Friday, 9 March 2012

Vì sao các hoàng đế Nga được gọi là Sa Hoàng?


Sa Hoàng là âm Hán Việt của 沙皇 (shāhuáng).
Hoàng nghĩa là vua. Hoàng đế là danh hiệu dùng cho ông vua của một đế quốc thời xưa như đế quốc La Mã, Trung Quốc, đế quốc Nga...
Sa Hán Việt, trong tiếng Hán hiện đại là shā, phiên âm của tsar (cũng viết tzar / czar) tiếng Anh mà từ này lại là phiên âm của царь trong tiếng Nga (nghĩa là hoàng đế).
Sa Hoàng là từ [mượn của tiếng Trung Quốc qua âm] Hán Việt. Như vậy viết Xa Hoàng là sai chính tả.
Những người chủ trương phân biệt phát âm x/s cho rằng Xa [Hoàng] gần với phát âm quốc tế tức là âm trong các tiếng châu Âu (gồm cả tiếng Nga). Ngoài ra, tiếng Việt không phải là tiếng Trung Quốc nên việc kết hợp giữa một yếu tố phi Hán Việt (xa) với một yếu tố Hán Việt (hoàng) là hoàn toàn chấp nhận được (như các tổ hợp ngói hóa, mặn hóa, môi hóa, lành mạnh hóa...). Lý giải như vậy là do không biết hoặc đã quên rằng Sa Hoàng vốn là hàng nhập khẩu trực tiếp từ Trung Quốc chứ không phải sản phẩm nội địa.

Tuesday, 6 March 2012

“Tàu” và “thâm như Tàu” (Năng Lượng Mới số 28 ,16 - 6 - 2011).

