Sunday, 11 May 2014

Lược sử kỳ án Nhã Thuyên (Dương Tu)


April 26, 2014 at 11:26am
Câu chuyện thẩm định lại luận văn “Vị trí của kẻ bên lề: thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa" và thu hồi bằng Thạc sĩ của Đỗ Thị Thoan rồi đây sẽ đi vào lịch sử văn chương như một vụ Nhân Văn Giai Phẩm thời hiện đại và là một thí dụ kinh điển về sự xâm phạm quyền tự do học thuật trong môi trường đại học.

Bài này điểm lại những sự kiện chính trong kỳ án này để tiện tra cứu sau này và giúp những ai quan tâm dễ theo dõi câu chuyện từ khi nó bắt đầu.

***


12/2010: Đỗ Thị Thoan, bút danh Nhã Thuyên, sinh năm 1986, học viên cao học khóa 18 (2009 – 2010), chuyên ngành Văn học Việt Nam hiện đại, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội bảo vệ thành công luận văn “Vị trí của kẻ bên lề: thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa" dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Nguyễn Thị Bình. Hội đồng chấm luận văn bao gồm PGS. Nguyễn Văn Long, TS. Chu Văn Sơn, PGS. TS. Ngô Văn Giá, TS. Nguyễn Văn Phượng và PGS. TS. Nguyễn Đăng Điệp được thành lập theo quyết định số 7460/QĐ-ĐHSPHN đánh giá luận văn ở mức xuất sắc và cho điểm tuyệt đối (10/10) [1].

Có rất ít người biết đến đến Nhã Thuyên và luận văn của cô vào thời điểm này.

8/3/2011: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội ra quyết định số 676/QĐ-ĐHSPHN cấp bằng Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, số hiệu A005416 (vào sổ cấp bằng số 7437) cho Đỗ Thị Thoan [2]. Đỗ Thị Thoan trở thành giảng viên hợp đồng tại Khoa Ngữ văn, giảng dạy chuyên đề Văn học Việt Nam ở nước ngoài cho đến khi bị ngừng hợp đồng vào tháng 5/2013.

30/5/2013: Tuần báo Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh đăng loạt bài của Chu Giang (tức Nguyễn Văn Lưu) phê phán luận văn của Nhã Thuyên trên các số từ 256 đến 259 [3-7]. Một bài khác [8] nằm trong loạt bài này được cho là sẽ xuất hiện ở số 260 nhưng cuối cùng đã không được đăng.

4 & 5/06/2013: Tại Hội nghị Lý luận-Phê bình văn học lần thứ III ở Tam Đảo, Chu Giang đăng đàn tiếp tục phê phán gay gắt luận văn của Nhã Thuyên.

7/7/2013: 9:19 PM, báo Nhân Dân điện tử đăng bài “Nhân danh nghiên cứu để ca ngợi thứ "thơ" rác rưởi” [9]. Hơn 1 tiếng sau (10:35 PM), báo Quân đội nhân dân online đăng bài “Một “góc nhìn” phản văn hóa và phi chính trị” [10]. Cả hai bài cùng kịch liệt lên án luận văn của Nhã Thuyên. 

Sau phát súng mở màn của Nhân Dân và Quân đội nhân dân, một làn sóng phê phán luận văn này xuất hiện trên hàng loạt báo như Văn nghệ quân đội [11], Công an Thành phố Hồ Chí Minh [12], Hà Nội mới [13], Sài Gòn giải phóng [14], Thanh Tra [15], Lâm Đồng online [16], Vĩnh Long online [17]…

Kể từ đây, câu chuyện về luận văn Nhã Thuyên bắt đầu thu hút sự chú ý của nhiều người.

20/7/2013: RFA đăng bài phỏng vấn Chu Giang và một số người liên quan [18]. 

