Saturday, 22 March 2014

Alexandre de Rhodes - Đối luận với tác giả Hoàng Hưng (Bùi Kha - Talawas)


20.4.2006
Bùi Kha
Tác giả Hoàng Hưng, trong bài viết “Những băn khoăn từ lá thư trả lời của ông Nguyễn Hoà” trên talawas ngày 1.4.2006, đã đề cập nhiều chi tiết thú vị và oái oăm về tình trạng dịch thuật ở Việt Nam hiện nay.

Tuy nhiên, trong bài viết đó, có một đoạn văn không những liên quan đến vấn đề trích dịch mà còn mở lại một vấn đề học thuật tưởng đã chấm dứt: Vấn đề “Công và tội” của linh mục Alexandre de Rhodes.

Ông Hoàng Hưng viết nguyên văn như sau:


“Chuyện thứ nhất: Một sai lầm nghiêm trọng đã xảy ra trong lịch sử văn hoá Việt Nam mà nguyên do chỉ tại một trích dẫn có nguồn gốc hồ đồ.

Chuyện này xin kể đại khái, không đảm bảo chính xác về lời dẫn hay năm tháng, vì tôi đang ở rất xa nhà, không có trong tay tư liệu để trích lục, song đảm bảo chính xác về nội dung. Số là khoảng năm 1992 (1993?) trong khi làm công việc biên tập trang văn hoá văn nghệ của báo Lao động Chủ nhật, tôi nhận được một bài viết đặt vấn đề hoài nghi tính xác thực của một câu trích dẫn Alexandre de Rhodes đã lưu hành suốt mấy chục năm trời ở miền Bắc trong hầu hết công trình viết về lịch sử xâm chiếm Việt Nam của thực dân Pháp. Các nhà nghiên cứu lịch sử của ta khẳng định Alexandre de Rhodes đã viết (đại ý): Chúng ta là những người lính... chúng ta có bổn phận đi mở mang bờ cõi. Quả là một dẫn chứng tuyệt vời cho nhận định các nhà truyền giáo Gia tô là những kẻ mở đường cho các đạo quân xâm lăng! Câu trích này thậm chí đã được kẻ lên bảng treo trong Bảo tàng Lịch sử ở Hà Nội. Và ác thay, nó là lý do chính khiến cho tượng, bia kỷ niệm, tên phố của vị công thần với văn hoá Việt Nam (người góp phần quan trọng tạo ra chữ Quốc ngữ) đã bị xoá bỏ. Từ bài viết trên, anh em trong ban văn hoá văn nghệ báo Lao động đã bỏ công sưu tầm tài liệu, cuối cùng biết được rằng câu trích tai hại kia là rút từ cuốn hồi ký của một thuyền trưởng người Pháp nào đó, trong khi tìm mỏi mắt không thấy có trong bất kỳ bản viết nào của chính Alexandre de Rhodes! Và người có công phát hiện câu trích ấy là một nhà nghiên cứu tên tuổi, các "nhà" khác sau đó cứ "ôtômatích" trích lại như một sự thật hiển nhiên. Được biết về sau vị có công đó lên tới chức Viện trưởng Viện Tôn giáo! Tôi cho công bố bài viết trên, bản thân lại viết một bài phân tích rõ việc trích dẫn hồ đồ đã nêu (đồng thời chứng minh câu trích đã dỏm lại còn bị dịch sai nữa chứ!), rồi viết thư đề nghị Giáo sư Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Nghiên cứu Lịch sử, cho ý kiến. Ít lâu sau, báo Lao động đã đăng bài viết của Giáo sư nêu công lao của Alexandre de Rhodes (mà không hề nêu tội). Đó có lẽ là văn bản chính thức đầu tiên "phục hồi nhân phẩm" cho ông cố đạo này. Tiếp đó, ông phó tổng biên tập của tôi thông báo Ban Bí thư Trung ương Đảng yêu cầu cung cấp toàn bộ tư liệu liên quan đến Alexandre de Rhodes. Chúng tôi đã gửi lên gần 1000 trang photocopy khổ A4, trong đó phần quan trọng do các đồng nghiệp ở báoCông giáo và Dân tộc cung cấp.”

Trước khi góp ý với ông Hoàng Hưng, tôi xin có hai nhận xét và một đề nghị nhỏ sau đây:

  • Vì tác giả đã cẩn thận cho biết rằng “Chuyện này xin kể đại khái, không đảm bảo chính xác về lời dẫn hay năm tháng, vì tôi đang ở rất xa nhà, không có trong tay tư liệu để trích lục, song đảm bảo chính xác về nội dung”, nên những góp ý của chúng tôi hôm nay cũng xin “được” nằm trong cái khung đó. Và sẽ được ông Hoàng Hưng điều chỉnh hay bổ sung phần viết của ông sau này.
  • Theo ông Hoàng Hưng, sau khi nhận được bài viết của một “độc giả” báo Lao động hoài nghi về tính trung thực của một câu trích (và dịch) được gán cho Alexandre de Rhodes, “anh em trong ban văn hoá văn nghệ báo Lao động đã bỏ công sưu tầm tài liệu” và “tìm mỏi mắt không thấy có trong bất kỳ bản viết nào của chính Alexandre de Rhodes!”. Ông cũng cho biết rằng “người có công phát hiện câu trích ấy là một nhà nghiên cứu tên tuổi”, và sau nầy, “vị có công đó lên tới chức Viện trưởng Viện Tôn giáo!”. Tôi tự hỏi sao báo Lao động (và riêng cá nhân ông Hoàng Hưng), ngay từ đầu, không liên lạc thẳng với tác giả (hay nhiều tác giả) của câu trích (và dịch) đó để được xác nhận nguồn gốc trích dịch, trước khi... bỏ công sưu tầm  tìm mỏi mắt! (nhưng có tìm trong cuốn Hành trình và truyền giáo của A. de Rhodes không?) Như vậy, vừa khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc, nhưng quan trọng hơn cả, vừa tôn trọng và chứng tỏ được thái độ công bằng và khách quan với cả hai đương sự, “người dịch thuật” lẫn “kẻ hoài nghi”.
  • Trong đoạn trích dẫn ở trên, ông Hoàng Hưng có cho biết “Câu trích này thậm chí đã được kẻ lên bảng treo trong Bảo tàng Lịch sử ở Hà Nội” và “cuối cùng biết được rằng câu trích tai hại kia là rút từ cuốn hồi ký của một thuyền trưởng người Pháp nào đó”. Là một người quan tâm đến cố đạo Alexandre de Rhodes và chữ Việt La-tinh hoá (mà rất nhiều người Việt chúng ta từ lâu quen gọi là Quốc ngữ), tôi đề nghị ông Hoàng Hưng, khi về lại nhà để có trong tay tư liệu để trích lục, công bố nguyên văn câu ở Bảo tàng Lịch sử Hà Nội và nguồn gốc cuốn hồi ký cũng như tên ông thuyền trưởng người Pháp nào đó. Xin nói rõ: đề nghị này hoàn toàn vì nhu cầu học thuật chứ không vì nghi ngờ tính trung thực của tác giả Hoàng Hưng.
Bây giờ tôi xin góp ý:

1. Tạm thời, về mặt trích dẫn, tôi xin tiếp cận bằng hai giả thuyết: (a) Có hai câu viết khác nhau đến từ hai tác giả khác nhau, nhưng nội dung thì hao hao giống nhau. Một của cố đạo A. de Rhodes, và một của ông thuyền trưởng người Pháp. Và (b), chỉ có một câu của cố đạo A. de Rhodes mà thôi. Giả thuyết nào đúng có lẽ phải chờ ông Hoàng Hưng công bố tài liệu chúng ta mới đối chiếu và kết luận được tính chính xác của câu trích và dịch ở Bảo tàng Viện Hà Nội?

Sở dĩ cố đạo A. de Rhodes hiện diện trong cả hai giả thuyết (giống ông thuyền trưởng hay chính A. de Rhodes), mà từ và do đó ông Hoàng Hưng đã mỉa mai gọi là “lưu hành suốt mấy chục năm trời ở miền Bắc trong hầu hết công trình viết về lịch sử xâm chiếm Việt Nam của thực dân Pháp” và “là một dẫn chứng tuyệt vời cho nhận định các nhà truyền giáo Gia tô là những kẻ mở đường cho các đạo quân xâm lăng!” là vì chính ông cố đạo này chứ không phải ai khác, đã là tác giả của một câu viết trong cuốn Divers voyages et missions (Hành trình và truyền giáo, bản dịch của linh mục Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên, Ủy ban Ðoàn kết Công giáo Thành phố Hồ Chí Minh, xuất bản năm 1994). Nguyên văn câu viết ở trang 263 như sau: 


Tôi tưởng nước Pháp là một nước đạo đức nhất thế giới, nước Pháp có thể cung cấp cho tôi mấy chiến sĩ đi chinh phục toàn cõi Ðông phương, đưa về qui phục Chúa Kitô và nhất là tôi sẽ tìm được các giám mục, cha chúng tôi và thầy chúng tôi trong các giáo đoàn. Với ý đó, tôi rời bỏ Rôma ngày 11 tháng 9 năm 1652 sau khi tới hôn chân Ðức Giáo hoàng.” 

Ngoài ra, ở trang 264, A. de Rhodes còn viết tiếp:


“Trên đường từ Lyon tới Paris tôi nghiệm thấy có sự quan phòng rất đặc biệt của Chúa tôi vẫn coi như kim chỉ nam và mẫu mực. Ðể ra mắt ở Pháp tôi cần có thiên thần hộ vực đểđưa tôi lọt vào triều đình vua cao cả nhất hoàn cầu. Thế là tôi gặp ở Roanne đức Henri de Maupa, giám mục thành Puy, tu viện trưởng Saint Denis, đệ nhất tuyên úy của Hoàng Hậu. Ngài có nhã ý cùng đi với tôi trong cuộc hành trình nhỏ bé nầy.” (Chữ đậm là của BK.) 

Ngoài chuyện linh mục Hồng Nhuệ, theo tôi, có thể vì tình cảm tôn giáo mà cố tình dịch sai nguyên bản hai chữ “plusieurs soldats” của A. de Rhodes thành “mấy chiến sĩ” (thay vì “nhiều lính chiến”) tại vì trong tiếng Pháp, “plusieurs” được hiểu là nhiều, còn muốn hiểu là mấy thì A. de Rhodes đã dùng chữ “quelque”, và cụm từ “la conquête de tout l’Orient” Hồng Nhuệ cũng cố ý dịch và chú thích sai là “Nước cha trị đến” mà đúng nghĩa phải dịch là “Thống trị toàn cõi Ðông phương”. Chúng ta còn thấy thêm hai điều:

  • Câu “mấy chiến sĩ đi chinh phục toàn cõi Ðông phương” của A. de Rhodes có vẻ... hao hao giống câu “Chúng ta là những người lính... chúng ta có bổn phận đi mở mang bờ cõi” mà ông Hoàng Hưng nhớ mang máng khi đọc tại Bảo tàng Lịch sử Hà Nội.
  • Nội dung của phần trích dẫn ở trang 264 của A. de Rhodes (nhờ đệ nhất tuyên úy của Hoàng Hậu vận động để đưa tôi lọt vào triều đình vua) thì hoàn toàn phù hợp với nhận định đúng đắn rằng “truyền giáo đưa đến xâm lăng”, nhưng ông Hoàng Hưng thì lại mỉa mai rằng “là một dẫn chứng tuyệt vời cho nhận định các nhà truyền giáo Gia tô là những kẻ mở đường cho các đạo quân xâm lăng."

2. Theo ông Hoàng Hưng, vì xác định sai nguồn trích dẫn (đáng lẽ là từ hồi ký của thuyền trưởng Pháp nào đó thì lại nhầm thành của A. de Rhodes) nên “ác thay, nó là lý do chính khiến cho tượng, bia kỷ niệm, tên phố của vị công thần với văn hoá Việt Nam (người góp phần quan trọng tạo ra chữ Quốc ngữ) đã bị xoá bỏ”.

Tuy nhiên, A. de Rhodes có phải là người góp phần quan trọng tạo ra chữ Quốc ngữ không? Ta hãy để chính A. de Rhodes tự cải chính lấy điều mà hậu thế chúng ta, vì vô tình hay có hậu ý nào đó, cứ sai lầm gán cho ông. Trong mấy dòng đầu của cuốn Từ điển Việt-Bồ-La (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh, 1991, trang 3, phần Việt ngữ), ông viết như sau:


Quyển từ điển tam ngữ này, gồm tiếng An Nam, Bồ Ðào Nha và La tinh tôi đặt nó vào trong tay và để trước mắt bạn được, là nhờ vào sự tài trợ của Thánh bộ Truyền bá Ðức tin...

Tuy nhiên trong công việc nầy (soạn chữ quốc ngữ, BK) ngoài những điều mà tôi học được nhờ chính người bản xứ trong suốt gần mười hai năm thời gian mà tôi lưu trú lại hai xứ Cô-sinh (Ðàng Trong, BK) và Ðông Kinh (Ðàng Ngoài, BK) thì ngay từ đầu tôi đã học với Cha Francisco de Pina người Bồ Đào, thuộc Hội Dòng Giê-su rất nhỏ bé chúng tôi, là thầy dạy tiếng, người thứ nhất trong chúng tôi rất am tường tiếng nầy, và cũng là người thứ nhất bắt đầu giảng thuyết bằng phương ngữ đó mà không dùng thông ngôn, tôi cũng sử dụng những công trình của nhiều Cha khác cùng một Hội Dòng, nhất là của Cha Gaspar de Amaral và Cha Antonio Barbosa, cả hai ông đều đã biên soạn mỗi ông một cuốn từ điển: ông trước bắt đầu bằng tiếng An Nam, ông sau bằng tiếng Bồ Ðào, nhưng cả hai ông đều chết sớm. Sử dụng công khó của hai ông tôi còn thêm tiếng La-tinh theo lệnh các Hồng y rất đáng tôn...” (phần nhấn mạnh là của BK). 

