội
Hà Nội, Việt Nam

Kính gửi Viện Sử Học

Trong bài viết “Từ một câu chữ của Alexandre de Rhodes đến các dẫn dụng khác nhau” của Giáo sư Chương Thâu đăng trong tạp chí Công giáo và Dân tộc (http://htx.dongtak.net/ spip.php?article194) số ngày 15-3-1996 có đoạn như sau:
... Trong cuốn sách Divers voyages et missions (Các cuộc hành trình và truyền giáo) của linh mục Alexandre de Rhodes do Cramoisy xuất bản tại Paris năm 1653 ở đoạn cuối chương 19 của phần thứ 3, có một câu nguyên văn: “J’ai cru que la France, étant le plus pieux royaume de monde, me fournirait plusieurs soldats qui aillent à la conquête de tout L’orient, pour l’assujetter à Jésus Christ, et particulièrement que j’y trouverais moyen d’avoir des Évêques, qui fussent nos pères et nos maitres en ces Églises. Je suis sorti de Rome à ce dessein Le 11e Septembre de l’année 1652 après avois baisé les pieds du Pape.” ....
Và câu này được Hồng Nhuệ dịch ra Việt ngữ trong cuốn "Hành trình và truyền giáo" do Ủy ban đoàn kết Công giáo thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 1994, ở trang 263 như sau: “Tôi tưởng nước Pháp là một nước đạo đức nhất thế giới, nước Pháp có thể cung cấp cho tôi mấy chiến sĩ đi chinh phục toàn cõi Đông Dương đưa về quy phục chúa Kitô và nhất là tôi sẽ tìm được các giám mục, cha chúng tôi và Thày chúng tôi trong các giáo đoàn. Với ý đó, tôi rời bỏ Roma ngày 11 tháng 9 năm 1652 sau khi tôi hôn chân Đức Giáo hoàng.” (Người dịch chú thích từ chiến sĩ ở đây: nói chiến sĩ Phúc Âm tức là nhà truyền giáo, chứ không phải binh sĩ đi chiếm xứ xăm lăng – trang 289)
Chú ý : plusieurs soldats (chứ không phải là quelques soldats) là "nhiều chiến sĩ", Hồng Nhuệ lại dịch là "mấy chiến sĩ".
Trong bài tham luận đọc tại Hội nghị Quốc tế về Nghiên cứu Lịch sử và Văn hoá Việt Nam ngày 3, 4, và 5 tháng 12 năm 1992, ông Nguyễn Đình Đầu đã dịch plusieurs soldats trong câu văn của Alexandre de Rhodes và cho rằng chữ chiến sĩ có nghĩa bóng là thừa sai.
Đến ngày tưởng niệm 400 năm ngày sinh của A. de Rhodes, Giáo sư sử học Đinh Xuân Lâm đã dịch thẳng câu chữ plusieurs soldats là “chiến sĩ truyền giáo” không phải e dè gì nữa vì ý kiến của ông là ý kiến quyết định. A. de Rhodes là tên gián điệp đội lốt tôn giáo đã trở thành danh nhân Việt Nam được đặt bia ở Thư viện Quốc gia Hà Nội và tên đường ở Sài Gòn.
Thời Alexandre de Rhodes đến năm 1898 là năm ông ông Pétrus Ký qua đời, chữ Soldat chỉ có nghĩa là binh lính chưa có thêm nghĩa là chiến sĩ - combattant.
Theo Tự Điển Từ Nguyên (Dictionaire Étymologique) về từ Soldat: mượn từ tiếng Ý, Soldato (từ Soldare, Solde); được biến đổi từ chữ Soudart từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 17 thành Soldat, có nghĩa là người đi bắn thuê, giết thuê - Tiré de Soudoyer "Dictionaire Étymologique, par Albert Dauzat (à l'école pratique des hautes Études) librarie Larousse - Paris 6, 1938, các trang 671, 672."
Sống trong cùng một nền văn hóa Kitô, có hai tác giả Tây phương đã dịch đoạn văn trên sang Anh ngữ:
1. Solange Hertz dịch: “…I thought that France, as the most pious kingdom of the world, could furnish me many soldiers for the conquest of all the Orient in order to subject it to Jesus Christ and especially that I could find there some way of getting bishops for our Fathers and masters in those Churches. I left to Rome for this purpose on the eleventh of September of the year 1652, after kissing the Pope’s feet…”  (Divers Voyages & ..., Solange Herts, Newman Press, Westminter, Maryland 1966, trang 237)