10-31/7/2013: Nhà văn Phạm Thị Hoài gọi những bài viết của Chu Giang là “cú giãy cuối cùng của nền phê bình chỉnh huấn” [19], GS. Trần Đình Sử gọi loạt bài của Chu Giang là lối “phê bình kiểm dịch” [20], Nhà văn Phạm Xuân Nguyên gọi đây là “phê bình chỉ điểm” [21].

25/7/2013: Nhà báo Nguyễn Vạn Phú cho rằng việc phê phán luận văn Nhã Thuyên là hành động “hận cá, chém thớt” [22].

26/7/2013: GS. Trần Đình Sử viết bài “Cuộc phê phán luận văn của Đỗ Thị Thoan hay là sự xung đột về khung tri thức và thế hệ” nhận định cuộc phê phán luận văn của Đỗ Thị Thoan rầm rộ khắp cả nước là “một cách hành xử quá nóng vội” [23].

27/7/2013: Lãnh đạo Trường Đại học Sư phạm Hà Nội chỉ đạo Ban chủ nhiệm Khoa Ngữ văn triệu tập họp hội đồng khoa học khoa (mở rộng) lấy ý kiến các nhà khoa học về luận văn thạc sĩ của Nhã Thuyên. Nhiều học giả trong buổi họp này bày tỏ quan điểm phải có một ứng xử khoa học với một công trình khoa học [24-25]. 

28/7/2013: Bài viết “Từ một bản luận văn” của nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên trên Báo điện tử Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh bị rút xuống [26-27] sau vài giờ.

31/7/2013: Nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng vụ lên án luận văn Nhã Thuyên đã đưa chúng ta “về thời kỳ đồ đá, nhất là trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa” [28].

1/8/2013: Lê Tuấn Huy phân tích tính pháp lý của việc thẩm định luận văn Nhã Thuyên [29]. 

12/2/2014: Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội ra quyết định thành lập Hội đồng thẩm định luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn của Đỗ Thị Thoan, nhưng không một ai, kể cả Nhã Thuyên, người hướng dẫn và hội đồng chấm luận văn được biết về quyết định này. Hội đồng thẩm định gồm PGS.TS Đoàn Đức Phương, GS. Đặng Thanh Lê, PGS.TS Phan Trọng Thưởng, PGS.TS Lê Quang Hưng và PGS.TS Phạm Duy Đức. Không thành viên nào trong Hội đồng thẩm định có công trình nghiên cứu về văn học Việt Nam hiện đại [30-31].

5/3/2014: Báo Kinh doanh và Pháp luật đăng Đơn kêu cứu của PGS. TS. Nguyễn Thị Bình về việc bà bị Trường Đại học Sư phạm Hà Nội buộc nghỉ hưu sớm 5 năm. Bài báo nhanh chóng bị gỡ xuống [32]. 

11/3/2014: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội ra quyết định số 667/QĐ-ĐHSPHN về việc không công nhận luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn của Đỗ Thị Thoan [33]. 

14/3/2014: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội ra quyết định số 708/QĐ-ĐHSPHN về việc thu hồi bằng thạc sĩ khoa học ngữ văn của Đỗ Thị Thoan [33].

17/3/2014: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội gửi giấy mời Nhã Thuyên đến nhận hồ sơ và các giấy tờ liên quan đến việc thu hồi bằng thạc sĩ [33]. 

17/3/2014: Facebook của Nhị Linh đăng một tấm ảnh được cho là trích từ công văn của Ban Tuyên giáo, trong đó có đoạn chỉ thị “báo chí không đăng tải ý kiến, đơn thư trái chiều” liên quan đến luận văn Nhã Thuyên [34]. 

21/3/2014: Trong một lần trả lời phỏng vấn hiếm hoi, Nhã Thuyên nói trên RFA: “… khi mà câu chuyện đã không còn là câu chuyện cá nhân mình, cũng không phải là câu chuyện của cá nhân của cô Nguyễn Thị Bình mà nó trở thành một vấn đề chung để mọi người cùng nghĩ và cùng thảo luận” [35].

