CHẾ ĐỘ THẾ TẬP VÀ NGUYÊN LAI CÁC TÊN GỌI
THƯỜNG DÙNG CHO HOÀNG ĐẾ VÀ HOÀNG TỘC
1. Vài nét về chế độ thế tập trong lịch sử Trung Hoa
Chế độ quân chủ của ba triều đại Hạ 夏, Thương 商 và Chu 周 sau khi vua lên ngôi đều xưng Vương 王. Trong Giáp cốt văn 甲骨文, chữVương được viết theo hình thể của chữ 大, với ý nghĩa tượng trưng cho tư thế của một người ngồi ngay thẳng, chính diện ở đại điện. Đến nhàThương, vua Tổ Giáp 祖甲 đã tự nhận mình là vua của một nước. Địa vị đáng tôn sùng ấy cần phải có mũ miện. Vì thế, trong Giáp cốt văn, chữVương có thêm một nét ngang trên đầu và nó trở thành tự dạng như chữNgọc 玉. Điều này chứng minh rằng, biện pháp chính trị nào của thời quân chủ chuyên chế cổ đại cũng đều hướng đến việc củng cố và tôn sùngVương vị 王位. Ông vua là chủ tể của quốc gia, là đại biểu cho tất cả quý tộc chủ nô. Đấy là đặc trưng chủ yếu đầu tiên của chính thể chuyên chế Hạ, Thương, Chu.
Về mặt chính trị, hoàng quyền được thể hiện ở chỗ, vua cũng chính là thủ lĩnh tối cao của lực lượng vũ trang, có quyền quyết định việc quân cơ, chinh phạt, sinh sát. Thứ đến, mọi quyết định, kết luận của vua đều là pháp lệnh, là chủ nhân của toàn bộ nô lệ và tuyệt đại bộ phận đất đai của cả nước. Do vậy, tầng lớp quý tộc thực hành ráo riết chế độ thế cập chế 世及制. ThiênLễ vận 禮運 trong sách Lễ Ký 禮記 có câu: “Đại nhân thế cập dĩ vi lễ 大人世及以為禮” (Bậc đại nhân lấy thế cập làm lễ). Khổng Dĩnh Đạt 孔穎達 chú giải rằng, vua và các chư hầu đem quyền vị giao cho thành viên của gia tộc mình. Cha truyền cho con gọi là Thế 世, anh truyền cho em gọi là Cập及. Phương pháp kế thừa huyết thống của loại quyền vị đó, là một đặc trưng trọng yếu của chế độ quân chủ chuyên chế.
Hai triều Hạ và Thương không còn văn bản khảo chứng cụ thể. Theo một số nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cổ đại, ở triều Hạ, việc kế thừa ngôi vua cha truyền con nối là chủ yếu, được 14 đời, cả thảy 17 vua. Triều Thương truyền được 17 đời, tổng cộng 31 vua. Riêng nhà Chu đã thực hiện một cách khá triệt để chế độ Tông pháp 宗法制, không riêng gì vua, từ các chư hầu đến bậc sĩ khanh đại phu đều chủ yếu truyền cho đích tử con của vợ cả. Sau khi Chu Vũ Vương 周武王 diệt Thương và dựng độ ở Cảo Kinh 鎬京 (nay là vùng phụ cận thành phố Tây An 西安市- Tỉnh Thiểm Tây 陝西省), gọi là Tông Chu 宗周. Để xác lập nên vương triều Chu đối với toàn quốc và củng cố vùng căn cứ lấy Tông Chu làm trung tâm, vương triều nhà Chu đã thực hiện chế độ phân phong trong vùng đất rộng lớn đã chinh phục được, thiên tử nhà Chu tiến hành Phong bang kiến quốc 封邦建國, phong tước kiến địa 封爵建國 trên quy mô cả nước (tức toàn cõi Trung Hoa lúc bấy giờ), gọi là Chư hầu quốc 諸侯國, lập nhiều Chư hầu quốc như vậy là nhằm sử dụng họ làm phên giậu bảo vệ cho Tông Chu.