(Tôi nghĩ rằng nước Pháp, một vương quốc ngoan đạo nhất thế giới, có thể cung cấp cho tôi nhiều binh lính hơn để chinh phục toàn thể Đông Phương để dâng lên cho Chúa và đặc biệt là tôi có thể tìm ra phương cách đưa ra các giám mục, là bậc cha bậc thầy của chúng ta vào trong những nhà thờ. Tôi rời La Mã với mục đích đó vào ngày 11 tháng 9 năm 1652, sau khi hôn chân Giáo Hoàng.)
2. Helen B. Lamb: “Alexandre de Rhodes held to his dream that France should play the key role in colonizing Vietnam: “I believe that France, as the most pious of all kingdoms, would furnish me with soldiers who would undertake the conquest of the whole Orient, and that I would find the means for obtaining bishops and priests who were Frenchmen to man the new churches. I went to Rome with this plan in mind on September 11, 1652. ” (Vietnam’s Will to Live, Helen B. Lamb, N.Y. 1972, trang 38, 39. )
(Đắc Lộ ôm mộng nước Pháp sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc chiếm Việt Nam làm thuộc địa: "Tôi tin rằng vì nước Pháp ngoan đạo nhất trong tất cả các vương quốc nên sẽ cung cấp cho tôi nhiều binh lính để đi chinh phục toàn thể Đông Pương và tôi sẽ tìm ra phương cách để thu dụng nhiều giám mục và linh mục người Pháp cai quản các nhà thờ mới này. Tôi rời La Mã ngày 11 tháng 9 năm 1652 với ý định đó.")
Cả hai tác giả này dịch Soldats sang Anh ngữ là Soldiers không có dịch sang là chiến sĩ truyền giáo (the missionary soldier) như các ông Hồng Nhuệ, Đinh Xuân Lâm ...
Trong bài viết “Ai làm ra chữ quốc ngữ?” đăng trong báo Tuổi Trẻ ngày 31-1-1993, Giáo sư Hoàng Tuệ đã dịch (đúng nguyên nghĩa mà từ ngữ này xuất hiện và tồn tại,  với trọn vẹn ngữ cảnh đơn giản được xử dụng thời đó) plusieurs soldats là binh lính như sau: “Tôi nghĩ nước Pháp, vương quốc mộ đạo nhất, có thể cấp cho tôi binh lính để chinh phục toàn phương Đông, đặt nó dưới quyền Jésus Christ”.
Thế nhưng, Giáo sư Nguyễn Khắc Xuyên đã viết bài “Gửi GS Hoàng Tuệ bàn về chữ Quốc ngữ trên tờ Tuổi Trẻ” đăng trên báo Ngày Nay số 277 ngày 1-7-1993 ở Houston, Texas, trong đó ông GS Xuyên đã mạt sát GS Tuệ là "ngu xuẩn", "ngu dốt", "thật là dốt lại thích nói chữ"... GS Xuyên đem cái nhược điểm (dùng tự điển của thời nay để dịch chữ ngày xưa) của chính ông mà chê trách cái ưu điểm của GS Tuệ và chất vấn như sau: “Từ điển Pháp Việt của Trương Vĩnh Ký dịch soldat là ‘lính, binh lính, lính tráng’. Từ điển Pháp Việt của Đào Duy Anh dịch soldat là ‘lính, bộ đội, chiến sĩ ...”Như vậy GS Tuệ lùi lại hơn nửa thế kỷ khi chỉ dịch theo Trương Vĩnh Ký mà không theo từ điển mới nhất 1981. GS chủ ý chụp mũ cho Đắc Lộ về Âu châu mộ lính”.
Theo thời gian, có chữ thêm nghĩa hoặc thay đổi nghĩa, ví dụ như chữ Jésuite thời linh mục A. de Rhodes có một nghĩa là giáo sĩ Dòng Tên. Sau này giở từ điển ra tìm chữ Jésuite thấy có thêm nghĩa là “người giả nhân nghĩa, đạo đức giả, xảo trá, tráo trở”. Nước ta trước đây có đạo Gia tô sau đổi là đạo Thiên chúa, đạo Kitô, rồi sau cùng là Công giáo. Khi Gs Ngô Đức Thọ dịch quyển sách Hán văn ở thế kỷ 18 là quyển Tây dương Gia tô bí lục thì ông không dịch là Tây dương Công giáo bí lục được.
Cuối thế kỷ 19, tức vào thời ông Trương Vĩnh Ký, chữ soldat chưa có thêm nghĩa là chiến sĩ. Như vậy thời của A. de Rhodes chữ soldat chỉ có nghĩa là “lính, binh lính, lính tráng” mà thôi. Cho nên khi dịch chữ soldats do linh mục A. de Rhodes viết ra chỉ có nghĩa là binh lính, lính tráng mà thôi. Đọc cả đoạn văn bằng Pháp văn ở trên chẳng có chỗ nào là nghĩa bóng cả.