24/3/2014: BBC đăng bài phỏng vấn Phạm Xuân Nguyên cho rằng vụ việc đã bị “chính trị hóa” [36].

27/3/2014: Nhã Thuyên đến Trường Đại học Sư phạm Hà Nội làm việc theo giấy mời nhưng không nhận các quyết định không công nhận luận văn và thu hồi bằng thạc sĩ vì “cho rằng hai quyết định này hoàn toàn thiếu cơ sở pháp lý và minh bạch về các thông tin: như hội đồng chấm, các biên bản nhận xét của hội đồng, v.v” [33]. 

28/3/2013: PGS. TS. Ngô Văn Giá đăng bài “Luận văn, phê bình luận văn và…” trên trang Facebook cá nhân vì “thấy có trách nhiệm phải nói đôi lời” [37].

30/3/2014: Nhã Thuyên công bố toàn bộ hồ sơ bảo vệ luận văn năm 2010 [38]. 

30/3/2014: Toàn văn luận văn của Nhã Thuyên được công bố trên trang Kệ Sách eBook [39]. 

1/4/2014: Nhã Thuyên gửi đơn đến Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đề nghị được minh bạch thông tin và tham gia trao đổi, đối chất giữa các hội đồng với tác giả luận văn và người hướng dẫn [40].  

8/4/2014: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội trả lời Đơn đề nghị của Nhã Thuyên: “Việc thẩm định luận văn thạc sĩ dẫn tới các quyết định không công nhận luận văn và thu hồi bằng đã được Nhà trường thực hiện đúng quy trình” [40].

8/4/2014: Văn Việt đăng bài phỏng vấn PGS. TS. Nguyễn Thị Bình, PGS. TS. Ngô Văn Giá và TS. Chu Văn Sơn [41]. 

15/4/2014: Báo Nhân dân điện tử đăng bài viết phê phán những người “lên tiếng bênh vực tác giả luận văn và bác bỏ kết luận của Hội đồng thẩm định” [42]. 

18/4/2014: Các giáo sư Hồ Tú Bảo, Ngô Bảo Châu, Trần Văn Thọ, Cao Huy Thuần gửi thư đến Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội “bày tỏ mối quan tâm” “đối với hiện tình của nền học thuật đại học tại Việt Nam qua sự cố” liên quan đến luận văn Nhã Thuyên [43]. 

19/4/2014: 70 người hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và nghiên cứu khoa học ở Việt Nam gửi Bản phản đối và yêu cầu đến Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội yêu cầu hủy bỏ các quyết định 667/QĐ-ĐHSPHN và 708/QĐ-ĐHSPHN [44].

19/4/2014: Trang vanvn.net của Hội nhà văn Việt Nam đăng toàn văn bản nhận xét phản biện của PGS.TS. Phan Trọng Thưởng tại Hội đồng thẩm định luận văn do Trường Đại học Sư phạm Hà Nội thành lập, quy kết luận văn Nhã Thuyên là một luận văn “chính trị đội lốt văn chương”. Đây là lần đầu tiên sự tồn tại của Hội đồng thẩm định được xác thực một cách chính thức [45].

20/4/2014: Nhã Thuyên đề nghị ông Phan Trọng Thưởng làm rõ cáo buộc luận văn của cô là “chính trị đội lốt văn chương” [46]. 

20/4/2014: 40 người quan tâm đến giáo dục Việt Nam, đa số ở nước ngoài, gửi Thư ngỏ Về sự vi phạm tự do học thuật trong vụ thu hồi bằng thạc sĩ của bà Đỗ Thị Thoan đến Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam “yêu cầu Trường Đại học Sư phạm Hà Nội hủy bỏ quyết định thu hồi bằng Thạc sĩ của bà Đỗ Thị Thoan và công bố các hồ sơ liên quan” và “yêu cầu nhà nước mở cuộc điều tra về những lý do đã dẫn đến vụ tái thẩm định, và thiết lập những biện pháp để ngăn ngừa tái diễn những sự can thiệp một cách lén lút, bất hợp pháp vào các quy định có hiệu lực pháp lý” [47].