Rõ ràng A. de Rhodes không phải là người sáng chế ra chữ Việt La-tinh hoá, lại càng không phải là tác giả hoàn toàn của cuốn Từ điển Việt-Bồ-La (được Vatican xuất bản năm 1651), vì ông chỉ thêm tiếng La-tinh mà thôi.

Cho nên, dựng tượng, xây bia, đặt tên phố cho Alexandre de Rhodes, người góp phần quan trọng như ông Hoàng Hưng đánh giá, theo tôi, là phản học thuật, không có sử liệu. Nếu cần phải xác nhận người có công với chữ Việt La-tinh hoá, thì đó là Francisco de Pina, người thật sự có công nghĩ ra một văn tự hoàn toàn mới bằng mẫu tự La-tinh. Tiếp sau đó là Gaspar de Amaral (Từ điển An Nam – Bồ Ðào Nha) và Antonio Barbosa (Từ điển Bồ Ðào Nha–An Nam vàNhập môn Tiếng Ðàng Ngoài – Munuducio Ad Linguam Tunkinensem), hai người có công kiện toàn văn tự này. Còn A. de Rhodes chỉ dựa vào đó để góp công bồi đắp thêm mà thôi.

Ngoài ra, để làm rõ thêm, tôi xin đặt một giả thuyết lịch sử phản diện: Nếu gần 200 năm sau khi các vị này chế ra chữ Việt La-tinh hoá đó, không phải là thực dân Pháp mà “thực dân Bồ Đào Nha” xâm chiếm và đặt ách đô hộ lên nước ta, thì ông Hoàng Hưng nghĩ chính quyền thực dân Bồ Ðào Nha sẽ dựng tượng, xây bia, đặt tên phố cho ai? Hỏi như thế để ông Hoàng Hưng thấy rằng việc Pháp vinh danh A. de Rhodes như người sáng chế ra một văn tự mới thì không phải lúc nào cũng thuần văn hoá, thuần lịch sử đâu.

Tôi ngờ rằng chính quyền thực dân Pháp lúc bấy giờ vinh danh A. de Rhodes là còn vì hai lý do: Một là để ghi ơn vai trò vận động đặc biệt của vị cố đạo này trong quá trình khai sinh chế độ thực dân tại Việt Nam. Và hai là biểu diễn một chiến thắng văn hoá trong cuộc tranh giành ảnh hưởng bá quyền và thần quyền giữa hai nước Pháp và Bồ trong thế kỷ thứ XVI.

3. Tuy nhiên, phần góp ý số 2 ở trên là chỉ để tranh biện với ông Hoàng Hưng về “công” của A. de Rhodes mà thôi. Tại vì về mặt học thuật, ít nhất là cho đến nay (2006), người đầu tiên thật sự sáng nghĩ ra chữ Việt la-tinh hoá một cách quy mô thì đã được xác định rõ ràng: Không phải là hai ông Gaspar de Amaral và Antonio Marbosa nói trên, lại càng không phải là Alexandre de Rhodes, mà là một giáo sĩ Bồ Đào Nha khác tên là Francisco de Pina mà A. de Rhodes đã có nhắc đến nhưng người Việt ta thì lại... cố tình quên.

Tôi xin trích đăng một phần bài viết “Ai là người thật sự sáng chế ra chữ Quốc ngữ” (Tạp chíHuế, Xưa & Nay số 62 tháng 3-4/2004) của nhà nghiên cứu Nguyễn Phước Tương mà chúng tôi, trong giới hạn của mình, đã kiểm chứng tính trung thực của các dữ kiện:


“Thời Pháp thuộc, người Pháp tuyên truyền rằng giáo sĩ Alexandre de Rhodes đã có công sáng chế chữ Quốc ngữ. Nhưng theo nghiên cứu của nhà ngôn ngữ học người Pháp Roland Jacques thì người có công đầu nầy chính là giáo sĩ Bồ Ðào Nha Francisco de Pina.

Roland Jacques đã bỏ ra hàng chục năm để nghiên cứu vấn đề nầy và đến cuối năm 1995. ông đã công bố chuyên luận “Công trình của một số nhà tiên phong Bồ Ðào Nha trong lĩnh vực ngôn ngữ học Việt Nam cho đến năm 1650”. Ðến năm 2002, công trình được tái bản có bổ sung bằng song ngữ Pháp-Anh.

Sau nhiều năm tìm kiếm trong hàng vạn trang viết về Ðàng Trong ở thế kỷ 17-18 còn được lưu trữ tại Thư viện Hoàng gia của cung điện Ajuda ở thủ đô Lisbonne, ông may mắn phát hiện được một bức thư viết dở, dài 7 trang, của giáo sĩ Francisco de Pina vào đầu năm 1623 gửi cho khâm sai Jéromino Rodriquez ở Macao, báo cáo về công việc truyền giáo và Latinh hoá tiếng Việt.

Giáo sĩ Francisco de Pina đến Ðàng Trong vào đầu năm 1617, đặt chân đầu tiên ở Ðà Nẵng, sau đó vào giữa năm này, đến truyền đạo ở cảng thị Hội An. Ðầu năm 1618, ông chuyển đến Nước Mặn, Quy Nhơn. Ðến đầu năm 1621, ông quay lại truyền đạo ở Hội An cho đến đầu năm 1625. Giáo sĩ A. de Rhodes đến Hội An năm 1624 và học tiếng Việtvới ông tại đây.

... Trong bức thư viết vào đầu năm 1623 nói trên, Francisco de Pina đã viết: “Về phần tôi, tôi đã biên soạn một chuyên luận nhỏ về từ vựng và các thanh của ngôn ngữ này (tức tiếng Việt) và tôi đang bắt tay viết về ngữ pháp. Tuy nhiên, tôi cũng đã tập hợp được những cổ tích, thuộc nhiều loại khác nhau, nhằm cung cấp các trích dẫn của các tác giả để xác minh nghĩa của các từ và các quy tắc của ngữ pháp, cho đến nay tôi có thể yêu cầu một người nào đó đọc để tôi phiên dịch sang các chữ Bồ Ðào Nha (tức chữ La tinh)... Ngoài ra, tôi đã có ba bốn cuốn tập hợp các bài viết có lý luận trong số các bài viết hay nhất mà tôi tìm thấy được ở Vương quốc nầy.”

Những điều Francisco de Pina đã viết trước khi Alexandre de Rhodes đến Ðàng Trong một năm cho thấy ông đã tiến hành việc La tinh hoá tiếng Việt chậm nhất là vào năm 1622, và đã tạo ra những cuốn sách viết bằng chữ Quốc ngữ sớm hơn bất kỳ một giáo sĩ Tây phương nào đến Ðàng Trong lẫn Ðàng Ngoài.

... Sau khi người Thầy Francisco de Pina qua đời, các công trình La tinh hoá tiếng Việt đầu tiên của ông đã vào tay người học trò Alexandre de Rhodes và ông nầy đã mang theo khi ra Ðàng Ngoài năm 1627.

... Về việc người Việt có tham gia trong sự phát minh chữ Quốc ngữ, theo Roland Jacques, gồm hai nhóm: Thứ nhất là giới trí thức gồm có các thầy đồ, sư sãi, các trưởng tông phái (đạo Lão, đạo Khổng,...), quan lại hưu trí và sĩ tử là những người giỏi tiếng mẹ đẻ, am hiểu nền văn hoá dân tộc. Nhóm thứ hai gồm các phiên dịch là thanh niên giáo dân biết tiếng Bồ Ðào Nha. La tinh giúp giáo sĩ truyền đạo. Và số người Việt nầy phải đông hơn gấp nhiều lần so với số các giáo sĩ.

... Ngày nay, các nhà ngôn ngữ học hiểu rất rõ nếu các giáo sĩ phương Tây không được sự hợp tác của người Việt thì không thể La tinh hoá tiếng Việt được. Bởi vậy Roland Jacques đã viết: “Chính cả Pina và các đồng nghiệp đã tập hợp được những người hợp tác có chất lượng mà nếu không có họ, mọi công trình ngôn ngữ học nghiêm túc sẽ không thể có được”. Và ông đề nghị: “Cần thiết phải đặt đúng vị trí việc làm của cá nhân Alexandre de Rhodes trong một công trình tập thể mà ông chỉ là một trong số nghệ nhân thứ yếu, trong đó người Bồ Ðào Nha và những người cạnh tranh ngang hàng Việt Nam của họ đã giữ vai trò hàng đầu”. 

Bài viết nầy của tác giả Nguyễn Phước Tương làm tôi suy nghĩ 2 điều:

  • Vai trò góp phần quan trọng tạo ra chữ Quốc ngữ của A. de Rhodes mà những người như ông Hoàng Hưng đang muốn nỗ lực xiển dương thì cần phải được đánh giá lại cho đúng. Nhất là nỗ lực đó nhằm "phục hồi nhân phẩm" cho ông cố đạo này như ông Hoàng Hưng viết, và lại còn (hàm ý) muốn dựng tượng, xây bia, đặt tên phố cho ông ta nữa.
  • Những khám phá mới của nhà ngôn ngữ học Roland Jacques được công bố năm 2002 trên toàn thế giới, sau đó được tác giả Nguyễn Phước Tương thông báo trong nước trễ nhất là năm 2004, thế mà đến năm 2006 (nghĩa là 2 năm sau), ông Hoàng Hưng có vẻ vẫn lập luận và mang tâm cảnh (mindset) dựa trên những thông tin lỗi thời của ông từ năm 1992. 

4. Như đã viết ở trong phần dẫn nhập và trong góp ý 1, về mặt học thuật, chúng ta đang chờ đợi ông Hoàng Hưng cho biết xuất xứ của các tài liệu, và còn vấn đề gì cần thảo luận thêm không? Tuy nhiên, dù là giả thuyết nào đúng, thì bàng bạc khắp bài viết ông Hoàng Hưng có vẻ như đã đóng chốt một kết luận về công và tội của ông cố đạo Alexandre de Rhodes này rồi.

Thật vậy, ông đưa ra 4 sự kiện có thật mà ông có vẻ mỉa mai không bằng lòng:

a. … tính xác thực của một câu trích dẫn Alexandre de Rhodes đã lưu hành suốt mấy chục năm trời ở miền Bắc trong hầu hết công trình viết về lịch sử xâm chiếm Việt Nam của thực dân Pháp

b. ... Quả là một dẫn chứng tuyệt vời cho nhận định các nhà truyền giáo Gia tô là những kẻ mở đường cho các đạo quân xâm lăng!

c. ... Câu trích này thậm chí đã được kẻ lên bảng treo trong Bảo tàng Lịch sử ở Hà Nội. Và ác thay, nó là lý do chính khiến cho tượng, bia kỷ niệm, tên phố của vị công thần với văn hoá Việt Nam (người góp phần quan trọng tạo ra chữ Quốc ngữ) đã bị xoá bỏ. 

d. ... Và người có công phát hiện câu trích ấy là một nhà nghiên cứu tên tuổi, các "nhà" khác sau đó cứ "ôtômatích" trích lại như một sự thật hiển nhiên. Được biết về sau vị có công đó lên tới chức Viện trưởng Viện Tôn giáo! 

Qua 4 câu đó, tôi có thể hiểu rằng, theo ông Hoàng Hưng, ông cố đạo Alexandre de Rhodes là người có công lớn với dân tộc ta (chí ít cũng là công thần với văn hoá Việt Nam), xứng đáng vinh danh trên toàn nước (thế mà tượng, bia kỷ niệm, tên phố của vị công thần với văn hoá Việt Nam... đã bị xoá bỏ).

Chắc không ai có thể đồng ý với một kết luận tùy tiện và đơn giản như thế được. Lịch sử cần sòng phẳng. Công thì khen, tội thì phạt. Công ít thì khen ít, tội nhiều thì phạt nhiều, không thể mập mờ được.