GS Hoàng Tuệ dịch là “Tôi nghĩ nước Pháp, vương quốc mộ đạo nhất, có thể cấp cho tôi binh lính để chinh phục toàn phương Đông, đặt nó dưới quyền Jésus Christ” là dịch đúng vào thời điểm A. de Rhodes viết ra chữ soldats. Tôi đã lớn tuổi, có đọc sách hiểu rằng chữ “chiến sĩ” đứng một mình có nghĩa chỉ về quân đội. Chữ “chiến sĩ” muốn có thêm nghĩa bóng hoặc văn vẻ thì phải thêm chữ bổ nghĩa vào đằng sau, như: chiến sĩ văn hoá (le soldat de la civilization), chiến sĩ tự do (le soldat de la liberté), ... Thời của A. de Rhodes muốn chỉ các nhà truyền giáo thì có chữ missionnaire, mà A. de Rhodes muốn xin các nhà truyền giáo thì ông đương nhiên hiểu thẩm quyền nào có quyền cấp cho ông, như:
1. Toà thánh Vatican,
2. Ngày 4-5-1493, Giáo hoàng Alexandre 6 chia đôi thế giới, một nửa cho Bồ Đào Nha, một nửa cho Tây Ban Nha được phép đi chinh phục thế giới và truyền đạo. Linh mục A. de Rhodes đi sang Á châu qua ngả Bồ Đào Nha. Khi A. de Rhodes về Pháp sang Vatican vận động với Giáo hoàng cho Giáo hội Pháp được thành lập Giáo đoàn Pháp quốc Hải ngoại, Giáo hội Bồ Đào Nha phản đối và không cho A. de Rhodes sang Á châu. Giáo hoàng phải cử ông sang Ba Tư, sau đó phong ông lên làm Giám mục. Sau khi ông chết, Toà thánh mới cho phép Giáo hội Pháp thành lập Giáo đoàn Pháp quốc Hải ngoại vào năm 1661.
Như vậy, A. de Rhodes muốn xin các giáo sĩ thì chỉ được phép xin với Vatican hay Giáo hội Bồ Đào Nha mà thôi. Thời đó cả Á châu chưa có súng, chỉ một ít quân có súng đã chiếm được Macao để lập căn cứ truyền đạo. A. de Rhodes sang Việt Nam phải trốn, lẩn và bị trục xuất. Ông đã vẽ bản đồ Việt Nam và viết báo cáo về việc truyền giáo của ông ở Việt Nam . Vì chưa có đường hàng không mà chỉ có đường biển, nên các nhà truyền giáo hiểu rằng muốn xâm nhập vào Đông Nam Á thì Việt Nam là cửa ngõ cần phải chiếm để lập căn cứ. Nước Bồ quá nhỏ, ít quân, không đủ khả năng nên A. de Rhodes đã xin với chính phủ Pháp soldatss là xin quân lính sang chiếm nước ta.
Chứng minh tham vọng của các nhà truyền giáo như sau:
1. Không phải chỉ người Việt Nam mà cả người Pháp cũng ngạc nhiên và lo sợ lối hành binh của Tây Sơn. Ngày 11-8-1788, trong một lá thư gửi cho ông Letoudal, giáo sĩ (Giám mục) La Bertete có viết: "Tôi không rõ cuộc viễn chinh của người Pháp khi nào sẽ xảy ra, nhưng tôi sợ rằng quân Pháp của chúng ta vì khinh thường bọn này (Tây Sơn) và không am hiểu tường tận về cách hành binh của họ và sẽ không đủ sức mạnh thì có thể trở thành nạn nhân bi thảm” (tài liệu Hội Truyền giáo Hải ngoại ở Paris. Cochinchin, tập 102 trang 176). ( Đỗ Bảng – Những Khám phá về Hoàng Đế Quang Trung, tr 209) – Vua Quang Trung đang khỏe mạnh lăng đùng ra chết, có dư luận cho rằng vua Quang Trung có thể đã bị nhà truyên giáo tây phương thuê người đầu độc là có cơ sở lắm?
2. Giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) dẫn Hoàng tử Cảnh sang Pháp xin với vua Louis 16 (1754-1789) đem quân sang giúp Nguyễn Ánh.
Pigneau_de_Behaine
3. Năm 1857, Giám mục Pellerin, Hồng y Bonnechose, Linh mục Legrand de Liraye, Linh mục Huc vận động Pháp hoàng Napoléon đệ Tam qua ngả Hoàng hậu Eugenie Marie Montijo, được Pháp hoàng chấp thuận. Năm 1858, Đô đốc Rigault de Genouilly  đem quân qua đánh chiếm nước ta.
Như vậy, A. de Rhodes xin các nhà truyền giáo với Giáo hội Pháp không được và xin với chính phủ Pháp cũng không được luôn vì không phải thẩm quyền của họ. A. de Rhodes xin chính quyền Pháp soldats là xin binh lính. Giáo sĩ đi trước binh lính theo sau, đó là sách lược của các nước Âu châu đi chiếm thuộc địa vào các thế kỷ trước đây. Thời của linh mục A. de Rhodes, chữ soldat chưa có thêm nghĩa “chiến sĩ” mà dịch plusieurs soldats là “chiến sĩ truyền giáo” chỉ là ngụy biện. Mà ngụy biện thường đi với ngoan cố rất là khắng khít.