21-24/4/2014: Vũ Thị Phương Anh có loạt bài phân tích bản nhận xét phản biện của Phan Trọng Thưởng [48-53]. 

22/4/2014: Văn Việt đăng bài “Những câu hỏi chưa được trả lời” của Nguyễn Thị Từ Huy đặt ra nhiều câu hỏi về vụ việc [54]. 

22/4/2014: Tạp chí Văn hóa Nghệ An đăng bài “Luận văn Đỗ Thị Thoan và những lời bàn” của Nguyễn Xuân Đức cho rằng “…[việc nghiên cứu hiện tượng văn họa ngoài lề/ngoại biên] không phải và không thể là công việc của học sinh được thể hiện qua một bài thi” [55].

23/4/2014: Văn Việt đăng bài phỏng vấn PGS. Nguyễn Văn Long và TS. Nguyễn Phượng, 2 thành viên trong hội đồng chấm luận văn Nhã Thuyên [56]. 

23/4/2014: Văn Việt đăng bài của Hà Nhân phân tích các nghịch lý trong bản nhận xét của Phan Trọng Thưởng [57]. 

23/4/2014: Văn Việt đăng bài “Thẩm định bài thẩm định của Phan Trọng Thưởng” của Đặng Thái Minh phê bình bản nhận xét của Phan Trọng Thưởng [58].

23/4/2014: Tiền Vệ đăng bài “Một bản nhận xét không có tính khoa học” của Nguyễn Thị Từ Huy kết luận bản nhận xét phản biện của Phan Trọng Thưởng “không phải là một bản nhận xét khoa học” [59]. 


28/4/2014: Một đoàn 5 người gồm nhà giáo Phạm Toàn, TS. Đặng Thị Hảo (Viện Văn học), TS. Nguyễn Xuân Diện (Viện Hàn lâm khoa học Việt Nam), luật gia Nguyễn Kim Môn và họa sĩ Mai Xuân Dũng thay mặt những người ký tên đến Trường Đại học Sư phạm Hà Nội trao Bản phản đối và yêu cầu và Thư ngỏ [60].

28/4/2014: RFI phỏng vấn giáo sư Phạm Xuân Yêm, một trong những người tham gia soạn thảo và ký tên đầu tiên vào Thư ngỏ, về tự do học thuật qua vụ Đỗ Thị Thoan. Giáo sư Yêm cho rằng việc thu hồi bằng thạc sĩ của Nhã Thuyên đã "vi phạm nghiêm trọng tinh thần tự do học thuật, sự vụ đã bị chính trị hóa theo quan điểm của nhà cầm quyền" và "Nhã Thuyên đâu cần bằng thạc sĩ của Đại học Sư phạm Hà Nội, nhưng nếu trả lại văn bằng cho Nhã Thuyên thì danh tiếng của trường tăng lên gấp bội trong lòng dân tộc vì đã dám phá rào" [61].

2/5/2014: Ủy ban các nhà Khoa học Quan tâm (Committee of Concerned Scientists) gửi thư cho Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo đề nghị đáp ứng yêu cầu rút lại quyết định thu hồi bằng thạc sĩ của Nhã Thuyên [62-63].























































Saturday, 10 May 2014

Sài Gòn từng nhìn cuộc xâm chiếm Hoàng Sa thế nào? (Nguyễn Đình Đầu)


26.3.2013-18:50
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu




NVTPHCM- “Tôi đã nghĩ là Trung Quốc chiếm hộ rồi trao lại cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhiều người trong Nam vẫn nghĩ những người cộng sản Trung Quốc và những người cộng sản miền Bắc là anh em với nhau.”- cuộc trò chuyện của nhà nghiên cứu bản đồ Nguyễn Đình Đầu về quá trình xâm chiếm Biển Đông của Trung Quốc.