Trong trước tác của mình, Tuân Khanh 荀卿 đã chỉ rõ rằng: Thời kỳ đầu của nhà Chu, việc phân phong các chư hầu chủ yếu là anh em trong vương tộc nhà Chu. Ông cũng nêu ra con số cụ thể, trong 71 nước, chư hầu họ Cơ 姬 chiếm tới 53 nước. Học giả Cố Đông Cao 顧東翱 sau khi dẫn nhiều sử liệu trong sách Xuân Thu đại sự biểu 春秋大事表 nêu lên con số là 51 nước của họ Cơ trên tổng số 71 nước. Trong đó xác định cụ thể như sau: con của Văn Vương 文王 là 15 người, con của Chu Công 周公là 06 người, con của Vũ Vương 武王 là 03 người. Đó là kể cả huyết thống. Nếu xét theo phương diện khu vực địa lý, đất đai phong quốc thì cụ thể có thể kể ra như sau: tỉnh Sơn Đông 山東 có 08 nước, tỉnh Hà Bắc 河北 có 02 nước, tỉnh Sơn Tây 山西 có 08 nước, tỉnh Thiểm Tây 陝西 có 09 nước, tỉnh Hà Nam 河南 có 20 nước, tỉnh Hồ Bắc 胡北có 02 nước, tỉnh Tứ Xuyên 四川nay có 01 nước, tỉnh Giang Tô 江蘇 nay có 01 nước. Còn các nước khác là công thần hoặc thông gia của nhà Chu. Trong số các chư hầu đó, họ Khương 姜氏được phân phong tới 12 nước là nhiều nhất.
Những chư hầu được phong đất đều được ban tước phẩm và quan phục của nhà Chu. Về Tước 爵, đại biểu cho ngôi thứ cao thấp, bao gồm ngũ tước như: Công 公, Hầu 侯, Bá 伯, Tử 子, Nam 男. Về phẩm phục 品服 (còn gọi là quan phục 官服) thể hiện ý nghĩa về việc ban cấp đã thực hiện là nặng hay nhẹ về thuế má, cống phẩm. Ở các nước chư hầu này cũng phải thực hiện chế độ thế tập. Có thể nói rằng, chế độ tông pháp 宗法 ở nhà Chu đã hoàn bị, chặt chẽ và phát huy tác dụng khá tốt trong việc quyết định sự tồn tại của mạng lưới chính trị thời kỳ đó.
2. Nguyên lai các tôn hiệu dành cho Hoàng đế
2.1. Nguồn gốc của tôn hiệu Hoàng đế 皇帝
Sau thời kỳ Chiến Quốc 戰國時期, Trung Quốc bước vào xã hội phong kiến 封建 社會, Tần Doanh Chính 秦嬴政 thống nhất toàn quốc, uy đức và công tích đã vượt qua lịch sử, truyền thuyết của thời đại Tam hoàng 三皇, Ngũ đế 五帝. Ông ta không thể dùng từ Vương 王 để tự xưng nữa mà phải dùng một tên gọi mới là “Hoàng皇” và “Đế 帝” kết hợp lại. Vì thế, từ đời Tần Thuỷ Hoàng 秦始皇 trở về sau, các triều đại phong kiến quân chủ, các ông vua đều dùng danh xưng hoàng đế.
Thời cổ, chữ Hoàng 皇 có hàm nghĩa là thiên thần 天神 hoặc quân chủ君主. Sách Nhĩ Nhã 爾雅 và Bạch Hổ Thông 白虎通 đều định nghĩa “Hoàng” là vua (quân 君). Ví dụ Tam hoàng 三皇 là nhân quân人君. Đế 帝 chỉ thiên thần, cách gọi gộp hoàng đế cùng mấy vị khác là Ngũ đế五帝, biểu thị sự tôn sùng của người xưa đối với các bậc đế vương. Nay, Doanh Chính kết hợp cả hai chữ tượng trưng cho quyền uy và sự tôn sùng đó, dùng làm tên gọi cho mình và vì ông ta là người đầu tiên nên mới tự xưng là Tần Thuỷ Hoàng Đế 秦始皇帝 và quy định con cháu của ông ta phải xưng là Nhị Thế 二世, Tam Thế三世…đến Vạn Thế 萬世, truyền đến vô cùng. Lịch sử gọi ông ta là Tần Thuỷ Hoàng秦始皇. Bắt đầu từ Tần Thuỷ Hoàng đến cuối đời Thanh 清朝 là kết thúc tên hiệu hoàng đế được dùng hơn 2000 năm ở Trung Quốc.