  • Công của ông cố đạo nầy thì đã quá rõ: Ông A. de Rhodes dứt khoát không phải là người đầu tiên sáng chế ra chữ Việt La-tinh hoá, nhưng ông đã cùng với các ông cố đạo Bồ Ðào Nha khác, cùng như cùng với những trí thức Việt Nam khác (thầy đồ, sư sãi, quan lại,...), góp phần chỉnh trang, hệ thống hoá và đặt nền móng cho tiếng Việt của chúng ta ngày nay. Và cái công tập thể đó thì chỉ giới hạn trong lãnh vực ngôn ngữ mà thôi, rõ ràng chưa xứng đáng để vì đó mà ta nâng chỉ mỗi mình ông cố đạo này lên thành công thần văn hoá, lại càng không xứng đáng để xây bia, đúc tượng, đặt tên đường như những vị danh nhân văn hoá khác của Việt Nam.
  • Huống gì khi mở rộng ra trên bình diện lịch sử dân tộc, tội của ông thì cũng đã quá rõ, và quá nặng: Ông Alexandre de Rhodes là ông cố đạo Pháp đầu tiên đã vận động chính quyền Pháp xâm chiếm nước ta với ý đồ làm cho hai chính sách truyền đạo của nhà thờvà đô hộ của nhà nước quấn quyện vào nhau trong một thế hỗ tương quyền lợi, dù ý đồ đó không thành tựu ngày ông nhắm mắt. Tuy nhiên chính vì “tiền lệ” đó mà sau này, những giáo sĩ Pháp như Pallu, De la Motte, Huc, Pellerin, Puginier,... đã triển khai để thành công trong việc thuyết phục, kế hoạch, và tiến hành cuộc xâm lăng nước ta và áp đặt nền đô hộ trên dân ta. 
Xin giới thiệu với ông Hoàng Hưng một vài đầu sách xuất bản tại nước ngoài, để ông tham khảo thêm về chủ đề nầy: Histoire moderne du pays d’Annam, Charles Maybon; Vietnam: History, Documents and Opinions, Marvin Gettleman; L’Empire Vietnamien face à la France et à la Chine, Yoshiharu Tsuboi; La place du Catholicisme dans les relations entre la France et le Vietnam de 1851 à 1870, Etienne Vũ Ðức Hạnh; Fire in the Lake, Francis Fitzgerald; Vietnam’s Will to Live, Helen Lamb; The New Face of the War, Malcolm Browne; Vietnam A History, Stanley Karnow; Vietnam, A Political History, Josepph Buttinger –– Rhodes đã làm gì cho Việt Nam, Trần Quý - Việt sử toàn thư, Phạm Văn Sơn; Việt Nam thời Pháp đô hộ, Nguyễn Thế Anh;Việt Nam Pháp thuộc sử, Phan Khoang; Ðạo Thiên chúa và chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam, Cao Huy Thuần; Thập giá và lưỡi gươm, Trần Tam Tỉnh; Lịch sử nội chiến Việt Nam, Tạ Chí Ðại Trường; Tìm về dân tộc và Tôn giáo và Dân tộc, Lý Chánh Trung; Histoire de la pénétration Francaise au Vietnam (1858-1897), Nguyễn Xuân Thọ, ...

Ngoài ra, cũng để xác định với ông Hoàng Hưng rằng quy luật “thập giá đi trước, lưỡi gươm theo sau” của giáo hội Vatican là nhất quán và có tính toàn cầu, xin lại giới thiệu với ông một số đầu sách khác để ông có một cái nhìn tổng thể hơn: The Vatican Empire, Nino Lo Bello;American Freedom and Catholic Power, Paul Blanshard; Pope, Premier, President, Roland Flamini; Catholicisme et sociétés asiatiques, Alain Forest & Yoshiharu Tsuboi; The Roman Catholic Church in Colonial Latin America, Richard E. Greenleaf; The Catholic Church in World Politics, Eric O. Hanson;The Missionaries: God Against the Indians, Norman Lewis; Catholic Imperialism and World Freedom  The Vatican's Holocaust, Avro Manhattan; Công giáo chính sử: 2000, Trần Chung Ngọc; The Politics of the Vatican, Peter Nichols; Christ or Evil? The Corrupt Face of Christianity in Africa, Anene Obianyido; The Holy Humbugs, Padchi;Missionaries, Julian Pettifer & Clive Prince; The Roman Catholic Church in Modern Latin America, Karl M. Schmit; Công giáo trên bờ vực thẳm, Charlie Nguyễn; The Keys of This Blood, Malachi Martin...

Cuối cùng, để kết thúc bài viết này, tôi cho rằng việc đặt lại tên đường và dựng tượng Alexandre de Rhodes cách đây mấy năm là một quyết định hoàn toàn sai lầm [1] của những người trách nhiệm về văn hoá và sử học của nước ta, cả trong lẫn ngoài nhà nước. Như hàng ngàn sai lầm khác trong quá khứ mà nhà nước và nhân dân đang từ từ sửa sai. Sự thật dù có bị chôn vùi hay bóp méo bằng những lớp bụi chính trị nhất thời và quyền lợi tôn giáo, thì cuối cùng vẫn là sự thật.

14.4.2006

© 2006 talawas 

Friday, 21 March 2014

Xuyên tạc lịch sử là mang tội (Nguyễn Văn Thịnh - Văn Nghệ Thành Phố Hồ Chí Minh)