Giai thoại sau đây được kể ra để chứng minh ông De Rhodes đã tâu với Pháp hoàng xin "nhiều binh lính" chứ không thể xin "vài nhà truyền giáo". Ở Việt Nam vào thập niên 1950, tòa thánh Vatican bổ nhiệm Giám mục Nguyễn văn Hiền về cai quản giáo phận Saigon. Chính quyền Việt Nam của Tổng Thống Diệm không hài lòng vì muốn Tổng Giám mục Ngô Đình Thục về đó. Tòa thánh Vatican đã sửa lại, chuyển giám mục Hiền về coi giáo phận Đà Lạt và cử Tổng Giám mục Nguyễn văn Bình về coi giáo phận Sài gòn. Thật là tréo ngoe! Sau đó độ hai năm tòa thánh Vatican lại bổ nhiệm Tổng giám mục Ngô Đình Thục về giáo phận Huế.
Như vậy Tổng thống Diệm không có quyền bổ nhậm các giáo sĩ. Đó là chuyện thế kỷ 20, lúc mà Giáo Hội La Mã đã bị suy thoái sau Cách Mạng Pháp vào thế kỷ 18. Ai cũng biết thế lực của Giáo Hội La Mã vào thế kỷ 16 thật là ghê gớm. Ngay từ năm 1075 (tức thế kỷ thứ 11) Giáo hoàng Gregory 7 đã ban hành Tuyên Cáo "Dictatus Papae" gồm 27 điều trong đó có điều số 3 "Chỉ có Giáo Hoàng mới có quyền bổ nhậm hay bãi chức các Giám Mục (1). Các Vua Âu Châu đều phải được Giáo Hoàng "xức dầu" mới được làm Vua. Thế thì Pháp hoàng lúc đó làm sao có quyền bổ nhậm các giáo sĩ? Vậy Alexandre de Rhodes xin với nhà vua Pháp "plusieurs soldats" là xin nhiều binh lính chứ làm gì có chuyện xin các giáo sĩ? Thế mà các ông Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Đình Đầu, Chương Thâu nhập nhằng đòi cưỡng dịch "plusieurs soldats" là "chiến sĩ truyền giáo" thì thật là hết sức bố láo!
Còn về chữ Quốc ngữ, các nhà truyền giáo thuộc Dòng Tên người Bồ sang Việt Nam có nhu cầu truyền đạo nên họ phải phiên âm học tiếng Việt để giảng đạo, đó là do nhu cầu của họ. Họ sáng chế ra chữ Quốc ngữ mục đích không phải cho dân tộc Việt Nam. Ông Charlie Nguyễn (một nhà trí thức khoa bảng đạo dòng nhiều đời từ thế kỷ 16) đã viết: “Tên cướp xông vào nhà mình bị chủ nhà phản công phải bỏ chạy để quên con dao. Chủ nhà nhặt lên thấy dao sắc thì dùng để thái thịt, đâu có chạy theo tên cướp để cám ơn.
”(http://sachhiem.net/CHARLIE/CN_TTDTG/Alexandre.php)
Người Nhật, người Tàu, người Đại Hàn họ vẫn dùng chữ của họ mà nước Nhật là cường quốc kinh tế đứng hàng thứ hai thế giới, nước Tàu đứng thứ tư thế giới, và Đại Hàn cũng đang trở thành cường quốc về kinh tế. Cách đây gần năm, tờ Newsweek có bài viết cho biết trước đây sinh viên Mỹ học thêm ngoại ngữ như Nga, Tây Ban Nha, Đức và Pháp ngữ. Nhưng nay sinh viên Mỹ một số đã chuyển sang học chữ Tàu. Nếu Việt Nam vẫn sử dụng chữ Hán như ông cha trước đây biết đâu lại có lợi cho ngày hôm nay?
Thị trường chữ quốc ngữ hạn hẹp, chỉ có 84 triệu người so với thị trường chữ Hán hơn tỷ người. Mới đây, linh mục Trần văn Kiệm tác giả tự điển Hán Nôm có lên đài truyền hình ở California khuyên đồng bào Việt Nam nên học chữ Hán vì đó là chữ quốc tế, và cụ cho biết rất dễ học không khó đâu. Bao nhiêu tài liệu về chữ Hán ở Tòa Thánh chưa có người nào khai thác, cụ cho biết như vậy.
Để kết luận ngắn gọn, vũ khí hay chiến lợi phẩm tịch thu của địch để làm vũ khí của ta là nguyên lý sơ đẳng trong bất cứ cuộc chiến nào trong lịch sử nhân loại. Đây là qui luật chiến tranh. Chẳng thể nào người Việt nước ta không biết qui luật này hay sao, lại lầm lẫn đi nhận giặc làm cha?
Lý Đương Nhiên