Có thể nói rằng, đối với chế độ chính trị Trung Hoa, với đời sống xã hội, văn hoá tư tưởng đều sản sinh những ảnh hưởng vô cùng sâu sắc. Trong khoảng trên 2000 năm ấy, hoàng đế là người có quyền lực tối thượng, là người thể hiện quyền lực chuyên chế của chế độ phong kiến, là chân mệnh thiên tử 真命天子, là con trời, là chủ nhân duy nhất của thiên hạ, vì thế người ta còn gọi ông là Nhân chủ 人主. Đó là thứ quyền lực đã hấp dẫn biết bào người, là nguồn gốc của vô vàn cuộc tranh chấp. Đối với hoàng đế, cái quyền lực chuyên chế ấy, khoa học chính trị gọi nó là Hoàng quyền 皇權.
2.2. Tên gọi tự xưng và tôn xưng của Hoàng đế
Trong quan niệm quốc gia thời xưa ở Trung Quốc, người ta nhận thức, người thống trị tối cao của quốc gia là quân chủ 君主, là đại diện của Thiên đế天帝 hay còn gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế玉皇上帝 nên nhà vua còn được gọi là Thiên tử 天子 (con trời). Vì có địa vị của con trời ở tận trên cao nên lại dùng một chữ Thượng 上. Từ Thiên tử bắt gặp đầu tiên trong bộ tổng tập ca dao đầu tiên của Trung Hoa là Thi kinh 詩經. Trong Thi kinh詩經 phần Đại Nhã大雅, bài Gia Lạc 假樂 (chương VI) có câu:
Chi cương chi kỷ 之綱之紀
Yến cập bằng hữu 晏及朋友
Bách bích khanh sĩ 百辟卿士
Mỵ vu thiên tử 媚于天子
Bất giải vu vị 不解于位
Dân chi du hí (kí) 民之攸塈
Tạm dịch:
Vua chăm sóc việc nước được ổn định.
Thì các bề tôi nhờ đấy mà được bình yên
Hằng trăm bực chư hầu và quan khanh sĩ
Đều thương mến nhà vua.
Không lười biếng trong chức vị của mình,
Thì dân chúng được yên ổn nghỉ ngơi.
(Theo Khổng Tử 孔子, Thi Kinh詩經, tập 2 (Tạ Quang Phát dịch chú, GS. Bửu Cầm khảo cứu), Nxb Văn học, 2004, tr. 608 - 609).