THỨ TƯ, NGÀY 20 THÁNG 11 NĂM 2013


Xuyên tạc lịch sử là mang tội

NGUYỄN VĂN THỊNH

Báo Tuổi Trẻ thông tin: ngày 30/10 vừa qua, sân khấu cải lương Hà Nội ra mắt công chúng vở kịch “Nợ non sông” của soạn giả Phạm Quang Long. Nội dung vở diễn được giới thiệu như sau: “Vì lý do tế nhị nên các nhân vật chỉ được nêu danh tượng trưng như Phan Thượng thư, Hoàng thượng, Hoàng Thái hậu nhưng với người Việt Nam nào yêu sử khi cánh màn nhung vừa mở ra ai cũng biết ngay đó là những nhân vật lịch sử có thật như Thượng thư Phan Thanh Giản, vua Tự Đức, Hoàng Thái hậu Từ Dũ. Cuộc đời viên Thượng thư này gắn liền với câu chuyện lịch sử mất nước nổi tiếng: Năm 1862, Phan Thanh Giản đi sứ và ký vào hòa
Cụ Phan Thanh Giản
 ước dâng ba tỉnh Nam kỳ cho người Pháp. “Nợ non sông” khai thác nỗi đau của Phan Thanh Giản trong tấn bi kịch ấy. Vừa đi sứ về, Phan Thanh Giản từ một trọng thần trở thành tội thần. Cả gia đình ông lâm vào cảnh khốn đốn. Mối tình con trẻ tan vỡ. Bọn quan tham thừa cơ chiếm đoạt ngôi vị. Phan Thanh Giản thì sống trong lao tù với nỗi đau đớn vì giờ đây người đời sao có thể hiểu hết được tấm lòng trong sáng luôn tận trung yêu nước thương dân của ông. Bi kịch bao trùm không khí vở diễn. Nhiều khán giả lặng lẽ lau nước mắt trước cảnh Phan gia tan tác, trước nỗi niềm của Phan phu nhân trách chồng: Trước lúc đi sứ ông đã nói rằng nếu công vụ bất thành thì sẽ tử tiết để lưu danh muôn thuở. Vậy sao khi trở về ông lại mang cái tiếng Phan gia mãi quốc?!”Để rồi ân hận khi được chồng trao cho bản mật chiếu cầu hòa của hoàng thượng thì bà mới vỡ lẽ ra sự thật. Dù phải sống trong tù ngục mà Phan Thượng thư không có một lời nào oán thán giãi bày vậy mà ta thấy được cả tấm lòng trong sáng của bậc tôi trung, hy sinh cả thể diện cá nhân mình để bảo toàn thể diện cho đấng quân vương. Đặc biệt cảnh Hoàng Thái hậu Từ Dũ nghiêm khắc dặn con đừng bạc tình bạc nghĩa với kẻ tôi trung và đau đớn quỳ xuống tạ tội với non sông càng tôn lên giá trị cho Phan Thanh Giản”.
Trong lúc giới thanh niên đang dấy lên phong trào “Cùng thắp lên ngọn lửa yêu sử”, nhắc lại lời dặn của Bác Hồ:“Dân ta phải biết sử ta / Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” thì những ai yêu sử nước nhà không thể không đau lòng và công phẫn trước sự việc bóp méo lịch sử mà ngay cả dưới thời nước Việt Nam còn thuộc Pháp cũng không một cá nhân hay thế lực nào dám công nhiên trắng trợn làm như vậy. Đành rằng nghệ thuật được quyền hư cấu nhưng khi đề cập tới một nhân vật lịch sử cụ thể phải tuyệt đối trung thực với bản chất những việc làm của con người ấy và những sự kiện lịch sử ở thời đại ấy. Tạp chí Hồn Việt số 18 (tháng 12/2008) nhận định: “Phan Thanh Giản thì vẫn thế, vẫn còn đó nguyên vẹn những sự kiện đời ông, quanh ông; nhưng cái nhìn của một số người về ông đã khác. Lòng người thay đổi chứ không phải sự kiện lịch sử hay sử học phải thay đổi”. Chẳng lẽ lòng người thay đổi đến thành đồng lõa với phường bán nước?! Chẳng lẽ đạo đức xã hội xuống cấp tới mức mọi người đều “mắc kê nô” để cho công chúng bị đầu độc bởi những món ăn tinh thần do cái gọi là tự do trong văn hóa nghệ thuật đang táo tợn tác oai tác quái?
Về con người này, những tư liệu lịch sử rất phong phú còn rành rành đây đó, đặc biệt thư tịch nằm trong các kho lưu trữ ở mẫu quốc Pháp còn phong phú hơn trong các thư khố nước bản xứ một thời vong quốc.
Có thể lược sử Phan Thanh Giản như sau: Lúc 30 tuổi ông là người Lục tỉnh Nam kỳ đầu tiên đỗ Tiến sỹ; làm đại quan hơn 40 năm (1826-1867), trải ba triều vua Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức. Ngược tới Gia Long, có thể coi bốn triều vua này là thời kỳ hưng vượng nhất của vương triều Nguyễn - một nhà nước phong kiến tập quyền độc lập, cai quản một quốc gia thống nhất từ Bắc vào Nam trong điều kiện tương đối yên ổn, ngoại trừ những cuộc nổi dậy bởi những sự bất bình của nhân dân mà nhà nước chính thống nào cũng coi là bất chính, như loài giặc cỏ gây rối xã hội. Thế nhưng Phan Thanh Giản lại là người có công đầu với nước Pháp trong việc dối vua lừa dân, tích cực triệt tiêu lực lượng kháng chiến và tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Ngay từ buổi đầu đã đứng về phái chủ hòa dẫn tới chủ hàng. Từ việc lược quyền vua ký hàng ước nhục nhã 1862 để mất ba tỉnh miền Đông đến việc thông đồng với giặc, năm 1867 mở rộng cửa thành Vĩnh Long dâng nốt ba tỉnh miền Tây cho giặc, coi như xóa sạch công lao 300 năm các triều vua chúa Nguyễn mở mang bờ cõi ở phía Nam, đẩy nhanh quá trình xóa quốc danh Việt Nam trên bản đồ thế giới. Cái tội “mại quốc” cả trong sử sách và bia miệng lưu truyền không là quá đáng và không sao xóa được.
Thế nhưng có một thế lực từ sau khi nước nhà được thống nhất và hoàn toàn độc lập cứ âm mưu tái dựng Phan như một tấm gương lớn xả thân vì nước vì dân. Người yêu sử không thể làm ngơ trước một việc làm đổi trắng thay đen lịch sử tác hại tới truyền thống dựng nước và giữ nước của nhân dân ta như thế. Cần phải làm rõ những việc làm khuất tất của viên quan Thượng thư ấy trong lúc nước nhà nghiêng ngả.
Tháng 8 năm 1963 đã có một hội nghị chuyên đề lớn với sự đồng thuận cao của những nhà cách mạng và văn hóa, học giả lớn như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Giàu, Trần Huy Liệu, Nguyễn Khánh Toàn, Đào Duy Anh… đánh giá tổng quát: “Để mất nước, các vua nhà Nguyễn là chính phạm, các triều thần trong đó có Phan là đồng phạm. Riêng trong sự kiện hai lần dâng thành giao đất cho giặc để mất cả Nam kỳ thì Phan là chính phạm bởi tính bạc nhược, hèn nhát, thỏa hiệp với giặc. Chủ hòa thực chất là chủ nghĩa đầu hàng - Đó là bản chất của giai cấp phong kiến cầm quyền lúc suy vi”. Thiết nghĩ đó là sự đánh giá rất độ lượng, có thể tình đúng mức do yêu cầu lịch sử lúc đó.
Tuy nhiên tháng 8/2008, trong Hội nghị Sử học tại Thanh Hóa với chủ đề đánh giá về vương triều Nguyễn do các ông Phan Huy Lê và Dương Trung Quốc lèo lái, dưới cái tinh thần gọi là đổi mới, nhiều nhân vật và sự kiện lịch sử được đưa ra bàn luận và có những ý kiến trái hẳn với nhận định trước kia. Dù chưa phải là sự đồng thuận của xã hội, hơn nữa của Nhà nước để được coi như là chính thống, những ý kiến còn mang tính một chiều như thế đã được tức thời phổ biến trên các phương tiện truyền thông, tung hỏa mù coi như lịch sử đã đổi chiều! Người ta lợi dụng câu nói của ông Võ Văn Kiệt: “Mỗi người yêu nước theo cách của mình. Đừng bắt Phan Thanh Giản yêu nước theo cách của Trương Định và ngược lại” mà cố tình không nhắc lại câu nói của nhà cách mạng tiền bối cũng là nhà văn hóa khả kính Phạm Văn Đồng trước đó: “Giá như triều đình lúc bấy giờ không phải ở trong tay bọn vua chúa nhà Nguyễn phản bội và đầu hàng, mà ở trong tay những người kế tục của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, kế tục sự nghiệp yêu nước và anh dũng của Nguyễn Huệ, thì phong trào kháng Pháp lúc bấy giờ ở Nam bộ chắc còn mạnh mẽ hơn nhiều”. Những nhận định trái chiều của hai nhà lãnh đạo quốc gia không phải là vô hại cho văn hóa nước nhà! Số người cơ hội vội cho đúc tượng đồng đại quan Phan đưa lại vào đền thờ các vị thánh sư (!), bày ra giữa sân trường cho con trẻ học (!) và còn mưu dựng tượng quan đứng nghênh ngang trên dải đất mà ông đã dâng hiến cho giặc còn thấm đẫm máu xương các anh hùng nghĩa sỹ và những thế hệ con cháu họ. Có vị viết sách hùng hồn: “Từ giờ trở đi nhân dân Việt Nam khỏi phải mất công tranh cãi nhau dài dòng về tư cách tốt xấu của cụ Phan Thanh Giản nữa”! Có ông nhà văn nói như đinh đóng cột: “Chúng ta đã trả lại đúng giá trị cho Phan Thanh Giản”! Và bây giờ thì người ta đưa Phan lên sân khấu với diện mạo khác hẳn để lợi dụng lòng trắc ẩn của người xem! Hẳn nhiên làm rối loạn nhân tâm và bị dư luận công chính phản đối.
Hầu như cả năm 2009, một số tờ báo, đặc biệt là tuần báo Văn nghệ TP.HCM có nhiều bài viết vạch ra bản chất tiêu cực của triều Nguyễn, trong đó chỉ rõ thực chất phản dân hại nước của con người này. Kết cục là ngày 16/4/2009, Văn phòng Ban Chấp hành TWĐCSVN ra thông báo số 7098-CV/VPTW gửi Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Cán sự Đảng bộ Thông tin và Truyền thông, nêu rõ ràng:
“Ban Bí thư có ý kiến chỉ đạo như sau:
- Việc đánh giá về các chúa Nguyễn và các vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam phải theo các quan điểm trong chính sử (các tài liệu lịch sử chính thức được sử dụng hiện nay); giao Ban Tuyên giáo Trung ương chỉ đạo Hội Sử học VN, các cơ quan thông tấn, báo chí không trao đổi, tuyên truyền những vấn đề liên quan đến chúa Nguyễn và các vương triều Nguyễn…
- Tỉnh ủy Bến Tre tạm dừng các hoạt động, công trình liên quan đến cụ Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký…”.
Nhà đương cuộc Pháp ở Sài Gòn tiếp sứ bộ Phan Thanh Giản trước khi phái đoàn sang Pháp (1863)
Tưởng rằng trong bộn bề công việc rối ren, người ta dồn tâm sức làm những việc thiết thực ích nước lợi dân mà trái lại càng làm rối thêm sự ổn định cần thiết của xã hội để đạt những mưu đồ đen tối.
Nói về Phan Thanh Giản mà chỉ khai thác góc bi ở giai đoạn đầu ký hòa ước Nhâm Tuất là chưa đủ vì càng về sau bản chất hèn hạ của con người này càng bộc lộ không thể giấu ai nên nhà ái quốc Phan Bội Châu có cơ sở để nói Giản là hạng người “gan dê lợn mà mưu chuột cáo”! Những tình tiết trong kịch bản là hoàn toàn bịa đặt nhằm mục đích duy nhất là bốc thơm viên quan phản trắc. Chỉ sau bốn năm quân Pháp với lực lượng ít ỏi đánh chiếm Trung kỳ không được đành quay vào đánh chiếm mấy thành lũy phía Nam. Giữa lúc bị mắc kẹt ở mặt trận nam Trung Hoa, tư lệnh quân viễn chinh Pháp Bonard dùng kế hoãn binh, cho người ra Huế yêu cầu cử phái đoàn vào Nam hội nghị với yêu cầu bàn chuyện giảng hòa và Nam triều bồi thường chiến phí. Trong tình thế chính triều thối nát, loạn lạc khắp nơi, nhân tâm ly tán lại thêm sự bành trướng của giáo hội Thiên Chúa cùng với đám vua quan triều Nguyễn bạc nhược cầu an mà Tự Đức là ông vua nhu nhược chỉ quẩn quanh với mấy vần thơ phú và chăm lo việc xây lăng tẩm cho mình, ngay từ đầu đã chao đảo nghiêng về phái chủ hòa do Hiệp biện đại học sỹ Lễ bộ thượng thư kiêm quản Hộ bộ sung Quốc sử quán tổng tài, kiêm lãnh Quốc tử giám Phan Thanh Giản cầm đầu. Nên khi quân Pháp yêu cầu nghị hòa thì vua sung cho Phan chức nghị hòa chánh sứ cùng Binh bộ thượng thư Lâm Duy Hiệp làm phó sứ.
Trước khi đi thương nghị, Phan - Lâm được vua Tự Đức ban ngự tửu và tuyên chỉ“Phàm mọi chi tiết như thù đáp giao ước về việc nghị hòa cần phải cẩn thận. Thêm nữa nên cố gắng đạt đến việc đình chiến, ngõ hầu xứng đáng với nhiệm vụ khanh được giao phó”. Nhà vua gửi gắm cả vận mệnh quốc gia với mệnh đế vương của mình vào tay viên cận thần già tin cẩn: “Đất nước hôm nay đang bị dồn vào ngõ cụt khó khăn. Muốn đưa nó thoát ra, chỉ có bàn tay của những người tôi trung tài năng tận tụy. Có hai điểm cơ bản các khanh cần luôn ghi nhớ: Vấn đề nhường đất và vấn đề hành đạo Cơ đốc giáo. Về hai điểm quan trọng hàng đầu ấy, các khanh đừng nhẹ dạ trong việc ký kết. Đừng vì một sự yếu đuối hay vội vàng nào đó mà làm thiệt hại đến vận mệnh và danh dự của cả giang san đang được giao phó vào tay các khanh. Các khanh phải xác định đinh ninh như vậy và dù bất cứ vì lý do nào và bất cứ giá nào cũng đừng đi trệch cái chương trình đã vạch. Các khanh đi! Và cầu cho những lời ước nguyện của Trẫm luôn luôn theo bước các khanh. Cầu mong cho các khanh được sớm trở về đầy vinh quang vì đã bảo vệ danh dự của non sông và giữ gìn được sự vẹn tròn lãnh thổ. Đây là lời cầu chúc duy nhất của Trẫm cho các khanh trước lúc lên đường”!
Một tháng sau, bầy tôi trở về với bản hòa ước trong tay gồm 12 điều khoản, trong đó khoản 3 ghi rõ ba tỉnh miền Đông là Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và đảo Côn Lôn được nhượng đứt cho nước Pháp cùng những điều khoản bồi thường bất công rất chi là nhục nhã! Ngay lập tức nhân dân cả nước phẫn nộ kết tội “Phan - Lâm mại quốc” và các phong trào yêu nước tiếp nhau nổi lên chống Pháp đều coi việc làm của Phan như một vết nhơ lịch sử! Người phương Nam đương thời để lại câu ca dao lưu truyền trong dân chúng: “Thà thua xuống láng xuống bưng / Kẻo ra đầu giặc lỗi chung quần thần”. Vua Tự Đức than trời: “Ôi! Con dân mấy triệu, tội gì mà khổ thế? Thật là đau lòng. Hai người không những chỉ là tội nhân của triều đình mà còn là tội nhân muôn đời của hậu thế”!
Vậy là chính những người đương thời từ triều đình tới thần dân đều đã công khai kết tội Phan - Lâm bán nước! Chẳng thể gọi là bị ép oan để bày chuyện chiêu tuyết cho con người ấy.
Trước sự đã rồi, vua và triều thần đành vớt vát bằng việc giao cho Phan cai quản Vĩnh Long và Lâm cai quản Khánh Thuận ở hai đầu giáp ranh ba tỉnh miền Đông để có điều kiện giao tiếp với người Pháp ở Gia Định, ngõ hầu bắc mối giao lưu thân thiện Đông - Tây, tiến tới có thể chuộc được lỗi lầm. Quan đô hộ thuộc quốc trở về chính quốc. Phan lại được vua giao làm Chánh sứ qua Y-pha-nho và Pháp xin chuộc lại những gì đã mất với lời ủy thác:“Đất ba tỉnh này là xương máu của dân, chuộc lại là chuộc tội cho ta để cho dân thỏa lòng nguyện vọng”Phan hứa mập mờ: “Nếu có thể đem đổi ngói lấy vàng thì lúc nào thần cũng sẵn sàng”! Sau nửa năm lênh đênh trên biển, chầu chực Pháp hoàng Napoléon III, dâng nhiều cống vật mà vẫn trở về trắng tay và bộc lộ ra tâm địa của viên quan bạc nhược trước sức mạnh của quân cướp nước: “Sự giàu có, mạnh mẽ và các việc khôn khéo của nước Pháp nói ra không hết”! Thì ra với Phan Thanh Giản “ngói” đây là mảnh đất ba trăm năm nhân dân ta cùng tiền triều nhà Nguyễn đổ bao mồ hôi xương máu dày công khai phá và “vàng” đây là sự yên ổn để vua tôi ngồi yên ghế vị mặc cho dân chúng lâm vào cảnh nô lệ điêu linh! Vì việc thương lượng với Pháp xin hồi lại đất không thành Phan Thanh Giản mới bị vua Tự Đức phạt tội “cách lưu”! Tuy nhiên Phan không tỏ ra ăn năn chuộc lỗi tìm cách gỡ ra thế bí, trái lại rất tích cực hỗ trợ cho quân chiếm đóng mau chóng bình định mảnh đất phương Nam bằng những việc làm mà anh linh tổ tiên không thể dung tha như thẳng tay đàn áp và khống chế những thủ lĩnh nghĩa quân bất phục tùng thi hành hiệp ước mà anh linh tiên tổ không thể dung tha! Ông ta một mặt chỉ điểm cho giặc về những người yêu nước, một mặt dâng sớ về triều xin trị tội, thuyên chuyển khỏi nơi cứ địa hoặc cách chức những chủ soái nghĩa quân như Trần Văn Thành, Trịnh Quang Nghị, Võ Di Nguy, Trương Định… Người Pháp dự đoán dưới sức ép của phe chủ chiến, có khả năng Phan sẽ đào tẩu chạy về Sài Gòn tị nạn!
Năm 1865, trong khi đối phương “sắp đặt trước rất chu đáo” mà quan Tổng đốc Vĩnh Long đã mật tâu với triều đình về tình hình nguy ngập ở ba tỉnh miền Tây và xin cử một người có đủ “uy tín” với Pháp để trấn thủ nơi đây. Vua Tự Đức phục chức cho Phan Thanh Giản và sung Kinh lược sứ trấn ba tỉnh miền Tây với lời căn dặn “không khuất phục tình hình một cách thụ động”. Suốt mấy năm được giao trấn thủ tiền phòng trong tình thế thịt treo trước miệng hổ vuốt mèo mà Phan chểnh mảng việc quân ngoài một việc tích cực hợp tác với giặc đàn áp chế ngự phong trào kháng Pháp. Phan đã bắn tin cho giặc: “Bản chức sẽ không ngăn cản sự xâm lược bằng một sự kháng cự mà chúng tôi hiểu là vô ích” và nói hoạch toẹt ra: “Nếu quý quốc lấn tới, quả nhân không chống cự”! Đến khi thấy đoàn tầu thuyền nhà binh Pháp đậu kín trước thành Vĩnh Long “là một thành khá kiên cố, địa thế rất dễ phòng thủ”và tướng giặc cho người mang thơ nói toạc ra ý họ “quyết định chiếm ba tỉnh miền Tây Nam kỳ vì lý do các quan quân triều đình ở đây ủng hộ phong trào chống Pháp”, Phan ra lệnh không kháng cự và dẫn đám thuộc hạ xuống tầu trách yêu giặc “vin cớ nhỏ mọn mà làm tổn thương đại nghĩa” (!) và ngọt nhạt đẩy đưa: “Tôi có quyền giữ đất chớ không có quyền giao đất. Xin cho tôi hỏi lại ý kiến triều đình”! Ông Tiến sỹ đầy bụng chữ thánh hiền hẳn biết rõ trong binh thư tướng ngoài biên ải được quyền “tiền trảm hậu tấu” đó sao? Và khi thầy trò trở lên bờ thì lũ sài lang kia thừa dịp kéo vào chiếm thành mà không tốn một viên đạn! Thế mà tin phao lên quan Kinh lược sứ bị giặc lừa cũng lọt được vào tai người nghe mới lạ! Sau đó quan Khâm sai viết công thư - thực chất là thư dụ hàng như ông đã từng làm mấy lần bất thành với Trương Định, gửi các quan tướng giữ thành An Giang và Hà Tiên với lời lẽ không tìm thấy ở đâu trong lịch sử: “… Người nào thuận theo lòng trời thì còn, người nào nghịch theo lòng trời thì chết mất. Trời đã cho con người có lý trí. Con người phải sống tùy theo ý chí ấy. Chúng ta yếu ớt không thể chống nổi người Phú-lang-sa, tướng soái lính tráng đều bị đánh bại. Người Phú-lang-sa muốn đến đâu cũng đặng. Không người nào có thể chống lại. Mình còn ngốc khi mình đánh người Phú-lang-sa bằng vũ khí, cũng như con nai muốn bắt con cọp. Các quan văn cũng như các tướng võ hãy bẻ gãy giáo gươm và giao thành trì khỏi chống lại”! Ông ta biện lẽ: “Bản chức tùy theo thiên ý mà tránh đỡ giùm dân đen tai họa rớt trên đầu họ” và khuyên dụ dân hãy tin vào giặc vì “những người này chỉ đáng sợ trong lúc chiến tranh mà thôi”! Đó là sự dối trời lừa dân có một không hai. Thế là chỉ trong 5 ngày cả ba tỉnh thành hừng hực khí thế chống ngoại xâm bỗng lọt vào tay giặc. Viên Đại tá Thomazi hoan hỷ viết trong nhật ký: “Đến tháng 6/1867, binh lính ta đi chơi một bữa thế là xong hết cuộc chinh phục toàn xứ Nam kỳ, công cuộc khó nhọc bắt đầu từ năm 1858”. Có thật là viên quan già lọc lõi này bị lừa chăng? Để tránh họa binh đao chết chóc lại đẩy dân đen con đỏ xuống hầm tai họa thì làm sao sống được? Khi giặc đã hoàn toàn bội ước thì sao quan Khâm lược chẳng những đã dễ dãi giao thành lại ngoan ngoãn lệnh cho thuộc hạ mở rộng cửa kho và ngân khố lấy lúa gạo và tiền nộp thêm cho quân phản phúc gọi là thanh toán bồi thường 5 năm chiến phí theo cái gọi là hòa ước 1862! Người học chữ thánh hiền nào chẳng biết lời dạy của Thánh nho: “Chữ tín mà bị ép thì không cần giữ”!