Chú thích:
(1) tài liệu trong "The Human Record - Sources of Global Story" Vol I, Andrea-Overfield, University of Vermont, tr. 225-226, có đăng trong báo Giao Điểm số 28 tháng 12 năm 1997, tr. 37-38

Cùng tác giả:

  • Nguyễn Trường Tộ Là Danh Nhân Việt Nam ?
  • Chữ "Plusieurs Soldats" Thời A.D. Rhodes


  • Và những bài đọc thêm:
    - Chương 13 "Đạo Lý Được Thể Hiện Trong Văn Phẩm Qua Ngôn Từ và Văn Phong", quyển Hai "Thực Chất Của Giáo Hội La Mã" của Nguyễn Mạnh Quang xuất bản năm 1999.

    Saturday 16 November 2019

    Sơ cua hay xơ cua?


    Sơ cua / xơ cua do secours tiếng Pháp, nghĩa là dự phòng.
    Trên sách báo xưa nay xơ cua có vẻ bị lép vế.
    * Xe hơi, của tên sốp phơ Nguyễn-văn-Non chủ xe hảng Hôi-Thuận số nhà 178 đường Colonel Boudonnet, đương đễ nơi hảng, không biết tên nào dám thò tay mặt đặt tay trái vào khiên cái bánh sơ-cua hai thùng essence và một cái ma-nhê-tô rồi tẩu mất. Trung Lập Báo số 129 (1924:4)
    * Tụt mất bánh « sơ cua ». Phong Hóa Tuần Báo số 132 (1935:8, P. Q. Định)
    * Nào điện còn mới nguyên, ma-nhê-tô mới thay, nào máy chưa hề phải « đề-mông-tê » một lần, nào đỡ tốn dầu, đỡ tốn xăng nhíp êm, « nơ » mới lại kèm một bánh sơ-cua. Phong Hóa Tuần Báo số 160 (1935:6, Khái Hưng)
    * Ngoài ra, những thủ đoạn buôn lậu khác của dân « bờ lờ » ở Việt Nam còn ghê gớm hơn nhiều nữa, như : thuốc phiện nhét đầy trong bánh « sơ cua » giấu dưới đáy thuyền lủng lẳng giữa giòng sông, vàng nhét trong dàn khung xe hàn xì lại, dưới đế giầy dép, v.v... mà vẫn bị khám phá ra một cách tài tình trong những pha đấu trí. Bạn Dân số 40 (1963:51, Phạm Công Thành)


    * Frère Bernard ghi tên vào danh sách đội tuyển rồi, nhưng tao ở toán “xơ cua” phòng hờ. Hoàng Ngọc Tuấn (2006:287)

    Nhưng một số từ điển đồng thời chấp nhận cả hai dạng (Nguyễn Quảng Tuân (1992), Nguyễn Như Ý (1999)).
    Nguyễn Hữu Trọng (1971:307) chỉ chấp nhận sơ cua. Alikanôp (1977a:288), Nghiêm Thế Gi (1994:221), Nguyễn Kim Thản (2005:1861) chỉ có xơ cua.
    Nên nói dự phòng cho nó lành, đỡ phải cân nhắc sờ nặng hay sờ nhẹ.