Chữ Thượng上 bắt gặp đầu tiên trong sách Quân tử - Quân thần 君子 - 君臣 và có thể đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử phát triển văn tự Trung Hoa. Về sau, Tần Thuỷ Hoàng 秦始皇 đã định ra tôn hiệu Hoàng Đế 皇帝, không kể các mỹ hiệu như Thiên tử, Thượng đều là những mỹ từ phiếm xưng ông vua, một loại người có quyền thống trị tối cao đối với mọi thân dân. Thời Hán 漢, Ban Cố 班固 trong bài phú Đông Đô 東都賦 đã sáng tạo ra hai từ mới đó là Thánh hoàng 圣皇và Thánh thượng 圣上, cụ thể như sau: “于是圣皇乃握乾符,阐坤珍,披皇图,稽帝文,赫然发愤,应若兴云,霆击昆阳,凭怒雷震 … 于是圣上亲万方之欢娱,又沐浴于膏泽,惧其侈心之将萌,而怠于东作也,乃申旧间,下明诏,命有司,班宪度,昭节俭,示太素。Vu thị thánh hoàng nãi ác càn phù, đan khôn trân, bạt hoàng đồ, kê đế văn, hách nhiên phát phẫn, ước nhược hương vân, đình kích côn dương, khanh nộ lôi chấn…. Vu thị thánh thượng thân vạn vạn chi hoan ngụ, hựu mộc dục vu cao trạch, cụ kỳ xỉ tâm chi tướng manh, nhi đãi vu đông tác dã, nãi thân cựu gián, hạ minh chiếu, mệnh hữu ty, ban hiến độ, chiêu tiết kiệm, thị thái tố…”. Nhà văn Lục Cơ 陸機 thời Tây Tấn 西晉 trong một bài thơ dâng tán tụng Tấn Huệ Đế Tư Mã Trung 晉惠帝 - 司馬忠 là Hoàng Thượng 皇上. Tư Mã Thiên 司馬遷 trong bộ Sử ký 史記, mục Thái sử công tự tự 太史公自序, gọi vị vua đương thời đang ở ngôi tức Hán Vũ Đế - Lưu Triệt 漢武帝 - 劉徹 là Chủ Thượng主上, ông viết “Chủ thượng minh thánh, nhi đức bất bố văn, hữu tư chi quá dã… 主上明聖而德不布聞有司之過也” (Đức hạnh của nhà vua mà không ban bố cho khắp thiên hạ được biết, quan Hữu Tư phải tự cho là tại lỗi của mình…).
Từ Vạn tuế 万歲 vốn là từ dùng chúc nhau thời cổ, khi người ta uống rượu, không phân biệt trên dưới, sang hèn, ai ai cũng dùng được. Đến thời Xuân Thu - Chiến Quốc 春秋 - 戰國, do được lưu hành trong cung thất của các chư hầu, dần mở ra xu thế độc chiếm của nhà vua. Mùa thu năm đầu tiên của niên hiệu Nguyên Phong 元封 (năm 110 TCN), Hán Vũ Đế 漢武帝 lên núi Trung Sơn 中山, quan binh chào đón nhà vua bằng tiếng tung hô vạn tuế. Qua thời Đông Hán 東漢, tiếng Vạn tuế là lời chúc tụng nhà vua. Về sau, từ chúc tụng lại trở thành một đại từ xưng hô, hoàng đế được gọi tắt là vạn tuế. Vì thế, từ vạn tuế có 02 ý nghĩa, một là “muôn tuổi”, hai là nhà vua. Mấy đại từ Thánh thượng, Hoàng thượng, Vạn tuế, trong bất kỳ tấu chương nào cũng có quyền sử dụng. Từ Kim thượng 今上là tôn xưng do các đại thần của Vũ Đế tôn tặng, nó có ý nghĩa chỉ định vị hoàng đế đang tại vị, cũng là một từ tôn sung, hàm ý của nó là đương kim hoàng thượng 當今皇上.
Ngoài mấy đại từ xưng hô trên, chúng ta còn thấy trong lịch sử, người ta còn dùng từ Bệ hạ陛下. Chữ Bệ 陛 nghĩa gốc của nó là “bậc thềm lên xuống trong cung đình”. Nó cũng là một từ phiếm chỉ các cận thần nơi cung khuyết cùng các thị vệ trong hoàng cung. Sách Độc Đoán 獨斷 của Sái Ung 蔡雍 (Đông Hán) giải thích rằng: “gọi là Bệ hạ, là lời nói với thiên tử của quần thần, không dám trực tiếp nói thẳng với thiên tử, mà phải gọi những kẻ hầu đứng dưới bậc thềm thay cho tên gọi thiên tử, từ cái ý kẻ thấp hèn biểu đạt lên bậc chí tôn, trên sách vở cũng viết như thế”. Điều đó chúng minh rằng, thời xưa, kẻ bầy tôi không được gọi thẳng nhà vua, chỉ có thể lấy những kẻ hầu hạ dưới thềm để gọi. Từ Bệ hạ về sau lại trở thành một từ tôn xưng của hoàng đế và đi vào các văn bản cung đình như Tấu chương 奏章,, Chiếu lệnh 詔令. Đến như từ Gia 爺 trong Vạn tuế gia 萬歲爺, Lão Phật gia 老佛爺 là một kiểu tôn xưng vua và thái hậu của cung nữ, thái giám trong nội cung.