**

Rõ ràng là chủ mưu đầu hàng đã thành ý thức chủ đạo trong tim óc viên đại thần lá mặt lá trái này và các nhà sử học có đầy đủ tư liệu về tội ác của giặc Pháp trong gần một trăm năm đô hộ nước ta, chúng có để dân ta sống yên mà làm ăn no ấm?
Bốn tháng sau, ngày 21/10/1867 vua Tự Đức ra chỉ dụ: “Đến như Phan Thanh Giản thì thủy chung đều quanh quất, lời nói không theo được việc làm, đem học vấn danh vọng một đời trút sạch ra bể Đông, thật là táng tận lương tâm, quá đỗi phụ ơn. Mặc dù đã lấy cái chết tự phạt nhưng cũng chưa đủ đền bù cho trách nhiệm nên Trẫm đem giao cả cho Tôn nhân Phủ và đình thần xem xét công tội để bàn định việc xử trí”. Và bản án ngày 17/4/1868 của các triều thần nghị xử rằng: “ Viên Kinh lược sứ cũ là Phan Thanh Giản khi việc xảy ra rồi tự thấy nghĩa vụ không thể sống được đành tìm lấy một cái chết, còn thì ngoài ra chỉ thấy muối mặt với cái sống thừa, đợi dịp trở về lấy làm hân hạnh! Đối với trách nhiệm giữ gìn đất đai mà lại ươn hèn đến thế, sẽ phải phân biệt xử trị để răn khí tiết bề tôi và để nhân tâm có bề phấn chấn mới phải. Trước hết cách chức và truy thâu lại phẩm hàm và ghép vào tội xử trảm giam hậu”. Cùng năm đó vua Tự Đức bút phê “truy đoạt chức tước, phẩm hàm và đục bia Tiến sỹ, để lại muôn đời cái án trảm hậu” với Phan Thanh Giản!
Tuy nhiên bên sự đánh giá chính thống như thế vẫn có những thế lực bênh vực thậm chí còn bốc thơm đơm đặt đủ điều cho nên con người ông, việc làm của ông, cái chết của ông vẫn là đề tài cho hậu thế tranh cãi dài dài. Vậy những ý kiến trái chiều kia có tự bao giờ và xuất phát từ đâu? Thật ra khi người Pháp đem quân xâm chiếm Việt Nam thì lực lượng họ không phải là quá mạnh, chiến trường xa lại rải quân phân tán trên địa bàn rất rộng mà nội tình vương triều Paris cũng lắm chuyện rối ren. Thế nhưng bối cảnh xã hội Việt Nam lúc đó cực kỳ bê bối. Triều đình thì hủ bại. Dù khí thế yêu nước của dân chúng rất cao nhưng không có chỗ dựa và không hợp thành một liên minh chặt chẽ. Trong khi bộ máy chiến tranh của Pháp dày dặn kinh nghiệm đối phó, lợi dụng những yếu tố xã hội và con người ở các quốc gia xa xôi lạc hậu thì những người như Phan Thanh Giản là tác nhân thúc đẩy mau chóng quá trình mất nước, tất nhiên lọt vào tầm ngắm để đội quân viễn chinh ấy khai thác và điều khiển bằng đủ những mưu mô thâm trầm xảo quyệt. Cuộc chiến xâm lược xứ An Nam xa xôi không được triều đình Paris tập trung ủng hộ bởi quan ngại chông gai chưa chắc thắng nhưng lại sớm thu được thắng lợi trọn vẹn mà ít hao người tốn của. Đương nhiên những người như Phan được coi như có công đầu với đội quân viễn chinh xâm lược Pháp. Khi ông ta chưa chết, Bộ chỉ huy quân sự Pháp ở Sài Gòn đã cử thầy thuốc và cố đạo đến chăm cả phần xác lẫn phần hồn. Sau khi Phan trút hơi thở cuối cùng thì Phó thủy sư Đề đốc Thống soái Nam kỳ De Lagrandière lại chu đáo cho tàu kéo và một toán lính kèn và lính tiêu binh hộ tống thi hài ông về tận nơi an táng ở cố hương đúng theo nghi thức truyền thống nhà binh Pháp, đồng thời gửi thư chia buồn và hết lời khen: “Nơi triều đình Huế trừ một mình ngài thấy rõ đâu là ích nước lợi dân. Người Pháp quốc hằng bền một lòng tôn trọng quan lớn Phan Thanh Giản và gia đình của ngài. Bổn trấn hứa sẽ hết lòng bảo bọc cho con cháu ngài hoặc muốn ra mà giúp việc nhà nước hay là muốn tước lộc chi thì bổn trấn cũng vui lòng ban ơn theo như ý”. Và người Pháp đã làm đúng như lời hứa. Ngay cả khi hai con ông là Phan Liêm và Phan Tôn có cầm súng chống Pháp một thời gian nhưng thua trận và bị bắt, người Pháp cũng rộng lòng tha và giao cho triều đình An Nam trọng dụng. Tất nhiên lại cầm binh đi đánh những người Việt Nam “nổi loạn”! Tên tuổi ba cha con họ Phan đều được nhà nước thực dân – tất nhiên là cả chính quyền bản xứ lệ thuộc “bảo tiết tôn vinh” như những tấm gương lớn về lòng yêu nước thương nòi! Dù cho dân chúng bất bình nhưng chính sử triều Nguyễn bù nhìn chẳng dám nói đó là sự sỉ nhục đối với lịch sử nước nhà! Trải hàng trăm năm thân phận “thuộc quốc phiên bang” mấy ai được săm soi góc cạnh ngọn ngành? Sự ngộ nhận đã thành nếp nghĩ, chỉnh sửa lại không là điều dễ! Phải chăng đó là tàn dư của văn hóa thực dân?
Giáo sư Trần Văn Giàu – nhà trí thức cách mạng nổi tiếng ở Nam kỳ, nhà sử học bậc thầy của nhiều thế hệ và là nhân vật quan trọng tại Hội nghị sử học 1963 năm ấy, khi ở tuổi sắp tròn trăm, nghe được những điều rối rắm, ông cho đăng lại mấy bài nghiên cứu “Luận về những nguyên nhân mất nước về tay Pháp” và không khỏi phẫn nộ trước việc ai đó bốc thơm Phan, đã khuyên: “Đừng bươi ra làm chi nữa”!
Vậy thì ai đã phục chức cho Phan? Tự Đức chết năm 1883, sau đó 2 năm trải bốn triều vua liên tục bất ổn thay ngôi, năm 1885 dưới sự bảo trợ của người Pháp, vua Đồng Khánh lên ngôi. Đồng Khánh vốn sính Tây được coi như một “sản phẩm Pháp tại Việt Nam” và là ông vua đầu tiên công nhận nền bảo hộ của nhà nước Đại Pháp. Để được lòng người Pháp, tân vương ra sắc chỉ khôi phục hàm cũ là Hiệp tá Đại học sỹ cho Phan Thanh Giản sau những lời khen: “Phẩm vọng ngươi cao như núi Thái Sơn, văn chương ngươi như mây bay nước chảy, được xưng tụng cao nhất một đời”. Tất nhiên bia được dựng lại sau hai thập niên  bị đạp đổ! Năm 1924, vua Khải Định sắc cho quan dân tỉnh Thủ Dầu Một thờ phụng Phan công như “thần hộ quốc an dân”, ý để thưởng công đã giao ba tỉnh miền Đông cho Pháp! Kế đến năm 1933, vua Bảo Đại cũng sắc cho quan dân tỉnh Vĩnh Long thờ phụng Phan công nội dung như thế, ý để thưởng công đã giao nốt ba tỉnh miền Tây cho Pháp! Việc làm ấy có nghĩa là triều Nguyễn hài lòng đã hoàn tất sứ mạng lịch sử chí ít cũng là giao toàn bộ xứ Nam kỳ vào tay người Pháp! Vậy thì thực chất việc phục chức và tôn vinh Phan Thanh Giản chính là ý đồ của chủ nghĩa thực dân. Điều cần lưu ý bạn đọc là danh thần Nguyễn Trãi được vua Lê Thánh Tôn – là một trong số hiếm hoi mấy vị vua anh minh nhất trong lịch sử ngàn năm phong kiến Việt Nam chủ vai chiêu tuyết. Còn như những triều vua chiêu tuyết và khôi phục chức sắc cho Phan đã bị chính Hội nghị sử học năm 2008 loại ra ngoài vòng lịch sử thì mọi việc chiêu tuyết cho Phan Thanh Giản vào mọi thời điểm đương nhiên chẳng có giá trị gì.
Thực ra càng xem xét kỹ tư liệu lịch sử càng nhận ra con người này rất phức tạp và có nhiều khuất tất.
Ông ta là người chưa đánh đã chủ hòa. Dù biết rõ âm mưu của giặc được đằng chân sẽ lấn lên đằng đầu mà ở cương vị lãnh đạo tối cao ông liên tiếp đi từ thỏa hiệp này tới thỏa hiệp khác thì việc đầu hàng là hậu quả tất nhiên thôi. Xin tóm lược vài tư liệu lưu trong thư khố Pháp cho thấy mối quan hệ bất chính giữa viên thủ lĩnh quân đội triều đình Huế này với các tướng lĩnh quân viễn chinh xâm lược Pháp xảo trá thâm sâu tới mức độ nào: Thư gửi cho Hải quân Trung tướng Bonard, Phan Khâm sai viết: “Trương Định đã đóng quân “vi pháp”(!) trên đất Tân Hòa (Gò Công), tự đặt vào vị thế chống lại chính phủ An Nam. Y đã tự xưng là “Tổng tư lệnh nghĩa quân dũng cảm”. Ngày 18 tháng này (5/2/1863) có tên Quang do y sai đem tới một văn thơ yêu cầu tôi tường lãm (Nội dung thơ bày tỏ sự phẫn nộ và thất vọng của nhân dân về hòa ước 1862 và tuyên bố: Thà chết chứ không chịu làm tôi tớ cho giặc! Kêu gọi tất cả các quan chức tham gia nghĩa quân và mộ binh khắp các nơi hoặc đóng góp bằng công của vào diệt giặc. Mỗi lần đụng độ với giặc cả hai bên đều có quân chết và bị thương, vì vậy chúng ta không sợ địch - NV). Quân đội thuộc quyền Các hạ mà còn chưa diệt trừ được tên ấy thì lòng kiêu hãnh của y cứ gia tăng. Tôi đã cho bắt giữ tên Quang và giam giữ ngặt để đưa ra xét xử. Tôi xin đính theo mật văn này và bản Tuyên ngôn đã nhận được để Các hạ tri tường”! Và trước lúc biết mình không thể nào sống được, viên đại thần  Nam triều thổ lộ hết tâm can: Ca ngợi “tình thân ái giữa các dân tộc bên hai bờ đại dương”! Ca ngợi Hải quân Trung tướng Bonard với “những võ công hiển hách chinh phục xứ này (!) là người đồng chung một ý tưởng từ lâu (!) về vấn đề lấy xứ Nam kỳ làm thực dân địa”! “Trong 5 năm sau này (1862-1867) những đêm nằm mơ tôi thấy người ấy (tướng Bonard – người ký chấp nhận hàng ước của Phan 1862) đã đến gần tôi” và “rất tiếc là người đã ra đi trước, bây giờ tử thần sẽ cho hai ta gặp mặt trong sự vĩnh cửu, sẽ sung sướng vô biên giới và tình huynh đệ không thể tan rã được”! Ca ngợi Đề đốc Rigault De Genouilly “có tầm nhìn xa biết chiếm lấy Sài Gòn để xây dựng thành trung tâm bền bỉ lâu dài”! Ca ngợi Đề đốc De Lagrandière là người “tạo lập ra thuộc địa Nam kỳ”!... Rõ ràng rằng chủ mưu đầu hàng đã thành ý thức chủ đạo trong viên đại thần lá mặt lá trái này. Vậy thì con người ấy khác chi là tay trong của giặc?! Cớ sao người ta bày mọi mưu kế để bốc thơm Phan về lòng trung quân ái quốc?!
Phan có là người liêm chính thật không? Sử liệu ghi sau khi ký hòa ước 1862, dù bị quở trách nhưng nhà vua vẫn sai ông lãnh Thống đốc Vĩnh Long để tiện việc giao lưu với Pháp mong chuộc lại ba tỉnh miền Đông vừa mất. Cũng trong năm này ông Tiến sỹ Phan Hiển Đạo làm Đốc học tỉnh Định Tường có ra hợp tác với giặc vì mơ hồ tin vào “tình thân ái giữa các dân tộc bên hai bờ đại dương” của quan trên. Nhưng sau nhận ra mình lầm lỡ nên lánh qua tỉnh Vĩnh Long (vì Định Tường không còn thuộc Nam triều nữa). Ông đưa thơ xin diện kiến trình rõ sự tình, bị Phan xổ toẹt với lời phê độc: “Thất thân chi nữ, hà dĩ vi trinh” (Con gái đã bị thất thân, sao cho là trinh được). Ông Tiến sỹ Đạo hổ ngươi trở về quê Mỹ Tho, viết cáo trạng tạ lỗi với dân chúng rồi uống thuốc độc mà chết! Trong khi quan Khâm lược dấu kín nỗi lòng tới lúc lâm chung mới tỏ chân tình với viên quan giặc Ansart rằng ông dành dụm được mấy ngàn quan (1.000 quan lúc bấy giờ tương đương với 700 lạng bạc) và mong muốn ký thác cho các quan Tây đưa mấy đứa cháu lên Sài Gòn học thành tài! Vậy Phan có thanh bần như đời ca tụng?                        Cho đến cái chết của quan Khâm sai đại thần thật ra cũng không bi tráng như nhiều người lầm tưởng. Ông ta biết khi đặt bút ký chấp nhận yêu sách của giặc là xóa sạch đi công lao 300 năm khai phá của các bậc tiên vương tiên chúa thật “đáng tội chết” rồi. Dù nói rằng “lá cờ ba sắc không thể phất phới bay trên một thành lũy mà nơi ấy Phan Thanh Giản còn sống” (!) nhưng không như Hoàng Diệu treo cổ chết ngay trong thành Hà Nội, Võ Duy Ninh tự thương chết ngay trước thành Gia Định, Nguyễn Tri Phương quyết chết theo Hà thành thất thủ. Trái lại, Phan thủng thẳng ra sống tại một ngôi nhà tranh ở ngoại thành Vĩnh Long, tỉnh táo sắp xếp mọi việc chu đáo. Ông gởi một lá sớ lên vua Tự Đức: “Việc cõi Nam kỳ một chốc đến thế này, không thể ngăn cản nổi. Nghĩ tội đáng chết, không dám sống cẩu thả để cái nhục lại cho Quân phụ. Đức Hoàng thượng rộng xét xưa nay, biết rõ trị loạn…” và gởi thư cho các tướng giặc để trần tình với lời lẽ rất chi là hoan hỷ. Ông cũng ngỏ lòng với cha Marc là muốn theo đạo Thiên Chúa! Ông căn dặn các con hãy qui phục nước Pháp, sống hòa bình với họ và chăm chỉ cần lao, ráng học hỏi cho bằng người Tây Âu để phò vua giúp nước may ra sau này làm vẻ vang cho Tổ quốc! Nghe ngóng động tĩnh từ triều đình vẫn bặt tin. Biết rằng tội kia không thoát chết! Gần một tháng sau thì ông “tuyệt cốc” (nhịn ăn). Nửa tháng không chết, ông uống á phiện pha với dấm thanh. Trong thời gian ấy nhiều quan lại cả tây và ta đến thăm, cho thuốc ông một mực từ chối. Theo thơ tường trình của Thiếu tá Ansart gởi lên Tổng tham mưu trưởng kể về những giờ cuối đời của ông quan này: “… Lúc các ông quan (Nam triều) còn lại ở Vĩnh Long, ông đã khăng khăng từ chối mọi thứ thuốc men, chúng tôi đã phải gần như ép ông và lợi dụng một trong những lúc ông ngất đi mới khiến ông nuốt được một chút giải độc. Nhưng ngay khi ông được biết là các quan đã bỏ đi và chỉ còn có mình ông với chúng tôi (ba sỹ quan Pháp) thì ông đã thuận mọi điều. Hai lần ông hỏi cha Marc: Tôi có thoát được chăng? Than ôi, khi đó đã quá muộn”! Cái chết nào cũng bi. Chết bình thường thì thương. Chết vì nghĩa thì tráng. Chết có toan tính thì hài!
Bây giờ chẳng lẽ con cháu những người Việt Nam trải hàng trăm năm đấu tranh quyết liệt tổn hao bao nhiêu xương máu mới giành được độc lập thống nhất non sông đang làm cái việc phục dựng lại con người ấy như tấm gương tiêu biểu của lòng “ái quốc trung quân”!
Ông đạo diễn Thanh Vân nói: “Đây là tác phẩm đầu tiên nói về Phan Thanh Giản nên việc dàn dựng không dễ dàng. Để đảm bảo tính chân thực của lịch sử, các diễn viên trau chuốt kỹ càng về cả trang phục và diễn xuất”. Với nghệ sỹ thì tuồng nào “mùi” là được đưa lên sân khấu. Người diễn nhập vai càng đạt thì càng nổi danh nghệ sỹ, tới mức “siêu” thì nhân vật từ sân khấu nhập với đời thường. Đó là sự kỳ diệu của nghệ thuật. Có điều là từ một nhân vật phản diện được chuyển thành chính diện trước hết là làm hoen ố lòng tự hào dân tộc sau là tác hại tới việc giáo dục lòng yêu nước cho lớp người sau!
Người chịu trách nhiệm chủ yếu ở đây là soạn giả. Không hề có chuyện nhà vua giúi mật chiếu vào tay viên hạ thần được cử đi thương nghị? Để làm sạch mặt Phan Thanh Giản thì ông Phạm Quang Long lại bôi gio trát trấu vào mặt vua Tự Đức. Chẳng những soạn giả đã mang tội xuyên tạc sự thật lại thêm cái tội vu oan giáng họa cho một ông vua vốn đã là tội đồ của lịch sử. Cổ nhân nói: “Ngậm máu phun người miệng mình dơ trước”! Thực ra bi kịch không phải ở phía Phan mà chính là ở phía nhà vua. Tự Đức đã giãi lòng trong thơ: “Khí dân triều trữ cữu – Mại quốc thế gian bình – Sử ngả chung thân điếm – Hà nhan nhập miếu đình” (Bỏ dân ta nhận lỗi – Bán nước thế gian bình – Mai này ta nằm xuống – Mặt nào nhìn tổ tông)! Mà sao đại sự vẫn dựa vào kẻ “mại quốc cầu vinh”? Đấy là mối oan nghiệt của người cầm quyền quốc gia tối thượng khi đã xa dân thì không thể nhận ra kẻ ngay gian, chính tà, sẽ là rước họa cho mình, cho nước!
Trước đây soạn giả Tào Mạt đưa vở “Dương Vân Nga” dựa trên mẫu người có thật là Dương Hậu lên sân khấu rất thành công mà vẫn bị nhận những điều trách cứ phiền hà của dư luận. Tuy nhiên Dương thị chỉ có tội đa tình, ở ngôi đệ nhất phu nhân mà gian dâm là điều chẳng hay nhưng vẫn bảo tồn được sơn hà xã tắc. Tuy vậy mà tượng đá Dương Hậu vẫn phải đứng chầu lẻ loi lạnh lẽo ngoài cung và hàng năm vào ngày húy kỵ các vua Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành vẫn bị trẻ con người lớn quất đòn doi vào đít vì cái tội chẳng chính chuyên, nếu không thì bằng sự ngoảnh mặt khinh bỉ với những lời phỉ báng của người đời. Trái lại, với Phan Thanh Giản thì chuyện đã qua gần hai thế kỷ rồi. Nước mất thì đã đòi lại được. Nhà tan thì anh em quên đi hờn oán cũ, hợp quần lại cùng nhau xây dựng cơ đồ. Tổ quốc như mẹ hiền rộng lòng tha thứ bao dung. Cứ khui những tỳ vết ra để mà ân oán hơn thua sao không thấy hổ lòng với mẹ! Ông bà ta nói: Làm thầy phải chính tâm mới dạy được người. Làm quan phải nghĩa khí mới che chở được cho dân. Mấy người không có được hai điều ấy thì có gì vinh để tôn lên? Người chết rồi là thoát tục, muốn được siêu thoát. Chỉ người sống mới ham hố ganh đua. Coi chừng càng làm khổ người ta, nằm xuống rồi mà mắt không nhắm được!
Thực ra đây là ý đồ thâm hiểm của một thế lực bất minh, khi không thực hiện được việc dựng tượng viên đại thần ấy lên thì họ thay đổi chiến thuật. Trước mắt là dùng các hình thức văn học nghệ thuật không từ thủ đoạn nào dù là nhỏ nhen quay quắt miễn nhằm tô son trát phấn bốc thơm con người ấy để đánh lạc hướng dư luận, tạo ra những cái gọi là “góc khuất đáng thương” làm cho công chúng từ cảm thương đến có cảm tình mà dễ dãi quên đi những tỳ vết đã hằn sâu trong lịch sử, sau đó họ lấn dần từng bước tiến tới thực hiện bằng được mục đích cuối cùng.
Xuyên tạc lịch sử là mang tội!
Đã là người trí thức chân chính thì dù nói, viết hay làm đều suy nghĩ tới chuyện lớn nước nhà. Vào giữa thế kỷ XIX, lũ giặc mắt xanh mũi lõ vượt trùng dương nửa vòng trái đất trên chục chiếc tàu đồng với mấy ngàn quân qua cái xứ sở nhiệt đới khắc nghiệt này, vũ khí là mấy khẩu đại bác cổ lỗ, vài ngàn tay súng kíp chọi với đội quân nón mê chân đất, gươm giáo dao gậy cầm tay mà có cả rừng người sẵn sàng chết không để nước mất vào tay giặc. Vậy mà có những ông vua, ông quan run rẩy không dám cầm gươm, chỉ biết nhìn trước ngó sau mà đái trong quần thì làm sao không mất nước! Hãy nhìn sức giặc hiện nay: Chỉ một bước chân đã vào tận ngõ. Sân trước vườn sau, trên rừng dưới biển, ba bề bốn bên đâu đâu cũng thấy lũ đầu trâu mặt ngựa. Toàn bộ đất đai, núi rừng, biển đảo của ta đều nằm trong tầm phủ gần xa của đủ các loại vũ khí tối tân. Tàu thuyền đặc biển. Máy bay đầy trời. Điều này hiển nhiên ai cũng biết. Thế mà không ít người nhân danh cái gọi là “đổi mới” thi nhau trổ tài điêu toa quay quắt cố dựng dậy một lũ vua quan hèn nhát, bạc nhược, phản phúc, dối trời lừa dân như Phan Thanh Giản nhằm dạy lớp trẻ điều gì? Trong khi nước non đang cần những con người trung dũng.
Vấn đề là các nhà văn hóa trước hết là các nhà sử học trước trách nhiệm với các thế hệ trẻ nước nhà, đặc biệt đang trong thời điểm cả xã hội bức xúc yêu cầu phải chấn hưng nền giáo dục? Và công luận chờ đợi ý kiến của Ban Tuyên giáo với một hệ thống rộng khắp từ Trung ương đến các địa phương trong việc học tập và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng cho công cuộc bảo vệ và xây dựng tổ quốc Việt Nam văn minh thịnh vượng?                     
     Tuần báo Văn Nghệ TPHCM
Số 281+ 282 Thứ năm ngày 21+28/11/ 2013.