Bạn đọc : Thưa ông An Chi! Tại sao người Việt Nam ngày xưa hay gọi người Trung Quốc là người Tàu? Và tại sao lại nói thâm như Tàu? (Trần Hà Trang).
An Chi : Cách đây 18 năm, trên Kiến Thức Ngày Nay số 103 (ngày 01-3-1993), chúng tôi đã viết như sau :
“Đã có nhiều người liên hệ tên gọi này với từ tàu trong tàu bè. Xin chép Huình-Tịnh Paulus Của làm dẫn chứng: “Người An nam thấy tàu khách qua lại nhiều, lấy đó mà gọi là nước Tàu, người Tàu” (Đại Nam quấc âm tự vị, t.II, Saigon, 1896, tr.346).
Có nhiều tìm tòi hơn là ý kiến của Vương Duy Trinh cho rằng Tàu là biến thể ngữ âm của Tào, là tiếng mà từ đời Tam quốc, người Việt đã dùng để gọi nước Ngụy của Tào Tháo (Xin x. Thanh-hóa quan phong, Nguyễn Duy Tiếu phiên diễn, Sài Gòn, 1973, tr.97). Nhưng nước ta, lúc bấy giờ là quận Giao Chỉ và một phần quận Cửu Chân – chúng tôi cho là chỉ một phần thôi – lại thuộc về Đông Ngô chứ không thuộc về Bắc Ngụy (Chính vì thế mà bấy giờ người Việt đã gọi người Trung Hoa là người Ngô như vẫn còn thấy trong mấy tiếng “thằng Ngô con đĩ”) cho nên cách giải thích của Vương Duy Trinh xem ra vẫn chưa thỏa đáng. Vả lại, tại sao người ta không gọi thẳng bằng tên nước là Ngụy mà phải dùng họ Tào để gọi?
Hồi 1993, chúng tôi đã viết như thế. Sau đó nhiều năm, có độc giả đã lần giở trang sách cũ, thấy An Chi nói vô lý, bèn gửi thư đến tòa soạn giảng giải rằng lai lịch của cái tên “Tàu” là ở những cuộc vượt biển sang Đại Việt để tránh sự cai trị của bọn Mãn Thanh. Họ sang bằng thuyền (= tàu); do đó có tên là “Tàu”. Mà lại đi trên ba chiếc, nên còn được gọi là “Ba Tàu”. Vị độc giả kia đã quên (hay không hề biết?) rằng việc Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên đưa người sang xin làm thần dân nước Đại Việt là chuyện năm Kỷ Mùi 1679 mà “đồng bào” của họ thì đã được ta gọi là “Tàu” tự bao giờ. Bằng chứng trên giấy trắng mực đen là cái thứ mực mãi về sau mới được Vũ Đình Liên nhắc đến trong khổ thơ đầu bài “Ông đồ” :
Mi năm hoa đào n 
Li thy ông đ già
Bày mc tàu giy đ 
Bên ph đông người qua,
cái thứ mực đó đã được ghi nhận trong Từ điển Việt - Bồ - La của Alexandre de Rhodes, xuất bản ở Roma từ năm 1651 (Xin x. mục “tàu, mực tàu”), trước khi họ Trần và họ Dương dẫn đầu đoàn tị nạn của họ sang Đại Việt đến gần 30 năm. Còn chính những người vượt biển kia thì đã được dân sở tại, nghĩa là người Việt Nam, gọi là người Minh Hương, nghĩa là người mà quê hương gốc là nước Minh. Đây mới thật là danh xưng chính thức và chính xác mà người Việt đã dành cho đoàn di dân của hai nhân vật Dương, Trần.
Còn lần này thì chúng tôi xin phản biện thêm như sau. Bất cứ nhà Hán ngữ học nào biết rõ tiếng Việt cũng thừa nhận rằng ngôn ngữ này còn lưu giữ trong lòng nó nhiều yếu tố của tiếng Hán thượng cổ. Với chúng tôi thì “tàu” là một trong những yếu tố đó, và, trong tiếng Hán cũng như tiếng Việt, thì nó còn có nghĩa là “xe”. Tàu (trong tàu bè) là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 艚, mà âm Hán Việt hiện đại là tào, có nghĩa là “thuyền”. Chữ tào 艚 này cũng thông với chữ tào 漕, mà theo biện luận của Lưu Quân Kiệt 刘鈞杰 trong Đồng nguyên tự điển tái bổ (Ngữ văn xuất bản xã, Bắc Kinh, 