Bên cạnh đó, hệ thống từ xưng hô của hoàng đế còn có những từ thường dùng như cô 孤, quả 寡 trong cụm từ xưng cô đạo quả 稱孤道寡. Thực ra, cụm từ này xuất hiện sau này. Ngay từ khi vua Thành Thang 成湯của nhà Thương đánh vua Kiệt 桀, theo các tài liệu khảo chứng trongThang Thệ 湯誓, Thang Cáo 湯誥, vua Thang thường dùng cụm từ “Dư Nhất Nhân 予一人”. Đó có lẽ là cụm từ thường dùng thời bấy giờ. Trong sách Lão Tử 老子, khi chép về những khiêm từ của bậc vương hầu đều ghi là cô quả 孤寡, bất cốc 不穀…, đó là những đại từ khiêm xưng nhằm thể hiện là người ít đức độ, thường được dùng ở các nước chư hầu nhỏ. Cụm từ quả nhân 寡人 (rút gọn từ quả đức chi nhân 寡德之人) chưa bao giờ là từ chuyên dùng cho bất kỳ vị quân chủ nào cả. Nàng Trang Khương 莊姜, vợ vua Vệ Trang Công 衛莊公 cũng tự xưng là quả nhân. Có lẽ đây là một mỹ từ khiêm xưng trong giao tế thời cổ vậy. Căn cứ vào những khảo chứng của Triệu Dực趙翼 trong Cai Dư tùng khảo 該輿叢考, từ thời Đường 唐 trở về sau, từ quả nhân mới được thông dụng cho vương hầu, dần dần trở thành từ chuyên dụng cho vua. Về chữ Bất Cốc 不穀, nghĩa cổ của chữ Cốccó nghĩa là thiện 善, bất cốc có nghĩa là người bất thiện, tức kẻ ác. Vì ý nghĩa ấy, về sau từ này ít được thông dụng.
Tương tự như từ quả nhân, từ Trẫm 朕 vốn cũng là từ xưng hô, đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất (Tôi, ta). Trước thời Tần Thuỷ Hoàng thứ 26, chữ này là chữ thông dụng trong giao tiếp. Trong Sở Từ 楚辭, Khuất Nguyên 屈原 cũng đã viết: Trẫm hoàng khảo viết Bá Dung 朕皇考曰伯庸 (hoàng khảo (tức là cha đã mất) của ta gọi là Bá Dung). Từ đời Tần Thuỷ Hoàng thứ 26 về sau, ngoài việc sử dụng từ hoàng đế, ông còn tuyên bố sử dụng từ Trẫm như một từ chuyên dùng riêng cho vua. Các triều đại về sau tiếp nói theo truyền thống ấy. Do đó, sau khi Tần Thuỷ Hoàng đổi lại danh hiệu thì từ bách quan đến trăm họ không ai dám dùng từ này nữa. Xem xét lại ngữ lục trong Bắc sử, ngoài các hoàng đế Trung Hoa, các vị Hoàng hậu 皇后, Hoàng Thái hậu 皇太后 khi buông rèm thính chính cũng xưng trẫm. Điển hình như Lã Thái hậu 呂太后 thời Tây Hán 西漢, Đậu Thái hậu 竇太后 thời Đông Hán 東漢, Hồ Thái hậu 胡太后 thời Bắc Nguỵ 北魏. Đến Võ Tắc Thiên 武則天, vị nữ hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc khi xưng hô, hạ chiếu, ban sắc cũng xưng là Trẫm.