CON NGƯỜI THỰC CỦA PHAN THANH GIẢN VÀ TRƯƠNG VĨNH KÝ (NGUYỄN VĂN THỊNH - Văn Nghệ)


CON NGƯỜI THỰC CỦA PHAN THANH GIẢN VÀ TRƯƠNG VĨNH KÝ


NGUYỄN VĂN THỊNH
Lịch sử vẫn có những vấn đề mù mờ mà hậu thế khi có điều kiện cần làm rõ ra, chỉnh sửa điều ngỡ sai thành đúng và cả điều tưởng đúng mà sai. Chuyện 150 năm trước qua rồi. Nước mất thì đã đòi lại được. Nhà tan thì anh em quên đi hờn oán cũ, hợp quần lại cùng nhau xây dựng cơ đồ. Tổ quốc như mẹ hiền rộng lòng tha thứ bao dung. Cứ khui những tỳ vết ra để mà ân oán hơn thua sao không thấy hổ lòng với mẹ?
Trách ai cứ khơi ra, dẫn người ta lẫn lộn điều phải trái để khó nhận ra cái đúng cái sai, chẳng những đã lỗi với lịch sử mà còn là điều trái đạo trong việc bồi dưỡng những lớp người sau có một tình yêu thương và trách nhiệm với nhân dân và tổ quốc mình. Biết rằng “sư nói sư phải vãi nói vãi hay” nhưng tựu chung phải có một người nói đúng. Đành rằng lời nói đúng chẳng thể nào vừa ý mọi người nhưng vẫn cứ phải nói ra.
Với hai nhân vật Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký thì bối cảnh lịch sử lúc đó bao lâu sau vẫn vậy và con người cùng những việc làm của họ còn đó, chỉ có sự khen chê của người đời là khác tùy lúc tùy nơi.
Trước hết cần nói rõ là việc kết án Phan Thanh Giản không khởi xướng từ giới sử học của Nhà nước Việt Nam độc lập vốn bị ấn tượng nặng tính “giáo điều giai cấp”.
Ngay sau khi chữ ký của Phan chưa ráo mực trên cái hàng ước Nhâm Tuất  (1862) nhục nhã thì giới sỹ phu, quân tướng Nam triều và nhân dân Nam bộ đã dấy lên phong trào phản đối quyết liệt bằng đủ mọi hình thức hoặc là dùng bút thay gươm hoặc bằng các hoạt động vũ trang rầm rộ dưới lời phản kháng công khai: “Phan-Lâm mại quốc. Triều đình khi dân”. Dù là một cốt một đồng nhưng vua Tự Đức cũng phải bật lên lời quở trách nặng nề: “Hai người (Phan-Lâm) không những chỉ là tội nhân của triều đình mà còn là tội nhân muôn đời của hậu thế”. Dù vậy mà vua vẫn tin dùng, thăng trật giao chức Khâm sai đại thần Kinh lược sứ thống lĩnh toàn bộ việc cai trị và trấn thủ ba tỉnh miền Tây còn lại. Suốt 5 năm mà Phan “chểnh mảng” việc bố phòng ngoài một việc tích cực hợp tác với giặc đàn áp khống chế phong trào kháng Pháp.
Trong khi đối phương “sắp đặt trước rất chu đáo” âm mưu tiếp tục xâm chiếm đất đai mà sao quan Khâm sai không biết được? Phan đã chẳng bắn tin rồi sao: “Chúng tôi sẽ không ngăn cản sự xâm lược bằng một sự kháng cự mà chúng tôi hiểu là vô ích”! Đến khi thấy đoàn tầu thuyền nhà binh Pháp đậu kín trước thành Vĩnh Long “là một thành khá kiên cố, địa thế rất dễ phòng thủ” và tướng giặc cho người mang thơ nói toạc ra ý họ “quyết định chiếm ba tỉnh miền Tây Nam kỳ vì lý do các quan quân triều đình ở đây ủng hộ phong trào chống Pháp”, Phan ra lệnh không kháng cự và dẫn đám thuộc hạ xuống tầu trách yêu giặc “vin cớ nhỏ mọn mà làm tổn thương đại nghĩa” (!) và ngọt nhạt đẩy đưa: “Tôi có quyền giữ đất chớ không có quyền giao đất. Xin cho tôi hỏi lại ý kiến triều đình”! Ông Tiến sỹ đầy bụng chữ thánh hiền hẳn biết rõ trong binh thư tướng ngoài biên ải được quyền “tiền trảm hậu tấu” đó sao? Và khi thầy trò trở lên bờ thì lũ sài lang kia thừa dịp kéo vào chiếm thành mà không tốn một viên đạn! Thế mà tin phao lên quan Kinh lược sứ bị giặc lừa cũng lọt được vào tai người nghe mới lạ! Sau đó quan Khâm sai viết công thư – thực chất là thư dụ hàng như ông đã từng làm mấy lần bất thành với Trương Định, gửi các quan tướng giữ thành An Giang và Hà Tiên với lời lẽ không tìm thấy ở đâu trong lịch sử: “…Người nào thuận theo lòng trời thì còn, người nào nghịch theo lòng trời thì chết mất… Trời đã cho con người có lý trí. Con người phải sống tùy theo ý chí ấy… Chúng ta yếu ớt không thể chống nổi người Phú-lang-sa, tướng soái lính tráng đều bị đánh bại… Người Phú-lang-sa muốn đến đâu cũng đặng. Không người nào có thể chống lại… Mình còn ngốc khi mình đánh người Phú-lang-sa bằng vũ khí, cũng như con nai muốn bắt con cọp… Các quan văn cũng như các tướng võ hãy bẻ gãy giáo gươm và giao thành trì khỏi chống lại…”! Ông ta biện lẽ: “Bản chức tùy theo thiên ý mà tránh đỡ giùm dân đen tai họa rớt trên đầu họ” và khuyên dụ dân hãy tin vào giặc vì “những người này chỉ đáng sợ trong lúc chiến tranh mà thôi (!)” là sự dối trời lừa dân có một không hai! Các nhà sử học có đầy đủ tư liệu về tội ác của giặc Pháp trong gần một trăm năm đô hộ nước ta, chúng có để dân ta sống yên mà làm ăn no ấm? Thế là chỉ trong 5 ngày cả ba tỉnh thành hừng hực khí thế chống ngoại xâm bỗng lọt vào tay giặc!
Viên Đại tá Thomazi hoan hỷ viết trong nhật ký: “Đến tháng 6/1867, binh lính ta đi chơi một bữa thế là xong hết cuộc chinh phục toàn xứ Nam kỳ, công cuộc khó nhọc bắt đầu từ năm 1858”. Có thật là viên quan già lọc lõi này bị lừa chăng? Để tránh họa binh đao chết chóc lại đẩy dân đen con đỏ xuống hầm tai họa thì làm sao sống được? Khi giặc đã hoàn toàn bội ước thì sao quan Khâm lược lại ngoan ngoãn lệnh cho thuộc hạ mở rộng cửa kho và ngân khố lấy lúa gạo và tiền nộp thêm cho quân phản phúc gọi là thanh toán bồi thường 5 năm chiến phí theo cái gọi là hòa ước 1862! Thánh nho dạy rồi: “Chữ tín mà bị ép thì không cần giữ”, ông Tiến sỹ nhớ chăng?
Bốn tháng sau, ngày 21/10/1867 vua Tự Đức ra chỉ dụ: “Đến như Phan Thanh Giản thì thủy chung đều quanh quất, lời nói không theo được việc làm, đem học vấn danh vọng một đời trút sạch ra bể Đông, thật là tán tận lương tâm, quá đỗi phụ ơn. Mặc dù đã lấy cái chết tự phạt nhưng cũng chưa đủ đền bù cho trách nhiệm… nên Trẫm đem giao cả cho Tôn nhân Phủ và đình thần xem xét công tội để bàn định việc xử trí”. Và bản án ngày 17/4/1868 của các triều thần nghị xử rằng: “… Viên Kinh lược sứ cũ là Phan Thanh Giản khi việc xảy ra rồi tự thấy nghĩa vụ không thể sống được đành tìm lấy một cái chết, còn thì ngoài ra chỉ thấy muối mặt với cái sống thừa, đợi dịp trở về lấy làm hân hạnh! Đối với trách nhiệm giữ gìn đất đai mà lại ươn hèn đến thế, sẽ phải phân biệt xử trị để răn khí tiết bề tôi và để nhân tâm có bề phấn chấn mới phải… trước hết phải cách chức và truy thâu lại phẩm hàm và ghép vào tội xử trảm giam hậu”. Cùng năm đó, vua Tự Đức ra chỉ dụ “truy đoạt chức tước, phẩm hàm và đục bia Tiến sỹ, để lại muôn đời cái án trảm hậu” với Phan Thanh Giản!          
Sau đó các phong trào yêu nước tiếp nhau nổi lên chống Pháp đều coi việc làm của Phan Thanh Giản như vết nhơ lịch sử. Nhà chí sỹ đại ái quốc Phan Bội Châu kết tội Phan là hạng “gan dê lợn mà mưu chuột cáo”! Mãi tới tháng 8/1963 trong Hội nghị sử học toàn miền Bắc có nhiều nhân sỹ trí thức tiêu biểu và các nhà sử học lớn của cả hai miền Nam Bắc như Trần Huy Liệu, Trần Văn Giàu, Nguyễn Khánh Toàn, Ca Văn Thỉnh, Đào Duy Anh… thống nhất đánh giá như sau: “Để mất nước, các vua nhà Nguyễn là chính phạm, các triều thần trong đó có Phan là đồng phạm. Riêng trong sự kiện hai lần dâng thành giao đất cho giặc để mất cả Nam kỳ thì Phan là chính phạm bởi tính bạc nhược, hèn nhát, thỏa hiệp dần đi tới đầu hàng – Đó là bản chất của giai cấp phong kiến cầm quyền lúc suy vi”! Thiết nghĩ đó là sự đánh giá rất độ lượng, có thể tình đúng mức do yêu cầu lịch sử.
Thực ra càng xem xét kỹ tư liệu lịch sử càng nhận ra con người này rất phức tạp và có nhiều khuất tất.
Ông là người chưa đánh đã chủ hòa. Dù biết rõ âm mưu của giặc “được đằng chân sẽ lấn lên đằng đầu” mà ở cương vị lãnh đạo tối cao ông liên tiếp đi từ thỏa hiệp này tới thỏa hiệp khác thì việc đầu hàng là hậu quả tất nhiên thôi. Xin tóm lược vài ý trong thư ông gửi cho các quan Phú-lang-sa thổ lộ tâm can trước lúc biết mình không thể nào sống được: Ông hết lời ca ngợi tình thân ái giữa các dân tộc bên hai bờ đại dương! Ca ngợi Hải quân Trung tướng Bonard với “những võ công hiển hách chinh phục xứ này (!), là người đồng chung một ý tưởng từ lâu (!) về vấn đề lấy xứ Nam kỳ làm thực dân địa”! “Trong 5 năm sau này (1862-1867) những đêm nằm mơ tôi thấy người ấy (tướng Bonard – người ký chấp nhận hàng ước của Phan 1862) đã đến gần tôi” và “rất tiếc là người đã ra đi trước, bây giờ tử thần sẽ cho hai ta gặp mặt trong sự vĩnh cửu, sẽ sung sướng vô biên giới và tình huynh đệ không thể tan rã được”! Ca ngợi Đề đốc Rigault De Genouilly “có tầm nhìn xa biết chiếm lấy Sài Gòn để xây dựng thành trung tâm bền bỉ lâu dài”! Ca ngợi Đề đốc Lagrandière là người “tạo lập ra thuộc địa Nam kỳ”! Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp lúc bấy giờ có lý để dự đoán dưới sức ép của phe chủ chiến “có khả năng Phan sẽ đào tẩu chạy về Sài Gòn tị nạn”. Rõ ràng rằng chủ mưu đầu hàng đã thành ý thức chủ đạo trong viên đại thần lá mặt lá trái này. Vậy thì con người ấy khác chi là tay trong của giặc?!
Phan có là người liêm chính thật không? Sử liệu ghi sau khi ký hòa ước 1862, dù bị quở trách nhưng nhà vua vẫn sai ông lãnh Thống đốc Vĩnh Long để tiện việc giao lưu với Pháp mong chuộc lại ba tỉnh miền Đông vừa mất. Cũng trong năm này ông Tiến sỹ Phan Hiển Đạo làm Đốc học tỉnh Định Tường có ra hợp tác với giặc vì mơ hồ với thuyết “Pháp-Việt đề huề”. Nhưng sau nhận ra mình lầm lỡ nên lánh qua tỉnh Vĩnh Long (vì Định Tường không còn thuộc Nam triều nữa). Ông đưa thơ xin diện kiến trình rõ sự tình, bị Phan xổ toẹt với lời phê độc: “Thất thân chi nữ, hà dĩ vi trinh” (Con gái đã bị thất thân, sao cho là trinh được). Ông Tiến sỹ Đạo hổ ngươi trở về quê Mỹ Tho, viết cáo trạng tạ lỗi với dân chúng rồi uống thuốc độc mà chết! Trong khi quan Khâm lược dấu kín nỗi lòng tới lúc lâm chung mới tỏ chân tình với viên quan giặc Ansart rằng ông dành dụm được mấy ngàn quan và mong muốn ký thác cho các quan Tây đưa mấy đứa cháu lên Sài Gòn học thành tài (1.000 quan lúc bấy giờ tương đương với 700 lạng bạc)! Vậy Phan có thanh bần như đời ca tụng? Quan Tiến sỹ già lừa đời quá giỏi!
Cho đến cái chết của quan Khâm sai đại thần thật ra cũng không bi tráng như nhiều người lầm tưởng. Ông ta biết khi đặt bút ký chấp nhận yêu sách của giặc là xóa sạch đi công lao 300 năm khai phá của các bậc tiên vương tiên chúa thật “đáng tội chết” rồi. Dù nói rằng “lá cờ ba sắc không thể phất phới bay trên một thành lũy mà nơi ấy Phan Thanh Giản còn sống” (!) nhưng không như Hoàng Diệu treo cổ chết ngay trong thành Hà Nội, Võ Duy Ninh tự thương chết ngay trước thành Gia Định, Nguyễn Tri Phương quyết chết theo Hà thành thất thủ. Trái lại, Phan thủng thẳng ra sống tại một ngôi nhà tranh ở ngoại thành Vĩnh Long, tỉnh táo sắp xếp mọi việc chu đáo.