1999) thì đều còn có nghĩa là “xe” (Xin x. mục “dzu 漕 : dzu 艚”, tr.55). Cái nghĩa “xe” của tàuvẫn còn trong tiếng Việt. Cứ so sánh tiếng Bắc tiếng Nam thì thấy ngay. Cái mà trong Nam gọi là tàuthì ngoài Bắc gọi là thuyền. Ngoài Bắc gọi là tàu hỏa thì trong Nam gọi là xe lửa. Thế là cái nghĩa “xe” đã thấp thoáng trong danh ngữ tàu hỏa. Rồi ngược lên đầu thế kỷ XX, cả trong Nam ngoài Bắc đều gọi là tàu bay cái mà bây giờ cả nước đều gọi là máy bay. Thế là cái nghĩa “xe”, mở rộng là “phương tiện chuyên chở”, đã nằm ngay trong danh ngữ tàu bay. Cho nên trong thành ngữ tàu bay tàu bò thì cả hai thứ tàu này chẳng qua đều cùng là “xe”! Vậy thì có lẽ ta sẽ biện luận rằng vì ngày xưa họ sang ta bằng xe nên tổ tiên ta đã gọi họ là “Tàu” chăng? Nên nhớ rằng họ đã sang ta từ xưa và sang thành nhiều đợt, lẻ tẻ có, thành đoàn có và đây là cả một câu chuyện dài.
Thực ra, phần  lớn tình tiết ly kỳ, hấp dẫn đưa ra làm lời giảng cho lai lịch của từ ngữ lại thuộc về từ nguyên dân gian (folk etymology), chứ từ nguyên học đích thực  , nghĩa là khoa học thì nhiều khi lại khô khan hơn. Chúng tôi hoàn toàn tán thành Vương Duy Trinh ở chỗ là, theo tâm thức của ông thì “Tàu” là một từ rất xưa, cụ thể là đã ra đời tự thời Tam Quốc. Và chúng tôi vẫn bảo lưu ý kiến sau đây của mình trên Kiến Thức Ngày Nay trước đây:
“ Chúng tôi cho rằng Tàu là âm cổ Hán Việt của từ ghi bằng 曹 mà âm Hán Việt hiện đại là tào, có nghĩa rộng là “quan”. Trong thời kỳ Bắc thuộc, nói chung quan cai trị là người Trung Hoa cho nên dân chúng đã quan niệm rằng người Trung Hoa là “tàu”, nghĩa là quan. Nếu cho rằng đây là một nếp nghĩ vô lý thì xin nhớ lại chuyện đã xảy ra hồi tháng 8, tháng 9 năm 1945 tại Sài Gòn: dân Việt Nam đã đánh bất cứ người Pháp nào mà họ gặp ngoài đường vì hễ là người Pháp thì đều là “thực dân”. Do quan niệm trên mà về sau tất cả mọi người Trung Hoa dù không làm quan – đây là tuyệt đại đa số – cũng được “vinh dự” gọi là Tàu.”
Thế là cái danh xưng “Tàu” có một lịch sử đặc biệt và nét đặc biệt này gắn liền với sự cai trị của bọn phong kiến phương Băc đối với dân ta, nước ta. Chẳng thế mà từ xưa đến nay, nó luôn luôn mang tính xấu nghĩa (pejorative) và đã có mặt trong những thành ngữ thâm như (thằng) Tàuquân tử Tàu, v.v.. Thâm là nham hiểm một cách kín đáo khó lường, mà về mặt này thì Tàu thuộc hạng hoàn cầu đệ nhất. Bụng chúng thì toàn những đế quốc, bành trướng, xâm lược, bá quyền mà mồm chúng thì toàn những mật những đường để lừa bịp thiên hạ. Chuyện thì nhiều mà nhiều người cũng đã biết.  Ta phải hết sức cảnh giác trước những âm mưu thủ đoạn của chúng.
Ấy khi cần thâm thì rất hiểm nhưng khi cần ra mặt tác oai tác quái thì vô cùng trắng trợn, như trong chuyện đường lưỡi bò và mới nhất là chuyện tàu Hải giám của chúng cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02 ngay trong lãnh hải Việt Nam. Trong các cuộc hội nghị thì chúng lên giọng quân tử nhưng trong thực tế thì chúng hành xử đâu có khác gì bọn cướp biển Somalia. Người Việt Nam có lạ gì cái kiểu quân tử Tàu. Quân tử Tàu chỉ là nguỵ quân tử mà thôi!
(http://petrotimes.vn/news/vn/hoc-gia-an-chi-giai-dap/tau-va-tham-nhu-tau.html)