Lợi dụng giải giáp quân Nhật, Trung Quốc bắt đầu chiếm Biển Đông

* Theo nghiên cứu của ông, các thế hệ cầm quyền ở Trung Hoa lục địa đã bắt đầu quá trình chiếm hữu Biển Đông từ bao giờ?
- Có lẽ câu chuyện chiếm các hòn đảo trên Biển Đông, như họ đang chiếm giữ bây giờ, thực tế chỉ bắt đầu khi Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch, với tư cách là một nước trong phe Đồng Minh, giải giáp quân đội Nhật chiếm đóng trên đó. Và, từ đó, để hợp pháp hoá việc chiếm hữu, họ đã cho vẽ trên bản đồ cái "đường lưỡi bò".
Chiến tranh Thế giới lần thứ 2 có dính đến Á Đông, bởi Nhật Bản ở Á Châu trong phe trục, nên ở Á Châu phe Đồng Minh đã kéo Trung Quốc (Trung hoa Dân quốc), tuy là nước lớn nhưng non yếu, tham gia liên minh kháng Nhật. Chính vì vậy, Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch trở thành một trong 5 cường quốc, sau khi Chiến tranh Thế giới Thứ Hai kết thúc, thuộc bên chiến thắng.
Trước đó, khi Pháp xâm chiếm nước ta, họ đã điều đình với triều đình Nhà Thanh để quốc gia phương Bắc này thôi không coi Việt Nam là nước phải triều cống. Đổi lại, Nhà Thanh đã lợi dụng đòi cắt một số phần đất ởphía Bắc của chúng ta. Tuy rằng hiện nay chúng ta vẫn công nhận cái biên giới lịch sử do Pháp và Nhà Thanh quyết định với nhau, nhưng phải khẳng định rằng khúc đó mất khá nhiều.
* Tại sao ông lại đoan chắc như vậy?
- Tôi đã nghiên cứu lịch sử phát triển của dân tộc này, mà ta quen gọi là Nam Tiến. Đặc biệt là từ 1611, khi Nguyễn Hoàng đặt ra phủ Phú Yên. Cho đến 1698, các Chúa Nguyễn nâng diện tích nước mình lên gấp đôi.
Nhưng chính trong thời gian nội chiến, khoảng 300 năm, nước mình rất là phát triển. Nghiên cứu các bản đồ đó với các bản đồ sau này, nước ta thời đó to hơn nước ta trên bản đồ Đông Dương của người Pháp. Chúng ta phải tôn trọng biên giới lịch sử, nhưng trước khi có biên giới lịch sử ấy, nước ta to hơn nhiều.
Đến năm 1945, sau khi Nhật đầu hàng, phe Đồng Minh phân công quân đội Tưởng Giới Thạch giải giáp quân đội Nhật ở bắc vĩ tuyến 16, còn Anh ởnam vĩ tuyến 16. Tưởng Giới Thạch nhân cơ hội đó thực hiện mưu đồ chiếm các hòn đảo trên Biển Đông, bởi vì tham vọng chiếm lãnh thổ trên đất liền không thực hiện được.
* Lý do?
- Lúc đó, người Pháp đã thoả thuận với người Anh để quay trở lại Đông Dương, và tiếp tục chiến tranh.
* Sau cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, nước Việt Nam đã bịtạm chia làm 2 phần, theo Hiệp định Geveva 1954. Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam Cộng Hoà quản lý. Trong khoảng thời gian đó, việc thực thi chủ quyền của chính quyền Việt Nam Cộng hoà như thế nào?
- Ngay từ đầu, ông Ngô Đình Diệm có ý thức rất lớn về lãnh thổ, lãnh hải. Ngay khi lên cầm quyền, năm 1956 ông Ngô Đình Diệm đã thực hiện ngay việc thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa, thay thế cho Chính phủ Bảo Đại. Ông cho quân đội khai thác phân chim ở Hoàng Sa. Cùng năm đó, quân đội Sài Gòn cũng đến đóng ở Trường Sa.
Hãy quay ngược lại thời kỳ chiến tranh chống Pháp, khi cụ Hồ Chí Minh còn ở An toàn khu, có một hội nghị quốc tế ở San Fransisco vào năm 1951. Thủ tướng của chính quyền Bảo Đại, do Pháp bảo trợ, là Trần Văn Hữu công bố Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc chủ quyền của Việt Nam từ lâuđời. Không có nước nào phản đối, kể cả Trung Quốc. Tức là chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa được công nhận theo luật pháp quốc tế.
Đến đầu năm 1973, hiệp định Paris được ký, để Mỹ rút quân, và thực hiện hoà giải hoà hợp dân tộc. Năm sau, Trung Quốc chiếm nốt nhóm đảo Hoàng Sa của quần đảo này. Rồi sự kiện đầu năm 1988, khi họ lại tiếp tục dùng vũ lực chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa thì chắc anh rõ rồi, tôi không phải nhắc lại nữa.