Ông gởi một lá sớ lên vua Tự Đức: “Việc cõi Nam kỳ một chốc đến thế này, không thể ngăn cản nổi. Nghĩ tội đáng chết, không dám sống cẩu thả để cái nhục lại cho Quân phụ. Đức Hoàng thượng rộng xét xưa nay, biết rõ trị loạn…” và gởi thư cho các tướng giặc để trần tình với lời lẽ rất chi là hoan hỷ. Ông cũng ngỏ lòng với cha Marc là muốn theo đạo Thiên Chúa! Ông căn dặn các con hãy qui phục nước Pháp, sống hòa bình với họ và chăm chỉ cần lao, ráng học hỏi cho bằng người Tây Âu để phò vua giúp nước may ra sau này làm vẻ vang cho Tổ quốc! Nghe ngóng động tĩnh từ triều đình vẫn bặt tin. Biết rằng tội kia không thoát chết! Gần một tháng sau thì ông “tuyệt cốc” (nhịn ăn). Nửa tháng không chết, ông uống á phiện pha với dấm thanh. Trong thời gian ấy nhiều quan lại cả tây và ta đến thăm, cho thuốc ông một mực từ chối. Theo thơ tường trình của Thiếu tá Ansart gởi lên Tổng tham mưu trưởng kể về những giờ cuối đời của ông quan này: “… Lúc các ông quan (Nam triều) còn lại ở Vĩnh Long, ông đã khăng khăng từ chối mọi thứ thuốc men, chúng tôi đã phải gần như ép ông và lợi dụng một trong những lúc ông ngất đi mới khiến ông nuốt được một chút giải độc. Nhưng ngay khi ông được biết là các quan đã bỏ đi và chỉ còn có mình ông với chúng tôi (ba sỹ quan Pháp) thì ông đã thuận mọi điều. Hai lần ông hỏi cha Marc: Tôi có thoát được chăng? Than ôi, khi đó đã quá muộn”! Cái chết nào cũng bi. Chết bình thường thì thương. Chết vì nghĩa thì tráng. Chết có toan tính thì hài! Chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Nam kỳ lại chu đáo cho tàu kéo và một toán lính hộ tống thi hài ông về tận nơi an táng ở cố hương.
Trong lịch sử Việt Nam, Phan Thanh Giản là viên quan đại thần để lại nhiều tai tiếng nhất bởi những điều tệ hại ông đã gây nên cho quốc gia dân tộc. Tuy nhiên bên sự đánh giá chính thống như thế vẫn có những thế lực bênh vực thậm chí còn bốc thơm đơm đặt đủ điều cho nên con người ông, việc làm của ông, cái chết của ông vẫn là đề tài cho hậu thế tranh cãi dài dài. Vậy những ý kiến trái chiều kia có tự bao giờ và xuất phát từ đâu? Thật ra khi người Pháp đem quân xâm chiếm Việt Nam thì lực lượng họ không phải là quá mạnh, chiến trường xa lại rải quân phân tán trên địa bàn rất rộng mà nội tình vương triều Paris cũng lắm chuyện rối ren.
Thế nhưng bối cảnh xã hội Việt Nam lúc đó cực kỳ bê bối: Chính triều thối nát, loạn lạc khắp nơi, nhân tâm ly tán lại thêm sự bành trướng của giáo hội Thiên Chúa cùng với đám vua quan triều Nguyễn bạc nhược cầu an mà phong trào yêu nước thì không có chỗ dựa và không hợp thành một liên minh chặt chẽ thì những người như Phan Thanh Giản là tác nhân thúc đẩy mau chóng quá trình mất nước. Trong khi bộ máy chiến tranh của Pháp dày dặn kinh nghiệm đối phó, lợi dụng những yếu tố xã hội và con người ở các quốc gia xa xôi lạc hậu. Những người như Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký, Tôn Thọ Tường… tất nhiên lọt vào tầm ngắm để đội quân viễn chinh ấy khai thác và điều khiển bằng đủ những mưu mô thâm trầm xảo quyệt. Cuộc chiến xâm lược xứ An Nam xa xôi không được triều đình Paris tập trung ủng hộ bởi quan ngại chông gai chưa chắc thắng nhưng lại sớm thu được thắng lợi trọn vẹn mà ít hao người tốn của. Đương nhiên những người như Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký được coi như ân nhân của nước Pháp. Ngay khi Phan trút hơi thở cuối cùng thì Phó thủy sư Đề đốc Thống soái Nam kỳ De Lagrandière gửi thư chia buồn và hết lời khen: “Nơi triều đình Huế trừ một mình ngài thấy rõ đâu là ích nước lợi dân… Người Pháp quốc hằng bền một lòng tôn trọng quan lớn Phan Thanh Giản và gia đình của ngài… Bổn trấn hứa sẽ hết lòng bảo bọc cho con cháu ngài hoặc muốn ra mà giúp việc nhà nước hay là muốn tước lộc chi thì bổn trấn cũng vui lòng ban ơn theo như ý”. Và người Pháp đã làm đúng như lời hứa.
Ngay cả khi hai con ông là Phan Liêm và Phan Tôn có cầm súng chống Pháp một thời gian nhưng thua trận và bị bắt, người Pháp cũng rộng lòng tha và giao cho triều đình An Nam trọng dụng. Tất nhiên lại cầm binh đi đánh những người Việt Nam “nổi loạn”! Tên tuổi ba cha con họ Phan cũng như Trương Vĩnh Ký đều được Nhà nước thực dân – tất nhiên là cả chính quyền bản xứ lệ thuộc, bảo tiết tôn vinh như những tấm gương lớn về lòng yêu nước thương nòi, nhìn xa thấy rộng, thủy chung hợp tác với nước đại Phú-lang-sa để được cả việc nước lẫn việc nhà, người dân Việt nhìn đó mà noi!
Với Nam triều, sau khi Tự Đức chết, chính triều điên đảo truất phế liên miên. Tới năm 1885 người Pháp mới ưng ý đưa Hoàng tử Chánh Mông Ưng Đường đặt lên ngôi lấy niên hiệu Đồng Khánh. Đại quan Cơ mật viện tham tá Trương Vĩnh Ký bẩm ngay với Nhà bảo hộ: “Trong cái nhìn đặc biệt về lợi ích của nước Pháp, việc Đồng Khánh lên ngôi quả là may mắn” và nhanh nhảu hứa: “Tôi sẽ trấn áp những hãnh thần (những người có tư tưởng chống Pháp) và sẽ bao vây lấy nhà vua”! Hẳn mọi người đều biết rằng Trương ra hợp tác với quân xâm lược ngay từ buổi đầu. Năm 1876, ông ta được quan thuộc địa Pháp cử ra Bắc công cán, thực ra là làm nhiệm vụ dò xét thổ nhưỡng, dân tình. Trương gửi báo cáo về quan trên: “Các quan lại Nam triều thường nói với tôi rằng nước Pháp cố ý xâm chiếm xứ này. Tôi trả lời là không!...
Tất cả qúy vị đều phải thấy rằng nếu nhà cầm quyền Pháp có ý muốn xâm chiếm xứ này, họ đã có thể làm việc đó từ lâu một cách dễ dàng, không cần bàn cãi gì cả. Qúy vị phải hiểu rằng qúy vị là những kẻ yếu, thật sự quá yếu, cần sự giúp đỡ của ai đó để gượng dậy. Và tốt  hơn, qúy vị chỉ nên tin vào người bạn đồng minh tiếng tăm và phải dựa vào họ một cách thành thật để đứng lên, nhưng phải thẳng thắn, không hậu ý, không mưu tính kín đáo, dang cả hai tay ra với họ chứ không phải một cái chìa ra còn bàn kia thì giữ lại. Bằng ngược lại, mệt trí vì những do dự, những điều nói nửa lời đầy âm mưu của qúy vị, nước Pháp buộc lòng phải ngưng che chở và bỏ mặc qúy vị với số phận”! Khẩu khí ấy không phải là của người trí thức Việt Nam chân chính, nó là của thằng Tây thuộc địa hợm hĩnh với dân bản xứ: miệt thị, bịp bợm, dọa dẫm, dụ dỗ, mua chuộc tuy có chỗ nó chọc đúng vào điểm yếu trì trệ và hủ lậu của giới cầm quyền và sỹ phu ta lúc đó. Với tư cách một học giả trước thuật nhiều sách, Trương gửi thư cho Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ: “Muốn chứng tỏ với qúy vị rằng trong 13 cuốn sách đã xuất bản, tôi chưa bao giờ đi lệch mục tiêu chính và trực tiếp là sự biến đổi và đồng hóa dân tộc An Nam”. Ông ta hăng hái bộc lộ ruột gan ra với quân cướp nước trong khi với đồng bào thì luôn viện dẫn câu cách ngôn La tinh “Ở với họ mà không theo họ”! Con người thật của ngài đại trí thức tây học này quả xứng là bạn vong niên tâm đắc với vị đại quan đồng hương tiền triều đến thế!
Đồng Khánh vốn sính Tây và là ông vua đầu tiên công nhận nền bảo hộ của nhà nước Đại Pháp. Để được lòng người Pháp, tân vương ra sắc chỉ khai phục hàm cũ là Hiệp tá Đại học sỹ cho Phan Thanh Giản sau những lời khen: “Phẩm vọng ngươi cao như núi Thái Sơn, văn chương ngươi như mây bay nước chảy, được xưng tụng cao nhất một đời”. Tất nhiên bia được dựng lại sau khi bị đạp đổ đã nhiều năm! Năm 1924, vua Khải Định sắc cho quan dân tỉnh Thủ Dầu Một thờ phụng Phan công như “thần hộ quốc an dân”, ý để thưởng công đã giao ba tỉnh miền Đông cho Pháp! Kế đến năm 1933, vua Bảo Đại cũng sắc cho quan dân tỉnh Vĩnh Long thờ phụng Phan công nội dung như thế, ý để thưởng công đã giao nốt ba tỉnh miền Tây cho Pháp! Việc làm ấy có nghĩa là triều Nguyễn đã hoàn tất sứ mạng lịch sử chí ít cũng là giao toàn bộ xứ Nam kỳ vào tay người Pháp!
Trong cuộc hội thảo năm 2008 ở Thanh Hóa về vương triều Nguyễn, các nhà sử học hiện đại cũng chỉ điểm bốn triều vua đầu mà bỏ qua những vương triều sau Tự Đức, hàm ý nó thật sự là bù nhìn của ngoại bang – trừ mấy vị vua yêu nước Thành Thái, Hàm Nghi, Duy Tân lại sớm bị đi đày, thì việc xóa án, phục chức, phong thần cho Phan của các triều vua ấy phỏng còn ý nghĩa gì?
Trải hàng trăm năm mấy ai săm soi góc cạnh ngọn ngành. Sự ngộ nhận đã thành nếp nghĩ, chỉnh sửa lại không là điều dễ!
Trong lịch sử cận đại, người Việt tự hào đã hấp thu đáng kể nền văn hóa Pháp mà sao người ta không biết đến bài học của chính phủ Vichy với viên Thống chế Pétaine, viên Thủ tướng Laval và viên Toàn quyền Decoux đã bị vứt vào xọt rác cùng với nền Đệ tam cộng hòa Pháp quốc? Vậy là tàn dư của chủ nghĩa thực dân vẫn như bóng ma ám ảnh một nước Việt Nam độc lập đã đổi biết bao xương máu mới giành lại được! Phải chăng vì thế mà người chết muốn nằm yên cũng khó! Bởi những lời chê khen rất trái ngược nhau.
Chê thì dựa vào chứng lý hiển nhiên là việc làm ấy, hậu họa ấy nhẹ ra thì “vừa giận vừa thương” thân già còn bị vua giao gánh nặng quốc gia để nên nỗi giữa đàng đứt gánh! Mà nặng thì tớí mức thành bia miệng muôn đời bị liệt vào “phường cầu an mại quốc” còn hòng che mắt thế gian! Khen thì mập mờ vin cái cớ “gặp thời thế thế thời phải thế” để mà cứu muôn dân trăm họ khỏi cảnh lầm than đến nỗi phải mượn cái chết để tỏ lòng “trung quân ái quốc” khiến cụ Đồ Chiểu là người “ghét cay ghét đắng ghét vào tới tâm” quân giặc cướp nước cũng động lòng làm thơ than khóc nỉ non – Mà thật ra thơ Cụ chửi rất sâu cay (VNTPHCM 23/6/2009)!
Thậm chí có người còn ca tụng ông sáng suốt rộng tầm nhìn xuyên thế kỷ sớm có tư duy hội nhập với trào lưu văn minh thời đại! Đặc biệt là trong bối cảnh xã hội hiện tại hợp tác đa phương, hội nhập đa chính kiến, khó lòng biết được ai là kẻ thả mồi bắt bóng? Điều cốt yếu là bản lãnh văn hóa ở mỗi người. Giáo sư Trần Văn Giàu – nhà trí thức lớn của Nam kỳ cũng là chiến sỹ cách mạng kiên cường và là nhà sử học bậc thầy của nhiều thế hệ, người sống hầu như xuyên suốt thế kỷ XX, những sự kiện và con người ở mảnh đất phương Nam này ông “rành như sáu câu vọng cổ”.
Vậy mà khi xem xong cuốn tiểu thuyết “Nỗi đau trăm năm” dù đã ở tuổi đại thượng thọ rồi vẫn nổi giận run lên và nói: “Ví Phan Thanh Giản với Nguyễn Trãi có khác chi dang cánh con dơi để che ánh mặt trời”! Không ít trí thức và sỹ quan quân đội về hưu, sau khi xem loạt bài viết về Phan Thanh Giản đã bộc lộ tâm tư rằng: “Vì không muốn mất nước nên mới chẳng ngại gian khổ hy sinh cầm súng đi theo Cụ Hồ kháng chiến. Lúc ấy dù không tán thành việc làm của cụ Phan và chỉ biết ông Trương là nhà học giả trứ danh mà thực tình không nghĩ họ tệ đến thế đâu”!
Chi bằng cứ minh bạch công khai đầy đủ những tư liệu lịch sử về hai nhân vật Phan, Trương để người đọc có cái nhìn tổng quan mà đánh giá.
Thành phố HCM tháng 5 năm 2012