Sunday, 4 March 2012

Mạnh Đức Tư Cưu là ai?

Người Trung Quốc phiên âm tên của nhà tư tưởng người Pháp Montesquieu thành孟德斯鳩. Người Việt dựa vào đó phiên âm Hán Việt là Mạnh Đức Tư Cưu. Cách phiên âm này rất phổ biến trên sách báo trước năm 1945. Về sau người ta phiên âm thẳng từ tiếng Pháp thành vô số dạng: Mông-tét-xki-ơ, Mông-tét-ski-ơ, Mông-te-xki-ơ, Môngteskiơ... Không ai biết viết thế nào là đúng chính tả. Nhưng cũng không còn ai nhớ Mạnh Đức Tư Cưu là ai; đọc sách vở cũ gặp cái tên Mạnh Đức Tư Cưu, không biết là đang nói về ông (Trung Quốc ) họ Mạnh nào.

Saturday, 3 March 2012

Xứ Ba Tây là xứ nào?



Ba Tây là từ mượn của tiếng Hán (巴西) hồi đầu thế kỷ 20 đế gọi một nước cộng hòa ở Nam Mỹ (Đào Duy Anh, 2005:34) mà nay ta gọi là Bra-xin (âm gần với tiếng gốc là Brasil). Người Trung Quốc phiên âm là baxi, viết là巴西; người Việt chuyển sang âm Hán Việt thành Ba Tây.