Tôi từng nghĩ Trung Quốc chiếm Hoàng Sa cho Bắc Việt Nam

* Hồi năm 1974, trong Sài Gòn nhìn nhận cuộc xâm chiếm Hoàng Sa của Trung Quốc như thế nào?
- Riêng tôi, tôi nghĩ là Trung Quốc chiếm hộ rồi trao lại cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhiều người trong Nam vẫn nghĩ những người cộng sản Trung Quốc và những người cộng sản miền Bắc là anh em với nhau, giữa những người cộng sản với nhau tình thương còn hơn giữa những người cùng một nước, tức là tình đồng chí còn cao hơn tình đồng bào.
* Thế đến bao giờ thì ông mới ngã ngửa ra rằng Bắc Kinh họ cướp Hoàng Sa không phải cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà?
- Khá lâu. Giải phóng xong rồi, dân chúng vẫn không được thông tin công khai là Trung Quốc chiếm Hoàng Sa của Việt Nam. Chỉ đến khi xảy ra hiệpđịnh hữu nghị giữa Việt Nam và Liên Xô, và cuộc chiến biên giới phía Bắc đầu năm 1979, thì lúc đó tôi mới hiểu rõ mối quan hệ phức tạp giữa Hà Nội và Bắc Kinh.
Lúc bấy giờ tôi mới hiểu thực ra Trung Quốc đã quay lại chủ nghĩa Đại Hán ngày xưa. Tức là họ lại muốn bành trường.
* Tôi có nói chuyện với một số cựu phóng viên chiến trường Mỹ, trong đó có một người quen của ông là Mike Morrow (một trong hai sáng lập viên của Dispatch News Service - hãng tin đầu tiên phanh phui ra vụ thảm sát Mỹ Lai - TG). Họ đều nói rằng chỉ khi Mao Trạch Đông bắt tay Nixon ởThượng Hải, họ mới thực sự tin rằng cuộc chiến tranh do Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tiến hành là để thống nhất đất nước, chứ không phải là một cuộc chiến tranh được uỷ nhiệm bởi Liên Xô và Trung Quốc.
Hồi đó, thấy báo chí đưa tin về cái bắt tay lịch sử này, ông có suy nghĩ gì không?
- (Cười) Tất nhiên, hồi 1972, tôi cũng có một mối lo ngại nào đó, nhưng mơ hồ thôi. Nhưng đến ngày cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng Hoà thì có một sự việc khiến tôi thấy nghi ngờ mối quan hệ giữa Bắc Kinh và Hà Nội. Anh còn nhớ cái vai trò nho nhỏ của tôi trong những ngày đó chứ gì?
* Vâng ạ. Ông đã được Tổng thống Dương Văn Minh cử vào trại David để thương thảo chuyện ngừng bắn với phía bên kia.
- Sáng 30.4.1975, tôi và ông Huyền (Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền)đến gặp ông Dương Văn Minh tại Phủ Thủ tướng tại số 5 đường Lê Duẩn bây giờ. Lúc đó, Tướng Pháp Francois Vanussème, Tuỳ viên Quốc phòng và An ninh của Toà Đại sứ Pháp tại Sài Gòn, cũng có tới gặp ông, và hỏi rằng liệu có thể giữ được trong vài ngày không, bởi đã có đường dây liên lạc với Bắc Kinh, ngay tại toà đại sứ Pháp, để người Trung Quốc can thiệp, ngăn cản Bắc Việt giải phóng Sài Gòn.
Ông Minh đã trả lời rằng "ngày xưa đã bán đất cho Mỹ, nay lại còn bán đất cho Trung Cộng nữa à?"
* Tôi muốn khẳng định lại là ông chứng kiến chuyện đó, hay nghe ông Dương Văn Minh kể lại?
- Tôi có mặt ở đó mà.
* Trong tay của ông, những bản đồ của Trung Quốc không có phần Hoàng Sa và Trường Sa trên đó được vẽ vào thời gian nào?
- Khoảng từ thế kỷ 15 đến đầu thế kỷ 20. Ngay chính Đô đốc Trịnh Hoà dong buồm đi về cũng nói rằng đây là nước Giao Chỉ, biển này là biển Giao Chỉ.
Tôi có trong tay đầy đủ bản đồ mới dám tuyên bố công khai như vậy chứ. Đây là chuyện khoa học mà.
* Nghe nói có hai lần ông tổ chức triển lãm bản đồ cổ, trong đó có những bản đồ cổ về Biển Đông?
- Đúng vậy. Tôi tổ chức triển lãm mang tính khoa học, để cho mọi người biết là cho đến đầu thế kỷ 20, điểm cực nam của Trung Quốc vẫn chỉ làđảo Hải Nam.