     Tuần báo Văn Nghệ TPHCM
Số 281+ 282 Thứ năm ngày 21+28/11/ 2013.

Giải thiêng là gì?



Tiền tố dé(s)- của tiếng Pháp (tương ứng với de- của tiếng Anh) thường được các dịch giả Việt Nam nhất loạt chuyển thành giải. Bằng cách này các từ tiếng Pháp décoder thành giải mã, dégager thành giải tỏa, désarmer thành giải giới / giải giáp, décongeler thành giải đông, se désaltérer thành giải khát, décoloniser thành giải thực, déstaliniser thành giải Xtalin hóadémystifier thành giải hoặc, décompresser thành giải nén, désacraliser (tiếng Pháp) thành giải thiêng.
Nhu cầu dịch ngắn gọn khiến từ ngữ Việt nhiều khi lạ tai, khó hiểu, khó được chấp nhận. Chẳng từ điển tiếng Việt nào có giải nén, giải thực, giải hoặc, giải cộng, giải thiêng.... Muốn tìm hiểu nội dung các từ ngữ ấy, cứ đi ngược về thuật ngữ gốc tiếng Pháp, tiếng Anh rồi đọc định nghĩa trong các thứ tiếng đó là chắc ăn nhất.
Giải đông văn hoa. Nôm na là rã đông, rã đá.
Giải giớitước vũ khí.
Giải nén một tập tin là bung nó ra.
Giải phóng thuộc địa dễ hiểu hơn giải thực, không gây liên tưởng tới bội thực, trúng thực, tiết thực, tuyệt thực...
Tại sao không nói thanh toán ảnh hưởng của Xta-lin mà lại nói giải Xta-lin hóa?
Lê Khả Kế (2001:476) dịch désacraliserlàm mất tính thiêng liêng. Như vậy giải thiêng lịch sửlàm (cho) lịch sử mất (đi tính) thiêng (liêng).