Từ Ba Tây bị khai tử ở miền Bắc sau năm 1954, được thay thế bằng từ mượn âm tiếng Pháp Bơ-rê-din (Brésil) trong một thời gian ngắn trước khi Bra-xin chính thức lên ngôi:

* Ở nơi nào mà bọn tư bản đã lập ra các kinh doanh nông nghiệp  để trục lợi một cách điên cuồng nhất, thì ở nơi đó đất bị hao mòn đến cùng; thí dụ rõ rệt là những vùng ở phía nam và phía tây nước Mỹ, các thuộc địa Phi-châu, các đồn điền cà-phê ở nước Bơ-rê-din (Brésil).
Tập San Nghiên Cứu Văn Sử Địa số 20 (1956:52,  Nguyễn Việt)
Ba Tây còn được lưu hành ở miền Nam cho đến năm 1975 và trên sách báo của người Việt ở hải ngoại vài năm sau 1975 rồi mất dần vị thế độc tôn. Hiện nay chỉ một ít người lớn tuổi biết Ba Tây là nước nào. Những người trẻ hơn, từ trong nước ra chỉ biết Bra-xin. Số khác đông hơn, già có, trẻ có, lại chỉ thích viết Brazil, phát âm kiểu Mỹ. Không ai bảo ai được.

Thursday, 1 March 2012

Lý Hải ở đâu?

Lý Hải là tên khác của biển Cát-xpiên.
* Kênh Von-ga Đông đã làm nối liền bể Ban-tích phía Bắc, với Lý hải và Hắc hải phía Nam
(Tập San Nghiên Cứu Văn Sử Địa số 4, 1955:64, Lê Xuân Phương)


Lý Hải là âm Hán Việt của 裡海, nay không dùng nữa.

Tuesday, 28 February 2012

Tại sao ma giáo là gian xảo, xấu xa?




Từ ma giáo không có mặt trong các từ điển Thanh Nghị (1967), Lê Văn Đức (1970). Các từ điển hiện nay chỉ ghi một nghĩa của ma giáogian xảo, bịp bợm (Hoàng Phê, 2006:602), gian manh xảo trá (Nguyễn Như Ý, 1999:1080).
Từ ma giáo (viết thường) thật ra là Ma giáo (viết hoa) mà đông đảo người Việt biết đến nhờ các tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, được dịch và phổ biến ở miền Nam vào những năm 70. Nhiều nhân vật của Ma giáo bị Kim Dung mô tả như là những kẻ bất chính, đáng khinh. Dân mê truyện chưởng sau đó gọi những kẻ gian xảo, bịp bợm là bọn Ma giáo.
Ma giáo, thật ra là Ma-ni giáo, một tôn giáo xuất phát từ Ba Tư trên cơ sở hỗn dung các yếu tố của đạo Phật, đạo Thiên Chúa và đạo Pác-xi, không có liên quan gì đến ma quỷ cả. Tiếng Anh là manicheism/manichaeism, tiếng Pháp là manichéisme, tiếng Nga là манихеизм, tiếng Trung là   móníjiào ... đều có nghĩa là đạo của ông Ma-ni (216-276).
Từ Ma-ni giáo là phiên âm Hán Việt của   tiếng Trung, đã xuất hiện từ lâu trong tiếng Việt:
Đời Đường thế lực lan khắp ra các nước láng giềng, nên có giao-thông với các nước cũng nhiều, bởi thế mới truyền đến nhiều tông-giáo mới, như là: Yêu-giáo, Cảnh-giáo, Ma-ni giáo, Do Thái giáo. (Đông Châu, 1934, “Khảo về luân-lý học-sử nước Tàu, Nam Phong Tạp Chí, số 210, trang 337)

Sunday, 26 February 2012

Chữ Cồ trong quốc hiệu Đại Cồ Việt (Năng Lượng Mới số 34 ,7 - 7 - 2011).