Trung Quốc lợi dụng cách gọi của phương Tây

* Gần đây, trên báo chí, ông có khẳng định lại là nguyên gốc của từ"Đông Dương" không phải là "Indochine", như cách người Pháp giải thích. Xin ông giải thích rõ ràng hơn.
- Đông Dương chính là Biển Đông. Trong bản đồ Trung Quốc vẽ về Việt Nam, vẽ năm 1842, thì đề là Đông Dương Đại Hải. Trước nữa thì có những bản đồ gọi Biển Đông là Đông Hải, Giao Chỉ Hải, hay Giao Chỉ Dương. Nhưông cha mình gọi người phương Tây là người Tây Dương (Biển Tây), còn Việt Nam là Đông Dương (Biển Đông).
Nhưng khi người Pháp sang đô hộ Việt Nam, họ không nói tới biển, mà nói tới đất. Từ đó người ta không hiểu Đông Dương là Biển Đông nữa, màĐông Dương là gồm 3 nước Việt Nam, Lào và Căm-pu-chia. Người Pháp lại không dịch Đông Dương là Biển Đông nữa mà dịch là Indochine (tức là ẤnĐộ - Trung Quốc), tức là vùng tiếp giáp giữa hai nền văn hoá lớn này.
Chính cái cách dùng từ của người Phương Tây rất là tai hại, khiến cho ông Tàu ông ấy lợi dụng. Chẳng hạn, ông ấy bảo rõ ràng Tây bảo BiểnĐông là Biển Trung Hoa, rồi cụ thể hơn là Biển Nam Trung Hoa (South China Sea).
Thực ra, những người phương Tây đầu tiên gọi Biển Đông là Biển Giao Chỉ phía Trung Hoa (Cochichine Sea), suốt mấy thế kỷ liền. Trong đó, Giao Chỉ là chủ từ, còn gần Trung Hoa là túc từ, để chỉ cho rõ Giao Chỉnằm ở đâu. Sau đó, chữ Giao Chỉ bị ăn bớt đi và chỉ còn chữ Trung Hoa (China Sea).
Trên hai trang 11b và 12a trích từ sưu tập bản đồ Võ bị chí (ghi lại cuộc hành trình của Trịnh Hòa trong thời gian 1405-1433 đi từ Trung Quốc qua Ấn Độ dương tới Phi Châu) có vẽ nước ta tuy đơn giản nhưng cũng rõ ràng: Nước Giao Chỉ bắc giáp Khâm Châu Trung Quốc, nam giáp nước Chiêm Thành, đông giáp biển cả mang tên Giao Chỉ dương, tức biển của nước Giao Chỉ. Đây là tư liệu của Trung Hoa khắc vẽ về nước ta và biển cả thuộc về nước ta từ thế kỷ XV.