3. Danh xưng của hoàng tộc
Quan hệ xưng hô của những người thân thuộc huyết thống hoặc phi tử của hoàng đế đều khác với tầng lớp bình dân và quý tộc đương thời, mỗi một quan hệ đều có cách xưng hô đặc biệt. Cụ thể có thể giới thuyết như sau:
Thái Thượng hoàng 太上皇 là từ tôn xưng thân phụ của hoàng đế đang tại vị. Tần Thuỷ Hoàng truy phong cho cha là Tần Trang Tương Vương 秦莊襄王 là Thái Thượng hoàng. Từ đời Hán về sau, danh xưng này cũng được dùng để chỉ cho những người cha còn sống của nhà vua tại vị, ví dụ như Vũ Thành Đế 武成帝 thời Bắc Tề 北齊, Đường Cao Tổ 唐高祖, Tống Huy Tông 宋徽宗, Thanh Cao Tông 清高宗. Sau khi truyền ngôi cho con, vua cha đều được tôn là Thái Thượng hoàng.
Thái hậu 太后: là tiếng tôn xưng cho mẹ của thiên tử và chư hầu. Thời Chiến Quốc, mẹ các vua chư hầu đều tôn xưng là thái hậu. Thời Tần, Hán về sau xưng là Hoàng Thái hậu 皇太后, đời Thanh 清 gọi là mẫu hậu 母后, thánh mẫu 聖母.
Thái phi 太妃: là tôn hiệu tôn xưng các phi tần của thân phụ hoàng đế, còn gọi là Hoàng Thái phi 皇太妃.
Thái hoàng thái hậu 太皇太后: là từ tôn xưng bà nội của vua. Chẳng hạn, Vương Chính Quân 王正昀 thời Hán được tôn là Thái Hoàng Thái hậu.
Hoàng hậu 皇后: từ xưng hô vợ chính của vua. Đời Chu, vợ chính của vua là hậu 后. Sau Tần Thuỷ Hoàng điều chỉnh và gọi là hoàng hậu, là người được tôn sùng là mẫu nghi thiên hạ 姆儀天下.
Phi 妃: tức là thiếp của hoàng đế, từ này còn là cách xưng hô với vợ chính của thái tử, gọi là Thái tử phi 太子妃. Thiếp của vua được gọi là Phi bắt đầu từ đời Chu. Thời Tần gọi là Hoàng phi 皇妃. Thời Nam Bắc triều 南北朝 gọi là Quý phi 貴妃. Đời Minh mới có danh hiệu Hoàng quý phi 皇貴妃. Từ đó về sau, đẳng cấp phi có 03 bậc: Hoàng quý phi – Quý phi – Phi.
Thái tử 太子: là tiếng xưng hô người sẽ kế vị ngôi chính thống, còn được gọi là Hoàng thái tử 皇太子. Thời Chu, con trưởng chính thất của vua mới được gọi là thái tử. Từ Tần Hán về sau, người được chọn kế thừa ngai vàng được gọi là thái tử với một nghi lễ tấn phong khá phức tạp. Cung thất của thái tử được đặt ở phía đông hoàng cung nên còn được gọi là Đông cung thái tử 東宮太子.
A Ca 阿哥: Tên gọi chung cho các con trai của hoàng đế nhà Thanh. Hoàng tử được sinh hạ cứ thứ tự mà gọi, Đại A ca, Nhị a ca, Tam A ca… khi đến tuổi lập phủ đệ, nạp phi thì căn cứ theo tước vị mà xưng hô không còn gọi là A ca nữa.
Công chủ (thường gọi là công chúa) 公主 : tên gọi của con gái hoàng đế. Trước thời Xuân Thu được gọi là Vương Cơ 王姬. Thời Chiến Quốc mới gọi là Công chúa, đời sau cứ theo đó mà gọi. Vì sao gọi là công chủ? Nguyên do là khi công chúa hạ giá, nhà vua thường giao cho các vị trong vương công trong hoàng tộc làm chủ hôn. Đến triều Tống 宋, việc chủ trì cưới gả do vua đích thân quyết định và làm chủ hôn nên đổi thành Đế Cơ 帝姬. Đến thời Nam Tống 南宋 thì khôi phục lại tên gọi công chúa.
Trưởng công chúa長公主: Tên gọi xưng hiệu của chị gái hoặc em gái hoàng đế.
Đại trưởng công chúa 大長公主: Tên gọi xưng hiệu của cô hoặc dì của hoàng đế. Từ triều đại nhà Hán về sau, từ này được sử dụng phổ biến.