Bạn đọc : Xin ông cho biết tại sao nước ta có thời kỳ đặt tên là Đại Cồ Việt và chữ Cồ có ý nghĩa gì? (Huỳnh Phương Ngọc).
An Chi : Chúng tôi đã năm lần nói về chữ “cồ” trong quốc hiệu “Đại Cồ Việt”. Lần đầu tiên là trên Kiến Thức Ngày Nay số 353 (1-6-2000), chúng tôi đã trả lời ngắn gọn rằng, ở đây, “cồ” không phải là một chữ Nôm nhưng vẫn còn cho rằng nó là âm xưa của chữ Hán 巨, mà âm Hán Việt hiện đại là “cự”, có nghĩa là to, lớn. Lần thứ hai là trên Kiến Thức Ngày Nay số 599 (1-4-2007), chúng tôi đã nhận xét về ý kiến của Kỳ Quảng Mưu 祁广谋 trong bài “Đại Cồ Việt quốc danh thích”, đăng trên Đông Nam Á tung hoành 东南並纵橫 năm 2000 (tr. 35-38), cho rằng cồ  là một chữ Hán, có nghĩa gốc là: 1. dáng nhìn sợ hãi; 2. kinh ngạc, lo sợ. Cách giảng trịch thượng, ngu xuẩn này hẳn làm hài lòng bọn bá quyền, bành trướng. Sau khi bác bỏ ý kiến của họ Kỳ, chúng tôi đã chứng minh rằng “cồ” là hình thức nói tắt của Cồ Đàm Ma, họ của Đức Phật Thích Ca, phiên âm từ tiếng Sanskrit Gautama. Vậy Đại Cồ Việt là nước Việt vĩ đại theo đạo Phật. Nhưng có một tác giả là Nguyễn Anh Huy đã chính thức bác chúng tôi và “thách” chúng tôi phải trả lời. Chúng tôi đã trả lởi chi tiết trên Đương Thời số 4-2009. Đó là lần thứ ba. Lần thứ tư là trên Đương Thời số 8-2009, chúng tôi đã bác ý kiến của tác giả Huỳnh Dõng cho rằngcồ  là một chữ Hán, có nghĩa là “núi non lởm chởm, hiểm trở, bao quanh bởi sông nước cuộn trào”. Lần thứ năm là trên An Ninh Thế Giới số 918 (16-12-2009), chúng tôi đã nhận xét và phản bác ý kiến của tác giả Tạ Chí Đại Trường cho rằng “quốc hiệu Đại Cồ Việt chẳng văn hoa tí nào”.
Lần này là lần thứ sáu. Vừa mới đây, chúng tôi có nhận được từ chuyên gia Hán Nôm trẻ Nguyễn Tuấn Cường đường liên kết trên Facebook để đọc bài “Về quốc hiệu đời nhà Đinh” của GS Nguyễn Tài Cẩn (www.ngonnguhoc.org/, ngày 31-5-2009). Trước khi trình bày rõ quan điểm của mình để trả lời bạn,
chúng tôi xin mạn phép phân tích kỹ điểm quan trọng nhất mà chúng tôi không thể đồng ý với Giáo Sư.
Điểm quan trọng đầu tiên mà chúng tôi hoàn toàn không đồng ý với GS Nguyễn Tài Cẩn là ở chỗ ông cho rằng Cồ  Việt là “nước Việt hùng mạnh có thứ vũ khí gọi là cồ” (Giả thuyết I). Ngay từ đầu giả thuyết, GS Cẩn đã khẳng định một cách võ đoán rằng “giả thuyết này, nhìn chung, khá quen thuộc”. Nhưng rõ ràng là nó mới được tung ra cho nên gần cuối đoạn thì chính ông Cẩn đã phải nói rõ rằng đây một cách hiểu thứ ba do Nguyễn Anh Huy mới đề xuất thêm. Thế là ông đã bất nhất ngay từ đầu. Ông Cẩn đề nghị dành ưu tiên cho cách hiểu “mới mẻ này” vì ba lý do, mà lý do đầu tiên là: “Nó hợp với thời đại : theo Nam Hải dị nhân, Đinh Bộ Lĩnh có gươm, vậy thời đại nõ thần đã chuyển sang thời đại gươm giáo.”
Đó là lý do đầu tiên của GS Nguyễn Tài Cẩn. Nó bộc lộ sự ngây thơ của một người già dặn. Ông cho rằng cách hiểu thứ ba do Nguyễn Anh Huy đề xuất thêm mới hợp với thời đại vì lý do: Đinh Bộ Lĩnh có gươm nên “thời đại nõ thần đã chuyển sang thời đại gươm giáo”. Xin thưa rằng trong Nam Hải dị nhânthì Phan Kế Bính cũng chỉ chép theo truyền thuyết, mà cứ vào truyền thuyết, vận dụng theo  “lý thuyết Nguyễn Tài Cẩn” thì Đinh Tiên Hoàng cũng đã bị Thánh Gióng bỏ xa từ hàng ngàn năm trước với roi sắt, ngựa sắt và áo giáp sắt rồi. Cho nên nếu nói về “thời đại” thì Đinh Tiên Hoàng đã đi thụt lùi, chứ “chuyển thời đại” thế nào được! Huống chi, liên quan đền đời tư của  Vua Đinh từ tấm bé cho đến khi lên ngôi hoàng đế, người ta được biết rất nhiều chuyện nhưng, tiếc thay, chẳng có ai từng nghe nói một lần, một lời, đến cái thứ giáo gọi là “cồ”, làm nên quốc hiệu Đại Cồ Việt của ông vua này cả. Giáo, mác, cung, tên, đao, thương, việt, thuẫn, mâu, v.v., nói chung, thanh long đao của Quan Công, bát xà mâu của Trương Phi, v.v. nói riêng, người ta đều có thể từng nghe nói đến; thậm chí thanh gươm Damoclès tít bên Tây cũng có người Việt biết đến, riêng cái cây “cồ” làm nên quốc hiệu Đại Cồ Việt thì chẳng ai bao giờ nghe nói tới mảy may cho đến khi ông Nguyễn Anh Huy moi nó ra từ từ điển. Nói cho công bằng, không phải trước ông, chẳng ai biết đến cái nghĩa “vũ khí” của chữ cồ ; chỉ là người ta thấy nó không xài được ở đây mà thôi.