Năm 1842, tác giả người Trung Hoa - Ngụy Nguyên xuất bản sách Hải quốc đồ chí mô tả và khắc vẽ bản đồ tất cả các nước trên thế giới và toàn thể năm châu bốn bể, theo phương pháp khoa học với kinh tuyến và vĩtuyến. Trong sách này, Ngụy Nguyên đã vẽ hai bản đồ về Việt Nam.
Trong đó, bản đồ thứ nhất vẽ sơ sài, chia nước ta ra hai phần (Việt Nam Đông đô và Việt Nam Tây đô). Ở ngoài khơi phía đông hai phần Việt Nam, Ngụy Nguyên ghi rõ là Đông Dương đại hải, tức biển Đông rất lớn.
Cũng trong tác phẩm Hải quốc đồ chí, Ngụy Nguyên còn khắc vẽ bản đồAn Nam quốc với đường nét đúng kinh tuyến và vĩ tuyến rất rộng lớn. Ngoài khơi nước An Nam có ghi rõ Đông Nam hải, tức là biển Đông Nam.
* Tại sao Giao Chỉ lại phiên sang tiếng Tây là Cochi?
- Hình như bắt đầu từ người Nhật Bản nghe mang máng, rồi gọi Giao Chỉlà Cochi. Mã Lai cũng có địa danh Cochi, rồi Ấn Độ cũng có một thành phốtên là Cochin. Và thế là để phân biệt, họ gọi Việt Nam là Cochichine (Giao Chỉ phía Trung Quốc) để phân biệt, với hàm nghĩa cả nước Việt Nam.
Thế rồi, sau đó, họ gọi Đàng Trong (mới đến Phú Yên) là Cochichine.Đến thời Pháp Thuộc Cochichine có nghĩa là Nam Kỳ, Trung Kỳ là An Nam, còn Bắc Kỳ là Tonkin.
* Đến bao giờ thì chữ Cochi bị mất đi trong bản đồ Tây Phương?
- Thế kỷ 19, nhưng lác đác thôi. Vẫn còn có những bản đồ đề đó là biển Hoàng Sa - Trường Sa, gọi chung là Paracel Sea. Trong trên một trăm bảnđồ tôi có đều ghi Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Tôi phỏng đoán có khoảng 1000 bản đồ cổ như vậy chứ không phải ít.
Chữ Indochine xuất hiện từ cuối thế kỷ 19. Bán đảo Đông Dương bao gồm 5 nước là Việt Nam, Lào Căm-pu-chia, Miến Điện và Mã Lai. Còn Đông Dương thuộc Pháp thì chỉ còn ba nước.
* Xin cảm ơn ông.
HUỲNH PHAN
VNN

Friday, 9 May 2014

Xúi xử hay xúi sử?



Xúi xử không phải từ láy mà là từ sai chính tả. Đúng chính tả là xúi sử.
Sử 使 nghĩa là sai khiến trong sử chúng, sử dại, sử dụng, sử khôn, sử lệnh, không phải  sử của lịch sử, sử sách, sử học.