Hoàng Thái tôn 皇太孫: là tiếng xưng hô người cháu trưởng của hoàng đế. Đây là trường hợp thái tử bị chết hoặc bị phế truất nên lập con thái tử làm hoàng thái tôn, người thừa kế ngôi hoàng đế sau này.
Hoàng tôn 皇孫: tên gọi chung cho các cháu của hoàng đế, cách gọi này bắt đầu từ triều Tấn 晉. Con của hoàng tôn, tức đời thứ tư gọi là Hoàng tằng tôn 皇曾孫, đời thứ năm gọi là Hoàng huyền tôn 皇玄孫.
Quốc cữu 國舅: tên gọi xưng hiệu của cậu hoặc anh em vợ của hoàng đế. Triều Liêu 遼朝 thường dùng danh xưng này đặt trước các tước vị như: quốc cữu thái sư 國舅太師, quốc cữu thái uý 國舅太尉…
Phò mã 附馬: xưng hiệu của con rể hoàng đế. Thời Nguỵ Tấn 魏晉, đây vốn là tên một chức quan. Thời Hán Vũ đế 漢武帝 đặt chức phò mã đô uý 附馬都尉 chuyên nắm giữ phó xa 付車 (xe dự bị của vua do ngựa kéo). Vị trí này phần lớn do người trong hoàng thất phụ trách. Đến đời Tam quốc 三國 Tào Nguỵ 曹魏, Hà Yến 何燕là con rể vua đảm nhận chức vụ này, rồi Đỗ Dự 杜譽 lấy con gái Tư Mã Ý 司馬懿 là An Lục công chúa 安綠 公主, Vương Tế 王濟 lấy con gái Tư Mã Chiêu 司馬昭 là Thường Sơn công chúa 常山公主 đều nhậm chức Phò mã đô uý, gọi tắt là Phò mã. Từ đó thành thường lệ, người đời sau gọi con rể vua là phò mã.
Cách cách 格格: Từ xưng hô cho con gái hoàng tộc triều Thanh. Trong tiếng Mãn 滿語 có nghĩa là tiểu thư. Con gái vua thì gọi là Cố luân cách cách 雇侖格格 (Cố Luân trong tiếng Mãn là quốc gia), con gái thân vương 親王 hoặc Phi Tần 妃嬪 thì gọi là Hoà Thạc cách cách 和碩格格 (Hoà Thạc trong tiếng Mãn là một địa khu cụ thể), con gái quận vương 郡王 gọi là Đa La cách cách 多羅格格. Con gái của Bối Lặc 貝勒 được phong Quận quân 郡君, cũng gọi là Đa La cách cách. Con gái của Bối tử 貝子phong Huyện quân 縣君, còn gọi là Cố Sơn cách cách 雇山格格. Con gái của Trấn Quốc công 鎮國公, Phụ Quốc công 輔國公 được phong là Hương quân 鄉君, gọi là cách cách 格格.
Ngạch Phò 額附: danh hiệu của chồng công chúa. Địa vị và vị trí trên tước Hầu 侯, Bá 伯.
Thân Vương 親王: chỉ những người trong huyết thống nhà vua được phong vương. Trong các tước vị, Thân vương là đứng đầu.
Quận vương 郡王: tên một tước vị, đất phong ở một quận.
Thế tử 世子: tên gọi con trưởng của thân vương.
Phúc Tấn 福晉: chỉ vợ của các bậc vương công đại thần. Trong tiếng Mãn, Phúc Tấn có nghĩa là vợ con.
Bối Lặc 貝勒: tên tước phong cho tôn thất của nhà Thanh. Bậc thức 5 trong tổng số 14 bậc. Tên đầy đủ là Đa La Bối Lặc.
Bối Tử 貝子: tên tước phong tôn thất nhà Thanh. Tên đầy đủ là Cố Sơn bối lặc. Vị trí đứng thứ 6 trong tổng số 14 bậc.
Quy Thành, Quý Xuân Nhâm Thìn
ThS. Võ Minh Hải