Tóm lại, với chúng tôi, mặc dù có cả sự tăng cường về lý luận của GS Nguyễn Tài Cẩn, thuyết “cồ = vũ khí” của tác giả Nguyễn Anh Huy vẫn không thể dùng được. Tại những nguồn thư tịch đã nói, chúng tôi đã phân tích và chứng minh rằng Đại Cồ Việt là một kiểu đặt tên toàn Hán, mà Cồ Việt là một danh ngữ có cấu trúc cú pháp giống như Âu ViệtLạc ViệtDương ViệtĐiền ViệtMân Việt, v.v., trong đó Cồ,ÂuLạcDươngĐiềnMân là định ngữ của ViệtCồ là hình thức nói tắt lần thứ hai của Cồ Đàm Ma, mà hình thức nói tắt lần đầu là Cồ Đàm, họ của Đức Phật Thích Ca, phiên âm từ tiếng SanskritGautama. Vậy Cồ Việt là “nước Việt lấy đạo Phật làm quốc giáo”. Và Đại Cồ Việt là “nước Việt vĩ đại lấy đạo Phật làm quốc giáo”. Quốc hiệu này cho thấy sự sáng suốt của Vua Đinh từ đối nội đến đối ngoại. Về đối nội, sử gia Đào Duy Anh cho biết:
“Đinh Bộ Lĩnh chỉ có thể dựa vào tập đoàn phong kiến tôn giáo là thành phần xã hội có uy tín nhất trong xã hội bấy giờ để duy trì trật tự và kỷ cương. Nhưng trong hai tôn giáo, Phật và Đạo, đều thịnh hành trong dân gian, thì Phật giáo có tổ chức và qui củ vững vàng hơn, có kinh điển và lễ nghi nghiêm trang hơn, chứ Đạo giáo thì chỉ là một mớ phương thuật và mê tín. Về tổ chức cũng như về tinh thần, Phật giáo là yếu tố thống nhất đắc lực nhất thời bấy giờ. Bởi thế Đinh Tiên Hoàng mới lấy Phật giáo làm quốc giáo, định phẩm cấp tăng nhân để giao cho họ lãnh đạo Phật giáo trong toàn quốc (AC nhấn mạnh). Khuông Việt đại sư tham gia triều chính như một vị tể tướng. Các chùa (tự viện) của Nhà nước do các tăng quan trụ trì đều được cấp ruộng làm tự điền. Các tự viện có những đại điền trang không kém gì đại điền trang của bọn vương công đại thần.” (Lịch sử Việt Nam, q. thượng, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1958, tr.175).
 Chủ trương của Đinh Tiên Hoàng về đối nội như thế thật là cực kỳ sáng suốt. Về đối ngoại, ông cũng tinh tế không kém. Ta nên nhớ rằng đồng thời với nước Đại Cồ Việt thì, nằm dọc theo bờ biển phía nam Trung Quốc thời Ngũ đại Thập quốc (bên Tàu), là nước Nam Hán, tồn tại từ 917 đến 971. Trong năm đầu tiên, Nam Hán được đặt tên là Đại Việt. Đến năm 968, khi quốc hiệu Đại Cồ Việt ra đời thì Nam Hán đã tồn tại được 49 năm còn tên cũ của nó là Đại Việt thì đã bị bỏ từ 48 năm rồi. Nhưng Đinh Tiên Hoàng là một vị vua nhìn xa trông rộng. Ông đâu có quên chuyện quân Nam Hán sang xâm lược nước ta hồi 937 (mà bị Ngô Quyền đánh cho tơi bời trên sông Bạch Đằng). Dã tâm xâm lược của chúng có bao giờ nguội tan. Cho nên nếu Đinh Tiên Hoàng đặt tên nước là “Đại Việt” thì chẳng hoá ra ông mời chúng sang “đòi lại đất cũ của Nam Hán” hay sao? Sự gian manh của bọn này thì ta còn lạ gì (nhất là nếu ta liên hệ tới tình hình Biển Đông hiện nay)! Vì thế nên phải có một định ngữ trước từ Việt của ta để phân biệt với “Việt” cũ của Nam Hán. Đó là chữ Cồ, họ của Đức Phật Thích Ca. Vậy Cồ Việt là nước lấy đạo Phật làm quốc giáo. Đây cũng là một sự thật lịch sử. Đến 1054, khi Lý Thánh Tông đổi Đại Cồ Việt thành Đại Việt thì Nam Hán, tức Đại Việt cũ bên Tàu, đã bị tiêu diệt được 83 năm. Cái nguy cơ làm cho Đinh Tiên Hoàng phải dè chừng, từ lâu đã không còn nữa. Cái thế của nước ta đã khác. Ta nên nhớ rằng năm 1075, Lý Thường Kiệt còn đem quân sang đánh Tống nữa kia mà. Huống chi, tuy đạo Phật vẫn được tôn sùng nhưng bây giờ Nho giáo đã bắt rễ khá sâu trong xã hội Việt Nam, nhất là từ khi Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long (1010). Chữ Cồ đã xong nhiệm vụ từ đối nội (trong nước, Nho giáo bắt đầu thịnh) đến đối ngoại (không còn sợ họa “đòi đất” vì hai chữ “Đại Việt”).
Hai năm sau khi chúng tôi đưa ra ý kiến trên Kiến Thức Ngày Nay số 599, ý kiến này đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của chuyên gia Hán Nôm trẻ Trần Trọng Dương trong một bài viết rất chặt chẽ và đầy ắp cứ liệu, nhan đề “Khảo về «Đại Cồ Việt» (Nước Việt - nước Phật giáo)”, đăng trên Tạp chí Hán Nôm, số 2(93) – 2009 (tr.53-75). Chúng tôi tin tưởng vững chắc rằng đây là một cái hướng thực sự đúng đắn cho những ai muốn đi tìm ý nghĩa đích thực của quốc hiệu Đại Cồ Việt.
Thế là chữ Cồ trong Đại Cồ Việt đã hoàn thành sứ mệnh của nó một cách vẻ vang. Nó đã có mặt trong quốc hiệu 86 năm (968-1054), từ Đinh Tiên Hoàng đến Lý Thánh Tông, với tư cách là một yếu tố biểu hiện thể chế tôn giáo của nước nhà: nước Việt lấy Phật giáo làm quốc giáo.